Hoàn thiện tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Dân chủ là hiện tượng lịch sử xã hội gắn liền với sự tồn tại và phát triển của đời sống con người. Dân chủ là bản chất của chủ nghĩa xã hội, và cũng là bản chất của Nhà nước Việt Nam. Hay nói cách khác, “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” [1]. Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà tư tưởng, nhà mác xít sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam, không chỉ để lại những kiến giải sâu sắc về dân chủ và thực hành dân chủ mà Người còn trực tiếp nêu gương về lối ứng xử dân chủ đối với con người trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống. Lúc sinh thời, Người đã từng nhấn mạnh “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, là chìa khóa vạn năng để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội” [24, t.8, tr. 279]. Xác định đúng đắn tầm quan trọng và vai trò to lớn của dân chủ, trong bất kỳ giai đoạn nào, Đảng và Nhà nước ta đều nhận thức việc thực hành dân chủ rộng rãi sẽ tạo nên sức mạnh to lớn, đảm bảo sự thành công của cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, đối với cơ sở việc thực hành dân chủ rộng rãi có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện rõ nhất bản chất dân chủ của Nhà nước ta. Nhằm phát huy đầy đủ, hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Ngày 18/2/1998 Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa VIII) đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW về việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở. Chỉ thị đã xác định: " . để giữ vững và phát huy được bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta, phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát Nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng. Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất’’. . Vậy, để phát huy những mặt tích cực, khắc phục những tồn tại, yếu kém trong quá trình tổ chức thực hiện dân chủ ở cơ sở đặc biệt là dân chủ ở xã, phường, thị trấn trong cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng, góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước vì mục tiêu “Dân giầu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, tác giả chọn đề tài “Hoàn thiện tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” với mong muốn, đề tài sẽ đề xuất một số giải pháp, kiến nghị có tính khả thi trong việc thực hiện dân chủ ở cấp xã, đồng thời giúp người dân thực hiện tốt hơn quyền làm chủ của mình. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 6 3. Giả thuyết nghiên cứu của luận văn. 7 4. Mục đích nghiên cứu của đề tài 8 5. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 8 6. Đối tượng nghiên cứu của đề tài 9 7. Phạm vi nghiên cứu của đề tài 9 8. Phương pháp nghiên cứu. 9 9. Đóng góp mới của luận văn. 10 10. Bố cục luận văn. 11 Chương 1. 12 1.1. Khái quát về nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 12 1.1.1. Một số quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mac - LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ Xã hội chủ nghĩa. 12 1.1.2. Dân chủ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 26 1.2. Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cấp xã và sự tác động của Pháp lệnh tới đời sống nhân dân. 31 1.2.1. Sự cần thiết của việc ban hành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn 31 1.2.2. Những nội dung cơ bản của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và sự tác động của Pháp lệnh tới đời sống nhân dân. 34 1.3. Tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã. 39 1.3.1. Khái niệm cơ sở và tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã. 40 1.3.2. Các hình thức thể hiện quyền làm chủ của nhân dân. 43 1.4. Các tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã 45 1.4.1. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã 45 1.4.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã. 47 1.5. Kinh nghiệm thực hiện dân chủ cơ sở ở Trung Quốc 51 Tiểu kết chương 1. 54 Chương 2. 55 2.1. Đặc điểm tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội, dân cư tỉnh Bắc Ninh (có biểu số 2.1, 2.2 kèm theo) 55 2.1.1. Đặc điểm vị trí địa lý, tự nhiên. 55 2.1.2. Đặc điểm về kinh tế, văn hóa và xã hội 57 2.1.3. Đặc điểm về dân cư, dân tộc, tôn giáo. 58 2.2. Quá trình triển khai tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, từ khi có QCDC ở cơ sở. 59 2.2.1. Quá trình triển khai, quán triệt Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/2/1998 và các văn bản về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở. 60 2.2.2. Hoạt động của các cấp uỷ Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong tổ chức thực hiện QCDC ở cơ sở. 63 2.3. Những thành tựu, hạn chế trong quá trình tổ chức thực hiện QCDC ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. 67 2.3.1. Những thành tựu đạt được sau 10 năm tổ chức thực hiện QCDC ở cơ sở 67 2.3.2. Những hạn chế sau 10 năm tổ chức thực hiện QCDC ở cơ sở. 81 2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế. 84 Tiểu kết chương 2. 93 Chương 3. 94 3.1. Phương hướng tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh 94 3.1.1. Những căn cứ pháp lý trong việc tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã (xã, phường, thị trấn) 94 3.1.2. Những quan điểm, nguyên tắc cần quán triệt trong quá trình tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã. 95 3.2. Giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã những năm tiếp theo 98 3.2.1. Giải pháp chung. 98 3.2.2. Giải pháp cụ thể. 102 3.3. Một số kiến nghị để tiếp tục hoàn thiện tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã 110 Tiểu kết chương 3. 112 KẾT LUẬN 113 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 115 Văn bản quy phạm pháp luật: 115 Nghị quyết, văn kiện, tài liệu của Đảng: 115 Sách tham khảo: 116 Các bài viết, công trình nghiên cứu, luận văn: 117 Tài liệu trên các trang Webs: 119

doc131 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3448 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoàn thiện tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 28/3/2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá VIII) về tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở. - Kết luận số 159-TB/TW, ngày 15/11/2004, Kết luận của Ban Bí thư về kết quả 6 năm thực hiện Chỉ thị số 30- CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) và tiếp tục chỉ đạo xây dựng và thực hiện QCDC. - Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBNTVQH11 ngày 20/4/2007 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (thay thế Nghị định số 79). - Kết luận số 65-KL/TW ngày 04/3/2010 của Ban Bí thư Trung ương (khoá X) về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII) về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở. - Kế hoạch số 49/KH-UB ngày 21/11/1998 của UBND tỉnh Bắc Ninh về việc triển khai QCDC ở cơ sở. - Quyết định số 99/1998/QĐ-UB của UBND tỉnh Bắc Ninh về việc ban hành Quy chế quản lý hành chính thôn, khu phố. Quyết định số 22/2004/QĐ-UB ngày 31/12/2004 của UBND tỉnh Bắc Ninh về việc quy định chế độ, chính sách đối với cán bộ không chuyên trách cấp xã và cán bộ thôn, tổ dân phố. 3.1.2. Những quan điểm, nguyên tắc cần quán triệt trong quá trình tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã * Quán triệt những quan điểm tại các kỳ Đại hội Đảng: Nghị quyết Đại hội VI của Đảng - Đại hội đổi mới chỉ rõ: "Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”. Đại hội VII đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nội dung: "Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ gắn liền với công bằng xã hội phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua hoạt động của Nhà nước do dân cử ra và bằng các hình thức dân chủ trực tiếp" Tại Đại hội VIII, Đảng ta khẳng định: "Xây dựng nền dân chủ XHCN là nội dung cơ bản đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta. Phải có cơ chế và cách làm cụ thể để thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước”. Tại Đại hội IX, Đảng ta nhấn mạnh: "Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ trong đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực hiện dân chủ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở tất cả các cấp, các ngành”. Ðại hội X của Ðảng cũng tiếp tục chỉ rõ: “Dân chủ XHCN vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối gắn bó giữa Ðảng, Nhà nước và nhân dân. Nhà nước đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Ðảng. Mọi đường lối, chính sách của Ðảng và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân”. * Tại Kết luận số 65-KL/TW ngày 04/3/2010 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở. Trong Kết luận đã đưa ra phương hướng thực hiện dân chủ trong thời gian tiếp theo như sau: Tiếp tục quán triệt, không ngừng nâng cao nhận thức; xác định rõ trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể chính trị- xã hội; của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân về những quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát huy quyền làm chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp của nhân dân ở cơ sở. Tăng cường việc thể chế hoá các quan điểm, chủ trương của Đảng về dân chủ xã hội chủ nghĩa trong các quy định của pháp luật, chính sách cụ thể. Tổng kết, rà soát, bổ sung các văn bản đã ban hành; sớm nghiên cứu, ban hành pháp lệnh về xây dựng và thực hiện dân chủ cho các loại hình doanh nghiệp. Các cơ sở, các loại hình cần rà soát, bổ sung, xây dựng quy chế thực hiện dân chủ (xây dựng thành quy định, nguyên tắc, quy trình thực hiện dân chủ) trong các lĩnh vực hoạt động cụ thể của địa phương, đơn vị mình, nhất là các lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của nhân dân. Gắn việc thực hiện QCDC ở cơ sở với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị; cải cách hành chính; cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"; các phong trào thi đua yêu nước nhằm tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Nâng cao trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính tri, phát huy cao vai trò làm chủ của nhân dân trong phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, các tệ nạn, tiêu cực ở cơ sở; chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch kích động, chống đối, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị, trật tự xã hội. Phát huy vai trò của Ban chỉ đạo xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở, các cấp, các ngành trong việc hướng dẫn, đôn đốc, tham mưu cho cấp uỷ kiểm tra, chỉ đạo thường xuyên; đẩy mạnh công tác nghiên cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn; coi trọng công tác tập huấn, bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện cán bộ, công chức về ý thức, trách nhiệm, phong cách, năng lực thực hiện dân chủ ở cơ sở và dân chủ với nhân dân. Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ đảng; trách nhiệm của chính quyền, của người đứng đầu về thực hiện QCDC; tiếp tục chỉ đạo cụ thể hoá phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" ở cơ sở. Phát huy vai trò của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân trong việc tuyên truyền và giám sát việc thực hiện; vận động nhân dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cơ sở. * Tại Báo cáo số 80-BC/BCĐ ngày 10/6/2009 của Ban chỉ đạo thực hiện QCDC ở cơ sở tỉnh Bắc Ninh về báo cáo 10 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị khoá VIII về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở. Ban Chỉ đạo Tỉnh đã đưa ra phương hướng thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn trong thời gian tiếp theo như sau: Để thực hiện tốt Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị (khoá VIII) về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở, trong những năm tiếp theo các cấp, các ngành tiếp tục quán triệt và triển khai xây dựng, thực hiện có hiệu quả QCDC ở cơ sở, phát huy quyền dân chủ của nhân dân, mở rộng dân chủ trực tiếp, nâng cao chất lượng dân chủ đại diện; tăng cường, củng cố, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của các cấp uỷ đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể nhân dân để phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu “Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. 3.2. Giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã những năm tiếp theo 3.2.1. Giải pháp chung * Tại kết luận số 65-KL/TW ngày 04/3/2010 của Ban Bí thư Trung ương (khoá X) đưa ra một số giải pháp thực hiện trong những năm tiếp theo như sau: Thứ nhất: Tiếp tục quán triệt, không ngừng nâng cao nhận thức; xác định rõ trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể chính trị- xã hội; của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân về những quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát huy quyền làm chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp của nhân dân ở cơ sở. Thứ hai: Tăng cường việc thể chế hoá các quan điểm, chủ trương của Đảng về dân chủ XHCN trong các quy định của pháp luật, chính sách cụ thể. Tổng kết, rà soát, bổ sung các văn bản đã ban hành; sớm nghiên cứu, ban hành Pháp lệnh về xây dựng và thực hiện dân chủ cho các loại hình doanh nghiệp. Các cơ sở, các loại hình cần rà soát, bổ sung, xây dựng quy chế thực hiện dân chủ (xây dựng thành quy định, nguyên tắc, quy trình thực hiện dân chủ) trong các lĩnh vực hoạt động cụ thể của địa phương, đơn vị mình, nhất là các lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của nhân dân. Thứ ba: Gắn việc thực hiện QCDC ở cơ sở với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị; cải cách hành chính; cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"; các phong trào thi đua yêu nước nhằm tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Thứ tư: Nâng cao trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính tri, phát huy cao vai trò làm chủ của nhân dân trong phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, các tệ nạn, tiêu cực ở cơ sở; chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch kích động, chống đối, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị, trật tự xã hội. Thứ năm: Phát huy vai trò của ban chỉ đạo xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở, các cấp, các ngành trong việc hướng dẫn, đôn đốc, tham mưu cho cấp uỷ kiểm tra, chỉ đạo thường xuyên; đẩy mạnh công tác nghiên cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn; coi trọng công tác tập huấn, bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện cán bộ, công chức về ý thức, trách nhiệm, phong cách, năng lực thực hiện dân chủ ở cơ sở và dân chủ với nhân dân. Thứ sáu: Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng; trách nhiệm của Chính quyền, của người đứng đầu về thực hiện QCDC; tiếp tục chỉ đạo cụ thể hoá phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" ở cơ sở. Phát huy vai trò của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân trong việc tuyên truyền và giám sát việc thực hiện; vận động nhân dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cơ sở. * Tại Báo cáo số 80-BC/BCĐ ngày 10/6/2009 của Ban Chỉ đạo thực hiện QCDC ở cơ sở tỉnh Bắc Ninh về báo cáo 10 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị khoá VIII về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở. Ban Chỉ đạo Tỉnh đã đưa ra một số giải pháp thực hiện hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn trong thời gian tiếp theo như sau: Thứ nhất: Các cấp uỷ đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể nhân dân, các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở gắn với cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” nhằm tạo ra sự chuyển biến mới về ý thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở. Thứ hai: Tăng cường, củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của Ban chỉ đạo thực hiện QCDC các cấp, các cơ quan, đơn vị, tích cực thực hiện tốt công tác tham mưu cho cấp uỷ trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện QCDC ở cơ sở. Hàng năm, Ban chỉ đạo các cấp xây dựng kế hoạch kiểm tra việc thực hiện QCDC trong các loại hình. Rà soát, bổ sung các văn bản liên quan đến thực hiện QCDC phù hợp với tình hình thực tế địa phương, đơn vị. Thứ ba: Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ đảng đối với việc thực hiện QCDC ở cơ sở. Trước hết thực hiện tốt dân chủ trong Đảng, coi trọng công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng, trong hệ thống chính trị. Xây dựng chương trình công tác, chương trình kiểm tra của cấp uỷ đối với việc thực hiện QCDC ở cơ sở. Quan tâm chỉ đạo giải quyết những vướng mắc phát sinh ở cơ sở, chỉ đạo triển khai xây dựng và thực hiện QCDC trong các loại hình mới. Thứ tư: Chính quyền các cấp tăng cường chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả các nội dung của Pháp lệnh và Nghị định của Chính phủ về thực hiện dân chủ ở cơ sở ở các loại hình. Quán triệt sâu sắc Chỉ thị số 18/2000/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác dân vận, nâng cao năng lực quản lý nhà nước, cải tiến lề lối làm việc theo hướng dân chủ hoá, công khai. Tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính, tập trung giải quyết dứt điểm những vấn đề bức xúc về đất đai, tài chính, chính sách xã hội. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ để gây rối, vi phạm pháp luật, chia rẽ mất đoàn kết trong nhân dân. Thứ năm: MTTQ và các đoàn thể nhân dân bổ sung chương trình, kế hoạch, cụ thể hoá các nội dung về thực hiện dân chủ ở cơ sở, hướng dẫn cấp cơ sở xây dựng chương trình hành động cụ thể, tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về thực hiện dân chủ ở cơ sở. Tăng cường công tác nắm tình hình và tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, quan tâm củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đoàn thể ở khu dân cư, của Ban thanh tra nhân dân, các tổ chức hoà giải ở cơ sở. Thứ sáu: Thường xuyên sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm trong việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị và các Nghị định, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở, chú trọng việc xây dựng các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để thực hiện QCDC tốt hơn trong thời gian tới. * Tại Báo cáo số 01-BC/BCĐ ngày 13/12/2010 của Ban chỉ đạo thực hiện QCDC tỉnh Bắc Ninh về kết quả thực hiện QCDC ở cơ sở năm 2010 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2011 đề ra một số nhiệm vụ cụ thể cho năm 2011 như sau: Các cấp uỷ Đảng, Chính quyền, MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt sâu sắc các chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về thực hiện QCDC trong cán bộ, đảng viên, công chức và các tầng lớp nhân dân. Triển khai văn bản của Thường vụ Tỉnh uỷ về việc thực hiện Kết luận số 65-KL/TW ngày 04/3/2010 của Ban Bí thư Trung ương (khoá X) về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị (Khoá VIII) về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở tới tất cả các loại hình trên địa bàn. Tiếp tục chỉ đạo việc kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động Ban chỉ đạo thực hiện QCDC các địa phương, ngành, cơ quan, đơn vị. Rà soát, bổ sung, hoàn thiện QCDC ở cơ sở cho phù hợp với Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 và các Nghị định của Chính phủ về thực hiện QCDC ở cơ sở. Định kỳ tổ chức sơ, tổng kết việc thực hiện QCDC ở cơ sở và tiến hành kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, của Ban chỉ đạo thực hiện QCDC Tỉnh trong các cơ quan, đơn vị, các xã, phường, thị trấn và khối doanh nghiệp. Kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào nơi có bức xúc của quần chúng. Chính quyền các cấp tăng cường chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả các nội dung của Pháp lệnh và Nghị định của Chính phủ về thực hiện dân chủ ở cơ sở. Tiếp tục quán triệt sâu sắc Chỉ thị số 18/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác dân vận. Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính. 3.2.2. Giải pháp cụ thể a. Giải pháp về hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Pháp luật là công cụ quan trọng nhất để đảm bảo thực thi quyền Dân chủ của nhân dân. Pháp luật được hiểu một cách đơn giản là những quy tắc quan hệ giữa các cá nhân, tổ chức, cơ quan Nhà nước với nhau trong mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Pháp luật là thước đo của hành vi, khuôn mẫu của các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Pháp luật là một công cụ quan trọng trong quản lý xã hội. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Pháp luật được đảm bảo thi hành bằng các biện pháp thuyết phục và cưỡng chế, bằng chính các thành viên trong xã hội và các cơ quan bảo vệ pháp luật. Các quyền dân chủ của nhân dân đều được “luật hoá”, nghĩa là được quy định trong các văn bản pháp luật và được đảm bảo thực hiện bằng các cơ quan chính quyền, dưới sự giám sát của nhân dân. Vậy có thể thấy rằng hệ thống pháp luật có vị trí và vai trò quan trọng trong việc phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Do đó để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần xây dựng Nhà nước XHCN theo đúng nghĩa “của dân, do dân, vì dân” thì việc hoàn thiện hệ thống pháp luật là điều quan trọng và cần thiết. Có thể hoàn thiện ở một số khía cạnh cơ bản sau: Sửa chữa, bổ sung, hoàn thiện về mặt văn bản và tăng cường tính pháp lý, tính chế tài của pháp luật. Tính đến thực tế về trình độ nhận thức và tâm lý nông dân. Mọi văn bản liên quan tới việc thực hiện dân chủ cần quy định theo phương châm “ít lời, nhiều ý, ngắn gọn, giản dị, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thuộc, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, dễ đánh giá”. Xoá bỏ và có chế tài nghiêm khắc với “cơ chế xin - cho” trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong xây dựng, đấu thầu, phân bổ dự án. Đó là đầu mối xuất hiện tham nhũng, bòn rút quỹ công, làm tổn hại lợi ích của dân chúng. b. Giải pháp về đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã “Sự ổn định chính trị là tiền đề tiên quyết để có thể phát triển kinh tế, văn hoá và xã hội. Song muốn tiến tới phát triển bền vững về mọi mặt thì xã hội phải tạo lập được một môi trường ổn định, tích cực, lành mạnh từ cơ sở, phát huy được sức mạnh đoàn kết, nhất trí toàn dân tộc, sự đồng thuận trong xã hội của các cộng đồng dân cư, cùng thống nhất hành động theo mục tiêu “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh” mà Đại hội IX đã vạch ra. Muốn vậy phải thực hành dân chủ rộng rãi và thực chất, đảm bảo cho người dân thực sự có vai trò của người chủ, có quyền làm chủ, có năng lực thực hiện quyền và nghĩa vụ làm chủ” [20]. Thực tế cho thấy, hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay còn nhiều mặt yếu kém, bất cập trong công tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần chúng. Tình trạng tham nhũng, quan liêu, mất đoàn kết nội bộ, vừa vi phạm quyền làm chủ của dân, vừa không giữ đúng kỷ cương, phép nước xảy ra ở nhiều nơi, có những nơi nghiêm trọng. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống chính trị chưa được xác định rành mạch, trách nhiệm không rõ; nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới, còn nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Đội ngũ cán bộ cơ sở ít được đào tạo, bồi dưỡng; chính sách đối với cán bộ cơ sở còn chắp vá. Vì vậy để nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở (cấp xã) cần thực hiện một số việc sau: Thứ nhất: Đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của Đảng Để thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới, cần tập trung làm tốt những vấn đề sau: Nâng cao nhận thức và thực hiện đúng vai trò hạt nhân chính trị và trình độ lãnh đạo của tổ chức Đảng ở các cấp để phát huy tính chủ động, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị trong việc thực hiện đường lối của Đảng. Có nhận thức và quan niệm đúng đắn về sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, trước hết là việc đổi mới, ra Nghị quyết và chỉ đạo thực hiện các Nghị quyết của Đảng. Phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng, giữ vững đoàn kết thống nhất trong Đảng. Tăng cường công tác kiểm tra, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; tăng cường công tác giáo dục rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Thứ hai: Đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước ở chính quyền cơ sở Phát huy mạnh mẽ vai trò của hệ thống chính quyền cấp xã trong việc mở rộng và thực hiện dân chủ, hoàn thiện cơ chế dân chủ, thực hiện tốt QCDC ở cơ sở, cụ thể hoá phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Chăm lo xây dựng, kiện toàn bộ máy chính quyền cấp xã; xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng lực với tinh thần trách nhiệm cao. Hoạt động của cơ quan nhà nước phải đặt nhiệm vụ phục vụ nhân dân lên trên hết, giải quyết đúng đắn và nhanh chóng các công việc có liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân. Giáo dục cán bộ, công chức nhà nước xây dựng và thực hành phong cách "Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân", "Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin". Xây dựng cơ chế và biện pháp để kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân; ngăn chặn và khắc phục tình trạng dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, đồng thời nghiêm trị những hoạt động phá hoại, gây rối. Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và trong sinh hoạt của bộ máy Nhà nước. Để làm được vậy cần quán triệt, vận dụng nguyên tắc xây dựng một Chính quyền dân chủ “vì dân và do dân” theo tư tưởng Hồ Chí Minh vào tình hình thực tế của địa phương mình. Thứ 3: Đổi mới và kiện toàn các đoàn thể chính trị - xã hội Pháp luật quy định nhân dân thực hiện quyền giám sát, kiểm tra HĐND, UBND thông qua các tổ chức như MTTQ, Hội nông dân, Hội người cao tuổi… Do vậy cơ quan chính quyền cấp xã ngày càng phải lắng nghe và đáp lại những yêu cầu chính đáng của những tổ chức này. Nâng cao hơn nữa nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò của MTTQ Việt Nam các cấp và các đoàn thể quần chúng. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức quần chúng. Nhiệm vụ của các đoàn thể là phấn đấu cho dân và bênh vực quyền lợi cho dân. Do đó, ngoài việc nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò của các đoàn thể thì tự thân các đoàn thể phải tự nhận thức rõ hơn nữa về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức mình để không đi lệch hướng phấn đấu và bênh vực quyền lợi của nhân dân. Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp quần chúng nhân dân, đáp ứng yêu cầu và chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng và hợp pháp của nhân dân. MTTQ Việt Nam, các đoàn thể nhân dân tập trung hướng mạnh về cơ sở. Lãnh đạo thực hiện tốt QCDC, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, ngăn chặn và chống mọi hành động vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đổi mới hình thức tuyên truyền, vận động nhân dân; gắn hoạt động của các tổ chức đoàn thể quần chúng trong việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng với việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Hoạt động của những tổ chức này không chỉ góp phần thúc đẩy xã hội, mà còn có ý nghĩa đánh giá, phản biện xã hội trước những công việc do chính quyền thực hiện, mang lại những thông tin phản hồi để các Chính quyền xây dựng, điều chỉnh chính sách, quản lý, điều hành xã hội tốt hơn. c. Bồi dưỡng, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã Trong nhiều tác phẩm của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Cán bộ là gốc của mọi vấn đề…” [28, t. 5, tr. 269], điều đó đã chứng minh vai trò và tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức nói chung. Mặt khác, trong thời kỳ đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước theo cơ chế thị trường, đòi hỏi yêu cầu về trình độ của đội ngũ cán bộ ở cấp xã, phường ngày càng cao. Song trên thực tế trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ cấp xã còn nhiều hạn chế, phong cách lãnh đạo, quản lý chưa được đổi mới, một bộ phận cán bộ chưa thực sự gần gũi nhân dân, ngại kiểm điểm trước dân, chưa đi sâu, đi sát, chưa tạo điều kiện cho nhân dân kiểm tra công việc hàng ngày ở cấp xã. Có thể nói rằng đội ngũ cán bộ, công chức góp phần không nhỏ trong sự nghiệp phát triển chung của đất nước nhưng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã còn giữ vai trò quan trọng hơn rất nhiều. Bởi lẽ cán bộ, công chức cấp xã là cán bộ cơ sở, quan hệ trực tiếp với dân, gắn bó thường xuyên với dân và sống, làm việc trong cộng đồng dân cư. Do đó, cán bộ dù ở xã hay phường hay thị trấn trước hết phải tận tâm, tận lực vì dân, “phải thực sự óc nghĩ, mắt nhìn, tai nghe, miệng nói, chân đi, tay làm”, “biết vận động dân cho đúng và cho khéo” và phải gương mẫu “nói đi đôi với làm”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy. Ngoài những yêu cầu chung về phẩm chất và năng lực đối với cán bộ các cấp nói chung, cán bộ cấp xã cũng có những yêu cầu cụ thể, những vấn đề cụ thể khác nhau: Đối với đội ngũ cán bộ cấp xã, trưởng thôn, làng, ấp, bản cần chú ý đến năng lực quản lý Nhà nước, khắc phục “chủ nghĩa kinh nghiệm”, “chủ nghĩa gia đình - dòng họ”; cán bộ ở xã phải biết giải quyết đúng quan hệ lợi ích cộng đồng (lợi ích chung) với lợi ích dòng họ, thôn xóm, gia đình; phải là người đại diện lợi ích chung của nhân dân toàn xã, chứ không thể là người đại diện lợi ích một dòng họ, lợi ích của thôn mình; đấu tranh với tư tưởng “một người làm quan cả họ được nhờ”, tư tưởng “sợ người mới về, người có trình độ kiến thức hơn mình”; khắc phục lề lối, tác phong “công chức hành chính” (“sáng cắp ô đi, tối cắp về”), thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền với dân. Ngoài ra cán bộ cấp xã đều cần phải có năng lực tổ chức thực hiện hoạt động thực tiễn. Do đó phải có năng lực vận dụng, cụ thể hoá đường lối, chính sách chung, sự chỉ đạo của cấp trên, tổ chức hoạt động của dân và xử lý tốt các tình huống thực tiễn. Đồng thời, cán bộ phải khéo sử dụng các quan hệ truyền thống trong văn hoá làng xã để vận động dân, tổ chức các hoạt động của dân. Có thể nói việc xây dựng và củng cố đội ngũ cán bộ xã, thôn, ấp, làng, bản tốt là tạo cơ sở “chân rết” vững chắc cho Chính quyền cơ sở. Để cán bộ, công chức nói chung và ở cấp xã nói riêng thực sự là “công bộc của dân” làm việc vì lợi ích của nhân dân và Nhà nước, góp phần xây dựng niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước cần thực hiện: Tăng cường công tác kiểm tra, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; tăng cường công tác giáo dục rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Trẻ hoá đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở. Có chính sách, chế độ ưu đãi sát thực để thu hút người trẻ tuổi, có trình độ chuyên môn về công tác tại xã, phường, thị trấn. Chấm dứt tình trạng đã tồn tại ở cấp xã, phường, thị trấn là sử dụng cán bộ “đầu ra” ở cơ quan Nhà nước, quân đội làm “đầu vào” ở cơ sở. Thực tế cho thấy, tình trạng trên đã dẫn đến công việc chung chưa có hiệu quả cao, thậm chí có mặt còn trì trệ. d. Nâng cao trình độ dân trí, nhận thức của các tầng lớp nhân dân Như trên đã nói, nước ta là một nước nông nghiệp, dân số chủ yếu sống bằng nghề nông. Cũng như các tỉnh, thành khác Bắc Ninh có tới 80 - 85% dân số sống ở nông thôn do đó có thể thấy rằng trình độ nhận thức của người dân có phần còn hạn chế. Chính sự hạn chế trong nhận thức đó đã dẫn tới những việc làm không đúng (nếu như không muốn gọi là sai trái) của một số người dân. Hơn nữa trong thực tế đang có những diễn biến phức tạp, nhất là những diễn biến trong nhận thức, thái độ và niềm tin của người dân vào Đảng, Nhà nước. Nhiều địa phương xảy ra hiện tượng dân chủ hình thức, dân chủ quá trớn, lợi dụng dân chủ chống phá Nhà nước… Mặt khác có thể thấy rằng, trên thực tế hiện nay nạn tham nhũng đang là một trong những vấn nạn gây ảnh hưởng nhiều nhất tới sự phát triển của đất nước, và làm mất niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước. Có thể nói một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng tham nhũng của “quan chức, cán bộ” Nhà nước là do trình độ dân trí. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Quan tham vì dân dại, nếu dân hiểu biết không chịu đút lót thì quan dù không liêm cũng phải hoá ra liêm”. Nội dung trong QCDC ở cấp xã (nay là Pháp lệnh) chủ yếu xoay quanh vấn đề “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Để có thể biết, bàn, làm và kiểm tra thì người dân phải có trình độ nhận thức, có ý thức và sự giác ngộ chính trị, hiểu được nội dung, yêu cầu của những vấn đề đặt ra. Trình độ nhận thức của người dân quyết định việc tiếp nhận, xử lý thông tin, hiểu và tiếp thu đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, nâng cao trình độ dân trí cũng như nhận thức của các tầng lớp nhân dân về đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước nói chung và về tầm quan trọng của việc thực hành dân chủ nói riêng là việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết. Bởi lẽ như câu nói “chèo thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân” thì một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của người dân đối với sự phát triển của đất nước. Vậy để thực hiện dân chủ ở cấp xã thực sự có hiệu quả, vấn đề quan trọng là nâng cao trình độ dân trí mọi mặt cho nhân dân (kiến thức về văn hóa, pháp luật, chính trị, kinh tế…). Muốn vậy, cùng với việc phổ biến kiến thức khoa học kỹ thuật, công nghệ trong sản xuất phải đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, văn nghệ, giáo dục, đào tạo kiến thức phổ thông, tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước nhằm trang bị kiến thức và năng lực làm chủ cho nhân dân đặc biệt là nông dân. e. Giải pháp về thực hiện dân chủ ở cấp xã gắn với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội Có thể nói đây là đảm bảo quan trọng nhất để lôi cuốn, thu hút quần chúng vào hoạt động chính trị, xây dựng Đảng, chính quyền và đoàn thể. Đem lại lợi ích cho dân là cách tốt nhất để làm cho QCDC có sức sống, để dân chủ là một giá trị thực tế chứ không dừng lại là một ước muốn, một nguyện vọng. Người dân không thể đi họp, dự các buổi thảo luận, nghe những lời thuyết giảng chính trị mà họ và gia đình họ, con cái họ còn chưa có cái ăn, còn đói nghèo, thất nghiệp, thất học. Dân chúng quan tâm tới chính trị, tới các vấn đề xã hội nói chung, một khi họ bằng cảm nhận thực tế mà thấy rằng đó là chính trị thiết thực, cần thiết, có ích đối với họ. Việc triển khai QCDC không phải vì bản thân quy chế đó, càng không phải vì những câu, những chữ, những điều quy định này, những biện pháp kia mà chính vì làm cho dân chúng có được sự biến đổi cuộc sống hàng ngày, no đủ hơn, tiến bộ hơn, tức là vấn đề an sinh và an ninh cuộc sống của dân. Điều này có thể hiểu rằng, thực hiện dân chủ phải đạt tới mục đích cuối cùng là góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc, thắt chặt mối quan hệ tình làng, nghĩa xóm cho nhân dân. Muốn làm được điều đó cần: Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng; tạo điều kiện thuận lợi giúp các nhà đầu tư đẩy nhanh tiến độ thi công các dự án trên địa bàn để tạo diện mạo mới cho địa phương; trong những năm tiếp theo cần thưc hiện mô hình xây dựng nông thôn mới tại các xã, phường, thị trấn trên địa bàn. Đẩy mạnh xã hội hóa và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, giáo dục, môi trường… Thực hiện có hiệu quả các giải pháp đảm bảo an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo; tăng cường các biện pháp đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; giải quyết dứt điểm đơn thư KNTC, tránh để tồn đọng và khiếu kiện vượt cấp. Tóm lại, để Thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” ngoài việc tuân thủ, quán triệt đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thì muốn để cho “dân biết” thì phải công khai, minh bạch trong tất cả các công việc của các tổ chức Đảng, nhà nước, các cấp chính quyền, đoàn thể, cũng như các cơ quan, đơn vị; muốn để cho "dân bàn" thì cơ quan, tổ chức và người lãnh đạo phải gần dân, "mở lòng" với nhân dân, tôn trọng ý kiến của nhân dân, thể hiện tinh thần ham học hỏi, cầu tiến bộ. Đấy cũng là tinh thần "thật thà tự phê bình và phê bình" của những nhà lãnh đạo các cấp. Từ đấy, nhân dân mới được hỏi, được nói, được bàn bạc mọi việc cho đến thấu lí, vẹn tình; muốn để cho "dân làm", dân hăng hái tham gia các công việc của đất nước, của địa phương, tham gia quản lý xã hội, thì phải trên cơ sở "dân biết" và "dân bàn" thấu đáo; giám sát là khâu cuối của quy trình dân chủ trong quản lý nhà nước, có ý nghĩa quan trọng, không chỉ bảo đảm cho các quyết định quản lý đã thông qua được thực hiện chính xác, kịp thời mà còn góp phần khắc phục các vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện. 3.3. Một số kiến nghị để tiếp tục hoàn thiện tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã Một là: Cần xây dựng chế tài xử lý những trường hợp vi phạm dân chủ, lợi dụng dân chủ gây mất ổn định an ninh chính trị địa phương. Hai là: Đổi mới căn bản nội dung, phương pháp, phương thức đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ ở cấp xã cho thích hợp với yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở. Có chính sách tạo động lực để thu hút các nguồn lực phát triển về cấp xã, tạo ra chất lượng mới của đội ngũ cán bộ ở cơ sở. Ba là: Cần tiến hành bầu cử trực tiếp các vị trí lãnh đạo ở cấp xã và tiến tới là ở cấp huyện để khẳng định hơn nữa quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân. Bốn là: Cần tách biệt những người giữ các chức vụ: Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND các xã, thị trấn. Thực tế hiện nay, phần lớn ở cấp xã Bí thư Đảng uỷ thường là Chủ tịch HĐND do đó nên tách riêng các chức danh để phù hợp với nguyên tắc “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Năm là: Tuy Hiến pháp và pháp luật có quy định người dân có quyền bãi nhiệm những thành viên do mình bầu khi không xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân. Nhưng trên thực tế chưa có cơ chế để người dân thực hiện quyền này. Vì vậy cần có quy định chặt chẽ về việc nhân dân tiến hành bãi nhiễm. Sáu là: Nhiệm kỳ của HĐND và UBND cấp xã cần xem xét, rút ngắn (vì thực tế ở một số nơi xảy ra tình trạng một số người đã có suy nghĩ rằng: nhiệm kỳ của mình là 5 năm nên trong thời gian đó có thể làm những việc này, việc khác có lợi cho bản thân...). Vì vậy việc tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, UBND cấp xã cần được tiến hành thường xuyên, công khai, dân chủ. Đồng thời nên tổ chức lấy phiếu tín nhiệm của người dân đối với cả đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Và có thể dựa vào kết quả lấy phiếu tín nhiệm từ dân với các chức danh làm cơ sở để người dân có thể bãi nhiệm những người không còn xứng đáng, làm căn cứ xếp loại cán bộ, công chức. Tiểu kết chương 3 Dân chủ gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội, khi kinh tế phát triển thì đòi hỏi về dân chủ cũng được nâng lên một tầm cao mới. Ngoài những biện pháp được đưa ra trong các kỳ họp, hội nghị của các cấp có thẩm quyền nhằm tiếp tục thực hiện QCDC ở cơ sở, khẳng định tính đúng đắn, xác thực của các chủ trương, chính sách. Trong phạm vi bài viết, tác giả đã tìm hiểu thực tế, chắt lọc những giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế trong quá trình tổ chức thực hiện để nâng cao hơn nữa hiệu quả của việc thực hiện dân chủ ở cơ sở nói chung và ở cấp xã nói riêng. Tuy nhiên, những giải pháp mà tác giả đưa ra đều dựa trên những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, không trái với những quy định của pháp luật đồng thời đảm bảo tính thiết thực. Vậy để Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đi vào cuộc sống, nhân dân đồng tình hưởng ứng, phải làm cho toàn dân hiểu và tuân thủ mọi công việc, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước vì lợi ích trước mắt cũng như lâu dài của họ. KẾT LUẬN Dân chủ là điều kiện của tiến bộ và phát triển xã hội. Dân chủ lại là động lực và mục tiêu của đổi mới, là một trong những phương diện hợp thành bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Đối với nước ta, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN là cả một quá trình lịch sử lâu dài mà hiện nay chúng ta mới bắt đầu làm quen với dân chủ, từng bước trưởng thành về ý thức và năng lực dân chủ. Cuộc vận động dân chủ hoá toàn diện các lĩnh vực của đời sống ở nước ta đã trải qua hơn 20 năm, khi bắt đầu đổi mới và chắc chắn sẽ còn lâu dài. Việc thực hiện QCDC ở cơ sở, lấy dân chủ ở xã, phường, thị trấn làm trọng điểm mới trải qua hơn 10 năm nay. Đây là một hướng phát triển mới cả lý luận và thực tiễn về dân chủ ở nước ta. Do đó, cần phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu và tổng kết để có cơ sở vững chắc hơn cho việc đề xuất, tìm kiếm các giải pháp thực hiện, phát huy dân chủ ở nước ta. Tỉnh Bắc Ninh gồm có 07 huyện, thị xã và 01 thành phố; 126 đơn vị xã, phường, thị trấn (trong đó có 100 xã, 20 phường, 06 thị trấn) với 1.024.151 người. Với các đặc điểm về tự nhiên và con người vùng Kinh bắc, có thể thấy Bắc Ninh là một tỉnh điển hình khu vực Bắc bộ, là thành phố vệ tinh của Thủ đô Hà Nội. Do đó tình hình kinh tế - xã hội của Bắc Ninh có ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển chung của đất nước. Ngoài ra, nếu như các vấn đề thực hiện ở Bắc Ninh (trong đó có vấn đề dân chủ) được thực hiện tốt thì có thể lấy nhân rộng mô hình ra các địa phương khác. Nhằm mục đích đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội một cách bền vững, bảo đảm và giữ vững quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh và cả nước, từng bước cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, tạo niềm tin của người dân vào Đảng, nhà nước, đồng thời hạn chế tình trạng quan liêu, tham nhũng, cửa quyền, hách dịch trong hệ thống các cơ quan nhà nước nói chung và chính quyền cấp cơ sở nói riêng, trước hết cần phải thực hiện tốt QCDC ở cơ sở, đặc biệt là Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường thị trấn, bởi lẽ đây là địa bàn sinh sống của người dân, là nơi diễn ra các hoạt động tiếp xúc giữa bộ máy công quyền và người dân, là nơi thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, cũng là nơi mà bộ máy công quyền tìm hiểu để đề ra những đường lối, chủ trương cho phù hợp, đặc biệt là nơi mà hoạt động của “nó” có thể ảnh hưởng đến sự sống còn của chế độ, của Nhà nước ta. Đề tài “Hoàn thiện tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” đã tiến hành tìm hiểu tài liệu, thu thập số liệu, phân tích, so sánh, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về thực trạng tổ chức thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn để từ đó đưa ra một số giải pháp khắc phục những hạn chế, yếu kém trong quá trình tổ chức thực hiện, để nâng cao hơn nữa việc thực hiện dân chủ ở cấp xã nói chung và trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Có thể nhận thấy rằng, đề tài “Hoàn thiện tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” là vấn đế có tính cấp thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay. Đề tài cũng góp phần kiến nghị với Đảng, nhà nước và các cấp chính quyền địa phương trong việc tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã, đáp ứng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Phát huy dân chủ và thực hiện dân chủ ở cấp xã không chỉ góp phần củng cố, kiện toàn tổ chức Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân ở cơ sở, không chỉ là giải pháp để hạn chế sự tha hoá quyền lực, chống lại tệ quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước mà nó còn khơi dậy sức mạnh tiềm tàng của quần chúng lao động, phát huy cao độ mọi tiềm năng, trí tuệ của toàn thể nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Văn bản quy phạm pháp luật: Các Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Hiến pháp 1946, 1959) Các Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ( Hiến pháp iến pháp H1980 và Hiến pháp 1992 (sđ, bs năm 2001). Nghị định số 29/NĐ-CP ngày 15/5/1998 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Nghị định số 79/NĐ-CP ngày 07/7/2003 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Nghị quyết liên tịch của Chính phủ - Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam số 09/2008/NQLT-CP-UBTWMTTQVN ngày 17/4/2008 về việc hướng dẫn thi hành các Điều 11, 14, 22 và 26 của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Thông tư số 03/1998/TT-TCCP ngày 06/7/1998 của Ban tổ chức cán bộ Chính phủ về việc hướng dẫn áp dụng Quy chế thực hiện dân chủ ở xã đối với phường và thị trấn. Thông thư số 12/2004/TT-BNV ngày 20/2/2004 của Bộ Nội vụ về hướng dẫn thực hiện Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 của Chính phủ về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã và áp dụng đối với phường, thị trấn. Nghị quyết, văn kiện, tài liệu của Đảng: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X. Ban Dân vận Trung ương (1998), Chỉ thị số 30/CT-TW về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, Hà Nội. Ban Dân vận Trung ương (1998), Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và vấn đề xây dựng Quy chế dân chủ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Chỉ thị số 10/CT-TW ngày 28/8/2002 của Ban Bí thư TW Đảng (khóa VIII) về tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 18/3/2002 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn. Thông báo số 159-TB/TW ngày 15/11/2004, kết luận của Ban Bí thư về kết quả 6 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị khoá VIII và tiếp tục chỉ đạo xây dựng và thực hiện QCDC. Kết luận số 65-KL/TW ngày 04/3/2010 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII) về xây dựng và thực hiện QCDC cơ sở. Sách tham khảo: Hoàng Chí Bảo (2004), Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hoàng Chí Bảo (2007), Dân chủ và dân chủ cơ sở ở nông thôn trong tình hình đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác và Ph.Angghen (1993), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Thu Cúc (2002), Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồng Hà (2000), Dân chủ và tập trung dân chủ, lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Vũ Văn Hiền (2005), Quy chế dân chủ ở cơ sở, vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Văn Lập (2006), Đảng Cộng sản Trung Quốc và vấn đề cải cách dân chủ, Nxb Thông tấn xã Việt Nam, Hà Nội. Nguyễn Khắc Mai (1997), Dân chủ - Di sản văn hóa Hồ Chí Minh, Nxb Sự Thật, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1996): Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1986): Về Đảng cầm quyền, Nxb Sự thật, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1985): Nhà nước và pháp luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội. Thái Ninh - Hoàng Chí Bảo (1991), Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội. Nguyễn Tiến Phồn (2001), Dân chủ và tập trung dân chủ - lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nguyễn Văn Sáu (2005), Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Văn Sáu - Hồ Văn Thông (2003), Thực hiện Quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đỗ Tiến Sâm (2005), Vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở ở nông thôn Trung Quốc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. N.M. Voskresenskaia - N.B. Davletshina (2008), Chế độ dân chủ: Nhà nước và xã hội, Nxb Tri thức, Hà Nội. Các bài viết, công trình nghiên cứu, luận văn: Hoàng Chí Bảo (2001), Củng cố và tăng cường hệ thống chính trị cơ sở nông thôn nước ta hiện nay: Vấn đề và giải pháp. Kỷ yếu Hội thảo đề tài độc lập cấp Nhà nước “Nghiên cứu một số vấn đề nhằm củng cố và tăng cường hệ thống chính trị cơ sở trong sự nghiệp đổi mới và phát triển ở nước ta hiện nay”. Trịnh Ngọc Anh, "Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh", tạp chí Cộng sản, (số 11, 4/2003). Lê Minh Châu, “Dân chủ ở cơ sở là điểm mấu chốt để thực hiện quyền dân chủ”, tạp chí Quản lý nhà nước, (số 1/1999). Trần Bạch Đằng, "Dân chủ ở cơ sở một sức mạnh truyền thống của dân tộc Việt Nam", tạp chí Cộng sản, (số 35, 12/2003). Lê Xuân Đình, "Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và vấn đề thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở", tạp chí Cộng sản, (số 20, 10/2004). Bùi Thị Hạnh (2009), Thực hiện dân chủ cơ sở tại tỉnh Bắc Giang - Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sỹ, chuyên ngành quản lý hành chính công, mã số 603482, Học viện hành chính quốc gia. Lại Quốc Khánh, “Vấn đề chế độ dân chủ nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh từ góc nhìn triết học”, tạp chí cộng sản, (số 23/2010). Trần Quang Nhiếp, “Để thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, tạp chí Cộng sản, (số 2/1999). Nguyễn Chí Mỳ, “Dân chủ cơ sở - sự sáng tạo của Đảng ta”, tạp chí Cộng sản, (số 95,205). Phạm Ngọc Quang, “Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong quá trình đổi mới: thành tựu, vấn đề và giải pháp", tạp chí Lý Luận chính trị, (số 3/2004). Nguyễn Thị Tâm (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ với việc thực hiện QCDC ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tài liệu của Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Bắc Ninh: Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh (2010), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh (1926 - 2008), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Báo cáo số 80-BC/BCĐ ngày 10/6/2009 của Ban chỉ đạo tỉnh Bắc Ninh về tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII) về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở. Báo cáo số 01-BC/BCĐ ngày 09/12/2009 của Ban chỉ đạo tỉnh Bắc Ninh về kết quả thực hiện QCDC ở cơ sở năm 2009 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2010. Báo cáo số 01-BC/BCĐ ngày 13/12/2010 của Ban chỉ đạo tỉnh Bắc Ninh về kết quả thực hiện QCDC ở cơ sở năm 2010 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2011. Niêm gián thống kê Bắc Ninh 2008 (2009), Nxb Thống Kê, Hà Nội. Huyện ủy Lương Tài (2010), Báo cáo 10 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 30/CT-TW của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở. Tài liệu trên các trang Webs: MỤC LỤC SỐ ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH TẠI TỈNH BẮC NINH PHÂN THEO HUYỆN, THÀNH PHỐ THUỘC TỈNH Biểu số 2.1 STT Tên đơn vị Tổng số Xã Phường Thị trấn 1 Toàn tỉnh 126 100 20 06 2 Thành phố Bắc Ninh 19 06 13 3 Thị xã Từ Sơn 12 05 07 4 Gia Bình 14 13 01 5 Lương Tài 14 13 01 6 Quế Võ 21 20 01 7 Thuận Thành 18 17 01 8 Tiên Du 14 13 01 9 Yên Phong 14 13 01 (Nguồn: Niên gián thống kê Bắc Ninh năm 2008 (2009), Nxb Thống Kê, Hà Nội, tr.39) DIỆN TÍCH, DÂN SỐ VÀ MẬT ĐỘ DÂN SỐ TỈNH BẮC NINH PHÂN THEO HUYỆN, THÀNH PHỐ THUỘC TỈNH (số liệu năm 2008) Biểu số 2.2 STT Tên đơn vị Diện tích (km2) Dân số (người) Mật độ dân số (người/km2) 1 Toàn tỉnh 822.71 1.035.951 1.259 2 Thành phố Bắc Ninh 82,6 153.385 1.857 3 Thị xã Từ Sơn 61,3 131.151 2.138 4 Gia Bình 107,8 106.057 984 5 Lương Tài 105,7 106.031 1.003 6 Quế Võ 154,8 142.072 917 7 Thuận Thành 117,9 148.133 1.256 8 Tiên Du 95,7 122.603 1.281 9 Yên Phong 96,9 126.519 1.306 (Nguồn: Niêm gián thống kê Bắc Ninh năm 2008 (2009), Nxb Thống Kê, Hà Nội, tr.39) Thống kê thực trạng, trình độ cán bộ, công chức xã trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh (Kèm theo văn bản số 155/UBND-NC ngày 16/11/2010) Biểu số 2.3 TT Chức danh Tổng hiện có Nữ LV theo chế độ HĐ Dưới 45 t Trên 45 t Dân tộc Chuyên môn Lý luận CT QLNN SC TC ĐH SC TC CC 1 Bí thư Đảng uỷ 126 03 0 14 112 Kinh 6 58 44 2 111 12 94 2 Phó BT ĐU 126 11 0 32 94 Kinh 5 61 40 2 120 2 68 3 Chủ tịch HĐND 66 01 0 4 62 Kinh 6 32 9 0 62 2 39 4 Phó CT HĐND 106 08 0 16 90 Kinh 8 61 17 7 92 0 45 5 Chủ tịch UBND 116 04 0 21 95 kinh 2 55 40 110 2 0 89 6 Phó CT UBND 177 07 0 48 129 kinh 8 94 58 12 161 0 91 7 Chủ tịch UB MTTQ 125 03 0 5 120 Kinh 19 40 17 37 78 01 22 8 Bí thư Đoàn 125 08 0 124 01 Kinh 6 55 37 38 73 2 11 9 Chủ tịch Hội PN 124 123 0 25 99 Kinh 17 70 05 22 78 0 06 10 Chủ tịch Hội ND 122 13 0 17 105 Kinh 19 42 11 37 71 0 11 11 Chủ tịch Hội CCB 123 0 0 1 122 Kinh 16 35 13 30 76 04 07 Thống kê thực trạng, trình độ cán bộ, công chức xã trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh (Kèm theo văn bản số 155/UBND-NC ngày 16/11/2010) Biểu số 2.4 TT Chức danh Tổng hiện có Nữ LV theo chế độ HĐ Dưới 45 t Trên 45 t Dân tộc Chuyên môn Lý luận CT QLNN TC SC ĐH SC TC CC 1 Trưởng Công an 111 0 02 45 66 Kinh 01 81 22 24 82 01 25 2 Chỉ huy Trưởng QS 123 0 02 44 80 Kinh 03 96 13 19 91 0 24 3 Tư pháp hộ tịch 182 20 33 95 91 Kinh 07 98 67 48 93 01 38 4 Tài chính - kế toán 125 23 18 71 55 Kinh 02 74 44 35 66 0 24 5 Văn phòng Thống kê 125 27 17 79 49 Kinh 0 81 33 37 73 0 36 6 Văn hoá xã hội 244 40 35 99 150 Kinh 03 173 41 73 118 0 41 7 Địa chính - Đô thị xây dựng và MT hoặc Địa chính - Nông nghiệp xây dựng và MT 135 01 20 66 71 Kinh 03 89 40 45 57 0 16 TỶ LỆ HỘ ĐÓI NGHÈO PHÂN THEO HUYỆN, THÀNH PHỐ, THỊ XÃ THUỘC TỈNH (Số liệu năm 2008. Phân loại theo QĐ số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ)) Biểu số 2.5 STT Tên đơn vị Năm 2005 (%) Năm 2006 (%) Năm 2007 (%) Năm 2008 (%) 1 Toàn tỉnh 15,24 11,33 9,33 7,72 2 Thành phố Bắc Ninh 3,44 3,12 4,70 3,84 3 Thị xã Từ Sơn 3,74 2,55 2,23 1,86 4 Gia Bình 23,09 19,09 16,79 13,59 5 Lương Tài 18,94 15,94 14,04 12,04 6 Quế Võ 20,48 13,03 10,65 8,45 7 Thuận Thành 15,22 10,49 9,06 7,32 8 Tiên Du 17,77 13,62 11,80 9,00 9 Yên Phong 15,64 11,63 10,31 7,81 Nguồn: Niêm gián thống kê Bắc Ninh 2008 (2009), Nxb Thống Kê, Hà Nội, tr.410) LỜI CẢM ƠN Hoàn thành luận văn này, Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới: - Ban Giám đốc, các Thầy giáo, Cô giáo và cán bộ, công chức, viên chức các khoa, phòng, ban của Học viện Hành chính Quốc gia. - Các Thầy giáo, Cô giáo Khoa Nhà nước và pháp luật đã tham gia góp ý cho đề cương nghiên cứu của bản luận văn. - Tiến sỹ Phan Thị Thanh Thủy - Khoa sau Đại học, Học viện Hành chính, người hướng dẫn khoa học, đã nhiệt tình hướng dẫn và tạo điều kiện giúp đỡ Tôi hoàn thành luận văn này. - Các cơ quan, đơn vị, cá nhân và gia đình đã tạo điều kiện thuận lợi trong thời gian Tôi tìm hiểu thực tế và cung cấp tài liệu, số liệu để Tôi hoàn thiện luận văn. Do thời gian thực hiện luận văn không dài và trình độ còn hạn chế, nên luận văn có thể còn có những thiếu sót, Tôi rất mong được sự góp ý của các Thầy giáo, Cô giáo và các bạn đồng nghiệp. Tác giả Vũ Thị Nhung LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của Tôi, các số liệu trong luận văn là trung thực, khách quan, khoa học, dựa trên kết quả nghiên cứu và tìm hiểu thực tế và các tài liệu đã được công bố. Bắc Ninh, ngày tháng năm 2011 Tác giả Vũ Thị Nhung DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT QCDC: Quy chế dân chủ XHCN: Xã hội chủ nghĩa Cấp xã: Xã, phường, thị trấn HĐND: Hội đồng nhân dân UBND: Ủy ban nhân dân MTTQ: Mặt trận Tổ quốc CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa KNTC: Khiếu nại, tố cáo DANH MỤC CÁC BIỂU Biểu số 2.1: Số đơn vị hành chính tại tỉnh Bắc Ninh. Phân theo huyện, thành phố thuộc tỉnh. Biểu số 2.2: Diện tích, dân số và mật độ dân số tỉnh Bắc Ninh. Phân theo huyện, thành phố thuộc tỉnh. Biểu số 2.3, số 2.4: Thống kê thực trạng, trình độ cán bộ, công chức tỉnh Bắc Ninh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHoàn thiện tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.doc
Luận văn liên quan