Trước những biến động bất thường về giá cổ phiếu, nhiều ý kiến cho rằng thị trường chứng khoán Việt Nam chưa có các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp đứng ra làm định hướng trong hoạt động đầu tư. Một trong các nhà đầu tư có tổ chức mang tính chuyên nghiệp cao đó là Quỹ đầu tư chứng khoán. Quỹ đầu tư chứng khoán tham gia thị trường với hai tư cách: tư cách là tổ chức phát hành, phát hành ra các chứng chỉ quỹ đầu tư để thu hút vốn và tư cách là tổ chức đầu tư dùng tiền thu hút được để đầu tư chứng khoán.
Trên thế giới hiện nay có khoảng hàng chục nghìn Quỹ đầu tư đang hoạt động cung cấp cho các nhà đầu tư. Nhờ đó mà tỷ trọng tham gia thị trường chứng khoán của các quỹ ngày càng tăng so với nhà đầu tư cá nhân. Quỹ đầu tư chứng khoán đã thực sự trở thành một định chế tài chính trung gian ưu việt trên thị trường chứng khoán, làm cho thị trường phát triển, nhất là trong giai đoạn đầu hình thành vì sự có mặt của nó sẽ tạo cho công chúng thói quen đầu tư.
Chính vì vậy, việc tìm ra các giải pháp để thu hút rộng rãi công chúng tham gia đầu tư, tăng quy mô vốn thị trường thông qua tạo lập các Quỹ đầu tư chứng khoán là rất cần thiết. Xuất phát từ các lợi ích mà Quỹ đầu tư chứng khoán mang lại cho các nhà đầu tư công chúng, việc nghiên cứu để có những chính sách, biện pháp thúc đẩy loại hình Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam sẽ góp phần thiết thực tìm ra các giải pháp trên. Sự phát triển của loại hình Quỹ đầu tư chứng khoán sẽ hỗ trợ cho sự phát triển của thị trường chứng khoán trong tương lai để thị trường chứng khoán Việt Nam phát huy được vai trò thực sự trong việc chuyển tiết kiệm trong nền kinh tế thành đầu tư, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Quỹ đầu tư chứng khoán là một khái niệm hoàn toàn mới mẻ đối với người dân Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu tìm hiểu và đề ra những biện pháp thúc đẩy sự ra đời của Quỹ đầu tư để có thể vận dụng vào thực tiễn là rất cần thiết. Chính vì vậy, em chọn đề tài “Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam” làm đề tài tốt nghiệp.
Kết cấu khoá luận gồm ba phần:
Chương I. Khái quát chung về Quỹ đầu tư chứng khoán
Chương II. Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam
Chương III. Giải pháp thúc đẩy sự hình thành và phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam
Với một thời gian có hạn và nguồn tài liệu còn hạn chế nên khoá luận chưa thể đề cập tới được mọi khía cạnh liên quan tới Quỹ đầu tư chứng khoán, rất mong được sự nhận xét, góp ý của các thầy cô và các bạn quan tâm tới lĩnh vực đầy mới mẻ này.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn tới THS. Đặng Thị Nhàn đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong quá trình thực hiện khoá luận. Đồng thời em cũng chân thành gửi lời cảm ơn tới các thầy cô ở trường ĐH Ngoại Thương đã trang bị kiến thức vững chắc để giúp em có thể nghiên cứu, hoàn thành khoá luận này.
Chương I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
I. Những vấn đề cơ bản về Quỹ đầu tư chứng khoán
1. Sự hình thành và phát triển của các Quỹ đầu tư
2. Khái niệm
3. Phân loại Quỹ đầu tư chứng khoán
3.1. Căn cứ vào cách thức huy động vốn
3.2. Căn cứ vào mục đích đầu tư
3.3. Căn cứ vào đối tượng đầu tư của quỹ
3.4. Một số loại quỹ khác
4. Vai trò của Quỹ đầu tư chứng khoán
4.1. Đối với nền kinh tế
4.2. Đối với thị trường chứng khoán
4.3. Đối với người đầu tư và người nhận đầu tư
5. Mô hình tổ chức hoạt động Quỹ đầu tư chứng khoán
5.1. Mô hình công ty
5.2. Mô hình tín thác
5.3. Ưu nhược điểm của mô hình công ty và mô hình tín thác
6. Nguyên tắc hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán
6.1. Nguyên tắc huy động vốn
6.2. Nguyên tắc bảo quản tài sản và giám sát hoạt động của quỹ
6.3. Nguyên tắc định giá phát hành và mua lại chứng chỉ của quỹ
6.4. Nguyên tắc cung cấp thông tin cho nhà đầu tư
6.5. Nguyên tắc hạn chế một số giao dịch liên quan đến tài sản của quỹ
II. Một số tiêu chuẩn đánh giá kết quả kinh doanh của Quỹ đầu tư chứng khoán
III. Kinh nghiệm hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán ở một số nước
1. Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường phát triển
1.1. Hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán ở Mỹ
1.2. Quỹ đầu tư chứng khoán ở Anh
1.3. Hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán ở Nhật Bản
2. Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường mới nổi
2.1. Quỹ đầu tư chứng khoán tại Hàn Quốc
2.2. Quỹ đầu tư chứng khoán ở Thái Lan
Chương II. HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
I. Sự cần thiết của việc hình thành các Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam
II. Quỹ đầu tư theo quy chế của Việt Nam
III. Đánh giá chung về hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam
IV. Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam
1. Vietnam Fund
2. Beta Vietnam Fund
3. Vietnam Frontier Fund
4. Vietnam Enterprise Investments Ltd
5. Mekong Enterprise Fund
6. Vietnam Opportunities Fund
7. VietFund
Chương III. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY SỰ HÌNH THÀNH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
I. Mô hình Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam
II. Những thuận lợi và khó khăn trong việc thành lập Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
1. Những khó khăn trong việc hình thành và phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
2. Những thuận lợi trong việc hình thành và phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
III. Giải pháp thúc đẩy sự hình thành và nâng cao hiệu quả hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán
1. Về phía Nhà nước
1.1. Duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô
1.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý
1.3. Nhà nước cần khuyến khích và hỗ trợ tích cực cho việc hình thành và phát triển của Quỹ đầu tư
1.4. Thu hút đầu tư gián tiếp
1.5. Phát triển hệ thống ngân hàng ở Việt Nam
1.6. Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế đối với hoạt động đầu tư chứng khoán của Quỹ đầu tư.
1.7. Tạo lập thị trường hàng hoá cho thị trường chứng khoán bằng các biện pháp tăng cung kích cầu
1.8. Nhà nước đặt định hướng phát triển chung cho các Quỹ đầu tư
2. Về phía các Quỹ đầu tư
2.1. Chú trọng và đẩy mạnh việc đào tạo cơ bản đội ngũ cán bộ quản lý đầu tư chuyên nghiệp
2.2. Chú trọng nghiên cứu đồng thời phổ biến rộng rãi Quỹ đầu tư ra công chúng
2.3. Chiến lược đầu tư thích hợp
KẾT LUẬN
97 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3872 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
(Mỹ), Deustche Bank Securities (Đức), Sun Wah Group và Pacific Alliance Group (Hong Kong). Công ty quản lý quỹ là VinaCapital Asset Management Ltd. Quy mô vốn của quỹ hiện nay là 10 triệu USD và dự kiến sẽ tăng lên 50 triệu USD trong vòng ba năm tới. Chứng chỉ của quỹ hiện đang được niêm yết trên thị trường chứng khoán London.
Chiến lược đầu tư trọng điểm của quỹ là vào các công ty có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động không tốt tại Việt Nam. Quỹ sẽ đầu tư vào những công ty này, giúp họ cơ cấu lại để nâng cao giá trị và phát triển lên, sau đó sẽ bán lại hoặc đưa lên niêm yết trên thị trường chứng khoán. Ngoài ra, quỹ cũng sẽ đầu tư vào các công ty cổ phần hoá hoặc công ty cổ phần tư nhân trong nước. Ở những công ty này, quỹ sẽ tham gia góp vốn với tỷ lệ lớn từ 10% trở lên để cùng tham gia công tác quản trị và phát triển doanh nghiệp, chứ không đầu tư vào doanh nghiệp mà tỷ lệ sở hữu quá nhỏ. Quỹ dự định sẽ đầu tư khoảng 1 – 2 triệu USD cho mỗi công ty.
So với các Quỹ đầu tư khác đang hoạt động tại Việt Nam, Vietnam Opportunities Fund có lợi thế hơn về nhân sự. Toàn bộ cán bộ nhân viên của VinaCapital hiện là người Việt Nam. Họ là những người có kinh nghiệm làm việc lâu năm trong lĩnh vực tài chính và đầu tư, hiểu biết về tập quán và doanh nghiệp Việt Nam.
Hiện nay, quỹ đang tích cực triển khai hoạt động của mình. Nếu không có gì thay đổi, cuối tháng 10 này, quỹ sẽ ký hợp đồng đầu tư vào ba dự án một của công ty nước ngoài và hai doanh nghiệp Việt Nam.
7. VietFund
VietFund là Quỹ đầu tư đầu tiên của Việt Nam, liên doanh giữa ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) và Dragon Capital (Anh). Hiện nay, quỹ đang đợi được cấp giấy phép thành lập và hoạt động. Công ty quản lý quỹ là Vietfund Management. Đây là công ty liên doanh quản lý quỹ đầu tư chứng khoán đầu tiên tại Việt Nam. Công ty được Uỷ ban chứng khoán nhà nước cấp giấy phép vào ngày 28/08/2003 vừa qua. Công ty được Sacombank giao uỷ thác quản lý 50 tỷ VND vốn đầu tư, ký kết thỏa thuận về hợp đồng giám sát với Ngân hàng ngoại thương Việt Nam và kết ước kiểm toán độc lập với công ty Ernst & Young Việt Nam. Vietfund Management đặt trụ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh, có tổng số vốn đầu tư ban đầu là 16 tỷ VND do Sacombank góp 70% và Dragon Capital góp 30%.
VietFund được thành lập dưới dạng mở với quy mô vốn của quỹ là 100 tỷ VND, trong đó Dragon Capital và Sacombank mỗi bên góp 10 tỷ VND ngay khi thành lập và số còn lại huy động trong ba tháng tiếp theo. Số vốn này sẽ được nâng lên 150 tỷ VND trong năm hoạt động đầu tiên và 200 tỷ VND trong hai năm tiếp theo. Vốn của quỹ sẽ được huy động từ các tổ chức tài chính, cá nhân trong và ngoài nước. Khoảng 60% vốn của quỹ sẽ tập trung đầu tư cho các ngân hàng, doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, phát triển phần mềm, du lịch, nông nghiệp, cơ sở hạ tầng và chế biến thuỷ sản. 40% còn lại sẽ đầu tư cho các hoạt động khác. Để tạo điều kiện thanh khoản cho các nhà đầu tư, chứng khoán của quỹ sẽ được niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam khi phát hành.
Sự ra đời của Vietfund Management mang một ý nghĩa rất lớn, không chỉ là Công ty liên doanh quản lý quỹ đầu tiên của Việt Nam mà nó còn tạo ra một kênh đầu tư mới cho lượng tiền nhàn rỗi trong dân với dịch vụ quản lý đầu tư chuyên nghiệp và góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam. Sau VietFund, hứa hẹn một loạt các Quỹ đầu tư, công ty quản lý quỹ nội địa ra đời như Quỹ đầu tư chứng khoán Sài Gòn, Saigon Fund. Quỹ này đang được công ty cổ phần TVH và Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam triển khai với số vốn huy động khoảng 40 tỷ VND. Ngoài ra, công ty cổ phần công nghệ thông tin cũng đang có kế hoạch thành lập Công ty quản lý quỹ Feed-up và các Quỹ đầu tư.
Chương III
GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY SỰ HÌNH THÀNH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
I. Mô hình Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam
Sự hình thành của các Quỹ đầu tư chứng khoán ở một nền kinh tế có thị trường chứng khoán là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên, việc lựa chọn mô hình Quỹ đầu tư chứng khoán phù hợp với điều kiện kinh tế, hệ thống pháp luật của từng nước lại có ý nghĩa quan trọng và mang tính quyết định đến quá trình hình thành và phát triển của các Quỹ đầu tư.
Việc xây dựng mô hình Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam dựa trên những quan điểm và nguyên tắc sau:
- Nhà nước tạo khung pháp luật và cơ sở pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của Quỹ đầu tư nhằm khuyến khích và tạo điều kiện cho Quỹ đầu tư phát triển đúng theo định hướng của Đảng và Nhà nước.
- Có một cơ quan quản lý nhà nước thống nhất, kiểm soát chặt chẽ hoạt động của Quỹ đầu tư nhằm tạo điều kiện hoạt động cho quỹ hoạt động thông suốt, hiệu quả, an toàn.
- Xây dựng Quỹ đầu tư công bằng, hiệu quả, an toàn, bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của đất nước, từng bước phát triển theo quy mô thị trường chứng khoán trong nước và sự hoà nhập với thị trường chứng khoán trong khu vực và trên thế giới.
Theo quy chế hiện hành về tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán thì mô hình Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam là Quỹ đầu tư dạng tín thác. Mô hình này hiện đang được tổ chức khá thành công tại Nhật Bản và Hàn Quốc. Từ kinh nghiệm hoạt động của các Quỹ đầu tư trên thế giới ta có thể thấy rằng đối với các thị trường phát triển lâu đời, cả hai mô hình công ty hay tín thác đều được hình thành ngay từ ban đầu tuy hình thái quỹ của từng thị trường phát triển cũng không hoàn toàn giống nhau. Đối với thị trường mới nổi, thì các quỹ dạng tín thác được hình thành trước. Khi Quỹ đầu tư phát triển tới một trình độ nhất định, thì họ mới áp dụng Quỹ đầu tư mô hình công ty. Đối với các nước phát triển ở mức độ cao, hệ thống các văn bản pháp luật đồng bộ thì việc áp dụng cả hai mô hình là hoàn toàn hợp lý. Nó góp phần tạo ra cơ chế hình thành và phát triển các Quỹ đầu tư một cách linh hoạt, tạo ra sự cạnh tranh giữa các định chế đầu tư nhằm cung cấp cho khách hàng các sản phẩm đầu tư đa dạng, đồng thời thích ứng với sự biến động không ngừng của thị trường tài chính trong khuynh hướng tự do hoá và toàn cầu hoá. Chính vì vậy, ta có thể thấy sự khác biệt trong việc lựa chọn mô hình giữa các thị trường phát triển và thị trường mới nổi phụ thuộc lớn vào điều kiện và môi trường phát triển cũng như hệ thống pháp luật của từng nước. Ở các thị trường mới nổi, do hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, các Quỹ đầu tư hầu hết hình thành theo mô hình tín thác và chỉ chuyển sang kết hợp phát triển đồng thời mô hình công ty khi thị trường đã phát triển tới một mức độ nhất định.
Chính vì vậy, Quỹ đầu tư chứng khoán tham gia hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt Nam được thành lập theo mô hình tín thác. Đây là mô hình được xây dựng phổ biến ở các thị trường lâu đời, thị trường mới nổi và các thị trường đang chuyển đổi, là mô hình thích hợp cho thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn đầu. Mô hình này thích hợp với điều kiện Việt Nam hiện nay khi trình độ dân trí còn chưa cao và nó hạn chế được những mâu thuẫn phát sinh trong hoạt động giữa hội đồng quản trị quỹ và những người điều hành trong công ty quản lý quỹ. Đồng thời, mô hình này cũng đã được lựa chọn ở nhiều nước có những đặc điểm tương tự Việt Nam như Hàn Quốc, Thái Lan, Malaixia…
Khi áp dụng mô hình Quỹ đầu tư chứng khoán dạng tín thác trong giai đoạn đầu phát triển thị trường chứng khoán, Việt Nam sẽ có được những lợi thế sau:
- Mô hình tín thác sẽ đẩy nhanh việc hình thành các Quỹ đầu tư ở Việt Nam. Không như ở các nước phát triển người đầu tư đã có những hiểu biết, kinh nghiệm nhất định trên thị trường, người đầu tư Việt Nam phải mất một thời gian lâu nữa mới nắm bắt được những quy luật vận động của thị trường chứng khoán. Chính vì vậy, với mô hình tín thác, người đầu tư có thể uỷ thác số vốn của mình vào quỹ nơi có các chuyên gia về chứng khoán vào bất cứ thời điểm nào. Như vậy, người đầu tư đã tận dụng tối đa tính chuyên nghiệp của các chủ thể uỷ thác mà không phải giám sát hay thực hiện bất cứ hành động nào trong đầu tư.
- Việc huy động vốn dưới mô hình tín thác dễ dàng hơn so với mô hình công ty. Chỉ sau khi công ty quản lý quỹ nhận được giấy phép phát hành chứng chỉ là công ty có thể phát hành đợt 1. Trong mô hình công ty, sau khi các cổ đông sáng lập góp vốn, họ phải bầu ra Hội đồng quản trị. Vốn chỉ được huy động rộng rãi từ công chúng sau khi Hội đồng quản trị đã chỉ định công ty quản lý quỹ và tổ chức bảo quản tài sản. Do vậy, thời gian và chi phí cho việc huy động vốn trong mô hình tín thác sẽ tiết kiệm hơn.
- Quỹ đầu tư chứng khoán mô hình tín thác sẽ dễ dàng bảo vệ các nhà đầu tư bởi vì hoạt động của công ty quản lý quỹ và tổ chức bảo quản tài sản được tách biệt. Công ty quản lý quỹ độc lập trong việc quản lý và đề ra các chính sách. Tổ chức bảo quản chỉ có quyền giám sát và bảo quản tài sản. Chính vì vậy, công ty quản lý quỹ có toàn quyền quyết định các vấn đề về vốn đầu tư. Khi muốn đầu tư vào một ngành hoặc loại chứng khoán nào đó, công ty quản lý muốn huy động vốn sẽ thành lập một quỹ và kêu gọi những người đầu tư có chung mục tiêu đầu tư góp vốn. Trong khi đó, theo mô hình công ty, công ty quản lý quỹ không có toàn quyền quyết định, bị ràng buộc và phải tuân thủ các chính sách do hội đồng quản trị đề ra. Điều này chỉ thích hợp ở các nước phát triển khi mà hội đồng quản trị đại diện cho quỹ có trình độ quản lý cao.
- Mô hình tín thác hạn chế cạnh tranh không cần thiết, góp phần ổn định thị trường vốn còn sơ khai của Việt Nam. Theo mô hình tín thác, mỗi công ty quản lý quỹ có thể lập ra nhiều quỹ nhưng mỗi quỹ lại theo đuổi một mục tiêu, đường lối riêng. Điều này giúp tập trung được những người đầu tư có chung mục đích trên thị trường, tránh giàn trải vốn. Trong khi đó theo mô hình công ty, cứ một vài người đầu tư có chung mục đích là đã có thể thành lập một quỹ của riêng mình. Vì thế, số lượng quỹ tăng lên rất nhiều so với mô hình tín thác làm cho cạnh tranh trở nên gay gắt. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, người đầu tư, người kinh doanh và cả những người làm công tác quản lý nhà nước còn thiếu hiểu biết về thị trường chứng khoán, khung pháp lý vẫn chưa hoàn thiện, chính vì vậy, chưa thể đáp ứng cho một thị trường có mức độ cạnh tranh cao.
Ngoài ra, nếu áp dụng mô hình công ty, chúng ta sẽ phải gặp một số bất lợi. Mục tiêu của chính phủ Việt Nam là xây dựng một hệ thống Quỹ đầu tư ban đầu là để đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế nước nhà và thị trường chứng khoán thông qua việc huy động một số lượng vốn lớn và thực hiện đầu tư dài hạn. Nhưng việc áp dụng mô hình công ty sẽ chỉ khuyến khích việc thành lập các công ty đầu tư có quy mô nhỏ và huy động được khối lượng vốn ít hơn nhiều so với Quỹ đầu tư mô hình tín thác. Chính vì vậy, mục tiêu của chính phủ sẽ khó thực hiện nếu ngay từ đầu thành lập một hệ thống các công ty có quy mô nhỏ như vậy. Không những thế, sẽ rất khó khăn trong việc giám sát quản lý hoạt động kinh doanh của các công ty này vì các công ty có thể đưa ra nhiều loại hình quỹ khác nhau rất linh hoạt phù hợp với nhu cầu thị trường gây lầm lẫn cho các nhà đầu tư vốn có sự hiểu biết rất hạn chế về lĩnh vực đầu tư mới này.
Sau khi đã lựa chọn mô hình Quỹ đầu tư chứng khoán phù hợp, thì một điều rất quan trọng khác mà chúng ta không thể không xem xét tới là trong giai đoạn đầu của thị trường chứng khoán hiện nay, Quỹ đầu tư nên thuộc loại kết thúc đóng hay kết thúc mở?
Tại Việt Nam, theo Quy chế về tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ thì Quỹ đầu tư chứng khoán được tổ chức dưới hai hình thức là Quỹ kết thúc đóng và kết thúc mở. Rút kinh nghiệm từ hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán các nước thì ở cả thị trường phát triển lẫn thị trường mới nổi, điểm xuất phát của Quỹ đầu tư là quỹ dạng đóng, nó được hình thành và phát triển trước quỹ dạng mở. Đó là vì cơ cấu vốn ổn định của các quỹ dạng đóng do nhà đầu tư không được rút vốn, và tất cả các chứng khoán của quỹ đều phải giao dịch qua thị trường chứng khoán tập trung nhằm tránh những xáo động lớn cho thị trường và bảo đảm cho quá trình vận hành của các Quỹ đầu tư được an toàn và ổn định. Điều này cũng giúp cho các tổ chức quản lý quỹ chủ động trong việc đầu tư trong việc đầu tư mang tính dài hạn trong điều kiện ban đầu khi kinh nghiệm đầu tư chuyên nghiệp chưa nhiều. Mặc dù loại quỹ đóng không sôi động nhưng thị trường của chúng ta còn rất non trẻ, nếu thành lập Quỹ mở cùng với tính chất sôi động của quỹ này thì sẽ gây ảnh hưởng rất nhiều đối với thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó, Quỹ đầu tư còn là một loại hình rất mới mẻ của Việt Nam, cho nên một mô hình quỹ có nguồn vốn ổn định là rất thích hợp. Nó giúp cho các nhà quản lý quỹ có điều kiện làm quen với sự hoạt động của quỹ mà không phải lo sợ sự không ổn định về vốn. Hiện nay, số lượng chứng khoán giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam còn quá ít nên việc áp dụng quỹ dạng đóng tại thời điểm hiện nay có lợi hơn so với quỹ mở vì đối tượng đầu tư ít đi ngược lại với nguyên tắc đa dạng hoá của Quỹ đầu tư. Khi thị trường chứng khoán đã sôi động và hoạt động của các quỹ đã ổn định thì các quỹ dạng mở mới ngày càng được phát triển.
Chính vì những lý do trên, nhiều chuyên gia cho rằng ở Việt Nam, trong giai đoạn đầu hoạt động của thị trường chứng khoán nên thành lập các Quỹ đầu tư chứng khoán dạng đóng.
II. Những thuận lợi và khó khăn trong việc thành lập Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
Kể từ khi các Quỹ đầu tư hoạt động tại Việt Nam vào đầu những năm 90, đến nay đã được hơn chục năm nhưng kết quả mà các quỹ thu được lại không như mong đợi ban đầu. Thậm chí, ngay cả những Quỹ đầu tư nước ngoài có thế mạnh về vốn và kinh nghiệm quản lý cũng chỉ gặp lỗ hay may mắn hơn thì hoà vốn. Một tín hiệu đáng mừng cho thị trường chứng khoán Việt Nam là sự xuất hiện của công ty quản lý quỹ VietFund. Điều đó chứng tỏ môi trường đầu tư đã được cải thiện, cơ hội đầu tư không ít. Tuy nhiên, bên cạnh đó những thách thức đối với các Quỹ đầu tư vẫn còn nhiều.
1. Những khó khăn trong việc hình thành và phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
Thách thức lớn nhất đối với các Quỹ đầu tư là tính minh bạch. Bởi vì đa số các công ty không đáp ứng được các yêu cầu về sự minh bạch, mà lại giấu giếm về tình hình tài chính của họ. Công khai thông tin là một trong những nguyên tắc cơ bản quan trọng trong đầu tư. Việc công bố kịp thời, chính xác, đầy đủ và trung thực các thông tin sẽ giúp cho nhà đầu tư có được nguồn dữ liệu tin cậy phục vụ cho việc phân tích, đánh giá tình hình hoạt động của các công ty để đưa ra các quyết định đầu tư đúng đắn, hạn chế rủi ro, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngoài những hạn chế về tính minh bạch thì các công ty tham gia hoặc chuẩn bị tham gia thị trường hiện nay hầu hết có quy mô nhỏ, cơ cấu điều hành chưa chặt chẽ, và thường không được định giá chính xác.
Một vấn đề khác gây trở ngại cho các quỹ khi đầu tư vào các công ty tư nhân là các công ty này thường có quy mô nhỏ vì khu vực doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam còn mới. Nhiều nước Đông Nam Á khác có các công ty tư nhân thành lập từ rất lâu, còn tại Việt Nam doanh nghiệp tư nhân chỉ mới có từ thập niên 90 nên ngay cả các công ty lớn thì cũng vẫn nhỏ khi so với tiêu chuẩn khu vực.
Hiện tại, luật pháp không cho các doanh nghiệp Việt Nam được ra thị trường chứng khoán nước ngoài. Những ràng buộc như thế khiến cho các Quỹ đầu tư không dám thực thi hết những chức năng của nó. Chính vì vậy, thị trường huy động vốn của Việt Nam còn nhiều điều phải làm để chinh phục lòng tin của nhà đầu tư.
Thị trường chứng khoán hiện tại quy mô còn nhỏ, hàng hoá chứng khoán còn ít. Khối lượng giao dịch trên thị trường chứng khoán qua các phiên giao dịch còn thấp, hàng hoá chưa thật phong phú. Thị trường còn trong tình trạng mất cân đối giữa cung và cầu. Với tình trạng như vậy, nếu Quỹ đầu tư ra đời thì hoạt động sẽ gặp nhiều khó khăn, bởi lẽ một trong những mục đích chủ yếu của Quỹ đầu tư là thực hiện đa dạng hoá đầu tư. Nếu như các loại chứng khoán còn ít thì khó có thể thực hiện việc lựa chọn chứng khoán để thành lập danh mục đầu tư có hiệu quả. Mặt khác, những diễn biến bất thường của chỉ số chứng khoán Việt Nam như khi thì tăng đến chóng mặt lúc lại sụt giảm liên tục và thường diễn ra trong một thời gian dài đối với đồng loạt các cổ phiếu gây ra những làn sóng tâm lý phức tạp trong người đầu tư, làm ảnh hưởng tới hoạt động của quỹ.
Môi trường pháp lý của Việt Nam chưa rõ ràng, đặc biệt là đối với các Quỹ đầu tư nước ngoài dẫn đến quá trình đầu tư vào các doanh nghiệp gặp khó khăn. Thủ tục xin phép đầu tư vào chứng khoán còn phức tạp và mất nhiều thời gian. Thông thường để tham gia mua cổ phần, phải mất từ 3 – 6 tháng để thẩm định dự án, nhưng cần 6 –12 tháng để nhận được giấy phép.
Do số công ty cổ phần và công ty cổ phần hoá chưa nhiều cho nên phạm vi đầu tư hạn chế. Mặt khác, số công ty được niêm yết còn ít chỉ có 21 công ty nên các quỹ gặp nhiều khó khăn trong việc tháo lui vốn, khi chuyển nhượng bị giảm giá trị.
Cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát triển của Quỹ đầu tư chứng khoán chưa hoàn chỉnh. Quy chế về tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đã được ban hành, đã tạo ra khung pháp lý cơ bản cho sự ra đời của Quỹ đầu tư. Tuy nhiên để cho Quỹ đầu tư hình thành và phát triển lành mạnh, vững chắc thì còn nhiều vấn đề cần phải cụ thể hoá, bổ sung và hoàn thiện. Vẫn còn tồn tại những rào cản đối với Quỹ đầu tư chứng khoán trong các văn bản pháp quy hiện hành điều chỉnh hoạt động của Quỹ đầu tư cụ thể như Nghị định 144 CP, Quyết định 05/UBCKNN, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Bộ luật Dân sự…
Hiện nay, chúng ta đang thiếu đội ngũ các nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp. Đây là một khó khăn rất lớn trong việc hình thành và phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán. Sự thành công hay thất bại của một Quỹ đầu tư phụ thuộc rất lớn vào trình độ điều hành của các nhà quản lý chuyên nghiệp. Tại Việt Nam hiện nay chưa có đội ngũ các nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp được đào tạo một cách cơ bản.
Sự hiểu biết về Quỹ đầu tư của công chúng còn nhiều hạn chế. Cho đến nay, sự hiểu biết về thị trường chứng khoán nói chung đối với công chúng còn nhiều hạn chế và hơn nữa đối với Quỹ đầu tư thì càng hạn chế hơn. Một khi công chúng chưa hiểu rõ cơ chế hoạt động và lợi ích của quỹ thì việc lôi cuốn, thu hút họ tham gia vào quỹ là vấn đề hết sức khó khăn.
Ngoài ra, còn có các khó khăn khác đối với các Quỹ đầu tư như rủi ro tỷ giá, các hạn chế trong việc đầu tư vào các công ty niêm yết đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Tất cả các quỹ đều dựa trên cơ sở đồng đô la Mỹ và được huy động từ các nhà đầu tư quốc tế. Ngay cả khi các công ty đầu tư hoạt động tốt ở trong nước thì phần lớn thu nhập có thể bị triệt tiêu bởi sự mất giá của đồng Việt Nam so với đồng đô la Mỹ. Rủi ro tỷ giá hối đoái có thể được bù đắp một phần nào bằng cách đầu tư vào các công ty có tỷ trọng thu nhập bằng đồng đô la Mỹ cao.
2. Những thuận lợi trong việc hình thành và phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
Nền kinh tế tăng trưởng ổn định, thu nhập của dân cư ngày càng tăng. Nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây phát triển ổn định với nhịp độ tăng trưởng tương đối cao. Theo kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2001-2010, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 7,5%. Mặt khác, lạm phát ở mức thấp. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, đời sống của dân cư ngày càng được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người của các tầng lớp dân cư có xu hướng tăng dần. Những yếu tố trên là tiền đề quan trọng cho việc hình thành và phát triển của các Quỹ đầu tư vì một trong những quy luật phát triển của quỹ là trong những thời kỳ nền kinh tế tăng trưởng cao thì quỹ cũng phát triển mạnh.
Thị trường Việt Nam vẫn còn là một thị trường đầy tiềm năng với sự ổn định chính trị và sự tăng trưởng GDP đều đặn mặc dù gặp khủng hoảng tài chính khu vực. Việt Nam còn cung cấp một lực lượng lao động lớn và giá lao động có tính cạnh tranh trong khu vực. Lao động Việt Nam cần cù, ham học hỏi và cầu tiến. Sau gần 15 năm xuất hiện của đầu tư nước ngoài đã giúp đào tạo hàng trăm nghìn người quản lý và công nhân ở nhiều kỹ năng khác nhau. Sau khi ký kết Hiệp định thương mại Việt Mỹ, đầu tư nước ngoài ở Việt Nam sẽ tăng, cổ phiếu và các tài sản của các công ty ở Việt Nam sẽ có khả năng thu hút các nhà đầu tư tài chính. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các Quỹ đầu tư.
Chính phủ Việt Nam đã có những chính sách ủng hộ Quỹ đầu tư chứng khoán. Các bộ, ngành đã phối hợp để ban hành quy chế hoạt động cho sự hoạt động của các quỹ, đặc biệt là các cải cách pháp luật, chính sách ưu đãi đầu tư. Bên cạnh đó, chính phủ đang có nhiều chính sách để thu hút nguồn vốn từ tất cả các thành phần kinh tế cũng như các chính sách nhằm tự do hoá khả năng làm ăn và đầu tư đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Điều đó tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài được phép tham gia góp vốn vào nhiều lĩnh vực, ngành nghề của nền kinh tế chứ không bị hạn chế như trước đây.
Từ ngày 20/07/2000, Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh đã chính thức được khai trương và đến nay đã hoạt động được hơn ba năm. Về cơ bản, bước đầu đã thu hút được sự quan tâm của các tầng lớp dân cư đến việc thực hiện đầu tư chứng khoán. Đồng thời, sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam đã giúp cho Quỹ đẩy mạnh đầu tư vào các công ty cổ phần và giúp các doanh nghiệp này được niêm yết và giao dịch tại Trung tâm giao dịch chứng khoán, qua đó giúp các quỹ dễ dàng tháo lui vốn thông qua chuyển nhượng trên thị trường chứng khoán.
Hàng hoá chứng khoán có xu hướng ngày càng phong phú. Công tác cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đang được tiếp tục đẩy mạnh. Theo kế hoạch, đến năm 2005 sẽ hoàn thành cơ bản việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn.
Với việc thực hiện Luật doanh nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy sự ra đời của nhiều công ty cổ phần mới. Chính phủ thường xuyên phát hành trái phiếu để huy động vốn cho việc phát triển kinh tế xã hội. Các ngân hàng thương mại đã và đang phát hành trái phiếu huy động vốn cho hoạt động kinh doanh cũng là những yếu tố góp phần làm phong phú thêm hàng hoá cho thị trường chứng khoán Việt Nam.
Với những điều kiện trên cho thấy, trong những năm sắp tới hàng hoá chứng khoán sẽ đa dạng về chủng loại và sẽ tăng thêm nhiều về số lượng, góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát triển của Quỹ đầu tư chứng khoán.
Với sự thành công của đường lối đổi mới kinh tế, ngay từ những năm đầu của thập kỷ 90, Việt Nam đã là nơi thu hút các nhà đầu tư nước ngoài và được coi là thị trường mới nổi đầy tiềm năng. Do vậy, một số Quỹ đầu tư Việt Nam của nước ngoài đã sớm được thành lập và có mặt hoạt động tại Việt Nam. Điều đó đã góp phần tạo ra một yếu tố thúc đẩy sự ra đời các Quỹ đầu tư trong nước của Việt Nam.
III. Giải pháp thúc đẩy sự hình thành và nâng cao hiệu quả hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán
1. Về phía Nhà nước
1.1. Duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô
Sự ổn định và tăng trưởng bền vững của nền kinh tế vĩ mô có mối quan hệ mật thiết tới thị trường chứng khoán nói chung và sự phát triển của các Quỹ đầu tư chứng khoán nói riêng. Chỉ trong một nền kinh tế ổn định, các chỉ số vĩ mô như lạm phát, tỷ lệ tăng trưởng, tỷ giá hối đoái, mức lãi suất ổn định thì mới tạo lập được niềm tin và kích thích người đầu tư xoá bỏ tâm lý e ngại, dè chừng khi tham gia vào một hình thức đầu tư mới. Từ đó khuyến khích các tổ chức kinh tế tích cực hơn trong quyết định thành lập Quỹ đầu tư chứng khoán cũng như tạo ra môi trường tốt cho hoạt động của các Quỹ đầu tư phát triển. Trong bối cảnh nền kinh tế vĩ mô có nhiều dấu hiệu bất ổn, thiếu sự kiểm soát thì các nhà đầu tư không thể mạo hiểm tham gia vào thị trường chứng khoán vì họ không tin tưởng vào khả năng sinh lợi trên thị trường này. Điều này dẫn đến sự đình trệ trong hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung.
Một nền kinh tế ổn định còn giúp cho hệ thống doanh nghiệp có thể duy trì sự phát triển ổn định của mình, thu hút được các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước. Khi các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, quan tâm tới việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, họ sẽ có nhu cầu về vốn rất cao và tìm cách huy động dưới nhiều hình thức trong đó có việc tham gia vào thị trường chứng khoán. Đây là xu hướng tất yếu của các doanh nghiệp trong một nền kinh tế phát triển. Như vậy, nguồn cung hàng hoá cho thị trường chứng khoán sẽ phong phú. Đồng thời, khi đó các chứng khoán được phát hành ra sẽ hấp dẫn hơn đối với người đầu tư, do đó sẽ làm tăng tính thanh khoản của các chứng khoán, làm cho hoạt động kinh doanh chứng khoán sôi động.
Để có thể duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, ổn định, kiểm soát lạm phát trong điều kiện chịu sự ảnh hưởng của những biến động kinh tế thế giới trong xu hướng toàn cầu hoá mạnh mẽ như hiện nay thì Việt Nam phải thực hiện một số biện pháp cơ bản sau:
- Thực hành tiết kiệm để tạo và nuôi dưỡng nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Chính sách tiết kiệm phải đi đôi với chính sách khuyến khích đầu tư và chính sách khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
- Đầu tư phát triển phải là vấn đề ưu tiên hàng đầu trong các quyết sách kinh tế quốc gia. Đầu tư phải có trọng điểm, có ưu tiên theo hướng chuyển dịch cơ cấu theo hướng kết hợp phát triển theo chiều rộng với việc hoàn thiện, cải tiến thiết bị công nghệ theo chiều sâu.
1.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý
Việc hoàn thiện hệ thống pháp lý là để tạo hành lang cho các tổ chức tài chính và doanh nghiệp hoạt động một cách công bằng và hiệu quả. Hiện nay, chúng ta đã có luật các tổ chức tín dụng nhưng chưa đề cập rõ về Quỹ đầu tư. Việc điều chỉnh các hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán chỉ dựa vào quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ kèm theo Quyết định số 05/1998/QĐ-UBCK ngày 13/10/1998. Nhưng để các văn bản này đi vào thực tiễn và phát huy hiệu lực thì cần sớm đưa các nội dung này vào trong khuôn khổ pháp lý cao hơn dưới hình thức các luật như Luật về Chứng khoán và thị trường chứng khoán, Luật các định chế tài chính trung gian khi thị trường chứng khoán Việt Nam dần đi vào hoạt động ổn định. Ngoài ra, do Quỹ đầu tư chứng khoán có một số đặc điểm riêng so với các chủ thể kinh doanh khác trên thị trường nên nó chịu sự chi phối của nhiều bộ luật khác có liên quan như Luật doanh nghiệp, Luật dân sự… Các bộ luật này và các văn bản dưới luật đi kèm có một số điểm bất đồng, chồng chéo nhau và chưa có sự bổ sung điều chỉnh đối với một hình thức đầu tư mới - đầu tư qua quỹ. Do vậy, một yêu cầu đang được đặt ra là cần phải tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các bộ luật này để tạo nên một hệ thống pháp luật đồng bộ, tạo sự công bằng cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp cũng như nhằm giải quyết một cách nhanh chóng khi có tranh chấp xảy ra. Ví dụ như đối với Luật đầu tư nước ngoài, cần nhanh chóng chỉnh sửa nhằm khuyến khích và tạo điều kiện cho các Quỹ đầu tư nước ngoài được nắm giữ một tỷ lệ cổ phiếu của một công ty lớn hơn tỷ lệ hiện nay là 30%.
1.3. Nhà nước cần khuyến khích và hỗ trợ tích cực cho việc hình thành và phát triển của Quỹ đầu tư
Khi thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động thì việc hình thành các Quỹ đầu tư là hết sức cần thiết để tạo điều kiện cho công chúng có thể tham gia vào thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, Quỹ đầu tư chứng khoán còn là vấn đề rất mới và trong điều kiện hiện nay còn nhiều khó khăn để quỹ ra đời và hoạt động, do vậy rất cần có sự trợ giúp của nhà nước. Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy trong giai đoạn đầu phát triển thị trường chứng khoán, chính phủ Hàn Quốc đóng vai trò to lớn trong việc thúc đẩy trợ giúp sự hình thành và phát triển Công ty tín thác đầu tư. Tại Malaixia có Quỹ đầu tư chứng khoán do chính phủ thành lập tên là PNB. Nó có những quỹ chi nhánh theo chuyên ngành để hỗ trợ, giúp đỡ người dân mua các cổ phiếu của các công trình, công ty làm ăn có lãi. Giống với Malaixia, ở Singapore chính phủ cũng thành lập một Quỹ đầu tư chứng khoán của nhà nước với mục đích tham gia vào các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài. Số vốn của các quỹ đó ngày càng tăng khiến cho quỹ có thể mở rộng đầu tư ra nước ngoài. Do vậy, sự trợ giúp của nhà nước thể hiện ở việc nhà nước cần đi tiên phong trong việc thành lập công ty quản lý quỹ và thiết lập các Quỹ đầu tư để mở đầu tạo niềm tin cho công chúng trong đầu tư. Việc mở đầu thành công có ý nghĩa rất quan trọng để khuyến khích, thu hút các thành phần kinh tế và các tổ chức khác.
1.4. Thu hút đầu tư gián tiếp
Chúng ta nên có chế độ ưu tiên đối với lĩnh vực đầu tư gián tiếp cũng được ưu đãi như đầu tư trực tiếp. Đầu tư gián tiếp nước ngoài là một hình thức đầu tư phổ biến trên thế giới và quan trọng không kém so với hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việt Nam đã rất thành công trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhưng xem ra việc thu hút đầu tư nước ngoài gián tiếp vẫn còn bị bỏ ngỏ. Các nhà quản lý hình như chưa có chính sách thông thoáng để thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp này, một phần vì sợ các nhà đầu tư nước ngoài có quyền rút vốn ồ ạt gây khủng hoảng cho nền tài chính quốc gia tương tự như cuộc khủng hoảng khu vực xảy ra vào năm 1997. Nhưng trên thực tế, tỷ lệ vốn đầu tư gián tiếp trên thị trường Việt Nam hiện nay chiếm chưa đến 1% vốn đầu tư trực tiếp trong khi ở Thái Lan khi xảy ra khủng hoảng tỷ lệ này là 80%. Chính vì vậy, Việt Nam phải quan tâm hơn nữa tới kênh thu hút vốn này.
1.5. Phát triển hệ thống ngân hàng ở Việt Nam
Thị trường chứng khoán và hệ thống ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ và gắn bó hữu cơ với nhau. Thị trường chứng khoán chỉ có thể phát triển vững chắc trên cơ sở một hệ thống ngân hàng lành mạnh và được kiểm soát tốt. Đối với các Quỹ đầu tư, ngân hàng đóng vai trò là chủ thể giám sát, bảo quản tài sản của quỹ. Muốn trở thành ngân hàng giám sát, ngân hàng đó phải đáp ứng các điều kiện do Uỷ ban chứng khoán nhà nước đề ra. Điều này đòi hỏi ngân hàng phải nỗ lực liên tục cơ cấu lại tổ chức, hoàn thiện các nghiệp vụ phục vụ khách hàng và từng bước chuẩn hoá các quy trình nghiệp vụ. Ngân hàng nhà nước nên có chế độ giám sát đảm bảo độ an toàn của các ngân hàng thương mại, xây dựng các môi trường pháp lý chặt chẽ, xây dựng các tiêu chuẩn hạch toán, báo cáo tài chính kế toán, kiểm toán rõ ràng và trung thực để các ngân hàng thương mại có thể đáp ứng một nghiệp vụ mới này.
Các ngân hàng thương mại là những tổ chức đóng vai trò tích cực trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Bởi vậy, hệ thống ngân hàng thương mại hoạt động lành mạnh và được ngân hàng trung ương kiểm soát và giám sát chặt chẽ sẽ có ảnh hưởng lớn đến tính lành mạnh của thị trường chứng khoán. Qua đó đã gián tiếp tạo điều kiện cho sự ra đời của các Quỹ đầu tư.
Nhà nước tích cực khuyến khích các ngân hàng tham gia tạo lực lượng nòng cốt cho thị trường chứng khoán. Ngân hàng nhà nước có thể dành một khoản chi nhất định cho việc thành lập các công ty chứng khoán hoặc tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng thương mại quốc doanh để tạo cơ sở cho các ngân hàng thành lập công ty chứng khoán hoặc thực hiện việc liên doanh với công ty chứng khoán nước ngoài. Bên cạnh đó, ngân hàng không ngừng nâng cao nghiệp vụ, áp dụng các phương thức thanh toán… tạo điều kiện cho mọi hoạt động trên thị trường chứng khoán nói chung cũng như hoạt động của các Quỹ đầu tư nói riêng và nhất là có thể đáp ứng được các điều kiện để trở thành tổ chức bảo quản và giám sát tài sản cho các Quỹ đầu tư.
Một tin vui mới đến cho các ngân hàng là vừa qua Uỷ ban chứng khoán nhà nước đã ký giấy phép công nhận Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là ngân hàng lưu ký chứng khoán. Đây là bước chuẩn bị nhằm tiến tới việc thành lập các ngân hàng giám sát khi các Quỹ đầu tư ra đời.
1.6. Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế đối với hoạt động đầu tư chứng khoán của Quỹ đầu tư.
Quỹ đầu tư chứng khoán là một loại hình tổ chức đầu tư còn rất mới mẻ, chắc chắn khi thành lập và những năm đầu mới đi vào hoạt động sẽ gặp nhiều khó khăn. Do vậy, việc thực hiện ưu đãi về thuế đối với hoạt động đầu tư chứng khoán của quỹ là việc hỗ trợ hết sức quan trọng và cần thiết của nhà nước đối với sự hoạt động và phát triển của Quỹ đầu tư chứng khoán.
Hiện tại, chưa có bất cứ một quy định nào về thuế đối với Quỹ đầu tư. Theo quy định tại Nghị định 144/2003/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán: Quỹ đầu tư là quỹ hình thành từ vốn góp của người đầu tư được uỷ thác cho công ty quản lý quỹ và đầu tư tối thiểu 60% giá trị tài sản của quỹ vào chứng khoán. Với quy định như vậy thì Quỹ đầu tư không có tư cách pháp nhân, không thuộc sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp, vì vậy không phải là đối tượng đánh thuế của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Ở nhiều nước như Pháp, Nhật… họ áp dụng nguyên tắc không đánh thuế các Quỹ đầu tư, coi Quỹ đầu tư là phương tiện, công cụ đầu tư cho các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức, chứ không phải là một pháp nhân kinh doanh. Ngay cả trong trường hợp quỹ là pháp nhân, một số nước cũng áp dụng chế độ miễn trừ nhất định để quỹ này được hưởng ưu đãi thuế hoàn toàn. Các quy định về thuế đối với Quỹ đầu tư đảm bảo rằng, việc nhà đầu tư thực hiện đầu tư qua Quỹ đầu tư và việc nhà đầu tư đầu tư trực tiếp không qua quỹ là tương đương nhau trên góc độ thuế. Nhà đầu tư chỉ phải trả thuế thu nhập khi nhận lợi tức được chia từ các quỹ hoặc chia từ việc đầu tư trực tiếp không qua quỹ. Rõ ràng nếu thu nhập đầu vào và lợi nhuận của quỹ bị đánh thuế thì sẽ không khuyến khích nhà đầu tư đầu tư qua quỹ. Mô hình về thuế với Quỹ đầu tư như trên nhằm khuyến khích sự phát triển của loại hình đầu tư ưu việt này. Kết quả là nhà đầu tư thấy rằng việc họ đầu tư trực tiếp hay thông qua quỹ đều đem lại một mức thuế như nhau. Điều này sẽ tận dụng được hết mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong công chúng.
1.7. Tạo lập thị trường hàng hoá cho thị trường chứng khoán bằng các biện pháp tăng cung kích cầu
Quỹ đầu tư là một loại hình hoạt động gắn liền với thị trường chứng khoán. Để Quỹ đầu tư hình thành và phát triển lành mạnh, tích cực, việc đẩy mạnh hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam cũng là một nhân tố quan trọng. Trên thực tế, số lượng và giá trị của các cổ phiếu và trái phiếu được niêm yết trên thị trường tập trung là rất nhỏ, trong khi chưa có thị trường giao dịch ngoài quầy, mức cầu cũng không khả quan. Để khuyến khích việc ra đời của các Quỹ đầu tư chứng khoán, nhà nước phải đảm bảo hoạt động của các quỹ này thông qua các biện pháp tăng cung kích cầu trên thị trường chứng khoán.
Các biện pháp tăng cung trên thị trường chứng khoán : Để xây dựng một thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả thì việc cung cấp hàng hoá chứng khoán cho thị trường là một vấn đề rất quan trọng. Thực tiễn các thị trường chứng khoán thế giới đã chứng minh rằng một thị trường chứng khoán sẽ không thể hoạt động một cách lành mạnh và hiệu quả nếu lượng chứng khoán cung cấp cho thị trường không nhiều và số lượng nhà đầu tư nhỏ. Một thị trường như vậy được coi là một thị trường mỏng, thiếu tính ổn định và ít có khả năng tự điều chỉnh, dễ bị tác động bởi các yếu tố khách quan bên ngoài, không đảm đương được vai trò là nơi huy động và phân bổ một cách có hiệu quả những nguồn lực trong xã hội.
Một trong những mục tiêu hàng đầu của Quỹ đầu tư là thực hiện đa dạng hoá đầu tư vào chứng khoán. Trong điều kiện hiện nay, số lượng chứng khoán giao dịch trên thị trường còn hạn chế. Để tạo điều kiện cho Quỹ đầu tư bước đầu đi vào hoạt động có hiệu quả, nhà nước cần trợ giúp hàng hoá chứng khoán cho sự hoạt động của các Quỹ đầu tư. Sự trợ giúp được thực hiện bằng cách khi tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nên dành quyền ưu tiên mua cổ phiếu bán ra bên ngoài. Hiện nay, khi cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, thường dành một tỷ lệ từ 15% - 20% số cổ phiếu phát hành để bán ra bên ngoài cho công chúng. Thế nhưng, phần vốn thuộc sở hữu nhà nước của các doanh nghiệp cổ phần hoá chiếm tỷ lệ cao 35%, phần bán cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp còn cao hơn 38% do đó tỷ lệ bán cho công chúng thấp, không đáp ứng được một trong những điều kiện niêm yết là 20%. Bên cạnh đó, thực tế cho thấy những doanh nghiệp cổ phần hoá có triển vọng làm ăn tốt thì các nhà đầu tư riêng lẻ là công chúng khó có thể mua được cổ phiếu của các doanh nghiệp này. Vì thế, việc dành quyền ưu tiên mua cho các Quỹ đầu tư vừa tạo điều kiện cho các Quỹ đầu tư hoạt động lại vừa có thể thực hiện phổ biến rộng rãi cổ phiếu của các doanh nghiệp cổ phần hoá cho công chúng qua việc họ mua chứng chỉ Quỹ đầu tư của quỹ.
Có thể áp dụng các giải pháp tài chính thích hợp để tăng cung hàng hoá cho thị trường như tín dụng nhà nước và thuế. Nước ta đang trong thời kỳ đổi mới và phát triển kinh tế nên nhu cầu chi cho đầu tư của ngân sách là rất lớn nên việc vận dụng công cụ tín dụng nhà nước là rất cần thiết để bù đắp bội chi ngân sách. Nhà nước cần có những dự án đầu tư mang tính khả thi và có thể đẩy mạnh việc phát hành các trái phiếu trung và dài hạn, đặc biệt là những trái phiếu công trình với lãi suất thấp hơn lãi suất huy động của ngân hàng, vì trái phiếu chính phủ là một mặt hàng ít rủi ro dựa trên uy tín của nhà nước.
Hiện nay, chính phủ đã ban hành Nghị định 01/2000/ NĐ-CP quy định hai hình thức mới của việc phát hành trái phiếu chính phủ: phát hành thông qua các nhà bảo lãnh phát hành và thông qua đấu thầu tại Trung tâm giao dịch chứng khoán, mục đích tập trung thống nhất để trái phiếu chính phủ có thể giao dịch trên thị trường. Vấn đề đặt ra cho việc phát hành trái phiếu chính phủ là phải đổi mới thực sự cơ cấu phát hành. Trong điều kiện lãi suất ngân hàng thấp như hiện nay, nếu trái phiếu chính phủ dài hạn có mức lãi suất tương ứng thì sẽ ít hấp dẫn nhưng lãi suất trái phiếu chính phủ cũng không nên cao hơn lãi suất ngân hàng. Bên cạnh đó, phải tăng khả năng niêm yết của trái phiếu chính phủ trên thị trường thứ cấp. Muốn vậy, trái phiếu cần phải được phát hành theo lịch biểu định kỳ thường xuyên. Việc phát hành từng đợt phải thống nhất về mệnh giá, lãi suất và thời hạn thanh toán mỗi đợt phát hành phải có khối lượng tương đối lớn.
Bên cạnh trái phiếu chính phủ, một nguồn hàng hoá không nhỏ khác cho thị trường chứng khoán là trái phiếu công ty. Để đảm bảo khả năng thanh toán và nâng cao năng lực tài chính doanh nghiệp, hiện nay việc cơ cấu lại nợ cho công ty nhà nước đang được đặt ra. Hơn nữa, nhà nước cần cắt giảm triệt để bao cấp lãi suất, nguồn vốn kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước. Điều này thúc đẩy họ phải chuẩn bị các điều kiện để phát hành trái phiếu công ty.
Nhà nước khuyến khích các công ty phát hành chứng khoán ra công chúng và niêm yết trên thị trường chứng khoán. Nhà nước nên nghiên cứu ban hành các chính sách cho phép chuyển công ty liên doanh thành công ty cổ phần, chính sách khuyến khích phát hành ra công chúng của các doanh nghiệp cổ phần hoá và các công ty tư nhân, công ty liên doanh với nước ngoài như: chính sách ưu đãi thuế, chính sách ưu đãi cho vay thương mại, chính sách cho phép đăng ký phát hành khung, chính sách niêm yết giữa cổ phần hoá và niêm yết chứng khoán… Hiện tại, quy mô vốn của các Quỹ đầu tư nước ngoài đã giảm xuống còn 128 triệu USD, thế nhưng nguồn vốn này sẽ còn là quá lớn so với quy mô vốn giao dịch hiện nay trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Bên cạnh đó, tổng giá trị giao dịch của các công ty niêm yết vào khoảng 140 triệu USD trong khi các nhà đầu tư nước ngoài chỉ được đầu tư đến 20% cổ phiếu của các công ty niêm yết làm cho các nhà đầu tư có ít chọn lựa để đầu tư vào thị trường chứng khoán. Chính vì vậy, việc gia tăng tỷ lệ cho các nhà đầu tư nước ngoài là điều kiện cần để tăng nguồn cung của thị trường chứng khoán.
Ngoài việc tăng về số lượng chúng ta cần phải nâng cao chất lượng chứng khoán thông qua việc tăng cường hoạt động quản lý phát hành và niêm yết để lựa chọn những công ty đủ chất lượng đưa vào thị trường.
Các biện pháp tăng cầu cho thị trường chứng khoán: Vấn đề đặt ra là phải tạo lập một cơ chế và môi trường đầu tư tốt để khuyến khích công chúng đầu tư vào chứng khoán. Để kích cầu, trước hết cần tiến hành giáo dục, tuyên truyền rộng rãi để thu hút sự quan tâm và nâng cao kiến thức của công chúng về chứng khoán, thị trường chứng khoán và đầu tư chứng khoán.
Có chính sách ưu đãi về thuế đối với các nhà đầu tư và thị trường chứng khoán trong giai đoạn đầu khi mới thành lập. Chưa nên áp dụng thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập ròng từ đầu tư chứng khoán, chưa nên đánh vào cổ tức thu được từ đầu tư chứng khoán. Thực hiện miễn giảm thuế đối với các công ty chứng khoán trong vài năm đầu mới thành lập để tăng cường sức mạnh tài chính của nó, nhanh chóng hội nhập vào thị trường vốn đang cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các nước.
Có chính sách cho vay đầu tư chứng khoán một cách hợp lý để người lao động có thu nhập thấp cũng có quyền sở hữu cổ phiếu của doanh nghiệp cổ phần hoá. Thực chất là người lao động được mua chịu một số cổ phiếu trả chậm với lãi suất ưu đãi
Thúc đẩy sự ra đời của các trung gian tài chính với chức năng tạo lập thị trường, muốn vậy nhà nước cần phải thực hiện một số giải pháp như: nâng mức vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại quốc doanh để tăng cường sức mạnh tài chính cho các ngân hàng tạo cơ sở thành lập các công ty chứng khoán con tại các ngân hàng thương mại.
Đa dạng hoá người đầu tư: công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, ngân hàng, cá nhân, các hội đoàn thể trong và ngoài nước… Đồng thời đa dạng hoá người phát hành như chính phủ, địa phương, ngân hàng, tổ chức tài chính phi ngân hàng, doanh nghiệp…
Tạo cầu nối giữa cung và cầu chứng khoán. Qua 3 năm hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam diễn biến hết sức phức tạp, biểu hiện rõ nét nhất được thể hiện qua sự mất cân đối trong quan hệ cung cầu chứng khoán, làm đẩy giá thoát ly giá trị thực tế vốn có của nó. Có giai đoạn cầu vượt xa cung, cung vượt xa cầu và cho đến nay thì cầu giảm xuống rõ rệt, có thể nói là cung cầu chứng khoán đã không gặp nhau. Chính vì vậy, phải hình thành những kênh phân phối có hiệu quả đó là các công ty chứng khoán có tác dụng hướng dẫn và tư vấn cho người đầu tư về hình thức kinh doanh chứng khoán. Mặt khác, bên cạnh thị trường tập trung phải hình thành một thị trường phi tập trung OTC để các loại chứng khoán không được niêm yết có thể giao dịch. Theo kế hoạch việc xây dựng thị trường cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội sẽ được xúc tiến, chuẩn bị điều kiện để sau năm 2010 chuyển thành thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung. Trung tâm giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh sẽ được xây dựng thành Sở giao dịch chứng khoán với hệ thống giao dịch, hệ thống giám sát và công bố thông tin thị trường tự động hoàn toàn.
1.8. Nhà nước đặt định hướng phát triển chung cho các Quỹ đầu tư
Khi phân tích hoạt động của các Quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, có thể nhận thấy rằng việc đầu tư vào kinh doanh bất động sản chiếm tỷ trọng khá lớn. Điều đó là hoàn toàn bình thường vì các quỹ phải tập trung vào những ngành nghề phù hợp với mục tiêu kinh doanh của mình với những dự án mang lại lợi nhuận lớn. Chính vì vậy, nó có thể gây ra mất ổn định cân bằng trên thị trường khi danh mục đầu tư của quỹ thiên về một số ngành có tỷ suất sinh lời cao, mặt khác còn ảnh hưởng tới lợi ích xã hội. Do đó, nhiệm vụ của nhà nước khi cho phép thành lập là phải quản lý để tạo tính cân đối giữa các quỹ có mục tiêu đầu tư khác nhau. Bên cạnh các Quỹ bình ổn là nơi tài trợ cho các công ty, doanh nghiệp đang ở giai đoạn phát triển cũng nên có các Quỹ đầu tư mạo hiểm để nâng đỡ các dự án vào các lĩnh vực mang tính rủi ro cao nhưng lãi suất lớn.
2. Về phía các Quỹ đầu tư
Chú trọng và đẩy mạnh việc đào tạo cơ bản đội ngũ cán bộ quản lý đầu tư chuyên nghiệp
Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, một yếu tố có tính chất quyết định đến sự thành công của một Quỹ đầu tư đó là trình độ năng lực của nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp. Ở nhiều nước, các nhà đầu tư riêng lẻ thường chọn Quỹ đầu tư dựa trên cơ sở xem xét tài năng của các nhà đầu tư chuyên nghiệp của quỹ, người ta cũng sẵn sàng rút ra khỏi quỹ khi mà nhà quản lý chuyên nghiệp xuất sắc đó không còn làm cho quỹ nữa.
Thông thường ở một số nước Quỹ đầu tư do một nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp điều hành, vừa thực hiện chiến lược đầu tư, vừa chịu trách nhiệm điều hành công việc hàng ngày. Hỗ trợ cho sự hoạt động của nhà quản lý chuyên nghiệp còn có đội ngũ chuyên viên phân tích tài chính. Hiện nay, các tổ chức thành lập Quỹ đầu tư chuẩn bị đội ngũ nhân lực cho quỹ theo các kênh:
- Cử một số nhân viên theo học các khoá đào tạo cơ bản về đầu tư, phân tích chứng khoán, về khung pháp lý cho hoạt động đầu tư và các kiến thức nghiệp vụ tài chính tín dụng. Sau đó các nhân viên này sẽ nhận được chứng chỉ và tham gia kỳ thi sát hạch để được cấp giấy phép hành nghề đầu tư chuyên nghiệp.
- Tuyển nhân viên có kiến thức về đầu tư hoặc có kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, sau đó tiếp tục bồi dưỡng và bổ sung nâng cao trình độ kiến thức cho các nhân viên này.
- Cử nhân viên ra nước ngoài khảo sát, học tập, nghiên cứu về hệ thống Quỹ đầu tư ở một số nước.
Những điều kiện trên cho thấy, một nhà quản lý chuyên nghiệp thực thụ của Quỹ đầu tư chứng khoán phải có một kiến thức sâu rộng và đạo đức nghề nghiệp trong sáng, tạo cơ sở niềm tin cho công chúng. Điều đó đòi hỏi phải có kế hoạch, chương trình đào tạo có hệ thống để xây dựng đội ngũ các nhà quản lý chuyên nghiệp cho quỹ.
Chú trọng nghiên cứu đồng thời phổ biến rộng rãi Quỹ đầu tư ra công chúng
Những vấn đề về tín thác và Quỹ đầu tư là những vấn đề còn rất mới mẻ ở Việt Nam. Do vậy, một mặt cần tiếp tục nghiên cứu về mặt lý luận và kinh nghiệm thực tiễn của các nước trong việc phát triển hệ thống tín thác đầu tư. Mặt khác, cần phổ biến rộng rãi những kiến thức cơ bản và thông tin về Quỹ đầu tư cho công chúng qua sách báo và các phương tiện thông tin đại chúng. Đối tượng thu hút các nhà đầu tư tham gia vào Quỹ đầu tư chủ yếu là công chúng. Vì thế sự thành công của quỹ phụ thuộc rất lớn vào sự hiểu biết và tham gia của công chúng.
Hiện nay, bên cạnh các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho những người đi sâu vào thị trường chứng khoán, Uỷ ban chứng khoán nhà nước đang có rất nhiều hình thức để phổ cập kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho công chúng như tổ chức các bài giảng, các lớp học ngắn ngày cho những ai quan tâm đến lĩnh vực này hay trang chuyên đề giải đáp trên các tạp chí chứng khoán. Nhưng với vai trò là người quản lý thị trường chứng khoán, Uỷ ban chứng khoán nhà nước cần phải đảm bảo các thông tin trên thị trường chứng khoán là chính xác, trung thực. Có như vậy mới giúp những người ít hiểu biết nhất vẫn tránh được rủi ro và việc quản lý thị trường được dễ dàng. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền thời gian qua chưa được làm liên tục và có hệ thống, chưa nhận được sự quan tâm thích đáng tương xứng với tầm quan trọng về yêu cầu phát triển của thị trường. Nhiều chương trình tuyên truyền mới chỉ dừng lại ở mức thảo luận và đề xuất ý kiến mà chưa được triển khai kịp thời và bài bản. Các chương trình đào tạo vẫn còn quá ít và chỉ tập trung vào thành phố lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, chưa mở rộng sang các tỉnh thành khác.
Chiến lược đầu tư thích hợp
Tại Việt Nam, quy mô vốn của một dự án chỉ vào khoảng 10 triệu USD, do đó các Quỹ đầu tư cần xác định chiến lược đầu tư phù hợp, tập trung tìm kiếm các dự án thích hợp với mục tiêu đầu tư của mình. Mặt khác, các quỹ nên hạ thấp yêu cầu về tỷ suất lợi nhuận của các dự án cho phù hợp với tình hình kinh tế Việt Nam hiện tại. Có như vậy, các Quỹ đầu tư mới không bị trói buộc vào thị trường đầu tư của chính mình. Tuy có một đội ngũ quản trị viên xuất sắc song chủ yếu là người nước ngoài vì vậy các quỹ nên tham khảo ý kiến của nhiều chuyên gia trong lĩnh vực đầu tư của Việt Nam hơn nữa nhằm có một chiến lược tương thích với môi trường đầu tư Việt Nam.
KẾT LUẬN
Không giống như hoạt động tiết kiệm hay đầu tư vào thị trường chứng khoán, xét về mặt thuận tiện, độ tin cậy và sự hấp dẫn, nhất là để thu hút những nguồn tiết kiệm nhỏ, ta thấy khó có một hình thức đầu tư nào có thể thay thế tốt hơn các Quỹ đầu tư chứng khoán. Nhận thức rõ tầm quan trọng đó, các cơ sở pháp lý ban đầu của việc thiết lập thị trường chứng khoán tại Việt Nam đã sớm đưa loại tổ chức này vào các quy định cơ cấu.
Theo chiến lược phát triển thị trường chứng khoán do Thủ tướng Chính phủ thông qua, tổng vốn hoá thị trường sẽ đạt 2 – 3% GDP (trên 1 tỷ USD) vào năm 2005 và tăng lên 15% vào năm 2010. Để đạt được mục tiêu trên, vai trò của Quỹ đầu tư chứng khoán được nhấn mạnh là một kênh huy động và đầu tư vốn hiệu quả, chuyên nghiệp, mang tính ổn định lâu dài nhằm thúc đẩy sự tham gia của các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức vào thị trường chứng khoán.
Chính vì vậy, Quỹ đầu tư và Công ty quản lý quỹ cần được pháp luật điều chỉnh một cách chặt chẽ và hiệu quả để có thể phát huy được hết tính ưu việt của mình. Thế nhưng, tại Việt Nam, ngành Quỹ đầu tư chứng khoán nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung là một lĩnh vực hết sức mới mẻ nên chúng ta gặp phải rất nhiều bất cập khi xây dựng khung pháp lý. Sớm vượt qua thử thách này, trong tương lai không xa, chúng ta mới có thể hình thành một hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam với mục tiêu có từ 3 – 5 quỹ vào năm 2005 và tới năm 2010 thì sẽ có từ 20 –30 Quỹ đầu tư được thành lập.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tạp chí Chứng khoán Việt Nam năm 2001, 2002, 2003
Tạp chí Đầu tư chứng khoán năm 2002, 2003
Tạp chí Tài chính năm 2003
Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán
Nghị định 144/2003/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán
Giáo trình Thị trường chứng khoán – PGS-NGƯT Đinh Xuân Trình, PTS Nguyễn Thị Quy - Trường Đại học Ngoại thương, 1998
Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ - Ủy ban Chứng khoán nhà nước, 1998
Mutual Fund Fact Book 2003
Báo cáo của MPDF
Giáo trình Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán – Ủy ban Chứng khoán nhà nước, NXB Chính trị quốc gia, 2002
www.ici.org
www.ifc.org
www.dragoncapital.com
www.finansa.com
www.investmentfunds.com
www.mekongcapital.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chungkhoan23.doc