Hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu quốc hộ nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội có vị trí đặc biệt quan trọng. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân cả nước. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Trong hơn hai mươi năm qua, kể từ khi Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới, cùng với những thay đổi nhanh chóng về mặt kinh tế - xã hội, bộ máy nhà nước Việt Nam nói chung và Quốc hội nói riêng, đã có nhiều thay đổi tích cực về tổ chức và hoạt động. Tổ chức và hoạt động của Quốc hội từng bước được kiện toàn và đổi mới, nhất là từ nhiệm kì Quốc hội khóa VII đến nay ngày càng thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ, quyền hạn cuả mình theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước trên mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế xã hội, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hoạt động của Quốc hội còn có những hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu hoàn thiện bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Những hạn chế này không chỉ bắt nguồn từ cơ cấu, tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội mà còn có nguyên nhân nội tại từ chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đại biểu Quốc hội, trong đó có hoạt động tiếp xúc cử tri. Do vậy cần nghiên cứu về mặt lý luận cũng như thực tiễn hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của đại biểu Quốc hội nói chung và hoạt động tiếp xúc cử tri nói riêng, tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cùng với sự đổi mới về tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong những năm qua đã có nhiều cuộc hội thảo khoa học, nhiều đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ và Nhà nước, nhiều bài viết đề cập đến các khía cạnh khác nhau về Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và hoạt động của đại biểu Quốc hội, trong đó có đề cập ít nhiều đến hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội. Đó là “ Đề án đổi mới công tác tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội” do Ban Dân nguyện của Ủy ban thường vụ Quốc hội thực hiện; hoặc một số nội dung về hoạt động của đại biểu Quốc hội trong đề tài cấp Nhà nước do Văn phòng Quốc hội chủ trì về “ Luận cứ khoa học để xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Quốc hội”. Riêng việc tổ chức nghiên cứu chuyên sâu về hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội còn hạn chế, ít công trình nghiên cứu mang tính hệ thống, đề cập một cách toàn diện về vấn đề này MỤC LỤC MỞ ĐẦU - 1 - 1.Tính cấp thiết của đề tài - 1 - 2.Tình hình nghiên cứu đề tài - 2 - 3.Phương pháp nghiên cứu đề tài - 2 - 4. Mục đích, nhiệm vụ của khóa luận. - 2 - 5. Kết cấu của khóa luận. - 3 - CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOẠT ĐỘNG TIẾP XÚC CỬ TRI CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI - 4 - 1.1.Vị trí, vai trò của đại biểu Quốc hội trong cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất - 4 - 1.2.Tầm quan trọng của hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội trong việc thực hiện các chức năng của Quốc hội - 5 - 1.3. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội ở nước ta. - 7 - 1.4. Những quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động tiếp xúc cử tri của Đại biểu Quốc hội - 9 - 1.5. Tham khảo kinh nghiệm tiếp xúc cử tri của Nghị sỹ các nước. - 14 - CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TIẾP XÚC CỬ TRI CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI NƯỚC TA HIỆN NAY - 18 - 2.1. Tổng quan về hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội trong giai đoạn hiện nay - 18 - 2.1.1. Về việc thực hiện các hình thức tiếp xúc cử tri - 18 - 2.1.2 Về nội dung tiếp xúc cử tri - 24 - 2.1.3. Về tập hợp, tổng hợp và chuyển ý kiến, kiến nghị của cử tri - 25 - 2.1.4. Về công tác theo dõi, đôn đốc và giám sát việc giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri - 27 - 2.1.5.Về trách nhiệm của đại biểu Quốc hội và quyền, trách nhiệm của cử tri - 29 - 2.1.6 Trách nhiệm của Đoàn đại biểu Quốc hội và các cơ quan phối hợp. - 31 - 2.2. Đánh giá kết quả của hoạt động tiếp xúc cử tri - 33 - 2.2.1. Mặt đạt được. - 33 - 2.2.2. Tồn tại, hạn chế. - 34 - 2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế. - 36 - CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TIẾP XÚC CỬ TRI CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI - 38 - 3.1 Yêu cầu khách quan và quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội. - 38 - 3.1.1 Yêu cầu khách quan. - 38 - 3.1.2 Quan điểm chỉ đạo của Đảng về việc đổi mới hoạt động tiếp xúc cử tri của ĐBQH - 40 - 3.2. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội - 41 - 3.2.1. Đổi mới nhận thức về hoạt động tiếp xúc cử tri - 41 - 3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về hoạt động tiếp xúc cử tri - 42 - 3.2.3. Đổi mới việc tổ chức thực hiện hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội - 47 - 3.2.4. Những điều kiện đảm bảo cho hoạt động tiếp xúc cử tri được thực hiện có hiệu quả - 50 - KẾT LUẬN - 52 - DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

doc65 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5439 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu quốc hộ nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khá chặt chẽ với Đoàn ĐBQH trong công tác TXCT; đã cử đại diện tham dự nhiều cuộc TXCT của ĐBQH; tích cực tiếp thu, chỉ đạo giải quyết hàng nghìn ý kiến, kiến nghị thuộc thẩm quyền, trách nhiệm. Ở nhiều địa phương, UBND cấp tỉnh cũng đã chỉ đạo chính quyền cấp dưới tăng cường trách nhiệm, tạo điều kiện thuận lợi để ĐBQH tiếp xúc cử tri và cử đại diện tham gia các cuộc tiếp xúc để trực tiếp giải quyết các yêu cầu, kiến nghị của cử tri. Nhìn chung, vai trò, trách nhiệm của Thường trực HĐND, UBND các cấp ở địa phương tuy được đề cao ở một số địa phương nhưng vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi thực tế. Tại nhiều địa phương, việc cử đại diện tham gia các buổi TXCT của ĐBQH chưa đều, chưa bình đẳng giữa các ĐBQH trong Đoàn và chỉ mới tập trung chủ yếu ở các cuộc TXCT mà ĐBQH là cán bộ, lãnh đạo chủ chốt; việc trả lời, giải quyết ý kiến, kiến nghị có lúc, có nơi chưa kịp thời, chưa đáp ứng được nguyện vọng của cử tri. - Đối với Ban thường trực UBMTTQ, trong những năm gần đây đã phát huy được vai trò, trách nhiệm trong việc phối hợp, tổ chức để ĐBQH tiếp xúc cử tri. Với vai trò là người chủ trì hội nghị TXCT, Ban thường trực UBMTTQ ở một số địa phương đã phổ biến nội quy buổi tiếp xúc, định hướng nội dung để cử tri phát biểu ý kiến và xử lý các tình huống nhạy cảm, phức tạp phát sinh tại hội nghị TXCT. Sau các cuộc TXCT, Ban thường trực UBMTTQ các tỉnh, thành phố đã phối hợp với Đoàn ĐBQH trong việc tập hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri gửi các cơ quan chức năng ở trung ương và ở địa phương. Tuy nhiên, việc thực hiện trách nhiệm của Ban thường trực UBMTTQ ở địa phương còn nhiều hạn chế, bất cập. Công tác phối hợp, tổ chức để ĐBQH tiếp xúc cử tri có lúc, có nơi chưa chặt chẽ, chưa tích cực tuyên truyền, vận động cử tri tham dự tiếp xúc với ĐBQH nên có những cuộc tiếp xúc, cử tri tham dự rất ít, thành phần cử tri không rộng rãi, đa dạng nên làm cho cuộc tiếp xúc nhàm chán, hiệu quả thấp; trong một số trường hợp còn lúng túng trong việc xử lý các tình huống nhạy cảm phát sinh tại hội nghị tiếp xúc. Mặt khác, nhận thức về cấp tổ chức TXCT là cấp tỉnh hay cấp huyện, cấp xã còn chưa thống nhất dẫn đến phân công đại diện MTTQ chủ trì hội nghị tiếp xúc ở các địa bàn khác nhau, có nơi giao cho MTTQ cấp huyện nhưng có nơi lại giao cho cấp xã thực hiện. - Đối với Văn phòng phục vụ Đoàn ĐBQH: Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có một văn phòng phục vụ Đoàn ĐBQH. Mặc dù đã có nhiều cố gắng phục vụ ĐBQH tiếp xúc cử tri, giúp Đoàn đại biểu tập hợp, tổng hợp, chuyển, theo dõi, đôn đốc giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri nhưng công tác phục vụ của văn phòng còn nhiều hạn chế, mới chủ yếu tập hợp văn bản trả lời, giải quyết của các cơ quan chức năng. Theo quy định, biên chế tối đa cho mỗi văn phòng chỉ có 5 nên văn phòng cũng không gặp không ít khó khăn về nhân lực. Việc hợp nhất Văn phòng Đoàn ĐBQH với Văn phòng HĐND cũng bộc lộ những bất cập nhất định. 2.2. Đánh giá kết quả của hoạt động tiếp xúc cử tri 2.2.1. Mặt đạt được - Trong những năm vừa qua, công tác TXCT của ĐBQH đã dành được sự quan tâm từ nhiều phía, đã cải tiến và bước đầu đã khắc phục được tính hình thức, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động chung của Quốc hội và được nhân dân ghi nhận. Từ hoạt động TXCT, ĐBQH đã bổ sung được nhiều kinh nghiệm thực tiễn quý báu để tham gia quyết định các vấn đề quan trọng trong chương trình nghị sự của Quốc hội. Nhiều vấn đề cử tri nêu lên đã được Quốc hội đưa ra bàn thảo công khai trước diễn đàn và được nhiều cử tri đồng tình, ủng hộ. Vị thế và uy tín của ĐBQH nói riêng và của Quốc hội nói chung ngày càng được khẳng định và nâng lên. - Qua hoạt động TXCT, ĐBQH đã phản ánh được tâm tư nguyện vọng của cử tri đến Quốc hội, góp phần thúc đẩy Chính phủ, các cơ quan hữu quan nghiên cứu giải quyết nhiều kiến nghị của cử tri, đóng góp tích cực vào hiệu lực và hiệu quả quản lí nhà nước ở trung ương và địa phương. Do nội dung các cuộc TXCT thường đề cập nhiều vấn đề ở địa phương nên đã góp phần thúc đẩy chính quyền địa phương giải quyết kiến nghị của cử tri, nhất là những vấn đề đang bức xúc, nổi cộm ở địa phương. - Hoạt động TXCT của ĐBQH trong những năm gần đây đã góp phần tạo được không khí dân chủ trong xã hội, tăng cường mối quan hệ giữa ĐBQH với cử tri; giữa chính quyền với nhân dân và giữa nhân dân với Quốc hội, nâng cao năng lực đại diện cho các vị đại biểu dân cử, tạo điều kiện để cử tri tham gia quản lý nhà nước, góp phần làm sâu sắc thêm bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. 2.2.2. Tồn tại, hạn chế Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác TXCT những năm qua còn nhiều bất cập, chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của cử tri. Đó là: - Nhận thức chung của xã hội đối với công tác TXCT của ĐBQH có lúc, có nơi chưa thật sự sâu sắc, nhất là tiếp xúc với cử tri nơi cư trú, nơi làm việc và tiếp xúc theo chuyên đề, lĩnh vực và tại các địa phương có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn. Một bộ phận cử tri nói chung, cử tri ở vùng sâu, vùng xa nói riêng chưa thấy hết quyền và nghĩa vụ của mình trong việc tham gia giám sát Nhà nước thông qua người mà mình đã trao quyền đại diện nên chưa thực sự quan tâm đến việc tiếp xúc với ĐBQH; quan niệm ĐBQH là người có khả năng giải quyết “mọi việc trên đời” còn khá phổ biến. - ĐBQH chưa thật sự phát huy vai trò, trách nhiệm đối với công tác TXCT, chưa coi việc TXCT vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của đại biểu. Nhiều đại biểu chưa thật sự đi sâu sát xuống cơ sở, chưa nắm chắc tình hình, tâm tư, nguyện vọng cử tri ở đơn vị bầu cử để thực hiện tốt chức năng đại diện cho cử tri; chưa quan tâm thường xuyên đến việc TXCT ở nơi làm việc, nơi cư trú, gặp gỡ tiếp xúc cá nhân hoặc nhóm cử tri. Hầu hết các ĐBQH chưa thực hiện trách nhiệm báo cáo với cử tri về kết quả hoạt động hàng năm và thực hiện chương trình hành động. Kết quả TXCT hàng năm đạt thấp so với khả năng thực hiện của đại biểu; tỷ lệ cử tri được tiếp xúc với đại biểu hàng năm đạt quá thấp so với tổng số cử tri cả nước (đạt dưới 1%) nên chưa đáp ứng được nhu cầu của cử tri được tiếp xúc với ĐBQH. - Việc triển khai thực hiện các hình thức TXCT chưa được đầy đủ theo quy định của pháp luật. Các Đoàn ĐBQH mới chủ yếu tổ chức để đại biểu thực hiện tiếp xúc cử tri trước và sau kỳ họp, chưa thật sự chú trọng thực hiện các hình thức tiếp xúc khác. TXCT theo chuyên đề, lĩnh vực thực sự đã phát huy hiệu quả đối với việc lấy ý kiến nhân dân về các dự án luật và quyết định những vấn đề quan trọng, tuy nhiên trong quá trình làm luật, việc lấy ý kiến nhân dân lại không coi là hình thức TXCT. - Thời gian mỗi đại biểu dành cho TXCT là quá ít. Mỗi năm Quốc hội có 2 kỳ họp. Mỗi ĐBQH do đó có 4 kỳ TXCT. Mỗi kỳ như vậy tối đa được 2 ngày (khoảng 4 buổi). Vậy, một năm mỗi đại biểu chỉ có 8 ngày với cử tri [28,tr2]. Như vậy là quá ít để đại biểu nắm bắt được hết tâm tư, nguyện vọng của cử tri. - Công tác tổ chức để ĐBQH tiếp xúc cử tri có lúc, có nơi còn hình thức giản đơn. Người chủ trì hội nghị tiếp xúc chưa làm tốt việc định hướng nội dung cuộc tiếp xúc. Tình trạng “đại biểu cử tri”, “cử tri chuyên nghiệp, đại biểu kiêm nhiệm”...diễn ra còn khá phổ biến, nội dung tiếp xúc còn đơn điệu; thông tin chuyển tải đến cử tri chưa đáp ứng được nhu cầu của cử tri; chưa dành nhiều thời gian để cử tri phát biểu tâm tư, nguyện vọng; việc giải trình, tiếp thu, giải quyết trực tiếp ý kiến, kiến nghị của ĐBQH và cơ quan chức năng ở địa phương có lúc, có nơi còn lúng túng, hiệu quả thấp. Công tác nắm bắt thông tin ở cơ sở phục vụ ĐBQH tiếp xúc cử tri còn yếu và bất cập. Mặt khác, MTTQ ở địa phương chưa thực hiện được việc tổ chức để cử tri nhận xét, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của ĐBQH nơi cử tri bầu ra. - Việc cử đại diện của cơ quan chức năng ở địa phương tham gia các cuộc TXCT chưa được đầy đủ, thường xuyên do phải phân tán đại diện tham dự nhiều cuộc TXCT của ĐBQH trong cùng một khoảng thời gian. Việc tổ chức nhiều cuộc TXCT của ĐBQH, đại biểu HĐND các cấp tại một địa bàn, trong khoảng thời gian ngắn cũng gây khó khăn trong việc cử đại diện tham gia của các cơ quan phối hợp và các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương. Trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương trong việc tiếp thu, giải trình kiến nghị của cử tri tại các buổi tiếp xúc có lúc, có nơi chưa cao. - Công tác tập hợp, tổng hợp, phân loại ý kiến, kiến nghị của cử tri tuy có nhiều cố gắng, song vẫn còn hạn chế. Việc thu thập, phản ánh ý kiến, kiến nghị của cử tri chưa được thường xuyên, mới chủ yếu thực hiện qua các đợt TXCT trước và sau kỳ họp Quốc hội. - Công tác chuyển, theo dõi, đôn đốc cơ quan chức năng trong việc giải quyết kiến nghị của cử tri làm chưa được thường xuyên, chưa quyết liệt. Công tác giám sát của các cơ quan của Quốc hội đối với việc giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri còn bất cập, chưa góp phần thúc đẩy trách nhiệm giải quyết ý kiến, kiến nghị đối với các cơ quan, tổ chức nên chất lượng, hiệu quả giải quyết kiến nghị của cử tri còn ở chừng mực nhất định. 2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế - Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về công tác TXCT còn hạn chế cả về hình thức và phương pháp. Nhận thức của ĐBQH, của cơ quan, tổ chức hữu quan và của cử tri về một số quy định của pháp luật về công tác TXCT cũng như về mục đích, ý nghĩa của công tác này còn khác nhau. - Việc tổ chức TXCT còn nặng thủ tục và tính “khuôn mẫu” của hội nghị tiếp xúc nên chưa tạo được điều kiện phát huy tính chủ động và trách nhiệm của từng ĐBQH trong hoạt động TXCT. - Đa số (70%) ĐBQH nước ta hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm, một lúc gánh ít nhất hai vai, có khi phải gánh ba bốn vai, phần lớn các vai đó là các vị trí trong bộ máy hành pháp và tư pháp ở trung ương cũng như địa phương nên thời gian dành cho hoạt động đại biểu nói chung và cho công tác TXCT không nhiều. Hơn nữa kinh nghiệm TXCT còn thiếu, tính chuyên nghiệp không cao nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả công tác TXCT. - Kỹ năng TXCT của ĐBQH còn có những hạn chế nhất định nên thiếu tự tin trong quá trình TXCT và xử lý các ý kiến, kiến nghị. Đối với đại biểu cơ cấu, hoạt động kiêm nhiệm, không giữ chức vụ chủ chốt ở các cơ quan, tổ chức, do thiếu thông tin, kinh nghiệm ít, tính chuyên nghiệp không cao nên khả năng hoạt động TXCT còn nhiều hạn chế. - Một số Đoàn ĐBQH chưa đề cao trách nhiệm trong việc phân công, đôn đốc ĐBQH thực hiện các quy định về TXCT ở nơi cư trú, nơi làm việc, theo chuyên đề, lĩnh vực và gặp gỡ, tiếp xúc với cá nhân hoặc nhóm cử tri nên việc TXCT của đại biểu còn đơn điệu, hiệu quả thấp. - Các quy định của pháp luật về hoạt động TXCT của ĐBQH còn thiếu và nhiều quy định còn chưa thống nhất đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực hiện và hiệu quả hoạt động này. - Bên cạnh đó, đội ngũ Văn phòng phục vụ Đoàn ĐBQH còn thiếu và yếu cả về số lượng và chất lượng nên việc bố trí cán bộ phục vụ các cuộc TXCT của đại biểu còn rất hạn chế, khó khăn. Mặt khác, việc một Văn phòng phục vụ cho cả ĐBQH và đại biểu HĐND nhưng theo hai chế độ tài chính khác nhau cũng tạo ra những khó khăn nhất định trong chỉ đạo, điều hành Văn phòng giúp việc. Bên cạnh đó, các điều kiện vật chất như kinh phí, phương tiện, phòng họp…để phục vụ đại biểu tiếp xúc cử tri theo chế độ hội nghị còn chưa đáp ứng được nhu cầu của đại biểu và cử tri. CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TIẾP XÚC CỬ TRI CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI 3.1 Yêu cầu khách quan và quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội. 3.1.1 Yêu cầu khách quan Trước những đòi hỏi thực tế của đất nước hiện nay và trước những yêu cầu khách quan của tiến trình hội nhập quốc tế đã và đang đặt ra nhiệm vụ cần phải đổi mới công tác TXCT. Yêu cầu đổi mới hoạt động TXCT bắt nguồn từ một số nguyên nhân khách quan sau: Thứ nhất, do yêu cầu của việc xây dựng NNPQXHCN. Một trong những yêu cầu có tính nguyên tắc của việc xây dựng NNPQ là phải xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, phù hợp với sự vận động và phát triển của các quan hệ xã hội, làm cơ sở pháp lí cho hoạt động của cơ quan nhà nước và nhân dân. Là một bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật, những quy định về hoạt động TXCT của ĐBQH nói riêng và hoạt động của Quốc hội nói chung cũng phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Mọi hoạt động của ĐBQH đều phải tuân thủ nghiêm minh những quy định của pháp luật. Do vậy, để đáp ứng kịp thời quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội hiện nay thì điều cần quan tâm là việc tiếp tục hoàn thiện những quy định của pháp luật về hoạt động TXCT của ĐBQH Thứ hai, đất nước ngày càng phát triển, điều đó cũng đồng nghĩa với việc dân trí ngày càng được nâng cao và sự quan tâm cũng như ý kiến của nhân dân về các vấn đề xã hội cũng ngày càng trở nên sâu sắc, toàn diện đối với diễn đàn Quốc hội. Từ đó đòi hỏi những yêu cầu mà người dân dặt ra cho người đại diện của mình ngày càng cao hơn. Vấn đề này đặt ra yêu cầu đối với mỗi ĐBQH là phải luôn luôn tự nâng cao nhận thức, trí tuệ, bản lĩnh chính trị của mình để đại diện cho trí tuệ của nhân dân trong việc tham gia quản lý đất nước, quản lý xã hội. Thứ ba, việc quy định các hình thức, cách thức và nguồn thu thập ý kiến cử tri của ĐBQH như hiện nay còn quá bó hẹp. Trên thực tế hiện nay, mạng lưới thông tin trên truyền hình, internet, báo…ngày càng được mở rộng và thông tin được cập nhật thường xuyên, trong đó chứa đựng nhiều ý kiến, nguyện vọng của nhân dân trên mọi mặt của đời sống từ vi mô đến vĩ mô. Tuy nhiên, theo quy định hiện hành thì đó không phải là kênh TXCT và nguồn để ĐBQH thu thập ý kiến, kiến nghị của cử tri; điều đó đòi hỏi pháp luật cần phải đổi mới, quy định rộng rãi hơn về hình thức tiếp xúc, các kênh giữ mối liên hệ với cử tri và các nguồn thu thập ý kiến cử tri, qua đó đảm bảo sự “thường xuyên” trong mối liên hệ giữa đại biểu và cử tri. Thứ tư, trong việc tăng cường thực hiện và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch định chính sách và quản lý nhà nước là một yếu tố quan trọng. Thông qua TXCT, hoạt động của Quốc hội được cởi mở, người dân được bày tỏ quan điểm, chính kiến của mình, tạo nên sự đồng thuận trong xã hội. Thứ năm, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, vậy ai sẽ giám sát Quốc hội nếu không phải là nhân dân, những người đã bầu ra Quốc hội, ủy quyền cho các ĐBQH thực thi quyền lực nhà nước. Vì vậy, Quốc hội phải là một diễn đàn với cơ chế phù hợp bảo đảm cho cử tri bày tỏ sự quan tâm, đánh giá đối với hoạt động của ĐBQH, của Quốc hội. Qua đó, cử tri sẽ có nhận xét, đánh giá về phẩm chất, năng lực và chất lượng hoạt động của ĐBQH. Quán triệt quan điểm chỉ đạo về đổi mới của Đảng, khắc phục sự bất cập của pháp luật và xuất phát từ những đòi hỏi khách quan của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xu thế hội nhập hiện nay, chúng ta cần phải đổi mới hoạt động tiếp xúc cử tri của ĐBQH hay nói rộng hơn là tăng cường mối quan hệ giữa ĐBQH và cử tri. 3.1.2 Quan điểm chỉ đạo của Đảng về việc đổi mới hoạt động tiếp xúc cử tri của ĐBQH Việc đổi mới công tác TXCT phải căn cứ vào nội dung, tinh thần quan điểm, chỉ thị, nghị quyết của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội và yêu cầu phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng và hoàn thiện NNPQXHCN của dân, do dân, vì dân. Quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân, không ngừng tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nước và nhân dân được thể hiện nhất quán và xuyên suốt qua các kỳ đại hội của ĐCSVN. Xuất phát từ quan điểm đó, Báo cáo chính trị tại Đại hội VII của Đảng cũng đã đặt ra phương hướng và nhiệm vụ phát huy nền dân chủ XHCN, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước và vai trò của các đoàn thể nhân dân, trong đó nhấn mạnh việc “Cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội để làm đúng trách nhiệm là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất” Từ sau Đại hội VII của Đảng (1991), trước bối cảnh quốc tế và khu vực đòi hỏi bộ máy nhà nước ta phải tiếp tục cải cách mạnh mẽ hơn, triệt để hơn và đồng bộ hơn. Với vị trí là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, bộ máy và hoạt động của Quốc hội, cũng đặt ra yêu cầu phải đổi mới cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Nghị quyết số 03/NQ-HNTƯ ngày 18/6/1997 của Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước CHXHCNVN trong sạch, vững mạnh đã nêu rõ: “Quy định nhiều hình thức thích hợp để duy trì sự liên hệ thường xuyên giữa đại biểu dân cử và cử tri, để các đại biểu luôn luôn sát thực tiễn, nắm chắc tâm tư, nguyện vọng, yêu cầu của dân. Các đại biểu phải định kỳ báo cáo và chịu sự kiểm tra, giám sát của cử tri, nếu không đủ tín nhiệm thì cử tri thực hiện quyền bãi miễn. Có các hình thức để nhân dân có thể dự thính hoặc theo dõi trực tiếp qua phương tiện thông tin đại chúng các kỳ họp của cơ quan dân cử” [4, tr104]. Bên cạnh đó, để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương (khoá VIII, số 13/NQ-TƯ ngày 16/8/1999) đã giao cho Đảng đoàn Quốc hội nhiệm vụ “chỉ đạo việc quy định những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả làm việc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội; nâng cao trách nhiệm và hiệu quả hoạt động của các đại biểu Quốc hội” [4, tr223]. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu cử nhằm nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội; tăng hợp lý số lượng đại biểu chuyên trách, phát huy tốt hơn vai trò của đại biểu và đoàn đại biểu Quốc hội” [2,tr126]. Như vậy, nội dung đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội cần phải được thực hiện toàn diện, trong đó đổi mới hoạt động TXCT của ĐBQH, bởi vì, đây là một hoạt động quan trọng để các ĐBQH thực sự liên hệ mật thiết với cử tri, nắm bắt đầy đủ tâm tư, nguyện vọng của cử tri, qua đó thu thập được nhiều thông tin bổ ích, và vì vậy đại biểu sẽ tham gia thực hiện có hiệu quả thiết thực hơn nhiệm vụ đại biểu của mình nói chung và các chức năng của Quốc hội. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội Đổi mới nhận thức về hoạt động tiếp xúc cử tri Nhận thức đúng về vị trí, vai trò của hoạt động TXCT của ĐBQH là hết sức quan trọng. Có nhận thức đúng mới hành động đúng. Đổi mới nhận thức về hoạt động TXCT là trách nhiệm của chính các ĐBQH và cử tri. Hoạt động TXCT phải được coi vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ và trách nhiệm của ĐBQH và của cử tri. Có nhận thức như vậy, đại biểu mới dành nhiều tâm trí cho công tác TXCT và cử tri mới tham gia tích cực vào hoạt động này. Đại biểu cũng cần có nhận thức sâu sắc hơn về mối quan hệ gắn bó giữa ĐBQH và cử tri. TXCT không chỉ giới hạn ở việc gặp gỡ trực tiếp mà còn là tiếp xúc gián tiếp qua các phương tiện, công cụ hỗ trợ khác. Ngoài ra, các cơ quan, tổ chức hữu quan cũng cần có nhận thức đầy đủ hơn về công tác TXCT của ĐBQH, bao gồm cả công tác phối hợp trong công tác tổ chức, chuẩn bị; tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri, chuyển ý kiến, kiến nghị của cử tri đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết; theo dõi, đôn đốc và giám sát việc giải quyết kiến nghị; báo cáo kết quả tới cử tri. Có nhận thức đúng đắn về TXCT thì mới hành động tích cực, hoạt động TXCT mới đạt được hiệu quả như mong đợi. 3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về hoạt động tiếp xúc cử tri Các quy định pháp luật về TXCT là cơ sở cho hoạt động này được thực hiện và có tác dụng hình thành khuôn khổ và duy trì mối quan hệ giữa cử tri với người đại diện của mình trong cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội. Bên cạnh những mặt được, những quy định của pháp luật về hoạt động TXCT và quá trình thực hiện vẫn còn những hạn chế nhất định. Những hạn chế này ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả, chất lượng của hoạt động này. Chính vì vậy mà yêu cầu trước mắt là phải tiến hành rà soát, đánh giá tổng thể các quy định về công tác TXCT, nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định còn chung chung, chưa cụ thể, các quy định còn mâu thuẫn, chồng chéo nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi đáp ứng yêu cầu công tác này trong giai đoạn mới. Cụ thể: Đối với đại biểu Quốc hội - Trước mắt, cần sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật theo hướng như vừa tăng cường các hình thức để ĐBQH liên hệ với cử tri, vừa bảo đảm cơ chế thuận lợi để đại biểu có thể trực tiếp tiếp xúc với cử tri và cần bổ sung các quy định cụ thể để “ràng buộc” trách nhiệm thực hiện đối với đại biểu bởi việc quy định ĐBQH “có thể” hoặc “cần” thực hiện TXCT ở nơi cư trú, nơi làm việc, theo chuyên đề, lĩnh vực và gặp gỡ, tiếp xúc với cá nhân hoặc nhóm cử tri, nên chưa bảo đảm tính khả thi của quy định này. - Cần quy định cụ thể về trách nhiệm của ĐBQH trong việc liên hệ thường xuyên, chặt chẽ với cử tri bằng nhiều hình thức để nắm bắt tốt hơn tâm tư, nguyện vọng của cử tri; đồng thời, đại biểu chủ động thu thập, phản ánh ý kiến, kiến nghị của cử tri thông qua các hình thức liên hệ như: tiếp xúc trực tiếp với cử tri, liên hệ với cử tri qua điện thoại, thư, internet, báo, đài... - Tăng cường cơ chế xem xét trách nhiệm của cá nhân đại biểu khi không thực hiện đầy đủ các hình thức TXCT theo quy định của pháp luật. Về nội dung, chương trình hội nghị tiếp xúc cử tri Theo quy định hiện hành thì về nội dung, chương trình hội nghị TXCT còn bất cập so với yêu cầu và chưa phù hợp với từng hình thức cũng như phạm vi TXCT. Vì vậy, cần sửa đổi quy định về chương trình hội nghị TXCT sao cho phù hợp với từng hình thức và phạm vi tiếp xúc của ĐBQH. Đối với nội dung TXCT cần quy định theo hướng đại biểu chủ động chuẩn bị, lựa chọn nội dung phù hợp với mỗi cuộc tiếp xúc, bảo đảm nội dung thông tin đáp ứng được nhu cầu của cử tri. Để đảm bảo tính rộng rãi, bình đẳng, dân chủ, công khai trong các buổi TXCT, cần quy định rõ cử tri nào muốn tham dự thì liên hệ và đăng ký với UBMTTQ để được nhận giấy mời. Đồng thời, cần quy định cụ thể về quyền và trách nhiệm của cử tri khi tham dự buổi tiếp xúc cũng như cần quy định cụ thể về quyền được gặp gỡ, tiếp xúc với ĐBQH ngoài hình thức hội nghị tiếp xúc; quy định cử tri có quyền giám sát hoạt động của đại biểu, có thể trực tiếp hoặc thông qua MTTQ yêu cầu đại biểu báo cáo công tác và có thể nhận xét đối với việc thực hiện nhiệm vụ của đại biểu, nhưng đến nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể để cử tri thực hiện quyền này. Về hình thức tiếp xúc cử tri Trên cơ sở phân tích thực trạng công tác TXCT nhằm khắc phục tính hình thức của hội nghị TXCT, cần sửa đổi hình thức TXCT theo hướng tăng tính chủ động, linh hoạt của đại biểu trong hoạt động TXCT, tạo điều kiện thuận lợi hơn để đại biểu có thể tiến hành các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc với cá nhân hoặc nhóm cử tri, cụ thể: - Về tiếp xúc cử tri trước và sau kỳ họp: Cần tiếp tục duy trì hình thức TXCT trước và sau kì họp. Vì qua nghiên cứu cho thấy, việc TXCT của ĐBQH không chỉ là hoạt động một chiều để “thu thập, phản ánh” ý kiến, kiến nghị của cử tri mà ĐBQH còn phải thực hiện việc “thông tin lại” cho cử tri về tình hình giải quyết kiến nghị, báo cáo hoạt động của đại biểu, tuyên truyền, phổ biến và vận động thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, văn bản pháp luật mới được ban hành...Tuy nhiên để đảm bảo chất lượng TXCT cần tạo điều kiện để tất cả người dân ai có nguyện vọng đều có thể tới dự và cần thông báo trước trên các phương tiện thông tin đại chúng về ngày, giờ và địa điểm tổ chức. - Về TXCT theo chuyên đề, lĩnh vực mà đại biểu quan tâm: cần tăng cường hoạt động TXCT theo chuyên đề, lĩnh vực để phát huy hiệu quả, thu thập được nhiều thông tin có tính chuyên sâu phục vụ hoạt động của đại biểu. Theo đó cần quy định theo hướng tạo cơ hội để đại biểu có thể chủ động, linh hoạt thực hiện TXCT theo hình thức hội nghị hoặc trực tiếp gặp gỡ, tiếp xúc với cá nhân hay nhóm cử tri ở các ngành, lĩnh vực, các giới để lắng nghe, thu thập ý kiến, kiến nghị. - Về TXCT ở nơi cư trú và TXCT ở nơi làm việc, cần sửa đổi, quy định theo hướng đại biểu có trách nhiệm chủ động tiến hành việc gặp gỡ, tiếp xúc với từng cá nhân hoặc nhóm cử tri ở nơi cư trú, nơi làm việc, mà không nhất thiết phải tổ chức dưới hình thức hội nghị TXCT. Mặt khác, cần quy định rõ phạm vi nơi cư trú, nơi làm việc của ĐBQH chuyên trách và ĐBQH kiêm nhiệm. Đối với hình thức gặp gỡ, tiếp xúc với cá nhân hoặc nhóm cử tri nên tiếp tục duy trì nhưng cần quy định rõ hơn, ràng buộc hơn về trách nhiệm của đại biểu trong việc thực hiện. Ví dụ như quy định hàng năm, mỗi ĐBQH phải tiến hành được số cuộc gặp gỡ, tiếp xúc với các cá nhân hoặc nhóm cử tri nhất định và báo cáo kết quả thực hiện về Đoàn ĐBQH. Đối với Đoàn ĐBQH và các cơ quan, tổ chức hữu quan Cần sửa đổi, bổ sung các quy định về thực hiện trách nhiệm của cơ quan, tổ chức hữu quan để làm rõ hơn vai trò, trách nhiệm của Đoàn ĐBQH, Ban thường trực UBMTTQ các cấp và Thường trực HĐND, UBND cấp tỉnh, Văn phòng phục vụ Đoàn ĐBQH trong việc phối hợp tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về công tác TXCT của ĐBQH. Cụ thể: Đối với Đoàn ĐBQH, cần quy định rõ hơn về trách nhiệm của Đoàn ĐBQH trong việc phân công, đôn đốc các đại biểu thực hiện các quy định của pháp luật về công tác TXCT. Đối với MTTQ, cần quy định cụ thể hơn về vai trò, trách nhiệm của Ban thường trực UBMTTQ cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã trong việc phối hợp tổ chức và chủ trì các hội nghị TXCT của ĐBQH. - Đối với Thường trực HĐND, UBND các cấp: cần nghiên cứu, sửa đổi quy định về trách nhiệm của Thường trực HĐND, UBND cấp tỉnh, cấp huyện theo hướng mềm dẻo hơn vì trên thực tế, các cơ quan này cũng phải dành nhiều thời gian cho công tác quản lý, điều hành công việc ở địa phương. Việc cử đại diện tham gia của các cơ quan nêu trên chỉ nên đặt ra trong trường hợp đại biểu tiếp xúc ở địa bàn phức tạp, cử tri có nhiều vấn đề nổi cộm, bức xúc liên quan đến công tác quản lý ở địa phương mà ĐBQH có yêu cầu và chỉ nên áp dụng đối với UBND cấp huyện, cấp xã nơi đại biểu tiến hành TXCT theo hình thức hội nghị. Về trách nhiệm tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri cần quy định một cách thống nhất. Cụ thể Điều 4 Nội quy Kỳ họp Quốc hội quy định “Tại các kỳ họp sau kỳ họp thứ nhất, Uỷ ban thường vụ Quốc hội phối hợp với Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để trình Quốc hội báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri cả nước”, như vậy được hiểu Uỷ ban thường vụ Quốc hội là cơ quan chủ trì, nhưng tại khoản 1, Điều 18 Nghị quyết liên tịch số 06 lại quy định ngược lại “Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì phối hợp với Uỷ ban thường vụ Quốc hội xây dựng báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri cả nước để trình ra kỳ họp Quốc hội”. Bên cạnh đó, các quy định pháp luật về cơ quan chủ trì xây dựng báo cáo tổng hợp và về nguồn của báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri cả nước để trình bày tại kỳ họp Quốc hội cũng cần được quy định sao cho thống nhất. - Cần bổ sung các quy định điều chỉnh một số hoạt động liên quan đến công tác TXCT. Ví dụ như việc tập hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị cử tri để trình ra kỳ họp Quốc hội, pháp luật mới chỉ quy định tổng hợp từ báo cáo TXCT trước và sau kỳ họp (Điều 29 Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội và Điều 16 Nghị quyết liên tịch số 06), mà chưa bao gồm việc tổng hợp các ý kiến, kiến nghị cử tri qua các báo cáo của ĐBQH trong tiếp xúc tại nơi cư trú, nơi làm việc hoặc theo chuyên đề, lĩnh vực. Hơn nữa, pháp luật hiện hành quy định Đoàn ĐBQH tổng hợp, chuyển ý kiến, kiến nghị của cử tri đến các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương giải quyết và trả lời nhưng lại chưa quy định Đoàn ĐBQH có thẩm quyền giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri. Vì vậy, pháp luật cần bổ sung quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục để Đoàn ĐBQH có cơ sở thực hiện giám sát việc giải quyết các ý kiến, kiến nghị thuộc thẩm quyền cơ quan, tổ chức ở địa phương. - Pháp luật cũng cần phải quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thực hiện và trách nhiệm của các cơ quan phối hợp để tổ chức TXCT khi ĐBQH có yêu cầu nhằm không gây lúng túng và khó khăn cho ĐBQH. Do vậy cần cụ thể hóa các quy định của pháp luật về vấn đề này, như tiếp xúc cử tri nơi cư trú được xác định trong phạm vi nào, tổ dân phố, thôn, bản hay ở phạm vi cấp xã, phường, thị trấn; tiếp xúc trong các mối quan hệ hàng ngày có được coi là tiếp xúc cá nhân hoặc nhóm cử tri không; việc tiếp nhận các kiến nghị thông qua công tác tiếp dân có được coi là TXCT không. Bên cạnh đó, pháp luật hiện hành cũng cần quy định cụ thể về thời hạn chuyển ý kiến, kiến nghị của cử tri đến cơ quan có thẩm quyền; trình tự, thủ tục và thời hạn giải quyết; trả lời ý kiến, kiến nghị của cử tri để bảo đảm việc chuyển và giải quyết kịp thời các kiến nghị của cử tri và về trách nhiệm pháp lý của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc giải quyết. - Cần hệ thống lại các quy định của pháp luật về hoạt động theo dõi, đôn đốc và giám sát của các cơ quan của Quốc hội về việc giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri, cụ thể là cần quy định trong Luật tổ chức Quốc hội, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội. Hiện nay các quy định của pháp luật về hoạt động này còn phân tán và “cắt khúc” trong tổ chức thực hiện (Điều 24 Quy chế hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và khoản 3 Điều 18 của Nghị quyết liên tịch số 06 quy định không thống nhất).. - Cần sửa đổi quy định hiện hành về thời hạn TXCT, thời hạn gửi báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri sao cho phù hợp với yêu cầu xây dựng và trình báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri cả nước tại phiên khai mạc kì họp Quốc hội. Đổi mới việc tổ chức thực hiện hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội Bên cạnh sự bất cập về cơ sở pháp luật liên quan đến hoạt động TXCT của ĐBQH, trong quá trình thực hiện còn phát sinh một số khó khăn, vướng mắc như quy định về thời gian, thời lượng mỗi đợt TXCT; địa điểm, thành phần tham gia TXCT; vì vậy trong quá trình thực hiện hoạt động TXCT cần chú ý một số giải pháp sau: - Đối với đại biểu Quốc hội Để các cuộc TXCT thực sự đem lại hiệu quả thiết thực, trước hết ĐBQH phải nêu cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm của người đại biểu; tuân thủ các quy định pháp luật về hoạt động TXCT; thực hiện đầy đủ, tích cực các hình thức TXCT và cần bố trí sắp xếp thời gian công tác để tham dự đầy đủ. ĐBQH cần phải chủ động trong công tác TXCT: “Mục đích quan trọng của TXCT là để gần dân, hiểu dân. Nhưng nếu chỉ gần dân mà không mang lại lợi ích cho dân thì chỉ tốn kém tiền của của Nhà nước, tốn kém thời gian và phụ lòng mong mỏi của cử tri. Muốn phục vụ tốt lợi ích của cử tri qua tiếp xúc cử tri, đại biểu Quốc hội phải rất chủ động trong việc tiếp xúc cử tri, chủ động trong đề xuất địa điểm, đối tượng và nội dung cần báo cáo...Đại biểu không ngại đến các điểm nóng trên địa bàn” [30, tr8]. Chủ động ở đây thể hiện trong việc chuẩn bị trước các vấn đề thuộc nội dung của các buổi TXCT, đặc biệt là nắm đầy đủ các thông tin liên quan đến các mặt của đời sống kinh tế xã hội ở nơi mà mình TXCT. Đối với TXCT trước kỳ họp Quốc hội, đại biểu cần nghiên cứu, nắm bắt các thông tin về chủ trương, chính sách của Đảng, nội dung chương trình công tác của Quốc hội hàng năm, nhất là các nội dung mà Quốc hội sẽ bàn thảo tại kỳ họp tới để báo cáo với cử tri. Đại biểu có thể báo cáo và xin ý kiến của cử tri về những vấn đề mà đại biểu quan tâm như xây dựng luật, công tác giám sát, những vấn đề về kinh tế, xã hội...để phục vụ cho việc thực hiện nhiệm vụ của đại biểu. Về TXCT sau kỳ họp Quốc hội, đại biểu có thể lựa chọn những nội dung của kỳ họp Quốc hội mà cử tri quan tâm để báo cáo, trao đổi với cử tri. Đối với các cuộc TXCT ở nơi cư trú, nơi làm việc, theo chuyên đề, lĩnh vực thì đại biểu cần lựa chọn những nội dung, chuyên đề phù hợp. Khi cử tri trình bày, đại biểu cần tỏ thái độ lắng nghe, ghi chép đầy đủ những vấn đề mà cử tri kiến nghị và đến lượt mình, đại biểu phải biết trình bày từng vấn đề theo bố cục rõ ràng, mạch lạc. Có như vậy, ĐBQH mới chủ động thâm nhập vào các vấn đề của đời sống và giải đáp tốt hơn các ý kiến, kiến nghị của cử tri. Trong hoạt động của mình các ĐBQH cũng cần thực hiện việc báo cáo với cử tri nơi bầu ra mình về kết quả hoạt động hàng năm và thực hiện chương trình hành động đã hứa trước cử tri nhằm tạo điều kiện để cử tri giám sát hoạt động của đại biểu, góp phần nâng cao trách nhiệm của từng ĐBQH. Để việc báo cáo được triển khai tốt thì cần cải tiến phương pháp báo cáo tại hội nghị và đa dạng hóa các hình thức báo cáo như ngoài việc báo cáo trực tiếp tại buổi TXCT, ĐBQH cần phải báo cáo trên đài phát thanh, truyền hình và các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương. Sau khi chuyển các kiến nghị của cử tri đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết, đại biểu cũng cần chú ý đến việc đôn đốc và theo dõi kết quả giải quyết giải quyết kiến nghị của cử tri và kịp thời báo cáo lại kết quả cho cử tri. - Bố trí thời gian hợp lí cho hoạt động tiếp xúc cử tri: Để khắc phục có hiệu quả tính hình thức trong các hội nghị TXCT, cần dành thời gian thỏa đáng cho các cuộc tiếp xúc và thành phần tham gia rộng rãi của cử tri. Thời gian TXCT không chỉ giới hạn trong giờ hành chính mà có thể tăng cường tiếp xúc vào buổi tối để có điều kiện gặp gỡ các cử tri là cán bộ, công chức, người lao động phải làm việc vào ban ngày. Các cơ quan hữu quan và ĐBQH cần có sự kết hợp chặt chẽ trong việc xây dựng chương trình và xác định cụ thể nội dung trọng tâm của các buổi tiếp xúc để cử tri có điều kiện có thể tham gia đóng góp ý kiến một cách tích cực. Những vấn đề cụ thể có liên quan đến thẩm quyền giải quyết của các cơ quan hữu quan ở địa phương, nên bố trí để cử tri trình bày ở các buổi tiếp xúc khác theo chuyên đề, theo nhóm hoặc cá nhân đối với các ĐBQH. - Đối với Đoàn ĐBQH và các cơ quan quan, tổ chức hữu quan Đối với Đoàn ĐBQH: Xây dựng kế hoạch TXCT phù hợp với thực tiễn của từng địa phương; chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan tạo điều kiện thuận lợi để đại biểu thực hiện tốt nhiệm vụ. Để việc thu thập ý kiến, kiến nghị của cử tri được thực hiện tốt, mỗi Đoàn ĐBQH nên có hòm thư góp ý kiến và kiến nghị của cử tri đặt tại trụ sở Đoàn ĐBQH. Ngoài việc thu thập ý kiến, kiến nghị của cử tri để xử lý theo quy định thì định kỳ hàng quý, 6 tháng, 1 năm, Đoàn ĐBQH có trách nhiệm tập hợp, tổng hợp ý kiến nhận xét của cử tri đối với hoạt động của từng đại biểu trong Đoàn và báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Đối với MTTQ: Cần tăng cường phối hợp thường xuyên với các Đoàn ĐBQH và Thường trực HĐND và UBND cùng cấp trong việc chủ trì, tổ chức để ĐBQH tiếp xúc cử tri. Cần tổ chức tập huấn cho Thường trực UBMTTQ cấp dưới phương pháp điều hành cũng như nội dung cần thiết của hội nghị TXCT và cách thức tập hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri. Đối với Thường trực HĐND, UBND các cấp: Cử đại diện tham gia đầy đủ khi cần thiết. Sau khi nhận được kế hoạch TXCT của Đoàn cần nghiên cứu, xem xét các vấn đề thuộc nội dung của buổi tiếp xúc để có thể trả lời thấu đáo các ý kiến, kiến nghị của cử tri theo thẩm quyền tại cuộc tiếp xúc. - Đẩy mạnh việc tiếp xúc cử tri theo giới, ngành. Tuỳ theo nội dung cuộc tiếp xúc mà xác định đối tượng theo giới tiếp xúc nhằm ghi nhận, thu thập những kiến nghị chuyên sâu. Ngoài việc TXCT ở quận, huyện, ĐBQH cần tăng cường tiếp xúc trực tiếp với cử tri ngay tại cơ sở, phường, xã, khu phố, tổ dân phố 3.2.4. Những điều kiện đảm bảo cho hoạt động tiếp xúc cử tri được thực hiện có hiệu quả Cần mở rộng và đa dạng hóa hình thức và phương pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật về công tác TXCT đối với đông đảo quần chúng nhân dân nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức về vai trò, trách nhiệm của ĐBQH, của cử tri và các cơ quan hữu quan trong công tác TXCT; đồng thời có chế tài bảo đảm việc giải quyết các ý kiến, kiến nghị của cử tri. Nâng cao năng lực, trình độ cho các đại biểu Quốc hội. Về lâu dài, cần đổi mới cách thức bầu đại biểu Quốc hội, chuyển từ cách thức bầu cử nặng về cơ cấu sang bầu cử kết hợp giữa cơ cấu với trình độ năng lực của những người ứng cử nhằm đảm bảo cử tri chọn được những đại biểu có đủ năng lực và phẩm chất đại diện cho nhân dân thực thi quyền lực của nhân dân trong cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất [23, tr15]. Tăng cường số lượng ĐBQH hoạt động chuyên trách và hướng tới một Quốc hội chuyên nghiệp. Thực tiễn cho thấy việc tăng thêm ĐBQH hoạt động chuyên trách đã góp phần quan trọng vào việc đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Quốc hội cần một đội ngũ đông đảo các đại biểu chuyên trách, dành toàn bộ thời gian và trí tuệ của mình cho hoạt động của Quốc hội và không kiêm nhiệm công tác khác. Tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn kiến thức, kỹ năng TXCT cho ĐBQH Để thực hiện nhiệm vụ đại biểu nói chung và nhiệm vụ TXCT nói riêng, ĐBQH phải sử dụng nhiều kỹ năng như: kỹ năng đọc tài liệu, kỹ năng xây dựng chương trình kế hoạch, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng ghi chép, kỹ năng diễn thuyết… Tiếp tục củng cố và kiện toàn Văn phòng phục vụ Đoàn ĐBQH theo hướng tăng tính chuyên nghiệp, bảo đảm về số lượng và chất lượng biên chế cán bộ chuyên môn và quy định rõ hơn về trách nhiệm bảo đảm các điều kiện như về nhân lực, vật lực phục vụ hoạt động TXCT của ĐBQH. Bên cạnh đó, tổ chức tập huấn, hướng dẫn thường xuyên về công tác phục vụ TXCT cho cán bộ Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND. Bổ sung kinh phí cho công tác tổ chức TXCT; nghiên cứu về việc khoán kinh phí để ĐBQH chủ động trong việc tổ chức thực hiện khi cần. Có thể thí điểm thành lập văn phòng cử tri của ĐBQH chuyên trách đặt tại khu vực bầu cử của đại biểu đó. Đặt văn phòng này tại các địa điểm sẵn có, dễ đến như nhà văn hóa, trường học, câu lạc bộ…Văn phòng có nhân viên giúp việc giúp đại biểu các công việc liên quan đến tổ chức, ví dụ thuê sinh viên luật làm công việc này, vừa tiết kiệm chi phí hơn, vừa giúp sinh viên có kinh nghiệm, làm quen sớm với môi trường chính trị. Để tiết kiệm kinh phí, có thể các đại biểu cùng một khu vực bầu cử sử dụng chung một văn phòng. KẾT LUẬN Hoạt động TXCT của ĐBQH là một trong những hình thức quan trọng để ĐBQH giữ mối liên hệ với cử tri và ngày càng đổi mới, đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Nhận thức tầm quan trọng của hoạt động này, khóa luận đã cố gắng đi sâu nghiên cứu các khía cạnh của vấn đề từ lí luận đến quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện hoạt động TXCT của ĐBQH trong thời gian qua. Đồng thời khóa luận cũng bước đầu kiến nghị một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động tiếp xúc cử tri. Qua nội dung đã trình bày, có thể tóm tắt một số điểm cơ bản sau đây: Về mặt lí luận TXCT là một hình thức để ĐBQH giữ mối liên hệ với cử tri, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân qua đó phản ánh đến Quốc hội và cơ quan hữu quan. Như vậy, hoạt động này là cầu nối ĐBQH với cử tri cả nước, giữa cử tri với nhà nước. TCXT là nhiệm vụ quan trọng của ĐBQH được Hiến pháp và pháp luật quy định. Trong một số nhiệm kì qua, Quốc hội đã đổi mới mạnh mẽ về cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động từ đó chất lượng và hiệu quả hoạt động của ĐBQH nói chung và hoạt động TXCT nói riêng ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, đứng trước đòi hỏi thực tiễn của hoạt động TXCT và yêu cầu của việc xây dựng và hoàn thiện NNPQXHCN của dân, do dân và vì dân đặt ra thì việc tiếp tục đổi mới để nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội là yêu cầu khách quan mà cụ thể hơn là nâng cao hiệu quả hoạt động của ĐBQH, trong đó có hoạt động TXCT. Qua các giai đoạn phát triển của Nhà nước ta, tùy thuộc vào từng điều kiện hòan cảnh lịch sử cụ thể, những quy định của Hiến pháp và pháp luật về hoạt động tiếp xúc cử tri của ĐBQH luôn được kế thừa và phát triển. Các văn bản pháp luật cũng quy định cụ thể hơn về quyền lợi, trách nhiệm của cử tri, của ĐBQH, về hình thức TXCT tạo ra một hành lang pháp lí thuận lợi cho việc thực hiện hoạt động này. Tuy nhiên, những quy định về hoạt động TXCT còn bị phân tán trong nhiều văn bản như Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội, Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội, Qui chế hoạt động của ĐBHQ và Đoàn ĐBQH, Nội quy kì họp Quốc hội. Vì vậy, cần có một văn bản có hiệu lực pháp lí cao quy định một cách hệ thống và tập trung về vấn đề này. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Quốc hội. Tư tưởng xuyên suốt của Đảng là ngày càng nâng cao vị thế của Quốc hội và vị trí vai trò của ĐBQH trong hoạt động của bộ máy nhà nước là hai mặt của một vấn đề cần được củng cố và tăng cường. Quán triệt tư tưởng này cần có những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động TXCT của ĐBQH. Trước hết là nâng cao chất lượng ĐBQH, cần đảm bảo nguồn lựa chọn ĐBQH, cơ cấu, thành phần, tiếp đến là nâng cao năng lực trình độ của ĐBQH, và tăng cường số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách, tăng cường đội ngũ giúp việc và cơ sở vật chất, hướng tới tính chuyên nghiệp của Quốc hội. Để hoạt động TXCT thực sự đem lại hiệu quả như mong đợi cần phải có một cơ chế xem xét trách nhiệm của ĐBQH khi không thực hiện đầy đủ các hình thức TXCT...cũng như quy định cụ thể và trách nhiệm của các cơ quan hữu quan trong việc duy trì và thúc đẩy mối liên hệ giữa đại biểu và cử tri. Để hoạt động của ĐBQH nói chung, hoạt động TXCT của ĐBQH nói riêng thực sự hiệu quả cần phải đổi mới cả trong tư duy lý luận và cả trong việc thực hiện. Mọi biện pháp đưa nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của Quốc hội đều không thể thực hiện được nếu không lấy yếu tố con người làm trung tâm. Vì vậy, cần phải có sự đổi mới trong nhận thức thì mới có thể đổi mới trong hoạt động, vì thể để đạt được hiệu quả đã đặt ra của hoạt động TXCT thì mỗi cá nhân tham gia quy trình này phải thực hiện trên tinh thần đổi mới tư duy nhận thức của chính mình. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Văn kiện Quốc hội toàn tập, tập 1 (1946-1960), Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam, Các Nghị quyết của Trung ương Đảng 1996- 1999, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1946), Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946, Hà Nội Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ( 1959), Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1959, Hà Nội. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1959), Luật tổ chức Quốc hội năm 1960, Hà Nội Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1980), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, Hà Nội. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật tổ chức Quốc hội năm 1981, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (đã được Quốc hội sửa đổi năm 2001), Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật tổ chức Quốc hội năm 1992, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật tổ chức Quốc hội năm 2001, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quy chế hoạt động của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội năm 1993, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quy chế hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội năm 1993, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Nghị quyết của Quốc hội số 07/2002/QH11 ban hành Nội quy kỳ họp Quốc hội. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Nghị quyết Quốc hội số 08/2002/QH11 ban hành Quy chế hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH. Nghị quyết liên tịch số 06/2004/NQLT/UBTVQH11- ĐCTUBTWMTTQVN ngày 10/9/2004 của Ủy ban thường Vụ Quốc hội khóa XI và Đoàn Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam hướng dẫn về việc đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hiến pháp năm 2007, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 355. Tác giả D. Beetham, (2006), Nghị viện và nền dân chủ trong thế kỉ 21-Hướng dẫn thực hành, Liên minh nghị viện Thế giới, 70. Lê Thanh Vân, (2007), Một số vấn đề đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội, Nhà xuất bản tư pháp, 228. Ban chỉ đạo đề án đổi mới công tác TXCT, (2009), Tổng hợp báo cáo của các Đoàn ĐBQH về việc tổng kết 04 năm thực hiện Nghị quyết liên tịch số 06/2004/NQLT/UBTVQH11-DDCTUBTWWMTTQVN ngày 10/9/2004 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam ban hành hướng dẫn về việc đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri. Khánh Vân - Bùi Hà, (2003), Điều kiện để thực hiện quyền của đại biểu Quốc hội, Tạp chí nghiên cứu lập pháp (số 5), 5. Thái Vĩnh Thắng, (2001) “Một số ý kiến về đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan quyền lực nước ta trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (số 5), 15. Văn phòng Quốc hội, (2006), “Quốc hội Việt Nam 60 năm hình thành và phát triển”, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia. Văn phòng Quốc hội, Vụ Dân nguyện, (2009), Báo cáo kết quả điều tra xã hội học về công tác tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội. Trang web ://www.tinmoi.vn/Lang-phi-1065444.html Ban chỉ đạo đề án đổi mới tiếp xúc cử tri, Một số bài viết chuyên đề :”Đổi mới công tác tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội” (2010); Nguyễn Thị Hồng Hà, Bài viết:” Bài học kinh nghiệm và giải pháp đổi mới công tác tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội”. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội. Trangweb: Văn phòng Quốc hội, (2008), Tiếp xúc cử tri – Những câu chuyện kể. R.E. Dowse ,( 1963), Nghị sĩ và việc tiếp dân, Nghiên cứu chính trị, (số 11), 333 – 341. MỤC LỤC DANH MỤC VIẾT TẮT ĐBQH Đại biểu Quốc hội ĐCTUBTWMTTQ Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc CHXHCNVN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam HĐND Hội đồng nhân dân MTTQ Mặt trận Tổ Quốc NNPQ Nhà nước pháp quyền TXCT Tiếp xúc cử tri UBND Ủy ban nhân dân UBTVQH Ủy ban thường vụ Quốc hội UBTWMTTQ Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam LỜI CẢM ƠN Khóa luận này được hoàn thành với sự hướng dẫn tận tình của Thầy giáo – PGS - TS. Thái Vĩnh Thắng, Chủ nhiệm khoa Hành chính nhà nước, Đại học Luật Hà Nội. Vì thế, trước tiên, khóa luận này là món quà bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của tác giả đối với người Thầy của mình. Đồng thời, để hoàn thành khóa luận này, tôi xin trân trọng cảm ơn Quý thầy cô Lớp Hành chính 31A, Khoa hành chính Nhà nước, trường Đại học Luật Hà Nội – những người đã truyền đạt, vun đắp kiến thức cho tôi trong suốt những năm học tại trường. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã nhiệt tình giúp đỡ, đóng góp ý kiến, cung cấp tài liệu và tạo mọi điều kiện cần thiết để tôi hoàn thành tốt khóa luận này. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng chắc hẳn khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu sót, có những vấn đề lí luận và thực tiễn đang và sẽ nảy sinh mà tôi chưa cập nhật được. Rất mong sự đóng góp ý kiến của quý Thầy Cô và toàn thể bạn đọc để khóa luận đạt được kết quả cao hơn. Hà Nội, ngày 25 tháng 4 năm 2010 Tác giả khóa luận Vũ Thị Hương Phụ lục 1: BẢNG ĐÁNH GIÁ CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VỀ NHỮNG NỘI DUNG CỬ TRI THƯỜNG QUAN TÂM ĐẾN TRONG QUÁ TRÌNH TIẾP XÚC CỬ TRI TIÊU CHÍ Quan tâm nhiều Có quan tâm, nhưng không nhiều Ít quan tâm 1. Những vấn đề bức xúc, nổi cộm trong xã hội 96% 3% 1% 2. Việc giải quyết các kiến nghị, đề xuất của cử tri 89% 8% 3% 3. Những khó khăn của cử tri 83% 10% 7% 4. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước 74% 22% 4% 5. Tình hình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước 65% 29% 6% 6. Tình hình phát triển kinh tế, xã hội của địa phương 65% 27% 8% 7. Nội dung của Kỳ họp Quốc hội 37% 50% 13% ( Nguồn: Văn phòng Quốc hội; Vụ Dân nguyện, Báo cáo kết quả điều tra xã hội học về công tác tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội ) Phụ lục 2 BẢNG ĐÁNH GIÁ CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VỀ CÁC HÌNH THỨC TIẾP XÚC CỬ TRI TRONG THỜI GIAN QUA Tiêu chí Phát huy tốt Phát huy khá tốt Chưa phát huy được Khó trả lời 1. Hội nghị tiếp xúc cử tri tại nơi ứng cử 52% 42% 5% 1% 2. Hội nghị tiếp xúc theo chuyên đề, lĩnh vực mà đại biểu quan tâm 27% 29% 34% 10% 3. Hội nghị tiếp xúc cử tri tại cơ quan, đơn vị 22% 27% 38% 13% 4. Hội nghị tiếp xúc cử tri tại nơi cư trú 20% 30% 38% 12% 5. Gặp gỡ, tiếp xúc trực tiếp với các nhóm cử tri 15% 27% 44% 14% 6. Gặp gỡ, tiếp xúc trực tiếp với từng cử tri 13% 29% 41% 17% (Nguồn: Văn phòng Quốc hội, Báo cáo kết quả điều tra xã hội học về công tác tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội) Phụ lục 3 TỶ LỆ ĐÁNH GIÁ VỀ MỨC ĐỘ QUAN TÂM CỦA CỬ TRI VỀ CÁC NỘI DUNG TẠI CÁC CUỘC TIẾP XÚC CỬ TRI CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI Tiêu chí Quan tâm nhiều Có quan tâm, nhưng không nhiều Ít quan tâm Không quan tâm 1. Những khó khăn của các tầng lớp nhân dân 71% 15% 2% 12% 2. Những vấn đề bức xúc, nổi cộm trong xã hội 70% 15% 1% 14% 3. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước 68% 18% 2% 11% 4. Tình hình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước 66% 19% 2% 13% 5. Việc giải quyết các kiến nghị, đề xuất của cử tri 66% 18% 3% 13% 6. Tình hình phát triển kinh tế, xã hội của địa phương, ngành 64% 20% 2% 14% 7. Nội dung của Kỳ họp Quốc hội 59% 25% 3% 12% (Nguồn: Văn phòng Quốc hội, Vụ Dân nguyện, Báo cáo kết quả điều tra xã hội học về công tác tiếp xúc cử tri) Phụ lục 4 BẢNG THỐNG KÊ TỶ LỆ CỬ TRI Đà TỪNG THAM GIA CÁC HÌNH THỨC TIẾP XÚC CỬ TRI CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI Đà TỔ CHỨC 1. Hội nghị tiếp xúc cử tri 72% 2. Đại biểu Quốc hội gặp gỡ, tiếp xúc trực tiếp với từng cử tri 11% 3. Đại biểu Quốc hội gặp gỡ, tiếp xúc trực tiếp với các nhóm cử tri 14% 4. Đại biểu Quốc hội tiếp nhận đơn, thư, kiến nghị của cử tri 6% ( Nguồn: Văn phòng Quốc hội, Báo cáo kết quả điều tra xã hội học về công tác tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu quốc hộ nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp.doc
Luận văn liên quan