Như đã trình bày ở những phần trước, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU trong những năm qua rất khả quan, nhưng phương thức gia công thuần tuý lại chiếm một tỉ lệ rất lớn 80% trong kim ngạch xuất khẩu. Mặc dù trong giai đoạn đầu phương thức này đã giải quyết một số lượng lao động lớn, giúp doanh nghiệp dệt may Việt Nam bước đầu tập dượt tìm hiểu về thị trường EU, đưa về cho đất nước một số lượng ngoạI tệ ít ỏi, nhưng đổi lạI uy tín sản phẩm (giá cả, sức mua, tâm lí tiêu dùng, sự biến đổi sở thích ) ta không nắm được. Phương thức này cũng hạn chế sự năng đọng của các doanh nghiệp dệt may kinh doanh theo kiểu “ ngồi buôn” chứ không phải “đi buôn”.
48 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2519 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hợp tác thương mại Việt Nam – Liên minh Châu Âu trong lĩnh vực dệt may trước và sau năm 1986, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngành dệt may trong tổng giá trị ngành công nghiệp chế biếnkhoảng 10% hàng năm và giá trị xuất khẩu hàng dệt may chiếm khoảng 13 % trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Bảng: Đóng góp của ngành dệt may trong nền kinh tế quốc dân
Chỉ tiêu
Nãm
GDP
(Tỷ ðồng)
Ngành dệt may (Tỷ ðồng)
Tỷ lệ ðóng góp vào GDP (%)
Tổng kim ngạch xuất khẩu
(Tỷ đồng)
1999
399.942
7.700
1,9
11.540
2000
444.139
9.120
2,1
14.308
2001
474.340
10.260
2,1
15.810
Nguồn: Bộ Thương mại.
Một trong những tiến bộ của dệt may Việt Nam là thâm nhập thành công thị trường Hoa Kỳ. Sau một thời gian tìm hiểu về thị trường rộng lớn này, các doanh nghiệp đã xuất khẩu thành công hàng may mặc sang thị trường này và nhập khẩu nguyên liệu cho quá trình sản xuất. Nhờ đó mà năm 2002, Hoa Kỳ trở thành thị trường lớn nhất của ngành dệt may Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt trên 900 triệu USD. Chi tiết cụ thể về thị trường này sẽ được ngiên cứu rõ hơn trong phần phân tích về các thị trường chính của ngành dệt may Việt Nam.
Qua nghiên cứu các giai đoạn phát triển trên, ta thấy được những tiềm năng, những mặt mạnh cần phát huy, cũng như những tồn tại cần giải quyết, tranh thủ thời cơ để ngành dệt may Việt Nam có chỗ đứng trên thị trường thế giới.
2. Một số đánh giá về thực trạng thương mại dệt may Việt Nam-EU.
2.1. Sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU
Khi tham gia vào thương mại quốc tế, mục tiêu của các quốc gia là hướng ra xuất khẩu. Đây là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam, trong đó thúc đẩy xuất khẩu, gia tăng KNXK hàng dệt may Việt nam sang EU cũng không nằm ngoài chiến lược phát triển này.
2.1.1. Một số đặc điểm về thị trường hàng dệt may EU
2.1.1.1. Dung lượng thị trường lớn
EU hiện là một trong 3 trụ cột của nền kinh tế thế giới, với diện tích khoảng 3978372 km2, dân số trên 500 triệu người. Thị trường EU thống nhất cho phép tự do lưu chuyển sức lao động, hàng hoá, dịch vụ và vốn giữa các nước thành viên. Đây là một thị trường lớn, thị trường xuất khẩu lớn nhất thế giới và là thị trường nhập khẩu lớn thứ hai thứ giới. Kim ngạch nhập khẩu không ngừng tăng lên. Theo thống kê của cơ quan thống kê EU(EUROSTAT) cơ cấu hàng hoá nhập khẩu của EU: sản phẩm chế tạo chiếm khoảng 67,19% tổng kim ngạch nhập khẩu hằng năm, sản phẩm thô chiếm
29,74%, các sản phẩm khác chiếm khoảng 3,07%. EU còn nhập khẩu một số mặt hàng dệt may, khoáng sản, thuỷ sản, giày dép, nông sản, cà phê… Đây là những mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam, chúng ta cần tận dụng những cư hội, có phương thức thâm nhập tốt vào thị trường EU – một thị trường lớn và ngày càng mở rộng.
Đối với mặt hàng dệt may nói riêng, EU là khu vực đứng đầu thế giới về nhập khẩu mặt hàng này, chiếm 46% tổng giá trị nhập khẩu hàng dệt may của toàn thế giới. Nhu cầu nhập khẩu hằng năm của EU vào khoảng 110 tỷ USD hàng quần áo may sẵn và hàng dệt các loại đem đến cơ hội tuyệt vời cho các nước xuất khẩu hàng dệt may trong đó có Việt Nam.
2.1.1.2. Tập quán và thị hiếu của người tiêu dùng hàng dệt may EU
EU là liên minh của 27 nước thành viên với trình độ phát triển kinh tế xã hội khá đồng đều, sự tương đồng về văn hoá và địa lý cho nên người dân thuộc khối EU có những điểm chung về sở thích và thói quen tiêu dùng.
Những sản phẩm nổi tiếng có thương hiệu trên thị trường thế giới được người tiêu dùng EU rất ưa chuộng, vì họ cho rằng những thương hiệu này gắn liền với chất lượng sản phẩm và đảm bảo chất lượng an toàn cho người sử dụng. Đối với khách hàng EU họ sẵn sàng mua những sản phẩm giá đắt, có thương hiệu nổi tiếng mà không dùng những sản phẩm không nổi tiếng cho dù giá rất rẻ.
Đối với mặt hàng dệt may: Người tiêu dùng EU thường dùng những sản phẩm không chứa chất nhuộm có nguồn gốc hữu cơ. Họ đặc biệt quan tâm tới chất lượng và tính thời trang của loại sản phẩm này. Tính thời trang của sản phẩm đôi khi là tiêu chí đặt trên giá cả. Một sản phẩm có thể được ưa chuộng trong thời gian này nhưng sau một thời gian lại lỗi mốt và không được người tiêu dùng ưa thích. Như vậy, nhu cầu về mặt hàng dệt may thay đổi nhanh chóng, đặc biệt về mẫu mã. Do đó bên cạnh những tiêu chuẩn về chất lượng, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may cần thay đổi mẫu mã để phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của người dân EU.
Thị trường thống nhất EU được chia làm 3 nhóm:
Thứ nhất: là nhóm có khả năng thanh toán ở mức cao, chiếm khoảng
20% dân số của EU, dùng hàng có chất lượng cao, giá cả đắt nhất hoặc những mặt hàng hiếm hoặc độc đáo.
Thứ hai : là nhóm có khả năng thanh toán ở mức trung bình, chiếm 68% dân số EU, sử dụng những hàng có chất lượng kém hơn và giá cả rẻ hơn so với nhóm thứ nhất.
Thứ ba: là nhóm có khả năng thanh toán thấp, chiếm 10% dân số EU, tiêu dùng những mặt hàng có chất lượng thấp hơn nữa.
Như vậy, hàng hoá nói chung và hàng dệt may nói riêng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trên thị trường EU bao gồm cả hàng hoá cao cấp và hàng bình dân phục vụ mọi đối tượng. Đối tượng tiêu dùng hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam thuộc nhóm hai và nhóm ba, các đối thủ cạnh tranh chính của các doanh nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp của Trung Quốc và các nước ASEAN.
2.1.1.3. Kênh phân phối
Hệ thống kênh phân phối mặt hàng dệt may của EU về cơ bản cũng giống như hệ thống phân phối các loại mặt hàng của một quốc gia, gồm mạng lưới bán buôn và mạng lưới bán lẻ. Tham gia vào hệ thống phân phối này là các công ty xuyên quốc gia, hệ thống các cửa hàng, siêu thị, các công ty bán lẻ độc lập. Hình thức tổ chức phổ biến nhất của kênh phân phối trên thị trường EU là tổ chức theo tập đoàn và không theo tập đoàn.
Kênh phân phối theo tập đoàn có nghĩa là các nhà sản xuất và nhà nhập khẩu của một tập đoàn chỉ được cung cấp hàng hoá cho hệ thống các siêu thị cửa hàng của tập đoàn mình mà không được cung cấp hàng cho hệ thống bán lẻ khác. Còn kênh phân phối không theo tập đoàn thì ngược lại, cho phép các nhà sản xuất và nhập khẩu của một tập đoàn có thể cung cấp hàng cho hệ thống bán lẻ khác ngoài việc cung cấp hàng cho hệ thống siêu thị, cửa hàng của tập đoàn mình. Đây là điều khác biệt khá rõ giữa thị trường EU so với thị trường khác, tạo nên điểm nổi bật mà các doanh nghiệp cần quan tâm hơn để có thể xuất khẩu thành công sang thị trường EU.
Để tiếp cận với hệ thống phân phối này là điều không dễ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Rất hiếm doanh nghiệp có mối quan hệ tốt với những dây chuyền phân phối hàng hoá này để có thể đưa được hàng dệt may của mình vào thị trường EU. Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam hiện nay muốn tiếp cận được hệ thống kênh phân phối này thì phải tiếp cận được các nhà nhập khẩu của EU bằng con đường xuất khẩu trực tiếp sang EU hoặc thành lập các công ty liên doanh với các công ty xuyên quốc gia của EU để trở thành công ty con.
2.1.1.4. Những quy định của EU đối với hàng dệt may nhập khẩu
* Những quy định đối với hàng hoá nhập khẩu vào thị trường EU
EU là một trong những đối tác quan trọng không chỉ của Việt Nam với dung lượng thị trường rất lớn. Tuy nhiên thì đây là một thị trường tương đối khó tính. Hàng hoá để xuất khẩu vào thị trường này phải thoả mãn 5 tiêu chuẩn sau:
Thứ nhất: Tiêu chuẩn về chất lượng hàng hoá:
Doanh nghiệp phải áp dụng hệ thống chất lượng ISO-9000. Đây là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp sản xuất muốn xuất khẩu hàng của mình sang thị trường EU, trong đó có doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ hai: Tiêu chuẩn về an toàn cho người sử dụng:
Nhằm bảo vệ cho sức khoẻ người tiêu dùng, hàng hoá nhập khẩu vào EU phải được mã hiệu theo quy định của EU.
Thứ ba: Tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm:
Tất cả các nhà chế biến thực phẩm muốn xuất khẩu hàng hoá sang EU đều chịu sự bắt buộc mang tính pháp lý, phải áp dụng quy trình sản xuất theo hệ thống HACCP ngay từ đầu.
Thứ tư: Quy định về bảo vệ môi trường:
EU buộc các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá sang EU phải có chứng chỉ ISO-14000 và hàng hoá liên quan đến môi trường thì phải cung cấp ký mã hiệu theo quy định của EU như dán nhãn sinh thái, quản lý đồ phế thải…
Thứ năm: Tiêu chuẩn về lao động:
Tất cả các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu sang EU phải chú ý đến yếu tố xã hội, đạo đức trong kinh doanh. Điều này buộc các doanh nghiệp phải thực hiện SA 8000.
Để hàng dệt may Việt nam được nhập khẩu vào thị trường EU thì các doanh nghiệp dệt may cần tuân thủ 5 tiêu chuẩn chung đối với hàng hóa nhập khẩu như trên. Ngoài ra còn có các quy định riêng đối với hàng dệt may nhập khẩu vào thị trường EU.
* Một số quy định về hàng dệt may nhập khẩu vào EU
Dưới đây là những quy định chung cho hàng dệt may nhập khẩu vào các nước trong EU. Tuy nhiên ở mỗi thị trường thành viên lại có những yêu cầu khác nhau liên quan đến vấn đề chất lượng, loại vải, sợi, các tiêu chuẩn, kích cỡ, mầu sắc…
Quy định pháp lý
Có rất nhiều qui định pháp lý đối với hàng dệt may tại thị trường EU. Dưới đây là một số quy định tham khảo:
- Chỉ thị số 2003/53/EC (sửa đổi từ Chỉ thị 76/769/EEC), EU đã đặt ra những quy định hạn chế đối với việc sử dụng những hóa chất dễ gây nguy hiểm, trong đó có nonyl phenols (NP) và nonyl phenol ethoxylates (NPEs), là những hóa chất có ảnh hưởng đến tuyến nội tiết nếu được sử dụng trong các sản phẩm dệt may.
- Chỉ thị số 76/769/EEC (sửa đổi từ Chỉ thị số 83/264/EEC) là Chỉ thị đã được áp dụng hài hòa trong EU, cấm việc marketing và sử dụng những sản phẩm dệt tiếp xúc với da nếu những sản phẩm này chứa các chất làm chậm khả năng bắt cháy. Chỉ thị này đã được áp dụng hài hòa trong EU.
- Chỉ thị số 2002/61/EC (sửa đổi từ Chỉ thị số 2004/21/EC) hạn chế việc sử dụng thuốc nhuộm Azo trong các sản phẩm dệt ở Khu vực Kinh tế Châu Âu (European Economic Area - (EEA)).
- EU đã có quy định hài hòa trong toàn liên minh về tên gọi, thành phần sợi dệt và nhãn mác sản phẩm dệt nhằm bảo đảm cung cấp đầy đủ thông tin cho người tiêu dùng và ngăn chặn những sự khác biệt giữa các quy định liên quan ở cấp thành viên. Chỉ thị số 96/74/EC về tên sản phẩm dệt đưa ra những quy định dán nhãn đối với sản phẩm dệt. Theo chỉ thị này, các sản phẩm dệt dự định được nhập khẩu vào EU phải được dán nhãn. Trên nhãn phải thể hiện tên sản phẩm, mô tả sản phẩm, chi tiết về hàm lượng sợi dệt của sản phẩm.
Yêu cầu không mang tính pháp lý
Nhà nhập khẩu EU có thể đặt ra một số yêu cầu đối với nhà cung cấp hàng dệt may từ các nước đang phát triển liên quan đến các vấn đề về sức khoẻ, an toàn đối với môi trường và xã hội... Nhiều khách hàng EU đòi hỏi các sản phẩm dệt may phải được sản xuất trong những điều kiện lao động có thể chấp nhận với mức tiền công hợp lý, trong đó cơ sở sản xuất hàng dệt may phải áp dụng các biện pháp quản lý rủi ro, phòng tránh tai nạn lao động trong quá trình sản xuất; giữ gìn vệ sinh khu vực sản xuất; áp dụng đúng quy trình quản lý lưu kho...
Bao gói, ký mã hiệu và nhãn mác
Uỷ ban Châu Âu đã hài hòa các quy định về tên gọi, thành phần cấu tạo và nhãn mác của các sản phẩm dệt nhằm đảm bảo sự cung cấp thông tin đầy đủ về sản phẩm đến người tiêu dùng và tránh những khác biệt trong các quy định giữa các quốc gia thành viên. Các quy định về nhãn hàng dệt được nêu tại Chỉ thị số 96/74/EC. Chỉ thị số 96/73/EC bổ sung thêm các bộ quy tắc về tên gọi của hàng dệt trên toàn EU nhằm tạo điều kiện thuận lợi hóa thương mại trong phạm vi EU.
Các quốc gia thuộc EU hầu hết đều đặt ra một số yêu cầu bắt buộc đối với nhãn mác hàng dệt may như: trên nhãn mác một số mặt hàng phải có thông tin về hàm lượng sợi dệt, tên nhà xuất khẩu hoặc nhà nhập khẩu, hướng dẫn cách làm sạch sản phẩm...
Thuế suất và hạn ngạch
Tất cả các quốc gia thành viên EU đều áp dụng hệ thống thuế Hải quan thông thuờng khi hàng nhập khẩu từ bên ngoài EU. Nếu không có hiệu lực của một Hiệp định thương mại đặc biệt, thì hệ thống thuế nhập khẩu chung được áp dụng.
Đối với hàng dệt may Việt Nam nhập khẩu vào EU: Việt Nam được hưởng Hệ thống thuế quan phổ cập (GSP) của EU từ 1/7/1996 nên hàng hóa được nhập khẩu với mức thuế ưu đãi. Từ ngày 1/1/2005 EU đã dỡ bỏ hạn ngạch dệt may cho Việt Nam nên hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU không bị hạn chế về số lượng.
Trên đây là một số quy định đối với hàng dệt may nhập khẩu vào thị trường EU. Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cần biết để có những biện pháp nhằm đáp ứng tốt những yêu cầu trên.
2.1.2. Tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU
2.1.2.1. Vị trí của xuất khẩu hàng dệt may trong nền kinh tế Việt Nam
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, ngành dệt may Việt Nam đang từng bước khẳng định vai trò của mình đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam, đặc biệt là về xuất khẩu.
- Ngành công nghiệp dệt may đóng vai trò tích cực trong việc tạo vốn tích luỹ cho quá trình công nghiệp hoá, đây là ngành không đòi hỏi lượng vốn lớn mà thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Công nghiệp dệt may là ngành thu hút nhiều lao động, không chỉ tạo việc làm cho những công nhân trực tiếp trong ngành mà còn tạo công ăn việc làm cho hàng vạn lao động của những ngành phụ trợ, góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp trong nền kinh tế.
- Ngành công nghiệp dệt may phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của nhiều ngành khác như ngành cung cấp nguyên liệu cho ngành dệt may, ngành nông nghiệp trồng bông, trồng dâu, nuôi tằm…
- Xuất khẩu dệt may tạo nguồn thu ngoại tế phục vụ nhập khẩu, đặc biệt là nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất.
2.1.2.2. Một số thoả thuận giữa Việt Nam và EU về hàng dệt may
Chính sách của EU đối với hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU dựa trên cơ sở các Hiệp định về dệt may và Hiệp định hợp tác được ký kết giữa Việt Nam và EU. Những chính sách này được điều chỉnh thay đổi phụ thuộc vào từng thời kỳ, theo mức độ phát triển kinh tế của hai bên. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may sang EU.
- Ngày 18/12/1992 Việt Nam và EU đã ký Hiệp định về các sản phẩm dệt may, tạo hành lang pháp lý đầu tiên cho việc xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU. Theo đó các mặt hàng dệt may xuất khẩu sang EU được chia làm 2 loại, mặt hàng xuất khẩu theo hạn ngạch và mặt hàng tự do xuất khẩu. Doanh nghiệp Việt Nam được xuất khẩu sang EU 151 chủng loại hàng trong đó có 46 loại xuất khẩu tự do vào EU và 105 loại xuất khẩu theo hạn ngạch.
- Tháng 8/1995 Việt Nam và EU đã ký kết sửa đổi Hiệp định dệt may. Trong lần sửa đổi này, EU đã đồng ý tăng hạn ngạch hàng dệt may Việt Nam từ
20-23%, đồng thời giảm số chủng loại hàng chịu hạn ngạch từ 105 xuống còn 54 mặt hàng. Hiệp định lần này giúp các doanh nghiệp Việt Nam tăng hạn ngạch, tăng KNXK hàng dệt may vào thị trường EU, góp phần đưa ngành dêt may Việt Nam trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn, biến thị trường EU thành thị trường trọng điểm của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam.
- Ngày 7/11/1997 Hiệp định hàng dệt may Việt Nam – EU một lần nữa được ký lại. EU đồng ý tăng 40% khối lượng hạn ngạch so với Hiệp định lần trước và cho phép Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc, nhiều mặt hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào EU hưởng thuế suất 0%.
- Ngày 3/11/2004 Việt Nam – EU đã ký tắt thoả thuận hạn nghạch dệt may, từ ngày 1/1/2005 EU đã dỡ bỏ hạn ngạch dệt may cho Việt Nam, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may sang EU không bị hạn chế về số lượng. Đây là một thoả thuận có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam.
- Đặc biệt là kể từ 11/01/2007 Việt Nam chính thức tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO, khung pháp lý về thị trường thương mại dịch vụ giữa Việt Nam – EU đã được mở hoàn toàn. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam thuận lợi hơn trong việc tham gia các thị trường trên thế giới.
2.1.2.3. EU là “thị trường vàng” cho xuất khẩu hàng dệt may của Việt
Nam
EU là khu vực đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng dệt may, chiếm 46% tổng giá trị nhập khẩu hàng dệt may của toàn thế giới. Nhu cầu nhập khẩu hằng năm của EU vào khoảng 110 tỷ USD hàng quần áo may sẵn và hàng dệt các loại đem đến cơ hội tuyệt vời cho các nước xuất khẩu hàng dệt may trong đó có Việt Nam. Năm 2005 sau khi hạn ngạch được dỡ bỏ giữa các nước thành viên WTO nhập khẩu hàng dệt may của EU tăng mạnh, tăng 21,5% so với năm 2004. Sang năm 2006, EU nhập khẩu 165.549 triệu USD hàng dệt may tăng 12% so với năm 2005.
Theo thống kê của cơ quan thống kê EU (EUROSTAT), thị phần dệt may của EU trên thế giới là khoảng 26% với kim ngạch xuất khẩu hằng năm lên tới 60 tỷ USD, đứng thứ hai trên thế giới chỉ sau Trung Quốc. Các nước trong EU xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm da cao cấp, quần áo thời trang, dạ hội, áo lông thú. Như vậy các nước EU chỉ quan tâm tới những sản phẩm may mặc cao cấp mà vẫn bỏ ngỏ thị trường sản phẩm may mặc đại trà phục vụ cho nhu cầu ăn mặc thông thường, trong khi đó các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hoàn toàn có thể đáp ứng được khoảng trống này.
Thị trường EU tạo điều kiện để hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường khác. EU không chỉ được biết đến là nhà nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới mà còn là một trong những nhà xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. EU nhập khẩu hàng dệt may từ các quốc gia đang phát triển như Việt Nam dưới hình thức gia công hoặc đặt hàng trực tiếp sau đó đưa vào kênh bán lẻ trên khắp châu Âu, bán trực tiếp sang các thị trường khác dưới những thương hiệu của nhà bán lẻ.
Như vâỵ, thị trường EU chiếm một tỷ trọng lớn trong giá trị buôn bán hàng dệt may của thế giới, là một trong những thị trường xuất khẩu và tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất thế giới. Trên cơ sở quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và EU về dệt may, với vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội, việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt nam sang một thị trường tiềm năng như EU là thiết thực và cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
2.2. Nhu cầu tiêu thụ
EU là thị trường rộng lớn, có nhu cầu tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất, sản phẩm đa dạng, phong phú và tinh tế. Mặc dù đặt nhiều kỳ vọng xuất khẩu hàng dệt may tại thị trường EU, nhưng yêu cầu của người tiêu dùng về chất lượng và kiểu dáng sản phẩm dệt may tại thị trường này có phần khắt khe hơn ở Mỹ, nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn kỹ thuật khiến hàng dệt may sang EU không tăng như mong đợi. Đây là nguyên nhân chính khiến kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sang EU tính đến hết đạt 2,5 tỷ USD, giảm 3.8% so với cùng kỳ năm trước. Theo số liệu thống kê, cứ 100 người được hỏi thì đều có yêu cầu về mốt, thẩm mỹ, thời trang rất cao, chiếm 85 - 90%, chỉ 10 - 15% có nhu cầu để bảo vệ thân thể.
Mức tiêu thụ ở thị trường này vào loại cao trên thế giới: 17 kg vải/người/năm. Trong khi đó ở các nơi khác mức tiêu thụ thấp hơn: Thái Lan: 2,8 kg; Inđônêsia: 2,0 kg; Trung Quốc: 5,5 kg; Hồng Kông: 11,9 kg; Hàn Quốc: 14,3 kg; Việt Nam chỉ có 0,84 kg.
Người tiêu dùng ở EU được chia làm bốn nhóm:
Nhóm dẫn mốt
Nhóm ăn mặc đứng đắn
Nhóm sau mốt
Nhóm thực dụng.
Trong đó, tỷ lệ nhóm dẫn mốt cao nhất ở Tây Ban Nha, Bỉ, Italia, Đan Mạch và Đức. Tỷ lệ thấp nhất là ở Anh.
Tuy nhiên, nhìn chung toàn EU, nhóm những người thực dụng và nhóm những người sau mốt chiếm khoảng 70-75% tổng số người tiêu dùng, nên sản phẩm dệt may của thị trường này đòi hỏi sự phong phú về mẫu mốt và có giá bán cao hơn các khu vực khác trên thế giới.
2.3. Thực trạng xuất khẩu dệt may Việt Nam sang EU thời gian qua
2.3.1. Kim ngạch xuất khẩu
EU là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn của cả thế giới. Sức tiêu thụ ngày một tăng cao. Không những vậy, thị trường EU là một trong ba thị trường xuất khẩu lớn nhất
của dệt may Việt Nam. Có thể thấy qua vài con số về kim ngạch nhập khẩu:
Bảng : KNXK dệt may Việt Nam sang EU thời gian qua
Đơn vị: triệu USD
Năm
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
KNXK
841
1243
1459
1704
1644
2158
2600
2500
% tăng
27,42
47,8
17,37
16,79
-3,7
31,26
20,5
-3,8
Năm 2005, việc EU không áp dụng hạn ngạch với hàng dệt may của Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng dệt may của Việt Nam hơn cho hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này. Thị trường EU có mức tăng trưởng khá ổn định, đạt được 841 triệu USD tăng 27,42% so với năm 2004
Giai đoạn từ 2006 là giai đoạn Việt Nam gia nhập WTO và chịu những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế. Thế nhưng tình hình xuất khẩu dệt may sang EU vẫn phát triển.Riêng kim ngạch xuất khẩu dệt may vào EU đạt 1243 triệu USD, tăng 47,8% so với 2005.
Trong số các nước EU thì Đức là nhà nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam. Trong năm 2008, Đức với kim ngạch 19,4 triệu USD, nâng tổng kim ngạch 2 tháng đầu năm đạt 59,2 triệu USD, tăng 6,4% so với cùng kì năm 2007. Tiếp đến là Anh, xuất khẩu tháng 2 đạt 12 triệu USD, nâng tổng kim ngạch 2 tháng đạt 44,2 triệu USD, tăng 31,4% so với cùng kì; kim ngạch xuất khẩu sang Pháp 2 tháng đầu năm đạt 22,4 triệu USD, tăng 17,8%; sang Hà Lan 22,35 triệu USD, tăng 40%; sang Tây Ban Nha đạt 20,8 triệu USD, tăng 24,6%... Nhưng tốc độ xuất khẩu của ngành dệt may trong tháng 3/2008 đã chững lại, khi tổng kim ngạch xuất khẩu trong tháng này chỉ xấp xỉ mức tháng 2/2008.
Tại thị trường EU, các doanh nghiệp đã cải thiện chất lượng và mở rộng dịch vụ hỗ trợ cho nhà nhập khẩu cũng như tuân thủ quy chế mới về an toàn cho người tiêu dùng. Do đó, dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế nhưng giá trị xuất khẩu 9 tháng đầu năm 2009 đạt xấp xỉ 1,25 tỷ USD, chỉ giảm 3,5% trong điều kiện nhập khẩu chung vào thị trường này giảm hơn 11% so với cùng kì năm trước.
Năm 2009, xuất khẩu hàng dệt may may của Việt Nam gặp nhiều khó khăn hơn bởi kinh tế thế giới vẫn chưa thoát khỏi suy thoái; Hàng dệt may của Trung Quốc xuất khẩu vào thị trường Mỹ không còn hạn ngạch; Mức độ cạnh tranh với các thị trường khác sẽ gay gắt hơn. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU vẫn đạt 1644 triệu USD (giảm 3,7% so năm 2008).
Năm 2010, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may tăng mạnh 31,26% so với năm 2009, và dệt may trở thành ngành có kim ngạch xuất khẩu cao nhất, đóng góp đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước, duy trì được vị trí top 10 nước xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới.
Năm 2011, kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt 2.6 tỷ USD, tăng 20,5% so với năm 2010.
Năm 2012, mặc dù đặt nhiều kỳ vọng xuất khẩu hàng dệt may tại thị trường EU, nhưng yêu cầu của người tiêu dùng về chất lượng và kiểu dáng sản phẩm dệt may tại thị trường này có phần khắt khe hơn ở Mỹ, nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn kỹ thuật khiến hàng dệt may sang EU không tăng như mong đợi. Đây là nguyên nhân chính khiến kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sang EU đạt 2,5 tỷ USD, giảm 3.8% so với năm 2011.
Về tỷ trọng, mặc dù thị trường EU từ vị trí số 1 đã tụt xuống vị trí thứ 2 trong KNXK dệt may của Việt Nam, nhưng trong thời gian tới EU vẫn được xác định là thị trường mục tiêu của dệt may Việt Nam, một thị trường đầy tiềm năng, chỉ tiêu đặt ra trong năm 2013 này là KNXK đạt 2,4 tỷ USD. Do đó, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh tăng KNXK sang EU nhiều hơn.
2.3.2. Cơ cấu mặt hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU
Có thể nhận thấy rằng dệt may Việt Nam đang trong tình trạng thiếu trầm trọng đội ngũ thiết kế giỏi, do đó những mặt hàng xuất khẩu của chúng ta thường đơn giản về mẫu mã, chủng loại và màu sắc. Trong những năm gần đây, các doanh nghiệp dệt may đã nỗ lực nhiều trong khâu thiết kế và đa dạng hoá sản phẩm nhưng do một số điều kiện có hạn nên sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam nói chung và sang EU nói riêng vẫn chỉ là những sản phẩm truyền thống như: áo sơ mi, áo khoác, quần âu, áo jacket…
Các sản phẩm quần âu, áo sơ mi, áo jacket chiếm phần lớn trong KNXK của nước ta. Các sản phẩm này là các sản phẩm truyền thống của ta, là những sản phẩm dễ làm, không có độ phức tạp cao. Giai đoạn 2002-2004 là giai đoạn xuất khẩu dệt may sang EU tăng cao, một phần là do EU tăng hạn ngạch dệt may sau khi ký Hiệp định khung về quan hệ Việt Nam – EU. Đến năm 2006, các mặt hàng có KNXK cao và tăng mạnh là: áo jacket, áo sơ mi, quần âu, áo khoác… bên cạnh đó lại giảm xuất ở các mặt hàng như: áo len, đồ lót, khăn, càvạt…
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, trong năm 2011 các chủng loại mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh là: áo jacket, quần, áo sơ mi, áo thun, áo khoác, quần short… và giảm xuất ở một số mặt hàng như: áo len, đồ lót, khăn, áo nỉ, găng tay, hàng may mặc… Xét về trị giá, mặt hàng quần là chủng loại mặt hàng có KNXK tăng cao nhất. Đứng thứ hai là mặt hàng áo jacket. Tuy nhiên xét theo tổng KNXK thì áo jacket là mặt hàng có KNXK cao nhất
Năm 2012 là năm kim ngạch xuất khẩu dệt may sang EU giảm đáng kể do nhu cầu tiêu dùng tại các nước EU đã sụt giảm nghiêm trọng. Nguyên nhân là do suy thoái kinh tế toàn cầu khiến người tiêu dùng EU phải thắt chặt chi tiêu. Hy vọng trong những năm tới KNXK dệt may sang thị trường EU sẽ tiếp tục lấy lại đươc đà tăng trưởng.
Trong những năm tới việc đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm và sự quan tâm nhiều hơn của chính phủ, các bộ ban ngành liên quan đến ngành dệt may sẽ có những chiến lược phát triển ngành dệt may phù hợp hơn, có những chính sách hỗ trợ đào tạo cán bộ cũng như công nhân có trình độ cao đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khoa học công nghệ. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu sang EU sẽ đa dạng hơn về mẫu mã và chất lượng, ngày càng có nhiều những sản phẩm có tính phức tạp được sản xuất và xuất khẩu
Đối với hàng hoá trong lĩnh vự dệt may nhập từ EU vào Việt Nam, tỷ lệ hàng thành phẩm rất ít, chủ yếu là các loại máy móc, thiết bị, vật tư nguyên liệu và hoá chất. Mặc dù chất lượng hàng dệt may của EU rất cao, nhưng kích thước mẫu mã mầu sắc lại không phù hợp với thị hiếu của người Việt Nam.
Nhìn chung cơ cấu trao đổi hàng hoá đã thể hiện đúng khả năng và nhu cầu của mỗi bên. Cơ cấu trao đổi này cũng hoàn toàn phù hợp với mục tiêu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà Việt Nam đang theo đuổi. Trong những năm tới, chúng ta cần phải tiếp tục khai thác thị trường EU theo hướng này. Có như vậy chúng ta mới tận dụng được tiềm năng của mình và khai thác được các mặt mạnh của EU
.
2.3.3. Thực trạng thương mại Việt nam – EU trong dệt may
Thành quả đã đạt được trong những năm qua là kết quả của những lỗ lực từ hai phía. Phía Việt Nam, chúng ta không ngừng cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm để đáp ứng nhu cầu các khách hàng EU. Ngược lại EU cũng dành cho chúng ta những điều kiện có lợi để thúc đẩy quan hệ buôn bán mặt hàng này. Tuy nhiên, việc thâm nhập một thị trường kỹ tính như EU trong khi chúng ta chưa phải là thành viên của WTO quả là đIều hết sức khó khăn. Mặc dù, kim ngạch xuất khẩu dệt may sang thị trường EU có tăng, song đó vẫn chưa phải là tất cả những gì chúng ta mong đợi. Nguyên nhân của việc này cũng chính là khó khăn thách thức má các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải đối đầu khi thâm nhập thị trường EU.
Thứ nhất : Phương châm “may làm lối ra cho dệt” chưa được thể hiện trong việc sản xuất và xuất khẩu sang thị trường EU. Vải sản xuất trong nước không đáp ứng được độ đồng đều về mầu sắc, độ co rút sự đa dạng chủng loại, tính thời trang … Chẳng hạn với tiêu chuẩn vải may sơ mi xuất khẩu sang thị trường EU là sợi bông 100% nhưng yêu cầu hình thức như Polyeste thì các công ty dệt may Việt Nam đều không đáp ứng được .
Ngoài chênh lệch sản phẩm giữa dùng sợi nội và sợi ngoại là khá lớn, giá bán vải nội có khi còn cao hơn cả giá vải nhập khẩu, dùng vải nội phải chịu mấy lần tính thuế ( thuế sợi, vải mộc, vải thành phẩm …). Với tình hình trên phía các doanh nghiệp may chưa tìm thấy sự hấp dẫn của vải nội và cũng chưa tích cực tìm kiếm cơ hội. Mặt khác vấn đề nguyên liệu chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng phương thức gia công chiếm tỷ lệ chủ yếu trong kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam sang EU.
Thứ hai : Ở Việt Nam ngành kinh doanh mẫu mốt chưa trở thành một ngành kinh tế độc lập. Trong khi Châu Âu là cái nôi thời trang của thế giới, người Châu Âu nổi tiếng “sành ăn , sành mặc”. Chính vì thế, hầu hết mẫu mã của hàng dệt may sang thị trường EU do phía đối tác cung cấp. Với khả năng hiện tại, mẫu mã sản phẩm chúng ta chưa có tính chủ động, sáng tạo, có bản sắc riêng mà được khách hàng EU chấp nhận.
Hiện nay đa số các cơ sở thiết kế thời trang của ta thường làm theo kiểu Photocopy bằng cách cóp nhặt tổng hợp các mẫu mã vốn đã được lăng xê thành sản phẩm trước đó . Ngay ở Viện mẫu thời trang – nơi được xem là cơ sở làm việc có bài bản nhất ở Việt Nam thì các trang thiết bị phục vụ nghiên cứu mẫu mốt có thể nói gần như không có gì : không có hệ thống máy vi tính, việc thiết kế làm bằng thủ công, sự hiểu biết thị hiếu mẫu mốt nước ngoài quá ít ( vì không có tài chính cử cán bộ đi khảo sát ), cán bộ nghiên cứu của Viện vốn được đào tạo cơ bản nhưng so với tình hình hiện giờ thì đã lạc hậu, không được bổ túc thêm.
Thứ ba : Trong phương thức gia công, các doanh nghiệp của ta phần lớn phải chấp nhận “phương thức tam giác”, 3 đỉnh của tam giác gồm: nhà sản xuất ( doanh nghiệp Việt Nam ) khách hàng ( doanh nghiệp EU ) – người tiêu dùng. Chính khách hàng EU mới là người khai thác thị trường. Họ đưa mẫu, nguyên phụ liệu, ta sản xuất, họ đóng gói mác, nhãn hiệu. Người tiêu dùng chỉ biết đến họ với tư cách là nguồn cung cấp chứ không quan tâm đến nhà sản xuất. Điều này dẫn đến các doanh nghiệp thu được một số ít ngoại tệ ít ỏi nhưng uy tín sản phẩm của ta không hề được biết đến, tất cả những yếu tố thị trường ( giá cả, sức mua, tâm lý tiêu dùng, sự biến đổi sở thích … ) ta hoàn toàn không nắm được. Nói cách khác, “trong phương thức tam giác” ta chỉ là nhà sản xuất, còn thị trường là của đối tác EU.
Thứ tư : năm 2004, những hạng mục cuối cùng trong thỏa thuận toàn cầu Multi-Fiber Arrangement (MFA) của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ấn định phần bánh chia cho các nước nghèo chuyên xuất khẩu hàng dệt-may vào các nước phát triển sẽ lần lượt hết hiệu lực. Và từ ngày 1.1.2005 trở đi, về nguyên tắc, hệ thống hạn ngạch này sẽ không còn nữa. Nếu như sẽ có nhiều nước đang phát triển vui mừng vì điều này thì cũng sẽ có không ít nước khác có thể bị lâm vào tình cảnh khó khăn vì suy cho cùng chế độ hạn ngạch (quota) này đã từng là chìa khóa giúp nền kinh tế của họ có thể sống được trong những năm qua. Điều này gây khó khăn cho Việt Nam trong việc xuất khẩu hàng dệt may sang EU.
Việc sử dụng các nguyên phụ liệu nhập khẩu từ EU để làm hàng thành phẩm xuất khẩu trở lại EU là một giải pháp tình thế không có lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam . nếu dùng nguyên phụ liệu tương tự nhập khẩu từ các nước Châu á với giá thấp hơn nhưng vẫn đảm bảo số lượng mà được EU chấp nhận thì sẽ có lợi hơn cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam .
Theo đánh giá của Bộ thương mại , trong những năm tới thị trường Mỹ còn có nhều phức tạp , thị trường các nước Châu á vẫn chịu ảnh hưởng vủa cuộc khủng hoảng nên trọng tâm của thị trường hàng dệt may Việt Nam sẽ là liên minh Châu Âu và các nước Liên Xô cũ . Trong đó , thị trường EU vẫn là thị trường xuất khẩu chủ đạo . Để khai thác thị trường EU có hiệu quả , các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải nỗ lực để tranh thủ tốt nhất những lợi thế hạn chế những bất lợi . Đặc biệt phải phấn đấu nâng cao chất lượng sản phẩm , cải tiến mẫu mã đáp ứng đúng thị hiếu của người tiêu dùng , nâng cao uy tín để chủ động chiếm lĩnh thị trường Châu Âu .
Chương 3
Các giải pháp thúc đẩy thương mại Việt Nam – EU trong lĩnh vực dệt – may
3.1. Định hướng của ngành dệt may Việt Nam
Phát triển ngành dệt may ngang tầm nhiệm vụ một ngành công nghiệp chủ lực và sánh ngang trình độ phát triển của ngành dệt may các nước trong khu vực và phát triển trên thế giới , ngành dệt may đã xây dựng một quy hoạch phát triển đến năm 2015 . Trong đó mục tiêu và những định hướng được xác định cụ thể như sau:
Được sự phê duyệt của Thủ tướng, Bộ Công Thương cũng đã ban hành Quyết định số 42/2008/QĐ-BCT ngày 19/11/2008 về việc phê duyệt quy hoạch phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2020. Theo đó, một số mục tiêu tổng quát là: phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu; và nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới. Các mục tiêu cụ thể được thể hiện trong bảng dưới đây.
Bảng 5: Các mục tiêu cụ thể trong Chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2015, với tầm nhìn đến năm 2020
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2010
Năm 2015
Năm 2020
1. Kim ngạch XK
Triệu USD
12.000
18.000
25.000
2. Sử dụng lao động
1000 người
2.500
2.750
3.000
3. Sản phẩm chủ yếu
- Bông xơ
1000 Tấn
20
40
60
- Xơ, sợi tổng hợp
1000 Tấn
120
210
300
- Sợi các loại
1000 Tấn
350
500
650
- Vải các loại
Triệu m2
1.000
1.500
2.000
- Sản phẩm may
Triệu sản phẩm
1.800
2.850
4.000
4. Tỷ lệ nội địa hoá
%
50
60
70
(Nguồn: Bộ công thương)
Để đạt được các mục tiêu đã đề ra đến năm 2015 nghành dệt may cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là: Tập trung đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp, thực hiện cổ phần hoá nhằm kêu gọi vốn đầu tư từ nước ngoài, từ khu vực tư nhân để tăng cường nguồn lực cho các doanh nghiệp dệt may trong nước. Lý giải về vấn đề này, theo ông Trần Quang Nghị, thời gian qua, Tập đoàn Dệt may Việt Nam là một trong những ví dụ tiêu biểu cho việc thực hiện thành công công tác cổ phần hoá. Trước khi cổ phần hoá (năm 2001), tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu của các đơn vị thành viên của Tập đoàn chỉ đạt 3,2%. Nhưng sau khi thực hiện cổ phần hoá, lợi nhuận tăng tới 12,3 lần, doanh thu tăng 4 lần và tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu đạt 24,6%. Tập đoàn là đơn vị có vốn nhà nước nhỏ nhất trong các tập đoàn kinh tế nhà nước, nhưng kim ngạch xuất khẩu năm 2011 đạt gấp 14 lần vốn chủ sở hữu, xuất siêu gấp 7,6 lần vốn chủ sở hữu. Tập đoàn cũng tạo công ăn việc làm ổn định cho khoảng 120.000 lao động và rất nhiều lao động của các ngành phụ trợ.
Hai là: Tập trung vốn vào các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, đúng ngành nghề cốt lõi. Thực hiện đầu tư phát triển theo chủ trương: với ngành dệt, nguyên liệu tập trung, gần các khu công nghiệp sản xuất sợi-dệt-nhuộm. Còn đối với ngành may, thực hiện đầu tư phân tán, ưu tiên khu vực miền Trung và các vùng kinh tế còn nhiều khó khăn. Kết hợp phát triển đầu tư ngành may gắn liền với công tác xoá đói giảm nghèo. Phấn đấu đạt mục tiêu “mỗi người công nhân dệt may có thu nhập nuôi được thêm ít nhất một người phụ thuộc theo mặt bằng chi phí tại nơi doanh nghiệp đóng”.
Ba là: Nâng cao chất lượng dự báo và đánh giá thị trường; theo dõi sát sao tình hình tại các thị trường dệt may chính là Mỹ, EU và Nhật Bản; tìm kiếm và khai thác cơ hội tại các thị trường tiềm năng như Hàn Quốc, Canada, Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Đông, Nga, Đông Âu, Nam Mỹ… nhằm hạn chế sự phụ thuộc vào các thị trường dệt may chính và gia tăng kim ngạch xuất khẩu. Ông Trần Quang Nghị cho rằng, Tập đoàn cần thay đổi tầm nhìn đối với thị trường Trung Quốc, không chỉ coi thị trường này là nguồn cung cấp nguyên phụ liệu dệt may chủ yếu mà còn coi đây là một trong những thị trường đầy tiềm năng cho xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong thời gian tới.
Bốn là: đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thị trường nội địa, phát triển thương hiệu và mẫu mã với mục tiêu đảm bảo phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng trong nước. Phát triển hệ thống tiêu thụ rộng khắp tại nhiều địa phương, đặc biệt là vùng nông thôn, nơi có 70% dân số của cả nước.
Năm là: tăng cường đào tạo nguồn nhân lực trung và cao cấp theo các chuyên ngành quản lý, công nghệ. Đặc biệt là đào tạo đội ngũ thiết kế thời trang chất lượng cao; đào tạo gắn với quy hoạch phát triển theo vùng, miền.
Sáu là: chuyển dần phương thức sản xuất gia công sang hình thức FOB và ODM, phấn đấu đến năm 2015 tăng tỷ lệ FOB từ 38% lên khoảng 50% và ODM từ 5% lên 10%.
Bảy là: hạn chế sự phụ thuộc vào nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu thông qua tăng cường sử dụng xơ PE từ các doanh nghiệp trong nước, mở rộng diện tích trồng bông và các loại cây có sợi khác.
Tám là: chất lượng sản phẩm. Áp dụng các phương pháp quản lý tiên tiến như quản lý tinh gọn, quản lý chuỗi cung ứng để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp về mọi mặt.
Chín là: phân định trách nhiệm từng đối tượng tham gia thực hiện mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu.
3.2. Định hướng thương mại dệt may Việt Nam- EU
Trên cơ sở những Hiệp định khung giữa Việt Nam và EU ký kết, hai bên đã có rất nhiều cuộc gặp gỡ trao đổi nhằm thúc đẩy thương mại ngành dệt may.
Dựa trên sự phân tích thực trạng thương mại với EU trong lĩnh vực dệt may, hoạt động buôn bán hàng dệt may với EU trong thời gian tới sẽ được tăng cường theo các hướng sau:
Mục tiêu cơ bản của ngành dệt may Việt Nam đối với thị trường EU vẫn là:
phấn đấu nâng cao sản phẩm cải tiến mẫu mã đáp ứng được đúng thị hiếu cuẩ
người tiêu dùng tạo uy tín để chiếm lĩnh thị trường EU tăng nhanh kim ngạch
xuất khẩu , hạn chế việc khai thác sản phảm bằng hình thức gia công thuần tuý ,
gia tăng hình thức mua nguyên vật liệu và bán thành phẩm.
Việc xuất khẩu vào EU những sản phẩm cơ bản, đặc thù của dệt - may Việt
Nam được tăng cường, nhưng phải được hạn chế tốt số lượng được EU ấn định cho hàng năm. Trong việc phân bố quota xuất khẩu vào EU, các cơ quan hữu quan của Việt Nam sẽ không phân biệt đối xử với các công ty do các nhà đầu tư EU sở hữu một phần hay toàn bộ đang hoạt động tại Việt Nam.
Các doanh nghiệp Việt Nam đều phải chủ động làm thế nào đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường mà Việt Nam có FTA. Nhưng để có thể tận dụng, khai thác được cơ hội, các doanh nghiệp phải chủ động tiếp cận thông tin xem xu hướng của nó như thế nào.
EU là một thị trường lớn và rất nhiều tiềm năng cho doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Thị trường này rất đa dạng, từ những mặt hàng yêu cầu chất lượng tốt đến trung bình. Đó là cơ hội rất tốt cho các doanh nghiệp Việt Nam. Trong những năm tới, ngoài việc tập trung xuất khẩu một số mặt hàng truyền thống và có thế mạnh của Việt Nam sang EU như dệt may, da giầy… Các doanh nghiệp Việt Nam còn có thể tìm kiếm thêm những cơ hội mới ở những mặt hàng chưa khai thác.
3.3. Các giải pháp nhằm thúc đẩy hợp tác thương mại Việt Nam-EU trong lĩnh vực dệt may
Tăng cường khai thác thị trường EU là một trong những mục tiêu của ngành dệt may Việt Nam góp phàn làm cho ngành dệt may phát huy vai trò là những công nghiệp xuất khẩu chủ lực. Tuy nhiên qua phân tích thực trạng thương mại Việt Nam – EU trong lĩnh vực dệt may cho thấy quá trình thâm nhập thị trường EU gặp rất nhiều khó khăn . Người tiêu dùng Châu Âu rất khó tính đối với hàng may mặc liên kết giữa các quốc gia Châu Âu rất chặt chẽ cạnh tranh trên thị trường găy gắt …, trong khi khả năng của chúng ta lại có hạn chế : Thiếu vốn, công nghệ lạc hậu … do đó sản phẩm của chúng ta chất lượng chưa cao, mẫu mã không phong phú. Vì vậy ngành dệt may Việt Nam cần phải có hệ thống biện pháp phù hợp từ tầm vĩ mô đến vi mô thì mới có thể khai thác được thị trường EU.
3.3.1.Tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại
Trong các thể chế của Liên minh Châu Âu, Ủy ban Châu Âu là cơ quan phụ trách kinh tế đối ngoại. Chính vì thế muốn mở rộng quan hệ với EU nói chung và trong lĩnh vực dệt may nói riêng, chúng ta cần tăng cường quan hệ với Uỷ ban Châu Âu. Mặt khác, để hoà nhập vào thị trường EU, điều quan trọng là chúng ta cần phải xác định được “cầu nối” trong quan hệ với EU. Trong tất cả các mối quan hệ giữa chúng ta với các quốc gia thành viên của EU thì mối quan hệ Việt- Pháp là lâu dài và sâu sắc nhất. Với những tiềm năng kinh tế và ảnh hưởng của Pháp trên thị trường quốc tế, thực sự là “cầu nối” Việt Nam và EU. Pháp có ảnh hưởng lớn lại nằm trong nhiều khối liên minh. Vì vậy, chúng ta cần có các mối quan hệ Việt- Pháp ngày càng có hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải có những chính sách riêng đối với Pháp.
Một cầu nối khác không kém phần quan trọng là thông qua ASEAN. Với tư cách là một thành viên đầy đủ ASEAN, chúng ta cần khai thác những lợi ích của các phương tiện và các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ hợp tác EU-ASEAN.
Ngoài ra, để hàng dệt may Việt Nam có đủ sức cành tranh với các đối thủ khác thị trường EU, Việt Nam cần xúc tiến mạnh mẽ việc gia nhập WTO, đặc biệt là khi Hiệp định đa sợi đã được thay thế bằng Hiệp định về hàng dệt may. Để thấy được sự cần thiết của việc gia nhập WTO đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU.
Theo MFA, các nước nhập khẩu có thể thông qua các thoả thuận song phương hoặc trong trường hợp không đi đến thoả thuận song phương có thể đơn phương thiết lập hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may đối với từng nước xuất khẩu và mức tăng của hạn ngạch thay đổi tuỳ theo mỗi nước. Như vậy, MFA điều tiết buôn bán hàng dệt may không tuân thủ nguyên tắc không phân biệt đối xử và loạI bỏ hạn chế số lượng của GATT.
Người ta cho rằng MFA đã làm biến dạng hình thức buôn bán và sản xuất các sản phẩm dệt may, các nước được hưởng lợi trong buôn bán quốc tế hàng dệt may là các nước công nghiệp phát triển.
Đặc biệt là kể từ 11/01/2007 Việt Nam chính thức tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO, khung pháp lý về thị trường thương mại dịch vụ giữa Việt Nam – EU đã được mở hoàn toàn. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam thuận lợi hơn trong việc tham gia các thị trường trên thế giới.
3.3.2. Cải cách hệ thống để đẩy mạnh xuất khẩu
Việc áp dụng thuế giá trị gia tăng thay cho thuế doanh thu vừa qua của Nhà nước đã tạo ra một môi trường bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Thuế doanh thu đánh trùng lặp nhiều lần đối với giá trị sản phẩm.
Ví dụ: doanh nghiệp may phải chịu thuế doanh thu trên giá trị mà doanh nghiệp phải từ doanh nghiệp khác để sản xuất, trong khi đó, phân xưởng may của một doanh nghiệp dệt dùng vải của doanh nghiệp mình thì không phải tính thuế. Do đó, nhiều doanh nghiệp dệt đã mở thêm phân xưởng may ngoài mục đích tạo công ăn việc làm cho công nhân còn vì lí do tránh bị đánh thuế trùng lặp như doanh nghiệp may. Vì vậy chi phí sản phẩm may mặc của doanh nghiệp may cao hơn phân xưởng may của doanh nghiệp dệt, gây ra tình trạng cạnh tranh không bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Khi áp dụng thuế giá trị gia tăng thì khắc phục được điều này, chi phí sản xuất của các doanh nghiệp sẽ giảm do nỗ lực của từng doanh nghiệp chứ không phảI do cơ chế tính thuế.
Tuy nhiên chính sách thuế đối với sản phẩm dệt may của chúng ta cũng còn rất nhiều bất cập. Cách đánh thuế vào nguyên liệu là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trong kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU, tỉ lệ sản phẩm gia công chiếm 80%. Đối với doanh nghiệp may, nếu dùng vải nội, phải bỏ vốn ra để mua vải vừa phải chịu mấy lần tính thuế ( thuế sợi, vải mộc, vải thành phẩm…), còn trong phương pháp gia công, hiện nay doanh nghiệp may dùng tất cả các nguyên liệu phụ của đối tác EU và không phải chịu thuế (tạm nhập, tái xuất).
Trước tình hình đó, nên miễn giảm thuế cho các sản phẩm dùng nguyên liệu trong nước giảm thuế với vải sản xuất bằng thiết bị mới… Ngoài ra cần phải xem xét lại thời hạn 90 ngày đối với nhập nguyên vật liệu và tái xuất của ngành may. Bởi lẽ từ khâu kí kết hợp đồng, mua nguyên liệu, sản xuất và xuất khẩu khó thực hiện trong thời gian đó, tuy nhiên nếu kéo dài thời hạn với hàng tạm nhập và tái xuất thì nước có thể bị thất thu về thuế nhưng thời hạn này cũng phảI đủ để không gây khó khăng cho các doanh nghiệp gia công. Theo các chuyên gia thì thời hạn lí tưởng là tư 120 ngày đến 180 ngày.
3.3.3. Đẩy mạnh phát triển nguyên liệu trong nước
Để thực hiện được mục tiêu về diện tích và sản lượng các loại nguyên liệu. Đến năm 2015, diện tích cây bông vải đạt 30.000ha, sản lượng bông xơ đạt 20.000 tấn, đến năm 2020 đạt 76.000ha diện tích và sản lượng đạt 60.000 tấn bông xơ. Để chương trình phát triển cây bông vải thực hiện theo đúng mục tiêu thì ần nguồn vốn đầu tư khoảng 33,264 tỷ đồng.
Từ nguồn vốn này, với vai trò là đơn vị hạt nhân thực hiện chương trình phát triển cây bông, Tập đoàn Dệt may Việt Nam sẽ lập ra quỹ bình ổn giá thu mua bông hạt cho người trồng bông. Quỹ bình ổn giá được sử dụng trong trường hợp giá bông trên thị trường giảm thấp hơn chi phí sản xuất hay giá bông trong nước thấp hơn giá bông thế giới khiến DN, người trồng bông bị thua lỗ. Như vậy việc thành lập quỹ bình ổn sẽ không chỉ giúp người trồng bông không bị thua lỗ mà còn giúp tạo được mối liên kết bền chặt giữa DN và người trồng bông; Cho các DN trong ngành vay với lãi suất ưu đãi để mua bông hạt cho người trồng bông.
Bên cạnh đó, tập đoàn sẽ đầu tư xây dựng trang trại trồng bông tập trung và hỗ trợ nông dân cơ giới hóa, tưới tiêu, bảo quản, sơ chế… nhằm nâng cao hơn nữa năng suất trồng bông và hướng tới một ngành sản xuất bông chuyên nghiệp, bền vững. Tăng cường công tác nghiên cứu nhằm tìm ra những giống bông, phương pháp canh tác cây bông mang lại năng suất, chất lượng cao. Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho công tác nghiên cứu và lực lượng khuyến nông cây bông. Ngoài ra nhu cầu về tơ sợi tổng hợp cũng rất lớn: xơ
PE, sợi PETEX . Trong khi đó cho tới nay mới chỉ có nhà máy dệt Hualon do Malaysia đầu tư ở Đồng Nai sản xuất được tơ sợi tổng hợp và khi nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động thì việc sản xuất xơ PE có triển vọng. Nhưng nhìn chung vẫn rất thấp, chính vì thế chúng ta cần phảI có những biện pháp để thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực này.
3.3.4. Nghiên cứu triển khai và đào tạo nhân lực
Biện pháp này chú trọng đến các hướng chính sau:
+ Chú trọng công tác đào tạo cán bộ quản lí, kĩ thuật và công nhân lành nghề. Lập kế hoạch và triển khai việc đào tạo lạI và cập nhập thông tin cho các cán bộ chủ chốt. Có cơ chế gắn kết Viện- Trường- Doanh nghiệp trong nghiên cứu- đào tạo và triển khai một cách có hiệu quả.
+ Củng cố Viện mẫu thời trang thành một cộng cụ mạnh và nghiên
cứu ứng dụng phát triển ngành. Trang bị phòng thí nghiệm cho Viện
và phân viện kinh tế- kĩ thuật dệt- may để xin nhà nước bổ sung chức
năng kiểm định quốc gia về hàng dệt may.
3.3.5. Đẩy mạnh phương thức mua nguyên liệu, bán thành phẩm
Như đã trình bày ở những phần trước, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU trong những năm qua rất khả quan, nhưng phương thức gia công thuần tuý lại chiếm một tỉ lệ rất lớn 80% trong kim ngạch xuất khẩu. Mặc dù trong giai đoạn đầu phương thức này đã giải quyết một số lượng lao động lớn, giúp doanh nghiệp dệt may Việt Nam bước đầu tập dượt tìm hiểu về thị trường EU, đưa về cho đất nước một số lượng ngoạI tệ ít ỏi, nhưng đổi lạI uy tín sản phẩm (giá cả, sức mua, tâm lí tiêu dùng, sự biến đổi sở thích…) ta không nắm được. Phương thức này cũng hạn chế sự năng đọng của các doanh nghiệp dệt may kinh doanh theo kiểu “ ngồi buôn” chứ không phải “đi buôn”.
Vì thế, để ngành dệt may Việt Nam phát triển bền vững, để khai thác hiệu quả thị trường EU chúng ta phảI dần tỉ lệ gia công, nâng dần phương thức “mua đứt bán đoạn” trong kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU. Để làm được đIều này cần có sự hỗ trợ của nhà nước thông qua một hệ thốnh chính sách: chính sách đầu tư, tín dụng, thuế, tỉ giá hối đoái, nguyên liệu…. Đặc biết là các doanh nghiệp dệt may cần phải nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã đáp ứng đúng thị hiếu của người tiêu dùng, tạo uy tín để chiếm lĩnh thị trường để có đủ sức cạnh tranh với các đối thủ khác trên thị trường EU.
Kết luận
Liên minh Châu Âu như đã phân tích là tổ chức duy nhất có mục tiêu cơ bản và lâu dài là thống nhất cả một châu lục về cả kinh tế và chính trị dựa trên các nguyên tắc vừa linh hoạt vừa thực dụng và mang tính quốc gia ngày càng rõ rệt. Trong thời gian qua, EU đã tồn tại không ngừng phát triển và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong đời sống quốc tế nói chung và các nước trong khối EU nói riêng.
Trước những thành công mà EU đã đạt được trong tiến trình nhất thể hoá kinh tế- tiền tệ về chính trị Việt Nam đang ngày càng chú trọng tới việc đẩy mạnh quan hệ hợp tác kinh tế thương mại với EU, đặc biệt là trong lĩnh vực dệt may
Kết quả nghiên cứu cho thấy, từ những Hiệp định dệt may được kí kết đến nay quan hệ thương mại Việt Nam- EU trong lĩnh vực dệt may đã có những bước phát triển khả quan. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU không ngừng tăng lên. Nhiều mặt hàng cao cấp của ngành dệt may Việt Nam đã đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng của người châu Âu “đẹp nhưng phải rẻ”. Ngược lại, ngành dệt may Việt Nam cũng đã tiêu thụ một số lượng lớn thiết bị, máy móc, vật tư, nguyên liệu và hoá chất nhập từ EU. Những Hiệp định dệt may Việt Nam- EU được kí với thiện chí của hai bên đã hứa hẹn một tương lai sáng sủa cho sự hợp tác trong lĩnh vực này.
Những năm tới, ngành dệt may Việt Nam cần phải có những chính sách, biện pháp phù hợp để khắc phục những khó khăn, phát huy các lợi thế của mình nhằm khai thác các thị trường EU hiệu quả hơn. Góp phần phát triển ngành dệt may ngang tầm nhiệm vụ- ngành công nghiệp xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Với việc tiếp tục duy trì quan điểm phát triển và mở rộng quan hệ hợp tác với tất cả quốc gia khác như trên thế giới vì lợi ích trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền của mỗi dân tộc do Đảng ta đề ra sẽ tạo điều kiện cho sự hội nhập và phát triển kinh tế Việt Nam. Với thiện chí và tiềm năng to lớn của Việt Nam và EU chúnh ta tin tưởng rằng quan hệ hợp tác Việt Nam- EU nói chung và trong lĩnh vực dệt may ngày càng phát triển tốt đẹp.
Tài liệu tham khảo
1. TS. Kim Ngọc - Chiến lược đầu tư của EU đối với các nước trong khu vực và Việt Nam - Tạp chí nghiên cứu Châu Âu tháng 1/1995
2. TS. Kim Ngọc - Việt Nam EU hợp tác kinh tế và thương mại. Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới số 4/1996.
3. Trần Kim Dung - Chiến lược mới của Liên minh Châu âu đối với Châu á. Tạp chí nghiên cứu Châu âu số 3 + 4 năm 1996.
4. Trần Kim Dung năm 1997 - Một bước tiến mới vững chắc trong quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam EU. Tạp chí nghiên cứu Châu Âu tháng 1/1998.
5. Nguyễn Thị Quế - Việt Nam EU. Tạp chí nghiên cứu Châu âu số 2/1998.
6. Dự án quy hoạch tổng thể phát triển ngành dệt may đến năm 2000 - 2010 của Tổng công ty dệt may Việt Nam.
7. Vũ Hà Quang - Hiệp định dệt may Việt Nam EU những sửa đổi mới tạp chí Thương mại số 15/1998.
8. Đỗ Thúy Loan - Lối thoát cho hàng dệt may Việt Nam sang thị trường phi hạn ngạch - Báo thương mại ngày 27/2/1999.
9. :Hải quan Việt Nam
10. : Tổng cục thống kê
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kinh_te_quoc_te_663.docx