Mục lục
I. Mục lục 1
II. Lời mở đầu 2
III. Dầu gội đầu 3
1. Lịch sử hình thành dầu gội đầu 3
2. Tóc và các vấn đề của chúng 3
3. Những vấn đề gặp phải 4
4. Các thành phần và chức năng của dầu gội đầu 6
5. Một số chất hoạt động bề mặt chính 9
a. Chất điều hòa 10
b. Chất chống gàu 11
c. Chất làm đục và óng ánh xà cừ 13
d. Chất làm sệt/điều chỉnh độ nhờn 13
e. Chất ổn định bọt 14
f. Các chất vitamin 14
g. Chất bảo quản/chất chống oxi hóa 14
h. Các chất màu và hương liệu 15
i. Các chất gây hại 16
6. Ví dụ các đơn 17
7. Dầu xả 23
a. Nguyên tắc lập đơn 23
b. Các công thức mẫu 24
IV. Kem đánh răng 26
1. Lịch sử hình thành 26
2. Khái niệm đại cương về cấu trúc miệng 27
3. Những vấn đề chính của răng 27
4. Các thành phần chính và chức năng của chúng 29
a. Nước 29
b. Các chất tẩy rửa 30
c. Các chất mài mòn 30
d. Các chất làm sệt 31
e. Các tác nhân làm dịu 32
f. Các chất làm đục 32
g. Các loại màu 32
h. Các chất ổn định và điều chỉnh pH 32
i. Các hương vị 33
j. Chất bảo quản 34
5. Các công thức mẫu 38
V. Kết luận 41
41 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 11912 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kem đánh răng - Dầu gội đầu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Mục lục 1
Lời mở đầu 2
Dầu gội đầu 3
Lịch sử hình thành dầu gội đầu 3
Tóc và các vấn đề của chúng 3
Những vấn đề gặp phải 4
Các thành phần và chức năng của dầu gội đầu 6
Một số chất hoạt động bề mặt chính 9
Chất điều hòa 10
Chất chống gàu 11
Chất làm đục và óng ánh xà cừ 13
Chất làm sệt/điều chỉnh độ nhờn 13
Chất ổn định bọt 14
Các chất vitamin 14
Chất bảo quản/chất chống oxi hóa 14
Các chất màu và hương liệu 15
Các chất gây hại 16
Ví dụ các đơn 17
Dầu xả 23
Nguyên tắc lập đơn 23
Các công thức mẫu 24
Kem đánh răng 26
Lịch sử hình thành 26
Khái niệm đại cương về cấu trúc miệng 27
Những vấn đề chính của răng 27
Các thành phần chính và chức năng của chúng 29
Nước 29
Các chất tẩy rửa 30
Các chất mài mòn 30
Các chất làm sệt 31
Các tác nhân làm dịu 32
Các chất làm đục 32
Các loại màu 32
Các chất ổn định và điều chỉnh pH 32
Các hương vị 33
Chất bảo quản 34
Các công thức mẫu 38
Kết luận 41
Lời nói đầu
“Một thương tóc bỏ đuôi gà Hai thương ăn nói mặn mà có duyên Ba thương má lúm đồng tiền Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua”.
Trong số mười cái dễ thương của các bà, các cô, mái tóc được xếp hàng đầu, hàm răng đen chiếm hạng tư. Điều đó đủ nói lên rằng xã hội Việt Nam ngày xưa rất trọng tóc và răng, kể cả tóc và răng của các ông. Lịch sử mái tóc, hàm răng của dân ta cũng đã trải qua nhiều cuộc thăng trầm, đổi thay như vận nước. Nhưng các sách chỉ ghi chép một cách tổng quát. Đại khái chúng ta được biết:
Về thời Hùng Vương, ai cũng xăm mình. Ai cũng búi tó hoặc cắt tóc ngắn (nhưng cũng có người bỏ xoã tóc hoặc tết đuôi xam). Ai cũng thích đeo hoa tai và nhiều vòng tay. Người ta nhuộm răng, ăn trầu.
(Uỷ ban Khoa Học Việt Nam, Lịch sử Việt Nam, tập 1, Khoa Học Xã Hội, 1971, tr. 48).
Sở dĩ nói rằng đến gần cuối đời nhà Lê là bởi vì năm 1789, trước lúc xuất quân dẹp giặc Thanh, Nguyễn Huệ đã tuyên bố:
“Đánh cho để dài tóc Đánh cho để đen răng Đánh cho nó chích luân bất phản Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ…”
(Lịch sử Việt Nam, sđd, tr. 353).
Và như quan niệm về “Cái răng cái tóc là vóc con người”, chắc hẳn chúng ta ngày càng phải quan tâm nhiều đến hàm răng, mái tóc hơn. Chính vì lẽ đó, việc chăm sóc hàm răng, mái tóc là nhu cầu của mọi người mọi nhà. Tuy nhiên, không phải ai cũng chăm sóc đúng hay hiểu biết các sản phẩm chăm sóc đó là: Kem đánh răng & dầu gội đầu về thành phần cũng nhu các thành phần nên tránh trong mỹ phẩm trên.
Từ những lý do trên, nhóm 1 đã tìm hiểu và trình bày những gì mình biết về những vấn đề trên. Trong quá trình thực hiện và trình bày không tránh khỏi những sai sót, rất mong sự thông cảm của cô và các bạn, nhóm 1 xin chân thành cảm ơn!
Dầu gội dầu
Lịch sử hình thành dầu gội đầu
Dầu gội đầu từ trong tiếng Anh có nguồn gốc từ Tiếng Hin-ddi chāmpo. Dean Mahomed giới thiệu các thực hành để phòng tắm hơi Basil Cochrane trong khi làm việc ở đó tại London vào đầu thế kỷ 19. Khi đó, xà phòng thông thường đã được sử dụng trong việc gội đầu. Tuy nhiên, xà phòng đã làm cho tóc bị khô và dễ rụng.
Trong giai đoạn đầu của dầu gội đầu, xà phòng tạo mẫu tóc Anh cạo đun sôi trong nước và bổ sung các loại thảo mộc để cung cấp cho tóc và hương thơm. Kasey Hebert là người đầu tiên được biết đến nhà sản xuất dầu gội đầu.
Ban đầu, xà phòng và dầu gội đầu là sản phẩm rất giống nhau, cả hai có chứa tự nhiên có nguồn gốc từ cùng một chất hoạt động bề mặt (một loại chất tẩy rửa). Dầu gội đầu hiện đại như ngày nay được biết đến lần đầu tiên được giới thiệu trong những năm 1930 bởi Drene, dầu gội đầu tiên có chất hoạt động bề mặt tổng hợp.
Dưới đây là bảng số liệu thể hiện mức sử dụng dầu gội đầu trên thế giới từ 1991 đến 1996:
Trước khi đi vào chi tiết của chính các sản phẩm, điều cần thiết là chúng ta phải nhắc lại cách vắn tắt một vài tín chất chung về tóc và các vấn đề do việc chăm sóc tóc đặt ra.
Tóc và các vấn đề của chúng
Mục đích của dầu gội đầu là làm sạch ra. Tóc mọc từ một lõm dưới da đầu gọi là nang tóc.
Tóc gồm hai phần:
Nang tóc (dưới dạng củ hành), phần dưới loe ra, bao bọc chân tóc với rất nhiều huyết quản.
Thân tóc bao gồm ba lớp đồng tâm, từ trung tâm ra vòng ngoài , người ta phân biệt:
Tủy
Cortex hay vỏ là thành phần chính của tóc
Biểu bì ngoài, hợp thành bởi keratin. Chất này là một scleroprotein cấu thành bởi một số lớn các amin – axit, mà chất chủ yếu là cystin. Những tế bào thuộc một phần ba bên dưới của nang tóc sản sinh ra keratin.
Ba lớp này được bao quanh bởi hai lớp bao và một chất không định hình, một màng như thủy tinh.
Mỗi sợi tóc đều trải qua ba giai đoạn:
Giai đoạn anagen là một thời kỳ biến tăng trưởng mà thời gian trung bình là 3 năm.
Giai đoạn catagen là một thời kỳ chuyển tiếp kéo dài khoảng 3 tuần. Trong giai đoạn này nang không hoạt động.
Giai đoạn telogen là một giai đoạn ngừng nghỉ. Tóc chết rụng xuống, bị đẩy ra bởi một sợi tóc nhỏ mới, ở giai đoạn anagen, thay thế vị trí của nó.
Sợi tóc mọc chừng 0,35 mm mỗi ngày. Nó mọc vào mùa hè nhanh hơn mùa đông, ban đêm hơn ban ngày và tóc nữ giới mọc nhan hơn nam giới.
Mỗi cá nhân có khoảng 100000 đến 150000 sợi tóc. 85% tóc đều thuộc giai đoạn anagen ở người trẻ, trong khi số tóc thuộc giai đoạn telogen gia tăng theo tuổi tác.
Mỗi ngày tóc rụng từ 50 đến 100 sợi thuộc giai đoạn telogen được xem là bình thường.
Toàn bộ bề mặt của tóc ở phụ nữ, từ 4 đến 8 m2. Như thế, chính bề mặt này cần phải gội sạch, trong khi vẫn để ý đến sợi tóc có thể có một độ xốp ít nhiều quan trọng tùy theo tóc phơi ra nắng, thời tiết hay do vài tác nhân hóa học.
Những vấn đề mà tóc gặp phải
Nếu người ta quan sát một sợi tóc dài, suốt chiều dài của tóc có thể phân biệt được 4 loại trạng thái:
Gần chân tóc, tóc còn mới, vậy ở trong điều kiện tốt , các biểu bì đều đặn và bao phủ hoàn toàn lớp vỏ cortex.
Cách chân tóc 5cm, tóc đã già hơn, đã chịu những sự tấn công về mặt cơ học (lược, bàn chải, lau khô bằng khăn tắm…), các cạnh biểu bì bị hư hại và gãy.
Về phía đuôi của sợi tóc, đa số biểu bì không còn nữa (vì những sự tấn công về mặt cơ học và hóa học, các v.v…), vỏ cortex bây giờ bị phơi ra.
Đoạn cuối của sợi tóc bị chẻ ra thành nhiều phần nhỏ: toàn bộ biểu bì bị mất đi, vỏ cortex hoàn toàn bị phơi trần, do đó dễ bị gãy.
Các giải thích về tính dễ gãy của sợi tóc phải được bổ sung bởi hai điểm then chốt khác dạng nhập cuộc: đó là các vết bẩn và gàu.
Các chất bẩn của tóc
Các chất bẩn của tóc đa dạng và có nhiều nguồn gốc khác nhau. Chất nhờn và các chất dầu tạo nên phần chủ yếu. Sơ đồ hình 9.8 làm nổi bật sự hiện diện của tuyến chất nhờn và trong nang. Sự tiết ra chất nhờn này thay đổi theo độ tuổi: yếu trong thời gian tuổi thơ, tăng ở tuổi thiếu niên, và đạt mức tối đa vào tuổi trưởng thành. Sau đó, sự tiết chất nhờn này lại giảm theo năm tháng.
Người ta cũng tìm thấy các mảnh keratin xuất phát tử đóng vảy ở da đầu, các chất protein, các chất thành phần hữu cơ hay khoáng chất trong mồ hôi, các lớp bụi bám xuống do không khí xung quanh, những sản phẩm dùng để chải tóc hay chăm sóc tóc còn lưu lại (các “gel”, chất xịt tóc, kem làm bóng tóc,…). Và chính chất nhờn đã giữ lại các lớp bụi bẩn và các mảnh vụn từ bất cứ nguồn gốc nào. Nó tạo nên yếu tố quyết định tiến trình gội rửa.
Các lipid của tóc tạo nên một hỗn hợp rất phức tạp biến đổi theo độ tuổi, giới tính, cách ăn uống và các mùa. Các lipid này có thể chịu những sự biến đổi về mặt hóa học như thủy phân và oxyt hóa. Những biến đổi này có thể thay đổi những đặc tính vật lý của chúng, chẳng hạn độ đặc và tính phân cực của chúng. Chúng là những yếu tố quan trọng giúp chúng cản trở việc gội rửa.
Lưu ý: chứng da nhờn (được các chuyên viên khoa da sử dụng) chỉ rõ sự tiết quá nhiều của các tuyến chất nhờn. Chứng này ở da đầu và ít nhiều có trách nhiệm đối với tóc nhờn. Hậu quả thẩm mỹ thật đáng tiếc:
Tóc nhuốm dầu rất nhanh chóng
Tóc nhiều dầu rất chóng bẩn vì bụi bẩn kết tụ
Các kiểu làm tóc không được bền lâu
Hiện tượng peroxit hóa chất nhờn làm phát sinh các mùi khó chịu
Gàu
Các tế bào ở bề mặt của lớp sừng bị hủy hoại và làm phát sinh nhiều mảnh keratin nhỏ hay các vảy da li ti là điều bình thường. Nhưng nếu chứng sùi da trở nên bất bình thường, biểu bì sẽ tạo nên gàu thật sự. Đó là các loại vảy màu xám hay nâu nhạt tản mát trong bộ tóc và rơi xuống các cổ áo. Các gàu này có thể gội sạch cách đơn giản giản nhưng chúng tái diễn một cách mau lẹ. Người ta gọi chúng là gàu khô.
Gàu liên quan đến tuổi tác: chúng xuất hiện ở lứa tuổi dậy thì, gia tăng cho đến 20-25 tuổi, rồi giảm xuống. Chúng quan trọng vào mùa đông hơn mùa hè và từ 10-15% dân số (nam và nữ) đều gặp vấn đề này.
Các nguyên nhân gây nên gàu chưa được làm sáng tỏ hoàn toàn. Ngày nay người ta đưa ra hai giả thuyết:
Sự mỏng manh của lớp sừng gây ra chứng sùi da không bình thường. Nói cách khác, lớp bề mặt của da được thay mới quá nhanh làm mất nhiều tế bào hơn: cái gì xảy ra là gàu.
Sự tăng nhanh không bình thường của các vi khuẩn hay nấm: da dầu thu nhận rất nhiều vi khuẩn từ ngoài môi trường xung quanh. Các vi khuẩn thuộc ba nhóm: các vi khuẩn ưa khí, các vi khuẩn kỵ khí, và nhất là nấm men. Da dầu, dày đặc các tuyến tiết nhiều chất nhờn, tạo nên một môi trường lý tưởng để các vi sinh vật tăng trưởng. Nhưng các điều kiện đặc biệt này dường như chỉ thích hợp cho povale, bởi vì loại men nấm này chiếm 75% vì thực vật ở những người nhiều gàu so với 45% trên da đầu bình thường.
Các chất thành phần và chức năng của dầu gội đầu:
Vai trò chính của dầu gội đầu là gội sạch tóc, nghĩa là tẩy hết các bụi bẩn do bụi bặm, dầu và các tế bào đã chết mà chúng ta đã nói đến trên đây. Hơn nữa, dầu gội đầu phải hội đủ một số các thuộc tính để có thể cạnh tranh đặc biệt:
Dễ dàng hòa tan bất chấp độ cứng hay mềm và không hình thành các chất kết tủa.
Gội sạch hữu hiệu (dù bất cứ độ cứng nào) mà không làm bớt chất dầu (như thế chất hoạt động bề mặt phải có một hiệu quả tạo nhũ tương và hiệu quả tẩm ướt tốt).
Để cho tóc mềm mại, mượt mà dễ dàng chải chuốt, ít tĩnh điện hơn.
Tạo bọt ngay và nhiều khi bôi dầu, (đó là yêu cầu của người tiêu dùng!). Trái lại, bọt này phải tiêu tan nhanh chóng khi xả và không làm cay mắt (cho dù giây lát) khi mắt chạm phải.
Tạo một hiệu năng tối đa với các độ ph trung tính hay kiềm nhẹ.
Có hương thơm dịu.
Không ăn da tay người tiêu dùng.
Không làm ngứa ngáy da đầu.
Trông đẹp mắt (màu, óng ánh và độ nhờn tốt).
Giá cả phải chăng.
Trong vài trường hợp đặc biệt, dầu gội đầu còn phải giải quyết vài vấn đề được nêu trên đây (dầu gội đầu dùng để chữa bệnh: chống gàu).
Nhằm đáp ứng các yêu cầu khẩn thiết khác nhau này, người ta phải chọn lựa gắt gao các nguyên liệu được sử dụng, mà chúng ta sẽ triển khai trong các trang sau đây:
Các chất hoạt động bề mặt
Ưu điểm
Các chất anionic
Không đắt lắm, ít nguy hiểm đối với mắt
Các loại xà bông:
Vô cơ (Na, K)
Không lấy đi quá nhiều chất dầu mỡ.
Hữu cơ (alkanolamin)
để tóc mềm mại và dễ dàng chải chuốt (trong nước mềm: tẩy giặt tốt và tạo bọt tốt).
Khuyết điểm
Độ kiềm của các dung dịch (vấn đề về da).
Cảm ứng với canxi
Tính gội sạch và bọt giảm trong nước cứng.
Kết tụ loại xà bông canxi: tóc mất
Bóng (tóc lưu mờ).
Các chất sunfonat
Ưu điểm
LAS
Khả năng lấy đi chất dầu cao(3-4% đối với các dầu đặc biệt cho tóc có dầu).
Không thủy phân trong kiềm (các
Acidsulfonic là các axít mạnh).
Không đắt tiền.
Alpha olefin sulfonat
Ổn định tốt với độ ph thấp ,dung nạp nước cứng.
Khả năng tạo bọt vẫn cao khi có chất nhờn.
Độ đục thấp.
Đặc tính hòa tan hóa tốt /ít màu sắc/ít có mùi.
Vừa phải các vấn đề tác động lên da.
Sulfosccinat
Cá đặc tính tẩy rửa tốt
Khả năng tạo bọt tốt
Rất nhẹ đối với da
Không làm cay mắt
Khuyết điểm
Xu hướng để thủy phân nhóm este của chúng tốt hơn nên dùng chúng trong khu vực độ pH từ 6 đến 8(lý tưởng là 6,5).
Sulfoalkyl amit của axit béo
Phân tán tốt các xà bông canxi cùng cảm giác như các sản phẩm góc xà bông.
Ví dụ:
N-axyltaurit
N-metyl taurit
Axyl isethionat
Các đặc tính có thể so sánh với sulfosccinat
Cũng có các vấn đề về tính ổn định.
Ít hòa tan trong nước lạnh:ưu tiên được sử dụng trong các dầu gọi đầu đục.
Thí dụ:
Sulfat
Alkylsunfat
PAS
Alkyl ete sunfat
Các dây dài: tẩy rửa tốt, các đặc tính nhũ tương hóa và làm hòa tan tốt.
Thí dụ:
R:c12-c14 số OE giữa 2 hay 3 LES
Khi số OE yếu: độ hòa tan giảm trong nước lạnh.
Khả năng tạo bọt tốt với sự dung nạp tốt đối với da.
Sulfat diglycolamit
Ổn định trong dung dịch nước và có thể
Được sử dụng trong dầu gội đầu.
Carboxylat N –axylaminoaxit
Khả năng tạo bọt tốt, các đặc tính tẩy rửa tốt
Axylsarcosinat
Hòa tan trong nước cứng đễ hơn xà bông.
Không hại da và tóc
Cung cấp cho tóc và da vẻ mềm mại mượt mà.
Polyoxyetylen
Các đặc tính tẩy rửa thỏa đáng
Khả năng phân tán các xà bông canxi tốt.
Dễ xả
Cùng những đặc tính như các muối N-acyl Amin axit. Khi n cao chúng tương hợp với các cationic.
Dễ hòa tan ở độ pH thấp.
Ít tạo bọt hơn các chất LES
Các cationic
Làm mềm tóc sau khi gội
Hoạt động như các chất ngưng kết (tẩy giặt yếu).
Hoạt tính về mặt sinh lý và làm cay ngứa, ngoại trừ các amin-este có dây dài, khi có nhiều nhóm OH, thì khả năng gây cay ngứa yếu.
Các chất lưỡng tính và các chất hoạt động bề mặt lưỡng cực
Alkyl amidobetain
Khả năng tác động trực tiếp mạnh (được dùng trong các dầu gội đầu dùng cho tóc bạc và tóc nhuộm).
Các chất lưỡng tính và ion lưỡng tính ít độc hai cà ít làm rát da hơn các cationic đồng đẳng của chúng.
Chúng thường kết hợp với chất hoạt động bề mặt khác (chất anionic và NI) để làm dầu gội đầu dịu nhẹ (dành cho các bé sơ sinh).
Các chất hoạt động bề mặt NI Chất alkanolamit
Monoetanolamit
Gia tăng hiệu năng tạo bọt
Làm ổn định các công thức dựa trên alkylsunfat
Hay dietanolamit
stearyl etanolamit: được dùng như chất làm đặc và tạo xà cừ.
Oleyl etanolamit: cũng được dùng để làm mượt tóc.
Các dẫn xuất polyetoxy hóa
Rượu béo etoxy hóa
Đặc tính tẩy rửa tốt (ít tạo bọt n=2-3 số C trong R. Khi n cao, khả năng làm rát da giảm.
Các estepolyol
Các este béo polyetoxy hóa là chất thành phần căn bản của dầu gội đầu dành cho bé sơ sinh (rất dịu). Chúng giảm đến mức tối thiểu khả năng làm rát da vì các anionic được dùng kết hợp với các este sunfat và betain. Rất tương hợp với da khả năng tạo bọt đặc biệt tốt.
Các oxitamin
đa chức năng
Hợp chất bán cực ationnic
ổn định bọt
Chủ yếu trong môi trường axit
Điều chỉnh độ nhờn
Có tác dụng làm mượt tóc.
Có tiềm năng chống làm rát da.
Bảng 1: Các thành phần có thể có trong dầu gội đầu.
Một chất hoạt động bề mặt chính.
Bảng 2: hệ thống các chất hoạt động bề mặt được sử dụng nhiều nhất.
Chất hoạt động bề mặt chính
Chất đồng hoạt động bề mặt
Thí dụ
Các đặc điểm
Thí dụ
Chức năng
Lauryl ete sunfat
(LES)
Không độc hại
Tẩy rửa tốt
Khả năng tạo bọt tốt
Ít rát da
Ít /không có màu sắc
Ít /không có mùi
Dễ mua
Giá cả trung bình
Coco amido
Propyl
Betain: CAPP
Gia tăng bọt khi có các vết bẩn
Gia tăng độ nhờn
Cải thiện độ dịu (hiệu quả yếu).
Làm giảm hiện tượng khô da.
Đối với các nhà sản xuất khác người ta sử dụng nhiều chất hoạt động bề mặt khác trong bảng danh sách dài các chất hoạt động bề mặt đã cho trên đây.
Chất điều hòa
Một vài chất tẩy rửa có tác dụng mạnh trên chất dầu trên tóc cũng như trên tay, sự việc này không phải là một điểm tốt cho dầu gội. Hơn nữa chất tẩy rửa có khuynh hướng bị tóc hấp thụ, khiến cho tóc dễ gãy và khó chải chuốt.
Vì lý do này người ta dùng vài chất thành phần vô hiệu hóa các tác dụng này:
Chất lanolin
Chất lanolin và các chất dẫn xuất của lanolin, cồn cetyl tạo các kết quả tốt với tỉ lệ thấp (nếu tỉ lệ >2%, khả năng tạo bọt dầu gội dầu bị ành hưởng).
Chất lexitin
Chất lexitin cũng có thể được dùng ở tỉ lệ thấp. Trứng / lòng trứng (chứa chất lexitin, cholesterol và các chất protein) cũng được sử dụng. Tác dụng bảo vệ của chúng (chất keo) giúp chúng làm mượt bộ tóc.
Các polime cationic
Trong các polyme, người ta có thể kể tên chẳng hạn các homopolyme hay các copolyme cationic làm ra bằng cách polyme hóa một chất đơn phân vinyl, nối nhóm amino thế bốn lần hay một amin được tứ phân với một chất đơn phân khác có thể hòa tan trong nước như acrylamit, metacryamit…nhưng các polyme được sử dụng nhiều nhất là những chất phát sinh từ gôm cây “guar” như clorua hydroxyl propyl trimonium của gôm guar có công thức là:
Được thương mại hóa dưới tên gọi là Jaguar C-13-S, C17,…
Các chất silicon
Chất silicon, trong đó người ta có thể kể ra chẳng hạn:
Chất polydimetyl silosan có trọng lượng phân tử cao (trên 200.000) có công thức:
Chất dimeticonol có công thức:
Người ta có thể cùng nhiều chất hoạt động bề mặt dịu nhẹ như là chất phụ gia, chạng hạn:
Các chất este sorbitan polyetoxy hóa của axit béo.
Tác dụng của những chất làm mượt tóc này là do chúng hấp phụ bởi sợi tóc nhanh hơn chất hoạt động bề mặt thuộc loại alkyl sulfat hay alkyl aryl sunfonat, do đó cản trở sự hấp phụ của chúng.
Các lý thuyết khác kết luận rằng các chất làm mượt tóc dính chặt lúc xả (khi dầu xã được pha quá loãng) hay chúng lại bao quanh các mixen của chất tẩy rửa.
Các dầu gội đầu dùng chữa bệnh
Vài cách thành lập công thức chứa những chất chuyên biệt giúp chữa trị các “chứng khác thường” của tóc hay da đầu. Trong giai đoạn này, chúng ta chủ yếu đề cập đến trường hợp tóc có gàu.
Chất chống gàu
Có thể có ba cách tác động
Giảm tốc độ thay thế các tế bào mới.
Ngăn cản sự tăng trưởng của các loại men nấm hầu như là nguyên nhân chính sản sinh gàu “P-ovale”.
Giảm độ phần trăm acid béo tự do trên da đầu, chúng tạo nên một mội trường nuôi các vi sinh vật, trong đó có các men nấm.
Về điểm một, người ta có thể suy nghĩ đến cách củng cố lớp sừng để giới hạn da đóng vảy. Trong trường hợp này, việc sử dụng các sản phẩm phân giải da như lưu huỳnh hay sulfua seleni, có thể mang lại những hiệu quả tốt. Tuy nhiên, các sản phẩm này có khả năng làm mỏng lớp sừng đó, khiến dầu xuất hiện, thuận lợi các vi sinh vật.
Cũng nên lưu ý rằng chất disunfua seleni, do tính độc hại tương đối của nó, được sử dụng nhất là trong các dầu gội đầu dùng để chữa bệnh bán tại các nhà thuốc.
Về điểm 3, người ta cũng có thể dùng dầu gội đầu dành cho tóc nhiều dầu mà chúng ta sẽ nói ở phần sau.
Để hạn chế sự tăng trưởng của vi sinh vật, trong đó có men nấm povale, người ta dùng các chất diệt khuẩn. Các chất thông dụng nhất là:
Chất pyridinthion kẽm (ZnPTO hay ZPTO) có công thức:
Chất pirocton olamin : etanolamin (octopirox)
Sản phẩm thứ hai này thường được ưa chuộng hơn chất ZnPTO, vì chất này có vần đề về sự ổn định (ở nhiệt độ thấp) và cũng về tính độc hại nữa.
Chất pirocton olamin :
Dễ hòa tan hơn trong các chất hoạt động bề mặt.
Ít độc hại.
Dễ sử dụng.
Ổn định tốt.
Nhưng giá thành của nó cao hơn ZnPTO một cách có ý nghĩa. Toàn bộ các bài viết về vấn đề này trong các bằng sáng chế có gợi đến các chất phát minh khác như :
Các muối không hòa tan của 1-hydroxy-2-pyridimethion.
Muối của hydroxypiridon có cấu trúc hóa học.
Các dẫn xuất của imidazolylketon, có công thức hóa học tổng quát như sau:
Sunfit silini.
Các chất thành phần khác
Loạt các chất thành phần khác sẽ giúp cải thiện vẻ ngoài của sản phẩm trên phương diện vật lý (độ nhờn, độ ph, tính ổn định, sự bảo quản) hoặc trên phương diện thu hút người tiêu thụ (màu sắc, mẫu mã và hương thơm…).
Các chất làm đục và làm óng ánh xa cừ
Thông thường đó là những chất sulfat cồn có dây dài như sulfat xetyl natri (C16). Người ta cũng tìm thấy những chất như:
Các chất alkoamin ít hòa tan của axit béo no với C18 hay hơn nữa.
Rượu béo ( rượu từ mỡ bò, xetyl, stearyl) có nhiệm vụ làm mượt tóc, nhưng giảm đi khả năng tạo bọt.
Các nhũ tương của các polyme vinyl hay styren.
Chất este etylen glycol, propylen glycol hay glyxerol. Trong các chất này chất được sử dụng nhiều nhất là:
Chất monostearat etylen glycol (GMS: glycol mono stearate)
Chất distearat etylen glycol (EGDS: Ethylene glycol distearate):
Các chất làm sệt / các chất điều chỉnh độ nhờn
Người ta dùng các chất điện giải vô cơ NaCl chẳng hạn và các chất dẫn xuất có thể hòa tan của xenluloza. Các chất dẫn xuất này là các chất làm sệt cho các công thức có chất làm đục và có thể có những chức năng khác như: làm dịu bọt, chống chất bẩn tái bám. Khi để lại một lớp màng mỏng sau khi xả, chúng giúp gỡ rối tóc.
Các polyme carboxyvinylic được thương mại hóa dưới tên gọi carbopol (BF. Goodrich chemical co) có thể là những chất làm sệt rất tốt, đặc biệt khi có các rượu béo etoxy hóa. Chúng làm cho bọt có kem, hơn nữa, chúng ngăn không cho các chất silicon lắng đọng hay nhũ tương của silicon nhất là khi dầu gội đẩu được lưu trữ ở nơi nóng bức.
Người ta có thể có được độ sệt như uy1khi pha trộn một vài chất hoạt động bề mặt: chẳng hạn, một sản phẩm dầu gội đầu có gốc alkylsulfonat trietanolamin có thể được làm sệt bằng cách thêm muối amoni tương ứng.
Sau cùng người ta có thể điều chỉnh độ nhờn với:
Etylenglicol
Glyxerol
Các chất polyetylen glycol (PEG) có nhiều trọng lượng phân tử khác nhau.
Chất ổn định bọt
Các chất alkylolamit, đặc biệt các chất mono và dietanolamit, là những chất làm ởn định bọt tốt. Các sản phẩm này cung cấp cho bọt các loại hoạt chất chính tỉ trọng, cảm giác, kem, xà bông và chất ổn định hơn. Hơn nữa, chúng có thể làm thay đổi các đặc tính về độ nhờn của sản phẩm. Sau cùng, chúng cũng cung cấp một sự hỗ trợ nào đó khi tẩy bằng các chất sulfat rượu béo.
Các chất vitamin
Người ta sử dụng các vitamin A, B,C và E thường xuyên nhất. các vitamin này, đặc biệt vitamin thuộc nhóm E, can thiệp vào việc kiểm soát hiện tượng oxy hóa khử và có thể làm cho máu của da đầu được lưu thông dễ dàng.
Chất bảo quản / chất chống oxy hóa
Chất bảo quản
Các chất bảo quản ngăn cản móc phát triển và sự lên men. Thật quan trọng khi lựa chọn chúng vì:
Các đặc tính của chúng không bị ngăn cản bởi chất hoạt động bề mặt khác nhau trong công thức.
Chúng phải được ổn định để không mất hiệu năng cách nhanh chóng.
Vài chất có khả năng làm rát da.
Các chất khác (những hợp chất phenol) cho màu “nâu đỏ”.
Ngày nay chất fomaldehyt vẫn còn được sử dụng nhiều nhất ( nó tác động trên một phổ lớn ở nồng độ thấp) nhưng có khả năng có những vấn đề kết hợp với vài chất phụ gia (hơn nữa chất này đã bị ngăn cấm trong vài quốc gia vì những vấn đề về môi sinh).
Nhiều chất bảo quản khác có thể được sử dụng (thí dụ: este axit-p-hydrobenzoic, axit sorbit, sulfat hydroxy quinolin); sản phẩm được sử dụng nhiều nhất để thay thế chất formol là chất bronopol (2-bromo-2-nitropropane1-3diol) có công thức hóa học:
Lưu ý: các sản phẩm dạng lỏng / gel có thể bị ô nhiễm bởi các men và các vi sinh vật, khi tỉ lệ các chất hoạt động bề mặt thấp và khi các trang thiết bị sản xuất đã không được tiệt trùng.
Đặc biệt đó là những sản phẩm dạng lỏng để rửa chén bát với độ phần trăm chất hoạt động bề mặt dưới 20%, các chất xả dùng cho quần áo, các dầu gội đầu, kem đánh răng, các gel dùng để tắm vòi sen và các dung dịch tắm tạo bọt…
Đối với những sản phẩm này, người ta cần dùng các chất bảo quản để tránh mốc và vi khuẩn phát triển. Mặt khác, chúng ta cần có những biện pháp để phòng triệt để nhằm diệt trùng các trang thiết bị sản xuất.
Chất chống oxy hóa
Chất butylated hydroxy toluene (thực chất là 2,6-di-tert-butyl-p-cresol) rất thường hay được thêm vào công thức như một chất chống oxyt hóa, nhằm ngăn cản sự oxyt hóa do xúc tác của các nguyên liệu bằng vết của các nguyên liệu chuyển tiếp. Công thức hóa học của nó là:
Các tác nhân phức tạp cũng được sử dụng để ngăn cản sự hiện hành các xà bông không hòa tan (Ca và Mg) khi xả. Thông thường đó là các muối EDTA.
Các hợp chất này cũng có thể làm cho các dấu vết kim loại phức hóa (Cu, Co), chúng hỗ trợ sự oxy hóa các chất thành phần do tác dụng xúc tác.
Các chất màu và hương liệu
Các chất này phải được tuyển chọn theo các tiêu chuẩn chất lượng nhưng cũng phải tương hợp và ổn định với các thành phần khác.
Đối với các dầu gội đầu dành cho các loại da dễ cảm ứng đặc biệt các dầu gội đầu dành cho bé sơ sinh, hương liệu không được chứa các thành phần làm rát da.
Tóm lại
Trong bảng 3 tóm gọn các chất thành phẩn khác nhau và vai trò của chúng được nêu ra trong các đoạn khác nhau ở trên đây.
Bảng 3: các thành phẩn chính và vai trò của chúng
Chức năng tẩy rửa
Các chất thành phần
Các chất có hoạt tính bề mặt dịu: LES Na-Mg-NH4…
Cetyl ES Na Mg…Sulfosuccinat Na
Các chất hoạt động bề mặt cực dịu (chất hoạt động bề mặt NI) chẳng hạn : este sorbitan polyetoxy hóa của axit béo.
Đồng chất có hoạt động bề mặt : các chất lưỡng tính, các chất ion lưỡng tính, thí dụ : CAPB.
Làm mềm, giúp cho các chất làm dịu bám đọng
Chất hoạt động bề mặt / amit / xà bông glycol.
Các chất cationic
Các chất trùng hợp cation
Silicon và các dẫn xuất
Tác động chữa trị
Đối với tóc khô
Đối với tóc nhiều dầu chống gàu
Dầu, rượu béo, các protein.
Các protein, các vitamin.
Các chất diệt khuẩn / các chất phân giải da.
Ổn định silicon
Polyme carboxyvinylic
Tác dụng làm bóng như xà cừ / như ngọc làm sệt
Ester axit stearic glyxerol
Bảo quản
Formol, bronopol.
Chống oxy hóa
BHT, EDTA.
Độ nhờn
Các muối (Na, Cl…), glycol-PEG
PH
NaOH / axit.
Các chất gây hại :
Một số thành phần gây hại cho tóc, chúng gây ra rụng tóc, suy yếu của tóc và viêm da tiết bã . Đây là danh sách của các thành phần nên tránh trong dầu gội đầu:
Sodium lauryl Sulfate
Ammonium lauryl Sulfate
Laureth Sulfate Amoni
Amoni Xylen sulfonate
TEA lauryl Sulfate
Lưu huỳnh (trong dầu gội trị gàu)
Selenium sulfide (trong dầu gội trị gàu)
Magnesium Sulfate
Natri thiosunfat
Sodium C14-16 olefin sulfonate
Alkyl Sodium Sulfate
Alkyl Benzen sulfonate
TEA-Dodecylbenzene
Sodium C12-15 Alkyl Sulfate
Sodium Dodecyl sulfonate
Cụ thể có thể nêu ra một số dẫn chứng như sau:
Natri lauryl sulfate hay SLS gây hại cho protein trong mắt của trẻ em. Tai hại hơn, nó có thể dẫn đến mù dẫn đến sự ăn mòn của nang lông, làm suy yếu khả năng phát triển và bảo vệ mái tóc.
Than tar, một thành phần phổ biến trong dầu gội, mặc dù có hiệu quả trong việc kiểm soát và giảm gàu, là một tác nhân gây ung thư.
ZPTO đó là sự hiện diện của pyrithione kẽm có thể gây ra dị ứng nặng, nhức đầu, buồn nôn, mệt mỏi, căng thẳng và thiếu tập trung.
Chất bảo quản thường được tìm thấy trong dầu gội có chứa các vi khuẩn diệt methylisothiazolinone (MIT), được hiển thị để hạn chế sự tăng trưởng của tế bào thần kinh chuột chưa trưởng thành có trong chất bảo quản. Formaldehyde được sử dụng trong một số cũng là một thành phần phổ biến trong dầu gội đầu và nguy hiểm trong một loại dầu gội em bé. Nó là một chất độc thần kinh và gây ung thư.
Hai thành phần: cocamide DEA và propylene glycol PEG-55 oleate, có thể liên quan đến vấn đề sức khỏe bệnh ung thư hoặc khác (PEG-55 propylene glycol oleate có thể liên quan đến ung thư vú).
Tinh dầu bạc hà, propylene glycol, sunfat laureth natri và tetrasodium EDTA là những thành phần chưa được chứng minh là an toàn.
Mùi thơm trong sản phẩm này có thể là một chất gây dị ứng, và bốn thành phần – các parabensethylparaben, methylparaben, propylparaben; và propylene glycol có thể gây vấn đề sức khỏe khác.
Trẻ em dầu gội cũng có một mức độ cao hơn của ethylene oxide để làm giảm kích ứng. Nó là một hợp chất cực kỳ độc hại và là một disruptor nội tiết được biết đến.
Ví dụ các đơn
Chúng tôi xin phép được nhắc lại rằng có rất nhiều bằng sáng chế liên quan đến các công thức được đưa ra làm thí dụ trong tác phẩm này. Các bằng này bàn đến một hay hai nguyên liệu mới được sử dụng trong một sản phẩm nhưng để bảo vệ tốt sự phát minh này, các công thức được nêu ra đây bao gồm các nhóm chất thành phần khác trong một gam rất lớn, đi từ những chất có hoạt tính bề mặt, các chất xả, cho đến những hợp chất thứ yếu như các chất ổn định…Chẳng hạn, đối với một hoạt chất mới được mô tả trong phần phát minh, người ta kể ra các chất trùng hợp cationic có thể có được từ các chất silicon cho đến các polyme cationic xuất phát từ những đơn chất có thể hình dung được. Cũng thế, đối với một chất polyme mới được mô tả trong phần phát minh, người ta nêu ra sự phối hợp của nó với tất cả các chất hoạt động bề mặt, tất cả các chất phụ gia đã được mô tả trong các bằng sáng chế khác. Từ đó, người ta cần hết sức thận trọng khi tham khảo các bằng sáng chế trước khi khai thác một sản phẩm để tránh bất cứ một sự giả mạo nào.
Chúng tôi nhấn mạnh rằng phần lớn các công thức được đưa ra làm thí dụ trong các tác phẩm này để minh họa các ý định của chúng tôi thường được trích ra từ các bằng sáng chế.
Các thí dụ công thức cổ điển dành cho các loại tóc thường
Các công thức này thường có từ 12 đến 16% các chất hoạt động bề mặt cationic và các chất đồng hoạt động bề mặt (chất lưỡng tính hay chất ion lưỡng tính) đối với tóc thường. Nếu chẳng hạn người ta thành lập công thức cho một loại dầu gội đầu màu đục óng ánh, người ta thêm chất EGMS hay EGDS. Trong trường hợp ngược lại (sản phẩm trong) người ta không dùng những chất này.
Thành phần A (trong) B (Đục)
Chất hoạt động bề mặt (LES) 10-15 10-15
Chất đồng hoạt động bề mặt 2-4 2-4
Mono hay dietanolamit 0-1 0-1
Chất ổn định làm đục 0 0,5-2
Chất chống oxy hóa + +
Chất bảo quản + +
Chất thành phần để điều chỉnh độ nhờn - / + - / +
Chất thành phần để điều chỉnh độ PH - / + - / +
Dầu thơm, nước, màu vđ 100 vđ 100
Các công thức dầu gội đầu với chất xả
Phần lớn các dầu gội đầu được bán trên thị trường có thành phần cấu tạo sau đây:
LES 10-15
CAPB 1-4
Nhũ tương silicon 0-1,5
Polyme carboxyvinyl (carbopol) 0-0,3
Stearat etylen glycol 0,5-1,5
Clorua hydroxypropyl trimonium (guar) 0,1-0,5
Dầu thơm +
Formol 0,05-0,15
BITT 0,025-0,06
NaCl 0,5-1,5
Màu +
Axit xitric / NaOH + / - để điều chỉnh độ ph
Nước vd 100
Nên nhớ rằng các dầu gội đầu này rất phù hợp để gội loại tóc khô, các chất làm dịu cho ta cảm giác tóc mềm mượt và ít khô hơn.
Các dầu gội đầu thường được bán với tên gọi “ dầu gội đầu 2 trong 1” đã phát triển quan trọng và trở thành mục tiêu của rất nhiều bằng sáng chế.
Ở đây, chúng tôi nêu ra hai thí dụ:
Tiến trình bao gồm việc sử dụng một chất hoạt động bề mặt nhẹ với một chất làm dầu ( polyme kỵ nước) phân tán trong một dung môi có cực dễ bốc hơi ( hydrocacbon).
Hỗn hợp chất làm dầu và dung môi giúp ta có được các hạt đến 0,1 đến 100 my. Các hạt này kết tụ dễ dàng trên tóc khi gội đầu. Sau khi sấy khô, dung môi bốc hơi để lại chất làm dầu, tạo cho tóc những đặc tính mong muốn. Một thí dụ về công thức nêu trong bằng sáng chế 2 được cho dưới đây:
Alkyl ete (glyxerol) sulfonat 14
Hỗn hợp polyme gel / dung môi 6
Phosphat mononatri 0,3
Distearat glycol 2
Monoetanolamit (dầu dừa) 0,7
Tetrastearat pentaerythrytol PEG 0,4
Rượu xetylic 0,42
Rượu stearic 0,18
Polyquaternium 10 0,30
DMDM Hydantoin 0,37
Nước vđ 100
Công thức:
Sulfonat alkyl ete glyxerol:
Hydrocarbon hoặc (C5-C7) alkyl ete
Cách tiếp cận khác gồm sử dụng một polyme dimethiconol NI kết hợp với một polyme cationic giúp kết tụ. Các thí dụ về công thức nêu trong bằng sáng chế được cho dưới đây.
1 2 3
LES (2 OE) 16 16 16
CAPB 2 2 2
Polyme kết tụ 0,1 0,1 0,1
Nhũ tương của polyme dimethyconol (60%) 3,2 - -
Nhũ tương silicon trong có hoạt tính bề mặt (50%) - 3 -
Nhũ tương silicon chế tạo với máy khuấy mạnh - 4 -
EGDS 1,5 - 1,5
Carbopol 980 - 0,4 -
Nước vđ 100 vđ 100 vđ 100
Dầu gội đầu dành cho tóc nhiều dầu
Đối với loại dầu gội dầu này, người ta sử dụng một hỗn hợp các chất hoạt động bề mặt có đủ khả năng gội sạch để loại các chất dầu và chất bẩn da dầu giữ lại trong tóc, mà không làm hại da đầu. Thật sự, da đầu có chứng nhờn cho thấy một bề mặt dễ bị rối loạn, mỏng manh và quá cảm ứng với bất kỳ kích thích nào (chẳng hạn, thoa bóp thái quá): như thế nó phải được xử lý với rất nhiều sự thận trọng.
Chẳng hạn, người ta có thề kể ra:
Các axit béo tự do, các axit này, dùng với lượng ít đậm đặc, có thề làm cho trì hoãn chất nhờn của da đầu chuyển lên tóc.
Các protein (gelatin hay casein) có thể hút chất nhờn và khiến nó có tính chất sáp để làm giảm độ nhạy với chứng da nhờn này.
Một bằng sáng chế L Oreal đề nghị sử dụng các chất hoạt động bề mặt NI dẫn xuất từ polyglyxerol có đặc tính tạo bọt và tẩy rửa tốt và giúp kéo dài rõ ràng thời gian tái tạo chất dầu mà không phải thêm những chất chống nào khác. Vài chất phụ gia có thể được thêm vào các công thức này để cải thiện công hiệu của chúng.
Thí dụ công thức:
LES Na hay NH4 8-14
CAPB 2-4
Mono / dietanolamit - / +
Chất làm đục 0-2
Chất thành phần chuyên biệt 0,05-0,1
Chất phân giải từ protein, trứng
Chất bảo quản +
Chất chống oxy hóa +
Dầu thơm, nước vđ 100
Dầu gội đầu dành cho các loại tóc khô
Người ta dùng hỗn hợp các chất hoạt động bề mặt nhẹ và các chất phụ gia mà khi hấp thụ trên tóc, có thể bù đắp những khiếm khuyết cùa thiên nhiên. Trong các phụ gia này người ta có thể kể:
Các axit hữu co xitric, tartric ngăn cản việc đào thải các chất amino-acid hay oligo-protein do tóc bị biến chất.
Các axit béo (oleic, stearic).
Các rượu béo (lauric, myristic, oleic).
Các triglyxeric tự nhiên ( dầu hạnh, dầu ngô, dầu oliu).
Các este: stearat hay oleat glycol.
Các chất thủy giải của protein (collagen, gelatin, casein…).
Thí dụ về công thức
LES Na hay NH4 8-4
CAPB 2-4
Mono / dietanolamit - / +
Chất làm đục 0-2
Chất thành phần chuyên biệt
Dầu oliu, dầu hạnh nhân
Chất thủy giải của protein 0,05-0,1
Rượu béo: xetylic, stearic 0,1-0,4
Vitamin 0-0,2
Chất bảo quản / chất chống oxy hóa +
Dầu thơm, nước vd 100
Dầu gội đầu dành cho bé sơ sinh
Đặc tính chủ yếu có được đối với các dầu gội đầu này là nhẹ nhàng với tóc, da đầu và nhất là mắt. Người ta sử dụng các chất hoạt động bề mặt ít hơn và tỉ lệ chất hoạt động bề mặt và đồng hoạt động bề mặt do đó cũng bị thay đổi. Mặt khác, người ta có thể sử dụng chất hoạt động bề mặt dịu hơn nữa như các axit béo của axit sulfosuccinic, các este sorbitan polyoxyetylen hóa…
Thí dụ về công thức:
LES (2 hoặc 6 hoặc 8 OE) Na, Mg hoặc
Oleyl ete sulfat Na,Mg hoặc
Sulfosuccinat Na 5-7
Ester sorbitan polyoxyetylen
Hóa của axit béo 0,5-1
CAPB 3-4
Chất bảo quản / chất chống oxy hóa +
Dầu thơm, nước vd 100
Thí dụ về công thức chống gàu
Người ta dùng các chất thành phần chuyên biệt :
Hoặc các chất diệt khuẩn hay diệt nấm để tránh sự nảy nở các vi khuẩn và các men (P.Ovale).
Hoặc các sản phẩm phân giải da để củng cố lớp sừng nhằm giới hạn đóng vảy : sunfua selenium (đúng hơn dùng cho việc bào chế dược liệu) hay axit salisilic.
Thí dụ về công thức
1 2 3 4
LES 10-15 10-15 10-15 10-15
CAPB 1-2 1-2 1-2 1-2
Tác nhân chống gàu
Chất diệt khuẩn
Pirocton olamin 0,05-0,15
Pyridin thion kẽm 0,05-0,15
Chất phân giải da
Sulfua seleni 2
Axit salisilic 2
Chất làm đục, chất bào quản
Nước vđ 100 vđ 100 vđ 100 vđ 100
Lưu ý: trong các công thức mẫu về dầu gội dầu chống gàu hay dành cho loại tóc nhiều dầu, tóc khô và tóc bé sơ sinh, người ta có thể hội nhập các hệ thống chất lảm mềm mượt trong các thí dụ về các dầu gội đầu 2 trong 1.
Dầu gội đầu khô (bột gội đầu)
Loại sản phẩm này hoàn toàn chuyên biệt (cách thành lập công thức không dựa trên các chất hoạt động bề mặt). Người ta thoa sản phẩm (bằng bột) khô trên tóc, để bột tiếp xúc với tóc sau đó chải bột đi.
Ba chất thành phần tạo nên loại công thức này:
Chất đầu tiên sẽ hút các chất béo (tinh bột của lúa, bắp).
Chất thành phần có tính ăn mòn để loại chất bẩn (đất đủ loại).
Chất thứ ba là một tác nhân kiềm (Na carbonat, borax…).
Dầu xả
Trong các năm 60, các sản phẩm này chỉ được sử dụng trong các cửa hiệu uốn tóc…Người ta công nhận sự thành công chúng đạt được ngày nay trong phần lớn các nước phát triển, nhất là ở Mỹ. Người ta khuyên dùng các sản phẩm này khi tóc quá dài và được sấy khô nhờ một máy sấy điện. Các sản phẩm này tạo nên một đặc tính sau đây:
Một bộ tóc mềm mại (tóc ướt).
Dễ chải (tóc khô).
Bóng, mượt, mịn, dầy
Bảo vệ (đặc biệt các đầu sợi tóc).
Nguyên tắc thành lập công thức
Người ta có thề chia dầu xả thành hai nhóm:
Dầu xả cổ điển (không có polyme làm sệt).
Dầu xả có polyme làm sệt.
Các chất thành phần căn bản
Trong cả hai trường hợp, chúng bao gồm một chất hoạt đỗng bề mặt cation và một rượu béo như là các chất thành phần căn bản.
Chất cationic dễ thấm ướt trên tóc (mang điện tích âm) và có tác dụng xả nhẹ (đặc biệt, dễ chải tóc khô hay ướt). Khuyết điểm chính của nó là làm cay mắt.
Rượu béo cải thiện sự an toàn và tính chức năng của các dung dịch chất cationic, vì nó giúp tạo thành hỗn hợp hai lớp bị phân tán trong pha nước.
Pha lớp này có ba chức năng:
Làm cho sản phẩm hoạt động kết tụ có trật tự hơn trên sợi tóc, như thế gia tăng tính chức năng của nó.
Giảm sự gây rát của chất cationic bằng cách giảm độ đậm đặc của đơn chất tự do.
Mạng lưới mà pha này hình thành nên tạo một hệ thống hữu hiện giữ được thế vẫn (như thế sản phẩm ổn định).
Các chất thành phần khác
Polyetylen glycol
Chất này có thể dùng như chất làm ướt.
Hydroxyetyl xenluloza
Polyme NI: nó đóng vai trò làm đặc và làm cho phương thức sản xuất dễ dàng hơn.
Các chất điện giải
Các độ nhờn trong công thức không chứa hydroxyetyl xenluloza bị ảnh hưởng sâu rộng bởi sự hiện diện các chất điện giải hòa tan trong nước. Người ta có thể thêm bromua kali để làm đặc sản phẩm.
Các công thức mẫu
Công thức cổ điển
Bảng 5: thí dụ công thức các dầu xả
A/ Dầu xả B/ Chất làm đặc / chất làm óng ánh
Clorua cetyl trimetyl amoni (CTAC)
0,5-1,2
Monostearat glyxerol
0.5-1
Rượu xeto stearyl
1,5-3
Stearat stearyl
0,3-0,7
Poly dimetyl siloxan (>5000cps)
0,5-2,5
Palmitat xetyl
Parafin
Hydroxyetyl xenluloza
0,3-0,7
0,5-1,5
0,7-1,5
A: độ đậm đặc tùy theo hiệu quả mong ước
B: người ta có thể tìm thấy một hay nhiều chất làm đặc trong cùng một công thức.
Dầu xả đặc biệt
Dầu xả dùng chăm sóc tập trung
Thông thường đó là những dầu xả thuộc loại cổ điển nhưng giàu chất rượu béo.
Thí dụ:
A B
CTAC 0,8-1,2 1-1,5
Rượu xeto stearyl 2-3 2-4
Rượu xetyl 0,5-1,5 -
Parafin 0,5-1,5
Stearat stearyl 1,5-3 -
Hydroxyetyl xenluloza 1-2 -
Hydroxypropyl metyl xenluloza - 1-2
Poly dimetyl silosan 5000cps 0,5-1,5 -
Chất bảo quản + +
Dầu thơm + +
Màu + +
Nước vđ 100 vđ 100
Dầu xả chống gàu
Chất pirocton olamin gần như không hòa tan trong dầu xả nền. Dưới mức giới hạn hòa tan, nó hiện diên dưới dạng rắn có thể kết tụ cách hữu hiệu trên tóc và trên da đầu.
Vấn đề lớn gặp phải với chất pirocton olamin có liên quan đến sự phai màu (vàng) có thể diễn ra tương tác với tia U.V. Nhu cầu được sử dụng các bao bì đục hoặc có chứa chất hấp thụ tia U.V là cần thiết. Nó cũng có thể tương tác với hương liệu và với sắt. Như thế việc hiệu chỉnh công thức là tương đối khó.
Kem Đánh Răng
Lịch sử hình thành
Trong các tài liệu ở Ai Cập vào thế kỷ 4 đã có mô tả về kem đánh răng là hỗn hợp muối, hạt tiêu đen, bạc hà, hoa cây irit. Người La Mã dùng kem đánh răng chứa thànhphần dựa trên nước tiểu. Có thể amoniac trong nước tiểu có tác dụng làm trắng răng.
Người Việt và một số dân tộc ở Đông Nam Á có tục ăn trầu. Hỗn hợp lá trầu không, quả cau và vôi cũng được coi là có tác dụng làm sạch và bảo vệ răng.
Do đó, nhu cầu về sử dụng kem đánh răng ở các vùng miền trên thế giới cũng khác nhau, cụ thể như biểu đồ dưới đây, số liệu năm thống kê từ năm 1991 đến 1996:
Khái niệm đại cương về cấu trúc miệng
Miệng chứa các răng… niêm mạc miệng (má, lưỡi, lợi các phần cố định) và nước bọt (phần di động).Các phần cố định được tẩm bởi một luồng nước miếng liên tục.
Các răng được cố định trong các ổ xương bởi chân răng.Phần mặt phơi bày của răng(than răng) được bao bọc bởi một lớp men, một chất rất cứng không chứa tế bào sống và giống như xương chúng được cấu tạo bằng những tinh thể hydroxyapatit (một loại photphat canxi). Bề dày của men có thể đến 1mm. Ngà răng là một loại men ít cứng hơn chứa đến 20-30% tề bào sống. Ngà răng của chân răng được bao bọc bời một chất nhiều thô qua đó nhiều sợi của dây chằng ở chân bám vào. Cổ răng là đường nối giữa men răng và chân răng, thường nó được bao bọc bởi một niêm mạc nướu. Phần tâm của răng gồm tủy răng, một mô chứa nhiều mạch máu và thần kinh.
Nước bọt luôn luôn được đổi mới, do các gân nằm ỡ gò má và phần dưới miệng tiết ra. Nó rất cần thiết để làm trơn và bảo vệ các nướu. Nước miếng cấu tạo bởi protein chứa nhiều hydrat carbon làm cho nước được nhờn, cho phép luôn luôn bao bọc miệng bằng một màng protein(màng mỏng). Vi khẩn chỉ khu trú được ở răng nếu chúng có thể bám được vào các màng miệng ấy. Nước bọt cũng chứa canxi và photphat giúp duy trì sự toàn vẹn của bề mặt men răng, một số enzym, vi khuẩn và những chất kháng khuẩn.
Những vấn đề chính về răng:
Để biết được những yêu cầu của một kem đánh răng cần phải biết vấn đề nó phải đối diện.
Bựa răng
Bựa răng là phần trắng ngà tích tụ vào răng và nướu. Nó có thể bị loại trừ bằng cạnh chải răng.
Phần nhiều vấn đề răng xuất phát trực tiếp từ những gì liên hệ đến bựa răng.Khoảng 70% bựa răng chứa hàng triệu vi khuẩn nằm trong một khối cacbohydrat không tan (chất cơ bản được tổng hợp bởi vi khuẩn). Bựa răng bất đầu với lớp bám của chất nhầy nước bọt lên răng, có chủa những vi khuẩn hiếu khí (cần oxy để phát triển), sau đó các vi khuẩn yếm khí xuất hiện. Các vi khuẩn yếm khí nay chủ yếu là nguyên nhân của những bệnh liên quan đến bựa răng.
Những vấn đề thuộc về nướu răng
Do thiếu vệ sinh, bựa răng phát triển gây ra viêm nướu(sưng do độc tố tiết ra từ vi khuẩn). Nếu sự viêm tấy kéo dài, nướu rút vào, ngà của chân răng (mỏng manh hơn) bị phơi bày. Nều trồi ra quá, răng không còn đứng vững và rớt ra.
Cao răng
Đây là phosphat canxi của nước bọt đóng trên bựa răng. Nước bọt là một dung dịch rất bão hòa về phosphat canxi (do đó các tinh thể kết tụ lại 1 cách dễ dàng). Cao răng bám chặt vào bề mặt của răng và không thể bị loại trừ bằng cách chải răng đơn giản.
Răng nhạy cảm
Nướu răng lùi vào theo tuổi làm phơi bày ngà của chân răng (dưới lớp bảo vệ men) kế đền là tủy răng. Các tế bào thần kinh của tủy răng bây giờ bị phơi bày với mọi kích thích bên ngoài ( nóng, lạnh,… gây ra cảm giác đau).
Sự tấn công vào ngà răng cũng không thể do sự chá xát răng quá mạnh và lâu ngày như thế làm cho nướu rút lại.
Các đốm trên răng
Các màu bàm chặt vào men răng không lấy đi một cách đơn giản bằng cách chải răng với nước. Kem đánh răng cần chứa một chất mài mòn nhẹ, không tấn công men răng hoặc ngà răng.
Mùi hôi miệng
Những thiol có thể được tạo ra bởi sự biến thể do vi khuẩn gây ra sự hội miệng. Các răng sâu cũng đóng góp vào mùi hôi miệng.
Đánh răng đều với một kem chống bựa bám và chống sâu răng là cần thiết. Nhiều sản phẩm chứa những chất phụ gia đặc biệt tác động tới thiol.
Sâu răng
Răng sâu là răng có lỗ trong men
Khi đã xác định được bệnh lý,răng đã bị những tổn hại không thể chữa được kèm theo sự đau dớn và không thoải mái. Nếu không được diều trị, răng sẽ đi đến chỗ bị hủy hoại hoàn toàn.
Sâu răng là một quá trình do sự hủy hoại cục bộ của cấu trúc răng: dưới tác động của những axit hữu cơ, men răng bị tiêu hao khoáng chất diều này giái phóng ion của men răng như canxi phosphat, carbonat, ma nhê, flourua, natri, cũng như những bẩn tố khác.
Sự hiện diện của vi khuẩn sinh axit là điều kiện cần thiết của quá trình (mọi vi khuẩn có khả năng biến đổi đường thành axit là loại sinh sâu răng). Các vi khuẩn được biết dưới tên “streptococcus mutans” là sinh axit cao, do đó làm gia tăng mạnh nguy cơ sâu răng. Các hydrat cacbon của thực phẩm có tứ nhiều nguồn: sacaroza, hydrat cacbon lên men được v.v… Axit cũng có thể có từ thức uống.
Các yếu tố có tác động lên những acid trên men răng là: thời gian lưu lại của thức ăn trên mặt răng, lượng thức ăn, khả năng làm dễ dàng cho sự tạo bựa trên răng.
Sâu răng chỉ xuất hiện khi các yếu tố sau đây tập hợp lại cùng lúc:
Một răng bị nguy cơ
Sự hiện diện của hydrat cacbon lên men.
Sự hiện diển của vi khuẩn len axit.
Khoảng thời gian cần thiết cho sự hủy hoại răng
Thời gian hoặc sức tái khoáng hóa không đủ.
Thông thường nước bọt đóng vai trò bảo vệ: nó làm đệm cho dòng acid ở bề mặt răng,chứa một số đặc tính, kháng khuẩn và manh lại nhiều yếu tố tham gia vào sự tái khoáng hóa của mô răng (chẳng hạn như canxi,phospho…
Các chất thành phần chính và chức năng của chúng
Một kem đánh răng phải đóng nhiều vai trò:
Trước tiên là làm sạch và làm thơm miện. Kế đến, nó là chất tải cho những tác nhân trị liệu.
Nước
Nước hòa tan và phân tán các tác nhân trị liệu, tẩy rửa, làm sệt làm dịu
Các tác nhân làm ướt
Chúng giúp làm giảm khối lượng nước trong công thức (như vậy giúp ở một mức độ sự bảo quản sản phẩm) và giới hạn sự làm khô (khi không đậy nắp chẳng hạn). Chúng do đó đóng vai trò nhỏ trong sắc thái của kem đánh răng và làm bóng một phần nào,
Người ta thường sử dụng:
Sorbitol, làm dịu và làm mát
HOCH2[CH(OH)]3CH2-OH
Glyxerol làm dịu và cho một cảm giác nóng
HOCH2CH(OH)CH2OH
Những loại rượu thường được sử dụng trong các dầu gội đầu ,kem đánh răng ,gel tắm….
Etanol : CH3CH2OH
Etylen glycol : CH2OH-CH2OH
Propylen glycol : CH2OH-CHOH-CH3
Glyxerol : HOCH2CH(OH)CH2OH
Sorbitan : HOCH2[CH(OH)]3CH2-OH
Polyetylen glycol :-[CH2-CHO] n-
Các chất tẩy rửa
Chất tẩy rửa cho phép:
Giúp tẩy răng
Tạo bọt theo yêu cầu người tiêu dùng
Hòa tan và phân tán các mùi hương không tan trong nước (tạo các mixel trong đó dầu thơm hòa tan)
Ơ đây cũng vậy, hai chất thành phần có một vị trí chế ngự:
Laurylsulfat Na:
Alkylbenzen sulfonat Na:
Người ta có thể có chất lượng tốt/ số lượng bọt bằng cách trộn hai phẩm lại với nhau.
Các chất mài mòn
Chất mài cọ làm sạch răng cũng đóng góp vào sự bào độ nhờn của kem đánh răng. Việc cọ rửa được thực hiện bằng cách mài các vết màng có màu ở bề mặt răng.
Ba chất mài mòn chính được sử dụng gồm:
Silic(SiO2) không định hình
Cacbonat canxi( CaCO3: caclcit hay aragonite)
Alumin (hydroxit nhôm): Al(OH)3
Những chất mài khác là:
Phostphat dicanxi hydrat hóa
(CaHPO4.2H2O)
Phostphat dicanxi
CAHPO4
Metaphosphat không tan
(NaPO)x
Pyrophosphate natri
Ca2P2O7
Các chất thành phần này không được làm hư hại men và ngà răng, nhưng có đủ công hiệu để loại trừ các vết màu. Hiệu quả của nó tùy thuộc :
Độ cứng của chúng
Kích thước hạt
Nồng độ của chúng trong sản phẩm hoàn tất
Bảng 1.1 mô tả sự so sánh độ cứng giữa chất mài mòn và răng
Chất mài mòn
Răng
Silic
Không định hình
Alumin
Carbonat
Ca
Men răng
Ngà răng
Bựa
5
2,5-3,5
3-4
4-5
2-2,5
3
Bảng nêu trên chao thấy rõ ràng chí có ngà răn ( ít cứng hơn men răng) can phải cứu xét khi chọn chất mài mòn. Hơn nữa những tiêu chuan đã được thực hiện trong chiều hướng ấy( sự mài mòn được xác định bằng số lượng ngà răng bị mài mòn trong những điều kiện xác định). Người ta nói đến sự mài món của những kem đánh răng bằng thuật ngữ D.A.V (Dentine Abrasion Value- Giá trị mài mòn ngà răng).
Sự mài mòn đóng góp vào độ nhờn của kem đánh răng (nếu nó chứa một tỷ lệ chất mài mòn cao (> 30%) thì độ nhờn tăng.
Các chất làm sệt
Chúng cho phép tránh sự lắng đọng của chất mài mòn và mang lại những đặc tính thay đỗi độ nhờn cho sản phẩm (dễ lay kem ra khỏi ống, dễ nặn kem lên bàn chải mà không bị chảy dài…)
Các chất làm sệt tạo cấu trúc pha lỏng của sản phẩm làm lơ long chất mài mòn. Cấu trúc này biến mất khi người ta bóp ống kem, và được tái tạo lại khi áp suất lên ống ngưng (đặc tính thixotropy).
Người ta sử dụng những chất làm sệt hữu cơ hoặc khoáng chất. Trong số các chất hữu cơ, người ta thấy những polymer như carboxymetyl xebluloza CMCNa và gôm xanthan. CMC Na xuất hiện dưới nhiều dạng và có khả năng làm sệt khác nhau và sự khoang dung đối với chất điện giải.
Gồm xanthan là một polymer thiên nhiên có trọng lượng phân tử cao do sự lên men của Xathomonas Campetris trong môi trường glucoza. Nó có nhiều thuận lợi hơn đối với CMCNa ( cảm giác trong miệng, dễ chấp nhận các chất diện giải, chịu được sự phân giải vi khuẩn, ổn định với thời gian).
Các khoáng chất chính làm sệt thường được sử dụng là các silic:
Nhiệt giải
Kết tủa
Gel
Hoặc một số đất sét( laponit, hoặc chất tương đương là hectonit).
Thỉnh thoảng người ta sử dụng polyetylen glycol để tạo cấu trúc và hòa tan đồng thời cả mùi hương và chất hoạt động bề mặt.
Các tác nhân làm dịu
Các loại tác nhận này cho phép tạo được một sản phẩm chấp nhận được theo nghĩa mùi vị chẳng hạn( nó che giấu vị đắng của vài chất thành phần của công thức)
Theo lịch sử đường được sử dụng như chất làm dịu…!Ngày nay các chất thành phần được sử dụng không lên men (điều này tránh sâu răng). Chất được dùng nhiều nhất là đường saccharin, đã được dùng từ lâu (muối Natri o-ulfolbenzimit).
Các chất làm đục
Trong những kem trắng đục, người ta thêm oxit titan vào (TiO2) để làm kem trắng hơn, hoặc để làm thay đổi màu sắc của sản phẩm màu.
Các loại màu
Các màu được sử dụng phải đáp ứng những tiêu chuan an toàn và cả giá thánh. Do đó thường là những màu thực phẩm tan hay không tan
Hiển nhiên là có thể thêm một lượng nhỏ chất ổn định màu ( sulfat manhe )
Chất ổn định và sự điều chỉnh pH
Trước kia, những kem đánh răng có gốc alumin được bọc trong những ống nhôm không men. Để tránh những phản ứng hóa học giữa ống chứa và kem, người ta thêm một chất ổn định. Chất mono phosphate natri ( NaH2PO4), ngày nay vẫn đang được sử dụng chung với phosphate (tạ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Kem đánh răng - Dầu gội đầu.doc