Diện tích nuôi tôm ởBạc Liêu trong những năm gần đây có xu hướng tăng, làm cho
môi trường ngày càng xấu đi là điều kiện thuận lợi đểdịch bệnh lây lan khó kiểm soát,
do đó vấn đề:“ Sửdụng thuốc và hóa chất trong nuôi tôm sú thâm canh ởThành phố
Bạc Liêu“ đã được thực hiện từtháng 3 đến tháng 5 năm 2011. Đềtài đã phỏng vấn
trực tiếp 30 hộnuôi tôm sú thâm canh, theo bảng câu hỏi soạn sẵn với những nội dung
vềtình hình sửdụng thuốc và hóa trong nuôi tôm.
Qua kết quả điều tra cho thấy, người dân thảnuôi 2 vụ/năm, 100% sốhộthảnuôi vụ
1, 90% sốhộthảvụ2. Phần lớn người dân nuôi tôm đều ở độtuổi trung niên chiếm
76,6%. Kinh nghiệm nuôi trên 9 năm chiếm 40%, kinh nghiệm nuôi 6 - 9 năm và nhỏ
hơn 6 năm chiếm 30%, đa sốngười dân nuôi theo kinh nghiệm chiếm 87%. Lao động
tham gia sản xuất trong đó lao động gia đình chiếm 60%, lao động thuê chiếm 40%.
Diện tích nuôi tôm sú bình quân 1,4±1,57 ha/hộ, tỷlệao lắng/ao nuôi trung bình là
0,32±0,24 ha/hộvà 67% hộnuôi có sửdụng ao lắng. Tôm sú giống được hộdân chọn
nuôi chủyếu ởPL 15 chiếm 90% và phần lớn con giống được mua ở địa phương
chiếm 60%. Mật độtrung bình trong nuôi tôm là 20,7±3,84 con/m2, tỷlệsống trung
bình 50±19%, năng suất bình quân 3,33±1,18 tấn/ha. Có 5 loại thức ăn được chọn sử
dụng cho nuôi tôm sú, Laone chiếm cao nhất 56,6%. Nuôi tôm sú thâm canh có tổng
chí phí bình quân 309±81,4 triệu đồng/ha/vụ, lợi nhuận trung bình 235±166 triệu
đồng/ha/vụ, tỷsuất lợi nhuận khoảng 0,75±0,44.
59 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3903 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khảo sát tình hình sử dụng thuốc và hóa chất trong nuôi tôm sú thâm canh ở thành phố Bạc Liêu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ô nhiễm nước và các
loại dịch bệnh lan truyền nhanh.
4.1.3. Năm kinh nghiệm nuôi và trình độ chuyên môn
Trong quá trình nuôi tôm kinh nghiệm là một trong những tiêu chuẩn cần được quan
tâm vì nó góp phần vào sự thành công hay thất bại của vụ nuôi. Kinh nghiệm được
tích lũy qua nhiều năm từ những vụ nuôi, học hỏi kinh nghiệm của bạn bè, càng trải
qua nhiều vụ nuôi thì người dân sẽ càng hiểu rõ được đối tượng nuôi của mình.
Những kinh nghiệm đó sẽ giúp cho người dân nắm bắt kịp thời và xử lý một cách có
hiệu quả trong vụ nuôi, biết được mùa vụ thích hợp thời điểm thả giống, cách cho ăn
và quản lý chăm sóc.
Phần lớn nông hộ nuôi tôm chủ yếu học hỏi qua sách báo kinh nghiệm của cán bộ địa
phương chiếm 87% (Hình 4.1). Song ngành thủy sản của địa phương cũng có tổ chức
nhiều lớp tập huấn kỹ thuật nuôi cho nông dân chiếm 10%, nhưng do giới hạn kinh
phí và nhân lực nên đạt hiệu quả nhất định. Kết quả điều tra cho thấy nuôi thủy sản có
trình độ đại học tương đối thấp chiếm 3%.
37
40%
30%
30%
>9 năm 6 - 9 năm <6 năm
87%
10% 3%
Kinh nghiệm Tập huấn Đại học
Hình 4.1 a Thông tin năm kinh nghiệm nuôi Hình 4.1 b trình độ chuyên môn
Đối với nuôi tôm sú năm kinh nghiệm bình quân 7,2±2,89 năm. Do đây là đối tượng
nuôi khá sớm, có thể mang lại lợi nhuận cao. Từ hình 4.1 cho thấy nhóm nông hộ có
kinh nghiệm nuôi tôm sú nhỏ hơn 6 năm chiếm 30% và năng suất đạt được 3,17
tấn/ha, kế đến là nhóm nông hộ nuôi từ 6 – 9 năm chiếm 30% và năng suất đạt được
3,23 tấn/ha, còn lại nhóm có kinh nghiệm nuôi trên 9 năm chiếm tỷ lệ cao nhất là 40%
và đạt năng suất cao nhất 3,54 tấn/ha. Lợi nhuận thu được khi người nuôi tôm dựa
theo năm kinh nghiệm, nhóm nông hộ có kinh nghiệm nuôi nhỏ hơn 6 năm lợi nhuận
thu được 177 triệu đồng/ha, nhóm nông hộ nuôi từ 6 – 9 năm lợi nhuận thu được 240
triệu đồng/ha. Còn nhóm nông hộ có kinh nghiệm nuôi trên 9 năm đạt lợi nhuận cao
nhất 259 triệu đồng/ha. Điều này cho thấy năm kinh nghiệm cũng ảnh hưởng đến năng
suất và lợi nhuận của vụ nuôi.
Theo Trương Quốc Phú (2007) thì do lợi nhuận cao từ 100 – 150 triều đồng/ ha/vụ mà
đã trở thành động lực cho nông dân tham gia mô hình nuôi tôm thâm canh từ đó làm
diện tích tăng nhanh. Tuy nhiên, từ năm 2004 đến nay người nuôi đang phải đối mặt
với nhiều rủi ro do môi trường và dịch bệnh.
4.1.4. Lao động tham gia sản xuất
Nghề nuôi tôm sú là một trong những nghề nuôi phát triển trong nuôi trồng thủy sản ở
ĐBSCL nói chung và ở Bạc Liêu nói riêng, chính vì vậy nghề nuôi tôm đã góp phần
quan trọng trong việc giải quyết việc làm. Lao động trong nghề nuôi tôm được xét
trên 2 dạng là lao động gia đình và lao động thuê mướn.
38
60%
40%
0%
15%
30%
45%
60%
75%
LĐ gia đình LĐ thuê
Hình 4.2 Lao động tham gia sản xuất
Qua kết điều tra cho thấy, số hộ thuê mướn lao động (chiếm 40%) trung bình thuê từ
2,4±0,67 người/ha, tất cả những người được thuê mướn thì không có trình độ chuyên
môn về nghề nuôi. Còn một số hộ không thuê mướn lao động (chiếm 60%) mà chủ
yếu là lao động gia đình có trung bình 3,2±1,15 người/ha. Theo kết quả khảo sát thì có
tổng cộng là 84 người trực tiếp tham gia vào nuôi tôm sú trong đó có 29 người (chiếm
35%) là lao động thuê mướn còn lại 55 người chiếm 65% là lao động gia đình tham
gia vào nghề nuôi tôm sú để lấy công làm lời (Hình 4.2). Nhìn chung lao động gia
đình sẽ tiết kiệm được khoảng 10±9,87 triệu đồng/ha/vụ.
4.1.5. Tổng diện tích nuôi tôm
Diện tích nuôi thâm canh tôm sú bình quân 1,40±1,57 ha, diện tích nuôi lớn nhất 7,6
ha, thấp nhất 0,2 ha. Diện tích nuôi tôm của người dân ở mức từ 0,2 – 0,4 ha có 6 hộ
chiếm 20% năng suất bình quân đạt 3.969 kg/ha/vụ, từ 0,5 - 1 ha có 12 hộ chiếm 40%
năng suất bình quân 3.360 kg/ha/vụ và diện tích trên 1 ha có 12 hộ chiếm 40% năng
suất bình quân 2.995 kg/ha/vụ.
Bảng 4.5: Quy mô diên tích nuôi tôm
Diện tích
(ha)
Số lượng
(hộ)
Tỷ lệ
(%)
Năng suất bình
quân/ha/vụ
0,2 - 0,4 6 20 3.969±1.703
0,5 - 1 12 40 3.360±982
>1 12 40 2.995±1.014
Có thể thấy diện tích nuôi càng lớn thì năng suất bình quân càng thấp do khó quản lý
được môi trường, thức ăn và dịch bệnh. Đối với diện tích nuôi từ 0,2 – 0,4 ha năng
suất đạt cao nhất, do dễ chăm sóc và quản lý khi nuôi. Khảo sát cho thấy với những ao
có diện tích nuôi lớn nên có kế hoạch phân chia nhỏ để thuận lợi cho việc chăm sóc và
quản lý nhằm đạt năng suất cao.
39
4.1.6. Ao lắng và diện tích ao lắng
Ao lắng có vai trò rất lớn góp phần thành công cho những mô hình nuôi tôm thâm
canh và bán thâm canh, ao lắng có chức năng giữ nước chủ động cấp cho ao nuôi; là
nơi xử lí nước bằng lắng cơ học, xử lí hóa chất loại bỏ mầm bệnh trước khi đưa vào ao
nuôi. Để hạn chế được tình hình dịch bệnh trên tôm nuôi và phục vụ cho mục tiêu
phát triển ổn định và bền vững nghề nuôi tôm thì vai trò của ao trữ, lắng là yêu cầu
không thể thiếu (Nguyễn Văn Hảo, 2002).
Qua điều tra, diện tích ao lắng trung bình là 0,33±0,24 ha/hộ, chiếm 22,9% so với diện
tích nuôi. Theo Nguyễn Thị Phương Nga (2004) cho biết trung bình 76% số hộ có
dùng ao trữ lắng. Diện tích ao lắng càng lớn thì tính chủ động về nguồn nước cấp cho
ao nuôi càng cao, tỷ lệ các hộ nuôi tôm có ao lắng chiếm 67% tổng số hộ thả nuôi,
những hộ nuôi còn lại do diện tích nhỏ và đầu tư thấp nên không có ao lắng (chiếm
33%).
Bảng 4.6: Tỷ lệ các hộ nuôi có sử dụng và không sử dụng ao lắng
Diện tích ao lắng Số lượng Tỷ lệ (%)
Số hộ không sử dụng ao lắng 10 33
Số hộ sử dụng ao lắng 20 67
Theo kết quả điều tra của Võ Văn Bé (2007), thì số hộ nuôi tôm không có sử dụng ao
lắng là 7,5%. Đến năm 2010, số hộ không có ao lắng lại tăng lên và chiếm 33%, phần
lớn những hộ này có diện tích nuôi nhỏ (0,2 - 0,5 ha/hộ) diện tích sản xuất hạn chế.
Mặt khác, do giá tôm thương phẩm hiện nay tăng cao nên người dân tận dụng hết diện
tích kể cả diện tích của ao lắng để mở rộng diện tích canh tác, nhằm nâng cao sản
lượng.
Trong số hộ khảo sát có ao lắng, thì 100% số hộ không có ao xử lí nước thải mà xả
trực tiếp ra sông hoặc kênh rạch, các nông hộ cho biết do chi phí hóa chất để xử lí
nước thải cũng khá cao.
4.1.7. Phương pháp và thời gian cải tạo
Tẩy dọn ao nuôi là khâu quan trọng nhất trong quá trình nuôi, nó góp phần quyết định
sự thành bại của vụ nuôi. Trước mỗi vụ nuôi các hộ tiến hành công việc tháo cạn ao,
sên vét lớp bùn đáy nhằm loại bỏ mầm bệnh, địch hại và tạo điều kiện cho các vi sinh
vật hiếu khí hoạt động, phân hủy hết lớp hữu cơ còn dư thừa. Lấp các lổ rò rỉ để tránh
việc thoát nước. Đáy ao là nơi sinh sống của tôm nên đáy ao phải được dọn sạch sẽ,
không còn những chất hữu cơ hay chất bẩn tồn động. Nếu đáy ao nhiễm bẩn sẽ làm
cho đáy ao tích tụ nhiều khí độc làm thiếu oxy ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng trưởng
của tôm nuôi.
40
67%
30%
3%
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
26 - 30 ngày 15 - 25 ngày > 30 ngày
Hình 4.3: Thời gian cải tạo trong nuôi tôm sú
Thời gian cải tạo trong nuôi tôm sú trung bình dao động từ 27,7±4,49 ngày, thời gian
cải tạo cao nhất là 35 ngày (3%) thấp nhất là 15 ngày (3%). Thời gian cải tạo 26 – 30
ngày chiếm cao nhất (67%), từ 15 – 20 ngày (chiếm 30%), thời gian cải tạo lớn hơn
30 ngày (chiếm 3%). Phương pháp cải tạo khô được thực hiện ở tất cả các hộ nuôi, do
nuôi nhiều vụ/năm nên thời gian phơi ao ngắn. Vì vậy khâu cải tạo trong ao nuôi tôm
sú thâm canh có ý nghĩa rất lớn về mặt kỹ thuật và kinh tế cho hộ nuôi, đảm bảo các
yếu tố môi trường thuận lợi cho tôm phát triển tốt, tăng tỷ lệ sống, tăng năng suất.
Qua kết quả điều tra 30 hộ nuôi tôm tại thành phố Bạc Liêu cho thấy, 100% các hộ
nuôi tôm điều tiến hành công tác cải tạo ao trước mỗi vụ nuôi. Qua kết quả trên cho
thấy, người nuôi tôm tại nơi điều tra đã có ý thức cao trong việc phòng bệnh cho tôm
ngay từ khâu đầu tiên của quy trình nuôi tôm. Tuy nhiên hiệu quả của việc cải tạo ao
còn tùy thuộc rất nhiều vào yếu tố kỹ thuật và loại hóa chất mà họ sử dụng. Hầu hết
các hộ nuôi tôm sử dụng các loại vôi để cải ao, các loại vôi thường dùng là CaO,
CaCO3, Ca(OH)2.
Công việc cải tạo ao thường được các hộ nuôi tôm tiến hành như sau: bón vôi kết hợp
với việc phơi đáy ao từ 3 – 7 ngày. Sau đó cho nước vào ao nuôi khoảng 3 – 5 cm, đợi
khoảng 3 – 4 ngày rồi thả nước ra, tiếp tục rải vôi rồi cho nước vô đầy ao đợi 3 – 4
ngày sau thì tiến hành công việc chuẩn bị nước cho ao nuôi. Sau khi thực hiện xong
việc cải tạo ao hộ nuôi tiến hành công việc chuẩn bị nước ao nuôi. Công việc này
nhằm mục đích tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của tôm con. Công tác này
bao gồm các công việc: sát trùng nước, diệt tạp và gây màu nước.
4.1.8. Mật độ và kích cỡ giống thả nuôi
Mật độ thả giống có tác động rất lớn tới khả năng tăng trưởng của tôm, mật độ thả
giống trung bình của các hộ nuôi qua khảo sát là 20,7±3,84 con/m2, mật độ thả cao
41
nhất 28 con/m2 và thấp nhất 15 con/m2, mật độ thả dao động từ 15 – 28 con/m2. Qua
khảo sát hộ nuôi thả giống với nhiều mật độ khác nhau.
Bảng 4.7: Phân nhóm mật độ thả nuôi của tôm sú
Mật độ Tỷ lệ (%) Năng suất Tỷ lệ sống (%) Lợi nhuận/ha
< 20 23,3 3,0 58% 187
20 - 24 53,4 3,3 48% 263
>24 23,3 3,7 50% 217
Từ bảng 4.7 cho thấy các hộ nuôi tôm ở thành phố Bạc Liêu thả tôm giống ở mật độ
từ 20 – 24 con/m2 là cao nhất chiếm 53,4%. Do nuôi ở mật độ này cho tỷ lệ sống trung
bình khoảng 48±18% đồng thời cho lợi nhuận cao nhất 263 triệu/ha, còn 2 nhóm mật
độ còn lại chiếm 23,3%, nhóm mật độ từ <20 con/m2 cho tỷ lệ sống cao nhất 58% cuối
cùng là nhóm một độ từ >24 con/m2 cho tỷ lệ sống cao nhất khoảng 50±12% và năng
suất đạt cao nhất 37 tấn/ha.
Theo nghiên cứu của Võ Văn Bé (2007) mật độ tôm sú được thả nuôi trung bình 17
con/m2. So với kết quả điều tra cho thấy mật độ tôm sú được thả ngày càng tăng (20,7
con/m2) do giá thành của tôm thương phẩm ngày càng tăng mạnh từ đó người nuôi
tôm đã tăng mật độ lên nhằm mang lại năng suất cao.
3%
90%
7%
PL10 PL15 PL13
Hình 4.4: Mật độ và kích cỡ giống thả nuôi
Ngoài chất lượng con giống, mật độ thả thì kích cở giống cũng quan trọng không kém
vì nó có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu quả nuôi. Ở mô hình nuôi
tôm sú kích cỡ giống được chọn thả từ PL10 – PL15, nhưng phần lớn là chọn PL15
(90%), PL10 và PL13 chiếm tỷ lệ thấp (10%). Ở tôm sú thường chọn kích cỡ giống
lớn và điều qua xét nghiệm trước khi nuôi. Theo tiêu chuẩn ngành thì kích cở giống
nuôi trong mô hình thâm canh là PL15 (Bộ Thủy Sản, 2001). Kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Thanh Phương và csv., (2008) cho biết tôm giống được thả nuôi là PL10 đến
PL17. Nhìn chung kích cở thả tôm giống tùy thuộc nhiều yếu tố như giá cả thị trường
đầu ra, thời gian nuôi, tốc độ tăng trưởng, hiểu biết kỹ thuật hay trình độ chăm sóc
quản lý của người nuôi.
42
4.1.9. Nguồn giống và giá giống
Qua kết quả khảo sát hiện nay, nguồn giống được nông dân thả nuôi có hai nguồn chủ
yếu một là nguồn giống miền Trung được mua chủ yếu từ Nha Trang, Cà Ná,... hai là
nguồn giống ĐBSCL được nông dân bắt thả nuôi chủ yếu là ở Bạc Liêu, Cà Mau và
từ các trại giống trong tỉnh. Hiện nay nguồn giống ở địa phương được nông hộ thả
nuôi nhiều chiếm 60% (Hình 4.5) và nguồn giống ở Miền Trung chiếm 40%. Nguồn
giống ở địa phương vẫn kiểm tra PCR nên chất lượng con giống vẫn được đảm bảo,
mặt khác nguồn giống từ miền Trung, thường những hộ nuôi lớn mới mua giống từ
miền Trung về thả nuôi.
Theo Trần Văn Nhường và Bùi Thị Thu Hà (2005) thì nơi phát triển sản xuất giống
tôm sú sớm nhất ở Việt Nam là vùng Nam Trung Bộ, đặc biệt là tỉnh Khánh Hòa.
Năm 1990 thì cả nước có 500 trại sản xuất giống, tập trung chủ yếu ở Miền Trung và
số trại của cả nước tăng lên 2.086 trại vào năm 1998 và sản xuất được 6,6 tỷ tôm
PL15. Năm 2003 thì cả nước có hơn 5.000 trại tôm giống, nhưng vẫn tập trung chủ
yếu ở Miền Trung và Miền Nam với số lượng đạt 25 tỷ tôm bột. Hàng năm lượng tôm
giống thả nuôi ở ĐBSCL phải nhập từ các tỉnh Miền Trung từ 65 – 75% (Lê Xuân
Sinh và csv, 2006).
40
6057.9
52.2
0
10
20
30
40
50
60
70
Miền trung Địa phương
Nguồn giống Gía giống
Hình 4.5: Tỷ lệ nguồn gốc và giá tôm giống được nông hộ thả nuôi
Tuy nhiên giá giống ở Miền Trung thì cao trung bình 57,9±5,82 đồng/post so với
52,2±9,74 đồng/post nguồn giống địa phương. Giá giống cao do chi phí vận chuyển,
ngoài ra giá giống còn phụ thuộc vào mùa vụ nuôi, vụ nuôi chính giá giống thường
cao hơn vụ nuôi phụ vì vụ nuôi chính có 100% hộ thả nuôi, kích cỡ giống được các hộ
thả nuôi hiện nay thường PL 15 chiếm 90% số hộ chọn thả.
4.1.10. Thức ăn và hệ số chuyển hóa thức ăn
43
Thức ăn là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành công trong
nuôi trồng thủy sản. Để tôm có thể phát triển tốt cần phải được bổ sung thức ăn đảm
bảo đầy đủ về số lượng cũng như chất lượng.
Qua khảo sát cho thấy 100% các hộ nuôi tôm thâm canh tại thành phố - Bạc Liêu sử
dụng thức ăn công nghiệp cho tôm. Lượng thức ăn được sử dụng cho 1ha diện tích
mặt nước trung bình là 5,68±2,14 tấn/vụ, thấp nhất là 2,16 tấn/vụ và cao nhất là 11,2
tấn/vụ.
Hiện nay thị trường có rất nhiều công ty với nhiều loại thức ăn khác nhau phục vụ
nhu cầu ngày càng cao cho người nuôi tôm với các giá thành khác nhau tùy theo độ
đạm và thương hiệu.
Đa số các hộ nuôi đều sử dụng thức ăn có độ đạm từ 36 - 43% và hệ số thức ăn trung
bình trong ao nuôi tôm thâm canh là 1,7±0,4, dao động từ 1,3 – 2,9. Điều này có ý
nghĩa rất quan trọng trong nuôi thương phẩm, đặc biệt trong mô hình nuôi thâm canh.
FCR thấp góp phần giảm khối lượng thức ăn sử dụng để nuôi cùng khối lượng tôm
thành phẩm.
Bảng 4.8: Phân nhóm các loại thức ăn công nghiệp và giá các loại thức ăn
Tên thức
ăn
Số mẫu Tỷ lệ
(%)
Giá trung
bình (đồng/kg)
FCR Chi phí
TA/ha/vụ
Laone 17 56,6 28.000 1,66 143.849.000
Grobest 8 26,7 31.000 1,89 187.820.000
Laonest 2 6,7 32.000 1,6 148.000.000
Newsuny 2 6,7 30.500 1,8 230.250.000
Zet 1 3,3 30.000 2,1 288.000.000
Mỗi loại thức ăn thì có giá thành khác nhau, từ bảng 4.8 thấy thức ăn hiệu Laone được
mọi người sử dụng phổ biến nhất chiếm 56,6% số hộ với giá thành trung bình
28.000/kg, loại thức ăn sử dụng tiếp theo là Grobest chiếm 26,7% với giá thành trung
bình là 31.000/kg, thức ăn Laonest và Newsuny có cùng số hộ dân chọn mua vì thế
chiếm tỷ lệ như nhau khoảng 6,7% được mua với giá lần lược là 32.000/kg và
30.5000/kg, và loại thức ăn được ít hộ dân chọn nhất là zet chiếm 3,3% với giá
30.000/kg.
Tại thời điểm khảo sát ở thành phố Bạc Liêu thì thức ăn Laone được người nuôi sử
dụng nhiều nhất trong nuôi tôm sú. Theo số liệu đã khảo sát (bảng 4.8) cho thấy phần
lớn các hộ nuôi tôm sú chọn thức ăn hiệu Lanoe bởi vì loại thức ăn này có giá trung
bình thấp hơn các loại thức ăn khác và có hệ số FCR trung bình thấp hơn (1,66±0,32)
so với các loại khác (1,84±0,47) từ đó có thể hạn chế được ô nhiễm môi trường, chi
phí cho việc cải tạo ao thấp do đó tăng thêm lợi nhuận cho người nuôi, đồng thời các
44
hộ nuôi tôm sú sử dụng thức ăn Laone có thời gian nuôi trung bình là 5,0±0,78 tháng,
ngắn hơn những hộ nuôi sử dụng các loại thức ăn khác 5,04±0,66 tháng giúp người
nuôi tiết kiệm được thời gian và chi phí. Nhìn chung, khi sử dụng thức ăn Laone
(FCR=1,66) sẽ tiết kiệm được một khoảng chi phí thức ăn trung bình 52 trđ/ha/vụ so
với các loại thức ăn khác (FCR=1,84).
0.0
0.5
1.0
1.5
2.0
2.5
zet laonest grobest laone newsuny
FC
R
32
34
36
38
40
42
44
%
FCR CP
Hình 4.6: Mối liên hệ giữa hệ số thức ăn và độ đạm
Theo Pornlerd chanratchakool (1995) nhu cầu chuyển hóa thức ăn cho 1kg tăng trọng
của tôm sú khá cao và dao động quanh 1,5, nhưng hệ số FCR điều tra tại các hộ nuôi
tôm sú trung bình là 1,7±0,4. Trong đó, hệ số FCR cao nhất là 2,9 (chiếm 3%) nguyên
nhân là do ước lượng tỷ lệ sống không chính xác, tôm bị nhiễm bệnh gan làm giảm
hiệu quả sử dụng thức ăn, hệ số FCR nhỏ nhất là 1,3 (chiếm 10%) nguyên nhân là
thức ăn có dinh dưỡng cao (Laone, 38%), việc ước lượng và quản lí thức ăn tốt.
Kết quả phân tích mối liên hệ giữa các loại thức ăn và độ đạm (Hình 4.6) cho thấy 2
loại thức ăn có cùng độ đạm (Laone và Grobest, 38%) có FCR chênh lệch đáng kể
1,66 và 1,89. Mặt khác, thức ăn Laonest có 40% đạm cho hệ số FCR là 1,6. Điều này
chứng tỏ rằng, trong thực tế sản xuất hệ số FCR bị ảnh hưởng bởi khả năng ước lượng
trọng lượng đàn tôm, quản lý thức ăn, chất lượng thức ăn, cá tạp trong ao. Thức ăn
Laonest và Laone hệ số FCR khoảng 1,6 – 1,66 cho thấy năng suất trung bình 3 – 3,12
tấn/ha.
Trong báo cáo của Nguyễn Thanh Phương và csv., (2008) cho biết tôm nuôi thâm
canh ở Sóc Trăng được cho ăn thức ăn viên và có hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR)
trung bình 1,59. Cũng trong báo cáo này tác giả cũng cho biết nếu FCR từ 1,2 - 1,5 thì
người nuôi có lãi, cao hơn 1,5 thường chậm lớn, hoặc có cá tạp, tôm bị bệnh, tỉ lệ
sống thấp hoặc kích cỡ nhỏ. Hàm lượng đạm trong thức ăn là một trong những nhân tố
ảnh hưởng đến FCR. Theo tiêu chuẩn ngành (2001) thì thức ăn viên được dùng trong
45
nuôi tôm sú thâm canh phải có hàm lượng đạm tổng số từ 30 – 40%. Hàm lượng đạm
trong thức ăn có ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả nuôi, FCR,… Tuy nhiên trong
nghề nuôi tôm sú thâm canh thì FCR cũng bị nhiều ảnh hưởng bởi các yếu tố khác
trong quá trình nuôi.
4.1.11. Thời gian nuôi, tỷ lệ sống và năng suất
Trong quá trình nuôi tôm thì tỷ lệ hao hụt thường cao, do lây lan mầm bệnh từ nguồn
nước ô nhiễm, từ nguồn giống và ảnh hưởng của thời tiết là nguyên nhân chính dẫn
đến tôm bị nhiễm bệnh. Khi thời tiết thay đổi đột ngột làm môi trường ao nuôi thay
đổi từ đó gây sốc cho tôm làm tôm mẫn cảm với mầm bệnh do đó gây ra tỷ lệ sống
thấp.
Bảng 4.9: Phân nhóm tỷ lệ sống trong nuôi tôm
Nhóm tỷ lệ sống(%) Số mẫu %
18 - 40% 9 30
41 - 59 % 12 40
60 - 75% 6 20
>76% 3 10
Mô hình nuôi tôm sú thâm canh có tỷ lệ sống trung bình dao động 50±19% thấp hơn
tỷ lệ sống 59% trong nghiên cứu của Võ Văn Bé (2008). Tỷ lệ sống lớn nhất đạt 88%
và tỷ lệ sống thấp nhất là 18%. Từ kết quả của Bảng 4.9 cho thấy tỷ lệ sống ao nuôi
tôm từ 41 – 59% chiếm tỷ lệ cao nhất (40%) khi nuôi ở mật độ 22 con/m2, kế đến là
tỷ lệ sống từ 18 – 40% (chiếm 30%) khi nuôi ở mật độ 21 con/m2, tỷ lệ sống từ 60 –
75 % (chiếm 20%) và mật độ thả nuôi 20 con/m2, còn lại là tỷ lệ sống lớn hơn 76%
chiếm tỷ lệ thấp nhất 10% khi thả mật độ thấp 18 con/m2. Năng suất thu hoạch trung
bình 3,3±1,14 tấn /ha.
Theo kết quả nghiên cứu gần đây cho biết tỷ lệ sống của tôm sú đạt 59% khi thả với
mật độ 17 con/m2 (Nguyễn Thanh Phương và csv., 2008). Bên cạnh mật độ thả thì
cũng còn nhiều yếu tố liên quan đến tỷ lệ sống như kích cở giống thả - có thể là do thả
con giống loại nhỏ. Nhưng cũng cần xét đến nhiều yếu tố liên quan khác cũng làm
tăng hoặc giảm tỷ lệ sống như trình độ chăm sóc quản lý, chất lượng con giống, dịch
bệnh, ô nhiễm môi trường nước.
Thời gian nuôi tôm sú trung bình dao động từ 149±21,7 ngày số hộ có thời gian nuôi
kéo dài 120 – 150 ngày chiếm 70%. Giá thành của tôm sú gia tăng theo kích cỡ thu
hoạch, kích cỡ trung bình của tôm đạt 31,6±6,87 con/kg. Khi tôm được nuôi với mật
độ từ 15 – 19 con/m2 và 20 – 24 con/m2 sinh trưởng nhanh và kích cỡ thu hoạch lớn
30 con/kg thời gian thu hoạch 150 ngày. Ngược lại khi nuôi với mật độ 25 – 28
con/m2 thì kích cỡ thu hoạch nhỏ 37 con/kg và thời gian thu hoạch ngắn 144 ngày.
46
0.00
1.00
2.00
3.00
4.00
15 - 19 20 - 24 25 - 28 Mật độ
Tấ
n
/h
a
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
Tỷ
lệ
số
n
g
Tấn/ha Tỷ lệ sống
Hình 4.7: Mối tương quan giữa mật độ, tỷ lệ sống và năng suất của tôm sú
Kết quả phân tích mối tương quan giữa mật độ, tỷ lệ sống và năng suất cho thấy nhóm
mật độ 15 - 19 con/m2 có năng suất bình quân thấp nhất 3 tấn/ha và cho tỷ lệ sống cao
nhất 58%. Ngược lại nhóm mật độ 25 - 28 con/m2 cho năng suất bình quân cao nhất
3,73 tấn/ha và tỷ lệ sống 50%. Trong khi nuôi ở mật độ 20 - 24 con/m2 cho tỷ lệ sống
48% và năng suất bình quân không cao đạt khoảng 3,31 tấn/ha.
4.1.12. Chi phí sản xuất trong nuôi tôm công nghiệp tại Thành Phố Bạc Liêu
Qua kết quả điều tra 30 hộ nuôi tôm ở thành phố Bạc Liêu cho thấy, tổng chi phí trung
bình là 309±81 triệu đồng/ha/vụ, thấp nhất là 175 triệu đồng/ha/vụ và cao nhất là 544
triệu đồng/ha/vụ. Có 3 nhóm chi phí chiếm tỷ lệ khá cao so với các nhóm chi phí
khác. Đó là chi phí thức ăn chiếm 53,8% tổng chi phí, tiếp đó là chi phí về thuốc và
hóa chất chiếm 17,2% và chi phí khấu hao chiếm 6,3%. Đây là các chi phí có ảnh
hưởng nhiều nhất đến tổng chi phí của mô hình. Ngoài ra còn một số loại chi phí khác
như: chi phí công lao động, chi phí khấu hao, chi phí cải tạo, chi phí nhiên liệu và các
loại chi phí khác là 22,6% (Bảng 4.10)
Trong đó, chi phí thức ăn cao hay thấp phụ thuộc vào hệ số thức ăn và giá của từng
thời điểm mua. Quản lý thức ăn là khâu quan trọng và có tính quyết định thành công
của vụ nuôi, chi phí thức ăn chiếm tỷ lệ cao trong tổng vốn đầu tư, thường chiếm 45 -
50% (Chanratchakool, 1995), chi phí trung bình tại các hộ nuôi tôm sú dao động từ
166±62,9 triệu đồng/ha, hộ tốn thấp nhất cho chi phí này khoảng 64,8 triệu
đồng/ha/vụ và hộ tốn cao nhất lên đến 325 triệu đồng/ha/vụ. Còn chi phí thuốc, hóa
chất trong nuôi tôm sú thâm canh đứng thứ hai sau chi phí thức ăn và chiếm một
lượng đáng kể, trung bình 53,4±33,4 triệu đồng/ha dao động từ 15 triệu đồng/ha/vụ
đến 126 triệu đông/ha/vụ và cao hơn với kết quả phân tích trong mô hình nuôi tôm sú
thâm canh của Võ Văn Bé (2007) (trung bình 17,29 triệu đồng/ha). Chi phí con giống
thì cao hay thấp còn tùy thuộc vào mật độ giống thả, giá giống, kích cỡ con giống,
47
nguồn giống,… Chi phí đầu tư con giống tôm sú trung bình khoảng 11,3±2,9 triệu
đồng/ha, hộ nuôi tốn thấp nhất cũng khoảng 5,3 triệu đồng/ha/vụ, còn hộ tốn cao nhất
là 18,2 triệu đồng/ha/vụ.
Bảng 4.10 Các chi phí trong nuôi tôm Sú
Các chi phí TB Thấp nhất Cao nhất (triệu đồng) %
CP1 thức ăn 166 ± 62,9 64,8 325 53,8
CP thuốc, hóa chất 53,4 ± 33,4 15 126 17,2
CP khấu hao 19,6 ± 4,31 3,00 29,5 6,3
CP nhiên liệu 18,1 ± 6,14 10,5 32,4 5,9
CP thuê lao động 16,6 ± 6,45 8,00 30,0 5,6
CP cải tạo 16,1 ± 6,59 7,50 35,0 5,2
CP con giống 11,3 ± 2,9 5,3 18,2 4,8
CP khác 3,56 ± 1,53 1,29 9,09 1,2
Tổng CP 309 ± 81,4 175 544 100
Ngoài những chi phí trên, còn có một số chi phí mà các hộ nuôi tôm cũng quan tâm
như: chi phí cải tạo ao trước vụ nuôi trung bình mỗi hộ nuôi tốn từ 16,1±6,59 triệu
đồng/ha/vụ, hộ tốn cao nhất là 35 triệu đồng/ha/vụ còn hộ tốn ít nhất là 7,5 triệu
đồng/ha/vụ. Chi phí thuê lao động cũng khá cao, trung bình mỗi hộ nuôi phải tốn
16,6±6,45 triệu đồng/ha/vụ, hộ tốn thấp nhất khoảng 8 triệu đồng/ha/vụ, còn hộ tốn
cao nhất lên đến 30 triệu đồng/ha/vụ.
Chi phí nhiên liệu bao gồm: chi phí cho xăng dầu nhớt để phục vụ cho quá trình bơm
nước, chạy quạt…trung bình các hộ nuôi tốn 18,1±6,14 triệu đồng/ha/vụ, hộ nuôi ít
nhất là 10,5 triệu đồng và cao nhất là 32,4 triệu đồng/ha/vụ. Ngoài ra còn một số
nhóm chi phí cũng làm ảnh hưởng nhưng không lớn đến tổng chi phí của vụ nuôi.
4.1.13 Thu nhập và lợi nhuận của mô hình nuôi
Doanh thu của nghề nuôi tôm sú tùy thuộc vào năng suất nuôi, giá tôm thương phẩm
trên thị trường lúc thu hoạch, có hộ nuôi bán được giá rất cao 200.000 đồng/kg tôm
làm cho thu nhập của nông hộ tăng nhưng cũng có hộ chỉ bán được với giá 117.000
đồng/kg tôm. Doanh thu trung bình của hộ nuôi tôm là 544±218 triệu đồng/ha/vụ,
trong đó doanh thu cao nhất là 1.330 triệu đồng/ha/vụ còn hộ có doanh thu thấp nhất
là 194 triệu đồng/ha/vụ.
1
CP: chi phí
48
Bảng 4.11: Hiệu quả của mô hình nuôi tôm sú thâm canh
Diễn giải Đvt Trung bình Thấp nhất Cao nhất
Doanh thu Trđ/ha 544 ± 218 194 1.330
Tổng chi phí Trđ/ha 309 ± 81,4 175 544
Lợi nhuận Trđ/ha 235 ± 166 -3,94 786
Tỷ suất lợi nhuận LN/CP 0,75 ± 0,44 -0,02 1,45
Giá bán đồng/kg 164 ± 25,9 117 200
Giá thành sản xuất Đồng/kg 98,800 đ/kg 65,3 173
Qua đợt điều tra cho thấy lợi nhuận từ việc nuôi tôm tại thành phố Bạc Liêu trung
bình 235±166 triệu đồng/ha/vụ. Do giá thức ăn, con giống, thuốc/hóa chất tăng mạnh
và trong quá trình nuôi xảy ra dịch bệnh làm cho tỷ lệ sống thấp, năng suất thu hoạch
giảm dẫn đến hộ bị lỗ vốn. Hộ nuôi bị lỗ vốn nhiều nhất khoảng 3,94 triệu
đồng/ha/vụ. Từ lợi nhuận và tổng chi phí có thể tính được tỷ suất lợi nhuận trung bình
là 0,75±0,44 thể hiện qua mô hình nuôi tôm sú thâm canh, nghĩa là bỏ ra một đồng chi
phí đầu tư thì sau mỗi vụ nuôi thì người dân sẽ thu 0,75 đồng lợi nhuận.
Bình quân chi phí cho 1kg tôm là 98.800 đồng/kg. Trong đó hộ nuôi bị lỗ vốn chiếm
3,3% trong tổng số hộ khảo sát. Năng suất trung bình khoảng 1.143 kg/ha, thời gian
nuôi 135 ngày/vụ, cỡ tôm đạt được là 32 con/kg với giá bán chỉ 170.000 đồng/kg.
Người nuôi cho biết nguyên nhân là do có xảy ra dịch bệnh nên tỷ lệ sống thấp 18%.
4.1.14. Các bệnh thường gặp ở tôm nuôi
Bệnh tôm là vấn đề lớn và quan trọng trong nuôi tôm hiện nay, đặc biệt là trong mô
hình nuôi tôm thâm canh. Qua kết quả điều tra cho thấy có 7 loại bệnh xuất hiện phổ
biến như: bệnh đóng rong, bệnh đốm trắng, bệnh đỏ thân, bệnh đường ruột, bệnh gan,
bệnh phân trắng, bệnh do môi trường. Trong đó, bệnh gan là bệnh nguy hiểm gây thiệt
hại lớn cho người nuôi do tôm chết với tỷ lệ cao trong thời gian ngắn.
Theo kết quả khảo sát cho thấy bệnh có tỷ lệ cao nhất là bệnh do môi trường gây ra
như: bệnh đen mang, ăn mòn phụ bộ và miền vỏ chiếm 33%, tiếp theo là bệnh đóng
rong và bệnh gan chiếm 17%, bệnh đường ruột 10%, bệnh đốm trắng và đỏ thân
chiếm 7%, còn lại bệnh có tỷ lệ thấp nhất là bệnh phân trắng chỉ chiếm 3% (Hình 4.8).
Trong các loại bệnh thì bệnh gan và bệnh phân trắng làm cho tỷ lệ sống thấp (khoảng
36%), do phải thu hoạch sớm từ 60 - 120 ngày và đạt năng suất thấp hơn (khoảng 2,6
tấn/ha) so với tôm bị các loại bệnh khác.
Theo Bộ thủy sản (2005) thì bệnh phân trắng và teo gan mới xuất hiện trong những
năm gần đây trong nuôi tôm thâm canh nhưng gây thiệt hại lớn và chỉ xuất hiện ở các
ao nuôi tôm có mật cao từ 40 PL15/m2 trở lên và phổ biến ở mô hình ít thay nước,
nhiễm bẩn và hàm lượng hữu cơ cao. Bệnh này thường xuất hiện ở tôm 40 – 60 ngày
tuổi (Bộ Thủy Sản, 2004). Bên cạnh đó các bệnh đỏ thân, mềm vỏ thường xuất hiện
49
sau 1 – 2 ngày khi mưa, tôm có biểu hiện mềm vỏ, đỏ thân nhưng biểu hiện bên trong
là ruột và dạ dầy trống rỗng, gan teo, tôm lờ đờ nổi trên mặt nước và mất phương
hướng (Bộ Thủy sản, 2006).
33%
17% 17%
10%
7% 7%
3%
0%
5%
10%
15%
20%
25%
30%
35%
Môi trường Đóng rong Gan Đường ruột Đốm trắng Đỏ thân Phân trắng
Hình 4.8: Các bệnh thường gặp trên tôm nuôi
Các loại bệnh khác như: đóng rong, môi trường,… ít làm ảnh hưởng nhiều đến năng
suất, trung bình đạt từ 3,5 – 4,5 tấn/ha, tỷ lệ sống trên 60% và kích cỡ tôm lớn khoảng
29 – 31 con/kg. Phần lớn các chủ hộ cho biết nguyên nhân làm tôm bị bệnh là do môi
trường ao nuôi bị ô nhiễm, thời tiết thay đổi và do con giống không đảm bảo chất
lượng, một trong những loại bệnh trên là nguyên nhân dẫn đến hộ nuôi bị lỗ, ảnh
hưởng đến lợi nhuận thu được từ nuôi trồng thủy sản, tùy từng loại bệnh mà người
nuôi sử dụng các sản phẩm thuốc, hóa chất chuyên dùng trong thủy sản và các thảo
dược để điều trị.
4.1.15. Cách phòng và trị một số bệnh của hộ nuôi
Qua kết quả khảo sát khi dịch bệnh xảy ra nông dân có nhiều biện pháp xử lý khác
nhau, tùy theo giai đoạn phát triển của tôm mà chọn lựa phương án xử lý thích hợp.
Có hộ thu hoạch hoàn toàn khi tôm lớn, có hộ sử dụng thuốc hóa chất và chế phẩm
sinh học tác động vào môi trường và ngăn chặn mầm bệnh cải thiện môi trường ao
nuôi, sử dụng các loại thức ăn bổ sung trộn vào thức ăn để tăng sức đề kháng cho tôm
nuôi, kết hợp với thay nước và đánh vôi. Ngoài ra một số hộ còn sử dụng thảo dược
như: tỏi, lá ổi để phòng bệnh cho tôm, nhưng khi bệnh xảy ra thì rất ít hộ sử dụng
phương pháp này.
Qua kết quả khảo sát, phần lớn chủ hộ nuôi tôm cho rằng nguyên nhân gây bệnh đóng
rong, đen mang, ăn mòn phụ bộ có liên quan đến dinh dưỡng và môi trường như: thiếu
Vitamin, đáy ao bẩn,… nên các chủ hộ đã sử dụng những loại thuốc và hóa chất có
tính diệt khuẩn như: BKC liều lượng 5,31±1,86 lít/ha/vụ, Iodine với liều lượng
50
1,4±0,45 lít/ha/vụ,… bón xuống ao để môi trường ao nuôi sạch hơn mặt khác có bổ
sung một số Vitamin, Khoáng để tôm tăng cường đề kháng, trị khỏi bệnh cho tôm và
giúp tôm phát triển tốt hơn.
Người nuôi cho biết, khi ao nuôi tôm xuất hiện bệnh gan thì tỷ lệ chết cao và diễn ra
nhanh. Một số hộ nuôi dùng vitamin, khoáng bổ sung vào thức ăn và một số thuốc,
hóa chất tạt xuống ao như: Trifluralin 48% liều lượng sử dụng 9,19±2,95 lít/ha/vụ,
Povidone iodine liều lượng 1,4±0,45 lít/ha/vụ,... để tăng sức đề kháng giúp tôm nhanh
phục hồi và để diệt khuẩn môi trường nước ao nuôi.
Bệnh đốm trắng hiện nay không có loại thuốc nào để đặc trị. Người nuôi cho biết, khi
ao nuôi tôm xuất hiện bệnh đốm trắng thì tiến hành thu hoạch toàn bộ và sau đó sử
dụng một số loại thuốc, hóa chất như: chlorin, BKC, Iodine, vôi… để diệt khuẩn môi
trường nước và môi trường xung quanh ao nuôi.
Nhìn chung, tình hình bệnh tôm hiện nay rất đa dạng và có nhiều loại bệnh phổ biến
thường xuyên xảy ra như: đóng rong, đen mang, ăn mòn phụ bộ,… nhưng ít gây thiệt
hại cho người nuôi và dễ trị khỏi. Qua khảo sát cho thấy, không có chủ hộ nào sử
dụng kháng sinh để trị bệnh cho tôm, mà chỉ sử dụng những loại thuốc, hóa chất làm
sạch môi trường, một số loại CPSH có tác dụng phân hủy hợp chất hữu cơ và một số
loại thuốc khác được bổ sung vào thức ăn để tăng khả năng đề kháng giúp tôm vượt
qua mầm bệnh.
4.2. Phân tích tình hình sử dụng thuốc và hóa chất trong nuôi tôm
Việc sử dụng các loại thuốc - hóa chất là yếu tố không thể thiếu trong nuôi tôm sú
thâm canh, nhóm thuốc - hóa chất chính là: các chất sát khuẩn dùng vệ sinh ao, phòng
và trị bệnh như: Iodine, BKC,… và nhóm cung cấp vitamin, khoáng, thức ăn bổ sung.
Mức độ sử dụng thuốc và hoá chất của từng hộ dân khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện
sản xuất của mỗi hộ và tình hình bệnh xảy ra trong quá trình nuôi.
4.2.1. Thuốc và hóa chất diệt khuẩn trong khâu chuẩn bị ao nuôi
Trong các hộ khảo sát hơn 100% số hộ nuôi tôm có sử dụng hóa chất diệt tạp, diệt
khuẩn được nông dân sử dụng chủ yếu để diệt các đối tượng không mong muốn như;
cá tạp, cá dữ, giáp xác, ốc,… Bên cạnh hóa chất chuyên dùng trong NTTS như: Vôi,
Saponin, thì các loại thuốc trừ sâu, gây hại trên cây trồng cũng được sử dụng như:
Glyphosate, Cypermethrin. Một số hộ khảo sát cho rằng việc sử dụng các loại thuốc
trừ sâu vào diệt tạp có chi phí thấp nhưng hiệu quả cao. Chính vì thế mà các loại thuốc
này được nhiều nông hộ sử dụng, nhất là tình hình nuôi tôm hiện nay nhiều ao nuôi
nhiễm bệnh nặng và dịch bệnh diễn biến phước tạp. Theo Nguyễn Hữu Đức (2007) ở
Sóc Trăng có 3 sản phẩm thuốc trừ sâu sử dụng trong cải tạo ao chiếm đến 31,7%.
Bảng 4.12: Thuốc, hóa chất diệt khuẩn trong khâu chuẩn bị ao nuôi
51
Thuốc/hóa chất
Hoạt chất chính
Tỷ lệ
(%)
Liều lượng sử
dụng/ha/vụ
Saponin Saponin 12 – 17% 56,5 241±73,7 kg
Chlorine Calcium hypochoirte Ca(OCl2) 16,8 243±57,9 kg
BKC 80% Benzalkonium chlorine 80% 13,3 5,31±1,86 lít
Diệt giáp xác Cypermethrin 6,8 2,36±0,2 lít
Virkon Malicaxitsodiumdodecylben 3,3 6 lít
Thuốc trừ sâu Glyphosate 3,3 2,5 lít
Qua khảo sát số hộ nuôi tôm thì số hộ sử dụng thuốc trừ sâu để diệt tạp trước khi nuôi
(chiếm tỷ lệ 3,3%), mặc dù biết rõ tác hại của nó tồn lưu trong đất, làm cho môi
trường ao nuôi mau thoái hóa và ảnh hưởng đến con người và vật nuôi. Tuy nhiên sản
phẩm này thường sử dụng ở vụ 1, do thời gian hết tác dụng của thuốc kéo dài, trong
khi thời gian cải tạo của vụ 2 ngắn hơn vụ 1, mặt khác cho kịp thời thời gian sản suất.
Trong đó thì Saponin được nông dân sử dụng nhiều nhất (chiếm 56,5%) để diệt tạp
và ổn định màu nước trước khi thả nuôi, kế đến là chlorine (chiếm 16,8%) được nông
dân sử dụng để diệt khuẩn trong quá trình xử lí nước trước khi nuôi. Vì đây là sản
phẩm nguyên liệu có tính sát khuẩn cao và phân hủy nhanh trong môi trường nước.
Những loại khác cũng được sử dụng: BKC (13,3%), diệt giáp xác (6,8%), Virkon
(3,3%).
4.2.2. Nhóm khoáng thiên nhiên
Các nhóm này bao gồm vôi, dolomite, daimitin, zeolite có nguồn gốc thiên nhiên
được dùng để cải tạo và xử lý nước trong quá trình nuôi, với mục đích sát trùng ở giai
đoạn đầu cải tạo ao, cân bằng các yếu tố thủy hóa như pH, độ kiềm, thu khí độc các
sản phẩm này được sử dụng định kỳ trong suốt quá trình nuôi.
Bảng 4.13: Các nhóm khoáng được các hộ sử dụng trong nuôi tôm
Thuốc/hóa chất Hoạt chất chính % Kg/ha/vụ
Vôi đá CaO 33,3 1168±384,7
Canxicacbonate CaCO3 26,7 1031±212
Dolomite CaMg(CO3)2 90% 20,0 762±207
Zeolite, daimitin SiO2, Al2O3, CaO, MgO, Na2O 20,0 942±195,6
Vôi được sử dụng trong ao nuôi thủy sản có 2 dạng, dạng vôi đá còn gọi là vôi sống
(CaO) dùng để xử lý trong giai đoạn cải tạo, vôi có tính sát khuẩn cao nên được nhiều
hộ sử dụng chiếm 33,3%, dùng để làm tăng pH đất, được sử dụng nhiều ở vùng đất bị
nhiễm phèn. Dạng Cacbonat Canxi còn gọi là vôi nông nghiệp (CaCO3) chiếm 26,7%
dùng để cải tạo ao và xử lý định kỳ. Nhóm khoáng chiếm 20% trong các hộ sử dụng
là dolomite, zeolite, daimitin được sử dụng trong ao nuôi với công dụng là hấp thu
52
khí độc, được sử dụng nhiều trong nuôi công nghiệp và được sử dụng định kỳ, khi
tôm được 90 ngày tuổi trở đi, vì thời gian này ao nuôi tích tụ nhiều mùn bã hữu cơ.
4.2.3. Nhóm hóa chất quản lý nước và phòng trừ dịch bệnh
Qua khảo sát 30 hộ nuôi tôm thâm canh tại thành phố Bạc Liêu thì có một số loại
thuốc – hóa chất được người nuôi sử dụng để phòng và trị bệnh (bảng 4.14). Tùy vào
mục đích sử dụng trong cải tạo ao, hay trong khi nuôi mà nồng độ sử dụng cũng khác
nhau. Như Saponin chiếm 7,7% trong cải tạo ao để diệt cá tạp, trong quá trình nuôi để
kích thích tôm lột xác. Các loại thuốc hóa chất trong quản lí nước và phòng trừ dịch
bệnh được sử dụng định kỳ.
Bảng 4.14: Hóa chất được sử dụng trong quản lý nước và phòng trừ dịch bệnh
Thuốc/hóa chất Hoạt chất chính Tỷ lệ
(%)
Liều lượng sử
dụng/ha/vụ
T – Zoo, O – Lan, D – Zoo, Zoo – o
– rine Trifluralin 48% 63,3 9,19±2,95 lít
Iodine complex, Pharmardyne 99 Povidone iodine 33,3 1,4±0,45 lít
Formol Formadehyde (HCHO) 33,3 90,6±16,99lít
BKC 80% Benzalkonium chlorine 80% 23,3 10,1±2,4 lít
DD Đồng sulfat (CuSO4) 13,3
Saponin Saponin 12 - 17% 7,7 58±2,8 kg
SBC Sorbitol 6,7 -
Kupsygalon Thuốc tây 3,3 -
Kết quả cho thấy người dân sử dụng thuốc - hóa chất để phòng bệnh cũng khá nhiều
(8 loại). Trong đó nhóm hóa chất được sử dụng cao nhất là Trifluralin 48% chiếm
63,3%, kế đến Povidone iodine và formol chiếm tỷ lệ 33,3% số hộ sử dụng, BKC 80%
chiếm 23,3% số hộ. Do các hóa chất này rất thông dụng trong việc sát khuẩn với nồng
độ cao, diệt trừ mầm bệnh và ổn định môi trường nước ao nuôi.
Ngoài ra, còn có một số nhóm thuốc và hóa chất khác như: nhóm cắt tảo có 1 sản
phẩm là Đồng sulfat (CuSO4), còn lại một số hộ sử dụng thuốc tây Kupsygalon, để trị
đường ruột cho tôm có 1 sản phẩm chiếm 3,3%.
4.2.4. Nhóm hóa chất gây màu nước
Màu nước thích hợp cho ao nuôi tôm là công đoạn rất quan trọng trước khi thả tôm,
nhằm cân bằng quần thể vi sinh vật và tạo nguồn thức ăn tự nhiên trong ao, cũng như
ổn định môi trường ao nuôi. Tuy nhiên qua phân tích số liệu cho thấy đa số các hộ
không có gây màu nước ao nuôi, số hộ gây màu nước ao nuôi chỉ chiếm 20% (kể cả
các loại sản phẩm vi sinh và phụ phẩm nông nghệp), trong đó gây màu bằng hóa chất
chiếm 10% gồm các sản phẩm như NPK, DAP, Ure (bảng 4.15). Trong số hộ không
gây màu nước cho ao nuôi được cho biết một phần là do trong quá trình sử dụng các
53
loại hóa chất xử lý nước, thì các sản phẩm này cũng có tác dụng gây màu như
Saponin, vôi các loại.
Bảng 4.15: Các loại hóa chất được gây màu nước trong cải tạo ao
Tên hóa chất Hoạt chất chính Kg/ha/vụ Tỷ lệ (%)
NPK + DAP N-P-K+ D-A-P 26,7±1,06 7
Bột đậu nành +cám Đạm thực vật +tinh bột 73±1,73 10
Ure 46-0-0 10 3
4.2.5. Các loại chất dinh dưỡng bổ sung vào thức ăn
Để đảm bảo cho sự tăng trưởng tốt nhất của tôm nuôi, người nuôi đã bổ sung vào thức
ăn các chất dinh dưỡng, khoáng chất, chất kích thích tiêu hóa, Vitamin C,…nhằm tăng
cường hoạt động hệ miễn dịch tự nhiên và sức đề kháng cho tôm nhằm chống lại
mầm bệnh và giúp tôm tăng trưởng nhanh.
Qua kết quả khảo sát cho thấy, chủ hộ nuôi có bổ sung một số chất cần thiết vào thức
ăn cho tôm. Trong đó, nhóm vitamin C chiếm tỷ lệ cao nhất 60% số hộ nuôi sử dụng.
60%
40%
27%
13%
7%
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
Vitamin C Premix Khoáng Lipid Khác
Hình 4.9: Nhóm vitamin, khoáng, premix và lipid sử dụng trong quá trình nuôi tôm
Do vitamin C là chất cần thiết cho quá trình trao đổi chất, tham gia vào quá trình sinh
trưởng tăng khả năng miễn dịch và giảm sốc cho tôm khi môi trường thay đổi đột
ngột. Mặt khác, vitamin C hầu như không có trong thức ăn viên, mà chỉ được cung
cấp thông qua thức ăn bổ sung với dạng bột với nhiều tên thương mại khác nhau. Việc
kích thích quá trình tiêu hóa trong quá trình nuôi cũng được nông hộ áp dụng để tăng
khả năng hấp thụ thức ăn. Đối với các chất dinh dưỡng bổ sung vào thức ăn cũng
được người dân bổ sung vào thức ăn như: premix (40%), khoáng (27%), lipid (13%),
Ngoài ra một số hộ còn sử dụng thuốc nam như lá ổi, tỏi để trị bệnh cho tôm nhưng ở
tỷ lệ thấp chiếm 7%. Giúp tôm tăng cường hệ miễn dịch và giảm hao hụt trong quá
trình nuôi.
54
4.2.6. Nhóm chế phẩm sinh học (CPSH).
Nhóm CPSH dùng trong thủy sản là những sản phẩm bổ sung có thành phần là vi sinh
vật sống có lợi đối với tôm cá, cải thiện giá trị dinh dưỡng của thức ăn cung cấp, hỗ
trợ quá trình tiêu hóa, nâng cao khả năng kháng bệnh của động vật thủy sản và cạnh
tranh về dinh dưỡng cải thiện môi trường. Qua khảo sát nhóm này có nhiều tên thương
mại được người nuôi tôm sử dụng xuyên suốt trong quá trình nuôi, từ khâu cải tạo ao
đến việc quản lý chất lượng nước, trong quá trình phân nhóm sản phẩm dựa vào mục
đích sử dụng có thể chia nhóm CPSH làm các nhóm sau:
Nhóm phân hủy mùn bã hữu cơ: thành phần chủ yếu gồm các vi sinh vật hữu ích như:
Bacillus, Lactobacillus, Sacharomyces, Nitrobacter, Nitrosomonas, Asperigillus,
Enterobacter, Sporosarcina, Trichoderma các nấm men, men vi sinh, thảo dược yucca
và chiếm 87%. Chúng có vai trò như phân hủy chất hữu cơ tồn động trong ao nuôi, cải
thiện chất lượng nước khống chế thực vật phát triển. Nhóm phân hủy mùn bã hữu cơ
có thành phần là chủng vi sinh vật Bacillus subtilus đa số là vi khuẩn kị khí không bắt
buộc, có chức năng cân bằng hệ vi sinh vật trong ao nuôi làm giảm sự phát triển
Vibrio, Aeromonas và ký sinh trùng đơn bào (Tề Quang Tề, 2003).
Bảng 4.16: Tác dụng một số loài vi sinh vật để phân hủy mùn bã hữu cơ
Stt Các loài vi khuẩn Công dụng
1 Nitrosomonas spp Vi khuẩn tự dưỡng, chuyển hóa amoniac thành nitrite
2 Nitrobacteria spp Vi khuẩn tự dưỡng, chuyển hóa nitrite thành nitrate
3 Lactobacillus lacts Vi khuẩn kị khí, tiết enzim phân hủy chất hữu cơ
4 Lactobacillus helvetius Khống chế thực vật phù du phát triển
5 Saccharomyces crevisiae Ổn định pH
6 Enterobacter Cải thiện chất lượng môi trường nước
7 Sporosarcina Cải thiện chất lượng môi trường nước
8 Trichoderma Phân hủy chất hữu cơ
Nguồn: Bùi Quang Tề, 2003
Nhóm miễn dịch: Có một sản phẩm thương mại thành phần chủ yếu là betaglucan 1,3
– 1,6 là chất dinh dưỡng dạng kết tinh, khi trộn vào thức ăn có thể ngăn ngừa bệnh
chiếm 13%.
Nhóm trộn vào thức ăn: Cũng bao gồm một số loại vi khuẩn và enzym có tác dụng trợ
giúp tiêu hóa và hấp thu thức ăn tốt hơn. Thành phần gồm có men tiêu hóa, các vi
khuẩn nhóm Bacillus, Lactobacillus, Streptobacillus, Sacharomyces, Aspergillus,
Petidol Aerobacter, Nitrosomonas, Cellulomonas và các enzim, khoáng, premix, axit
amin, được sử dụng làm thức ăn bổ sung cho tôm nuôi. Sản phẩm có thành phần là vi
sinh vật ngoài cung thức ăn bổ sung cho tôm, mặt khác việc sử dụng vi sinh vật nhóm
Bacillus ssp còn làm cân bằng quần thể vi sinh vật đường ruột, nhóm sản phẩm này
55
được người nuôi tôm đánh giá có hiệu quả sử dụng và được sử dụng nhiều trong nuôi
thâm canh.
Bảng 4.17: Tác dụng của một số loại vi sinh vật bổ sung vào thức ăn
Các loài vi khuẩn Công dụng
Bacillus criculans
Bacillus Sacharomyces
Bacillus lacterosporus
Bacillus megaterium
Bacillus mesentericus
Bacillus Streptobacillus
Vi khuẩn cạnh tranh sinh học, cân bằng vi sinh vật đường
ruột. Tạo ra enzime amilaz, proteaze, hổ trợ tiêu hóa tinh
bột, protein. Làm giảm sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh
như Vibrio, Aeromonas.
Nguồn: Bùi Quang Tề, 2003
Trong các nhóm CPSH sử dụng trong quá trình nuôi tôm, thì nhóm phân hủy nền đáy
chiếm 87% trong các hộ nuôi, điều này cho thấy mô hình nuôi tôm thâm canh, do nhu
cầu thức ăn sử dụng lớn, làm cho mùn bã hữu cơ tích tụ dưới đáy ao. Để hạn chế mùn
bã hữu cơ trong ao nuôi phải sử dụng men vi sinh cung cấp các vi sinh vật có lợi để
thúc đẩy quá trình phân hũy hữu cơ nhóm này được đa số các hộ nuôi lựa chọn thể
hiện ở nhóm phân hũy nền đáy chiếm khá cao so với các nhóm khác (gây màu, miễn
dịch, TABS) trong nhóm chế phẩm sinh học. Ngược lại nhóm miễn dịch và nhóm gây
màu nước cho ao nuôi sử dụng thấp lần lược là 13% và 10%. Biết rằng nhóm miễn
dịch này cho vào thức ăn giúp tăng cường sức đề kháng cho tôm, ngăn ngừa mầm
bệnh chủ yếu là bên ngoài môi trường, thay vào đó sử dụng thức ăn bổ sung có thành
phần là các enzim, premix,… tăng cường sức đề kháng cho tôm, 50% nhu cầu các hộ
lựa chọn sản phẩm này trong khi nuôi.
87%
50%
13% 10%
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
Nhóm phân hủy
nền đáy
TABS Nhóm miễn dịch Nhóm gây màu
Hình 4.10: Nhóm chế phẩm sinh học sử dụng trong mô hình nuôi tôm thâm canh
56
CHƯƠNG 5
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
5.1. Kết luận
Qua kết quả điều tra cho thấy, người dân thả nuôi 2 vụ/năm, 100% số hộ thả nuôi vụ
1, 90% số hộ thả vụ 2. Phần lớn người dân nuôi tôm điều ở độ tuổi từ 26 – 63 tuổi
trong đó độ tuổi tham gia vào nuôi tôm sú nhiều nhất là từ 36 – 55 tuổi chiếm 76,6%.
Trình độ chuyên môn trong nuôi tôm sú thì chủ yếu là dựa vào kinh nghiệm chiếm
87% và nhóm người có kinh nghiệm nuôi chủ yếu là từ 2 – 11 năm, lâu nhất là 11
năm. Lao động tham gia vào nuôi tôm sú, trong đó lao động gia đình chiếm 60%, lao
động thuê chiếm 40%.
Diện tích nuôi tôm sú bình quân 1,4±1,57 ha/hộ, tỷ lệ ao lắng/ao nuôi trung bình là
0,32±0,24 ha/hộ và 67% hộ nuôi có sử dụng ao lắng. Tôm sú giống được hộ dân chọn
nuôi chủ yếu ở PL 15 chiếm 90% và phần lớn con giống được mua ở địa phương
chiếm 60%, miền Trung chiếm 40%. Mật độ trung bình trong nuôi tôm là 20,7±3,84
con/m2, mật độ dao động từ 15 – 28 con/m2, tỷ lệ sống trung bình 50±19%, năng suất
bình quân 3,33±1,18 tấn/ha. Có 5 loại thức ăn được chọn sử dụng cho nuôi tôm sú,
Laone chiếm cao nhất 56,6%, hệ số (FCR) trung bình của các loại thức ăn là 1,7±0,4.
Nuôi tôm sú thâm canh có tổng chí phí bình quân 309±81,4 triệu đồng/ha, lợi nhuận
trung bình 235±166 triệu đồng/ha, tỷ suất lợi nhuận khoảng 0,75±0,44.
Bệnh mới xuất hiện trong những năm gần đây là bệnh gan chiếm 17%. Trong các
bệnh thường gặp trên tôm thì bệnh do môi trường chiếm cao nhất 33%, thấp nhất là
bệnh phân trắng chiếm 7%. Nhu cầu sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi tôm tăng
chiếm 87%, nhóm này được khuyến khích sử dụng thay thế cho các loại thuốc, hóa
chất chuyên dùng khác trong NTTS. Chi phí thuốc hóa chất chiếm 17,2% so với tổng
chi phí trên vụ nuôi. Bên cạnh đó thuốc trừ sâu sử dụng trong cải tạo ao chiếm 3,3%
số hộ khảo sát có sử dụng.
5.2. Đề xuất
Để phát triển nghề nuôi tôm đặc biệt là nuôi tôm công nghiệp theo hướng bền vững
phù hợp với mục tiêu phát triên nuôi trồng thủy sản của tỉnh thì các ngành chức năng
cần có những biện pháp:
Phát triển nuôi tôm gắn với ý thức bảo vệ môi trường của người dân. Tăng cường
quản lí về con giống nhằm đảm bảo an toàn cho người nuôi, hạn chế dịch bệnh. Nhân
rộng các mô hình nuôi tôm đạt năng suất cao.
57
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng việt
1. Bùi Quang Tề, 2003. Bệnh Học Thủy sản. Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản
I.Trang 62-66.
2. Bùi Quang Tề, 2006. Bệnh Học Thủy sản. Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I.
439 trang.
3. Bộ thủy sản, 2004. Kết quả nghiên cứu về bệnh phân trắng, teo gan trên tôm sú
nuôi thương phẩm tại Ninh Thuận. Thông tin khoa học công nghệ kinh tế thủy sản
số 11/2004.
4. Bộ thủy sản, 2006. Cách phòng và chữa một số bệnh thường gập ở tôm he sau
mưa, thông tin khoa học – kinh tế thủy sản, số 4/2006.
5. Bộ Thủy Sản trung tâm khuyến nông quốc gia, 2006. Kỹ thuật sản xuất giống tôm
Sú chất lượng cao. Nhà xuất bản nông nghiệp Hà Nội.
6. Bộ Thủy Sản, 2009. Danh mục các loại thuốc và kháng sinh cấm sử dụng trong
sản xuất, kinh doanh thủy sản.
7. Bộ Thủy Sản, 2009. Danh mục các loại thuốc và kháng sinh hạn chế sử dụng trong
sản xuất, kinh doanh thủy sản.
8. Chu Thị Thơm, Phan Thị Lài và Nguyễn Văn Tó, 2005. Kỹ thuật nuôi tôm nước
lợ. Nhà xuất bản lao động, trang 29-31, 63.
9. Đoàn Khắt Độ, 2008. Kỹ thuật nuôi tôm sú, trang 5-9. Biên soạn dịch thuật sách
sài gòn, 76 trang.
10. điều kiện tự nhiên tỉnh Bạc Liêu, com.vn. 2010.
11. Vũ Dũng Tiến và Don Griffiths, 2009. GAP và BMP trong nuôi tôm tại Việt Nam:
Chính sách, hiện trạng và phương hướng thực hiện.
12. Hướng dẫn quản lí chất lượng nước trong ao nuôi tôm sú dành cho ngành nuôi
trồng thủy sản, 2004. Phát triển nuôi trồng thủy sản ven biển Hà Nội.
13. Huỳnh Thị Tú và csv., 2006. Khảo sát tình hình sử dụng thuốc – hóa chất trong
nuôi tôm và tồn lưu của Enrofloxacin và Furazolidone trong Tôm Sú (Penaeus
monodon). Tạp chí nghiên cứu khoa học – Đại Học Cần Thơ, trang1.
14. Hoàng Tùng. Nghiên cứu gia hoá tôm Sú (Penaeus monodon) trên thế giới:Những
bài học và giải pháp tiếp cận cho Việt Nam, Đại học thủy sản Nha Trang.
58
15. Kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ và phát triển nuôi trồng thủy sản ở
Đồng Bằng Sông Cửu Long, 2006. Theo thống kê viện nghiên cứu nuôi trồng thủy
sản II.
16. Lê Xuân Sinh, Đỗ Minh Chung, Phan Thị Ngọc Khuyên và Từ Thanh Tuyền,
2006. Tác động về mặt xã hội của các hoạt động nuôi trồng thủy sản nước lợ ven
biển ĐBSCL. Tạp chí khoa học. Đại Học Cần Thơ.
17. Nguyễn Văn Chung, 2000. Cơ sở sinh học và kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo tôm
Sú. Nhà xuất bản nông nghiệp tp. Hồ Chí Minh. 45 trang, trang 7.
18. Nguyễn Văn Hảo, 2002. Một số vấn đề về kỹ thuật nuôi tôm sú công nghiệp. Nhà
xuất bản nông nghiệp TP. Hồ Chí Minh, trang 15.
19. Nguyễn Thị Phương Nga (2004). Phân tích tình hình phân phối và sử dụng thuốc
trong thủy sản tại Sóc Trăng, Bạc Liêu, và Cà Mau. Luận văn thạc sĩ . Đại học cần
thơ (2004).
20. Nguyễn Thanh Phương, Huỳnh Hàn Châu và Châu Tài Tảo, 2006. Tình hình sản
xuất giống tôm Sú (Penaeus monodon) ở tỉnh Cà Mau và thành phố Cần Thơ. Tạp
chí nghiên cứu khoa học.
21. Nguyễn Quốc Thịnh, 2006. Báo cáo khoa học, đề tài cấp trường. Điều tra đánh giá
ảnh việc sử dụng thuốc và hóa chất trong quá trình nuôi đến tình hình dịch bệnh
trên cá tra(Pangasius hypophthalmus) nuôi bè.
22. Nguyễn Văn Nam và Phạm Văn Ty, 2007. Vài trò của chế phẩm sinh học trong
nuôi trồng thủy sản. Thông tin khoa học công nghệ - kinh tế thủy sản, số 3/ 2007.
Bộ thủy sản.
23. Nguyễn Hữu Đức, 2007. Điều tra tình hình sử dụng hóa chất và chế phẩm vi sinh
trong quản lí môi trường ao nuôi tôm sú thâm canh ở Bến Tre, Sóc Trăng và Bạc
liêu. Luận Văn Cao học chuyên nganh nuôi trồng thủy sản.
24. Nguyễn Thanh Phương, Trần Ngọc Hải và Dương Nhựt Long, 2009. Gíao trình
nuôi trồng thủy sản. Đại học Cần Thơ.
25. Sở thủy sản Bạc Liêu, 2006. Báo cáo kết quả hoạt động khuyến ngư năm 2006 và
xây dựng kế hoạch năm 2007.
26. Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Bạc Liêu năm 2010. Báo cáo tiến trình
thực hiện nhiệm vụ 2009 và kế hoạch năm 2011.
27. Từ Thanh Dung, Đặng Thị Hoàng Oanh và Trần Thị Tiết Hoa, 2005. Giáo trình
bệnh Học Thủy Sản, Đại học cần thơ, 156 trang.
59
28. Trần Ngọc Hải, Nguyễn Thanh Phương, 2009. Nguyên lí và kỹ thuật nuôi tôm sú
(Penaeus monodon). Nhà xuất bản nông nghiệp TP.Hồ Chí Minh, trang 2, 97,175.
29. Trần Văn Nhường và Bùi Thị Hà, 2005. Phát triển nuôi tôm bền vững hiện trạng
cơ hội và thách thức. Tạp trí kinh tế thủy sản số 2/2005. Bộ Thủy Sản.
30. Trương Quốc Phú, 2007. Hiện trạng tồn tại và giải pháp quản lí chất thải trong
nuôi thâm canh. Thông tin khoa học công nghệ kinh tế thủy sản số 4/2007.
31. Vũ Thế Trụ, 2003. Cải tiến kỹ thuật nuôi tôm tại Việt Nam.Nhà xuất bản nông
nghiệp tp. Hồ Chí Minh . Trang 124 -130.
32. Võ Văn Bé, 2007. Điều tra hiệu quả nuôi tôm sú (penaeus monodon) rải vụ ở tỉnh
Sóc Trăng. Luận văn tốt nghiệp cao học, trang 39 – 46.
33. Lê Xuân Sinh, 2002. Tôm sú bố mẹ sử dụng trong trại sản xuất giống tạp chí thủy
sản số 6, 2002. Bộ Thủy Sản.
34. Gesamp (1997). (IMO/FAO/UNESCO – IOC/WMO/IAEA/UN/UNEP, nhóm
chuyên gia về khía cạnh khoa học trong bảo vệ môi trường biển ), hướng tới việc
sử dụng an toàn và hiệu quả các hóa chất trong nuôi trồng thủy sản ven biển, Rep.
Sud. Géamp 65: 44 trang.
Tài liệu tiếng Anh
1. Chanratchakool P et al. 1994. Health management in shimp pond. Kasetsart
University Campus. Bangkok. Thailand.
2. N. M. Nien & C. K. Lin, 1996. Penaeus monodon seed production in central
Vietnam. World aquaculture. 27 (3) 6 – 18.
3. Vientiane, Lao PDR, 1997. Quản lý sức khỏe tôm trong ao nuôi. Người dịch
Nguyễn Anh Tuấn và csv, 2003. Trang 11, 117-119.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lvlkieulam_0518.pdf