Có sự mất cân đối lớn trong phân bố theo vùng lãnh thổ mạng lưới các cơ quan
nghiên cứu- triển khai. Nhiều cơ quan nghiên cứu có chức năng trùng lắp, không đồng
bộ. Việc sắp xếp và đầu tư cho các cơ quan này không theo các hướng ưu tiên trọng
điểm. Cơ sở vật chất của cơ quan nghiên cứu- triển khai các trường đại học, nghèo nàn,
lạc hậu : phần lớn được xây dựng và trang bị đã trên 30 năm trình độ thiếu bị thua kém
ngay cả các cơ sở doanh nghiệp trong nước.
Đầu tư tài chính cho KH- CN từ ngân sách, nhà nước ở nước ta, hiện còn thấp. Do
vậy, nền khoa học của ta chỉ giải quyết những vấn đề trước mắt, chưa tạo được kết quả
KH lớn, tầm cỡ chiến lược. Việc sử dụng tài chính cho KH- CN hiện nay với một cơ chế
thường thúc ép chúng ta rơi vào thế phả chi, chia bị động,. Số chương trình và đề tà cấp
nhà nước, cấp bộ còn nhiều và dàn trải so với khả năng kinh phí hiện có. Nguồn ngoại tệ
viện trợ không điều chỉnh được trong phạm vi quản lý nguồn vốn KH- CN, nên hiệu quả
còn thấp. Việc huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước cho hoạt động nông
nghiệp gặp nhiều khó khăn, chưa có cơ chế và chính sách đồng bộ để khuyến khích các
doanh nghiệp, các tổ chức tư nhân tự nguyện đầu tư. Nhiều cơ quan nghiên cứu- triển
khai, hoạt đông KH- CN còn dựa chủ yếu vào ngân sách Nhà nước. Thực tế trên đã dẫn
đến một nghịch lý: vốn cho KH-CN gần như duy nhất từ nhà nước lại bị phân chia dàn
trải.Trong khi đó, một số lĩnh vực cần đầu tư t hích đáng :giáo dục y tế bảo vệ môi trường
hoặc những hướng nghiên cứu triển khách quan trọng mang ý nghĩa chiến lược lại bị hạn
chế do thiếu vốn .Việc thực hiện một phần vốn trong tổng giá trị dự án đầu tư cho công
tác nghiên cứu triển khai vẫn chưa được thực hiện, do nghiên cứu khoa học công nghệ
chưa được coi là một nội dung chỉ trong cơ chế quản lý đầu tư.Vai trò của khoa học công
nghệ chưa thể hiện bằng biện pháp cụ thể về mức đầu tư t ài chính,chế độ cán bộ, chưa tạo
lập được hệ thống chính sách thích hợp để thúc đẩy các nhà hoạt động sản xuất kinh
doanh, dịch vụ phảI dựa trên KH- CN và hướng theo nhu cầu của sự p hát triển kinh tế- xã
hội.
33 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2246 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khoa học công nghệ đối với công nghiệp hóa – Hiện đại hóa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác ngành có hàm lượng công
nghệ cao. Ở nước ta, cùng với việc tập trung nỗ lực KH- CN khai thác có hiệu quả cơ sở
vật chất- kỹ thuật hiện có, cũng cần phải chăm lo, dành một số phần tiềm lực dư lớn cho
việc thử nghiệm, lựa chọn một sồ hướng công nghệ cao phù hợp để một mặt, hỗ trợ cho
việc giải quyết có hiệu quả hơn, mặt khác thúc đẩy việc hình thành một số lĩnh vực sản
xuất công nghệ cao với quy mô phù hợp để tạo ta các sản phẩm thay thế nhập và tạo chỗ
đứng trên thị trường quốc tế.
Trong số những hướng công nghệ cao, cần quan tâm đầy đủ tới khâu tin học hoá một
số lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội. Cần có quyết tâm trong việc đầu tư phát triển một số
lĩnh vực sản xuất gắn với các hương ưu tiên của chương trình tổng hợp tiến bộ KH-CN.
Đó là dịp tốt để VN tham gia vào phân công lao động quốc tế về một số sản phẩm có hàm
lượng khoa học cao
Ba là thúc đẩy việc nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ của các xí nghiệp nhỏ, của
khu vực tiểu thủ công nghệp cả ở thành thị và nông thôn. Kinh nghiệm thực tiễn chỉ ra
rằng để có thể thực hiện có hiệu quả chiếm lược này, việc nhanh chóng khắc phục sự lạc
hậu về công nghệ, sự yêú kém về năng lực quản lý, sự thiếu hụt về lực lượng lao động có
kỹ thuật là yêu cầu bức bách phải giải quyết .Bởi vậy việc giành một phần nỗ lực đủ
mạnh hướng vào việc giải quyết các nhu cầu khoa học và công nghệ phục vụ phát triển
công nghiệp nông thôn có tầm quan trọng đặc biệt
11
Những phân tích nêu trên đã gợi ý quan trọng là chiến lược phát triển khoa học và kỹ
thuật không thể không quan tâm đến việc nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ ,cải
tiến .. và nên coi đây là một hướng có ý nghĩa chiến lược cả trước mắt và lâu dài .
Bốn là kết hợp hữu cơ việc tập trung nỗ lực giải quyết các vấn đề trước mắt và tiếp tục
tăng cường tiềm lực khoa học và kỹ thuật giảm chi phí, tăng năng suất nhằm đáp ứng
những yêu cầu mới của giai đoạn phát triển tiếp theo. Bên cạnh đó, KHCN còn có những
vai trò khác như:
Khoa học công nghệ trở thành lực lực sản xuất trực tiếp, hàng đầu của nền kinh
tế. Góp phần giải quyết có hiệu quả các mục tiêu kinh tế xã hội cho nền kinh tế.
Khoa học công nghệ góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường trong
quá trình phát triển kinh tế.
Khoa học công nghệ cải thiện điều kiện sống và làm việc, giảm lao động nặng
nhọc, độc hại.
Khoa học công nghệ là cơ sở nền tảng ban đầu để thúc đẩy giao thương và hội
nhập với nền kinh tế thế giới.
Khoa học công nghệ là tiền đề để củng cố quốc phòng và an ninh.
2.2. Tác động của khoa học công nghệ đối với công nghiệp hóa – hiện đại hóa của
nước ta
2.2.1. Khoa học công nghệ với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông
thôn và phát triển nông thôn
Trong 20 năm qua sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã đạt được những
thành tựu to lớn góp phần quan trọng ổn định và phát triển kinh tế xã hội đưa nước ta
bước sang giai đoạn mới đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.Tuy nhiên cho
đến nay với gần 80% dân số của cả nước sống ở nông thôn, trong đó tỷ lệ đói nghèo vẫn
còn trên 22%, có nơi như ở một số huyện miền núi còn trên 42%(theo chuân ngheò mơí).
Mặt khác cũng do nền kinh tế nước ta mới bước đầu chuyển từ nền sản xuất theo cơ chế
tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nên năng
suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nông sản, hàng hoá còn rất thấp so với nhiều nước
trong khu vực và thế giới. Điều đó làm cho thu nhập và tích luỹ của đại bộ phận dân cư
nông thôn còn bấp bênh, sức mua có khả năng thanh toán về tư liệu sản xuất và tư liệu
tiêu dùng đều rất hạn chế, gây ảnh hưởng lớn đến sự chuyển dịch cơ cấu của toàn bộ nền
12
kinh tế, đồng thời gây cản trở việc, phát triển công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông
thôn
So với các giải pháp khác, thì giải pháp về khoa học và công nghệ yêu cầu vốn đầu
tư không quá lớn mà đem lại hiệu quả cao. Theo đánh giá chung, trong nông nghiệp ước
tính 1/3 giá trị tăng của sản xuất lương thực thời gian vừa qua là do người dân tiếp thu,
ứng dụng các tiến bộ khoa học và kỹ thuật mới vào sản xuất
Tuy nhiên, tiềm lực về KH- CN của nước ta chưa được phát huy đầy đủ cho sự
nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nhiều vấn đề bức xúc của sản xuất nông
nghiệp và kinh tế nông thôn đặt ra đối với các lực lượng KH- CN đến nay chưa giải quyết
được, trong đó đáng lưu ý hơn cả là:
- Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là nội dung quan trọng
trong quá trình thực hiên CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, mà sự chuyển đổi đó phụ
thuộc vào việc tổ chức áp dụng thành tựu KH- CN vào sản xuất và các chính sách thúc
đẩy phát triển sản xuất. Chỉ trên cơ sở có đủ giống tốt và các tiến bộ kỹ thuật khác, kết
hợp với việc phát triển các quan hệ thị trường đúng hướng mới có thể chuyển cơ cấu sản
xuất nông nghiệp từ thuần nông, độc canh sang đa dạng hoá cây trồng. Hiện nay việc
chuyển đổi kinh tế nông thôn từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ mới chỉ xuất hiện
ở một số ven vùng có cơ sở hạ tầng kỹ thuật, có trình độ dân trí cao, có khả năng tiếp thu
các tiến bộ kỹ thuật
- Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng nông, lâm, thuỷ sản hàng năm tuy chiếm gần
40% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước, nhưng nhìn chung, năng suất, chất
lượng và sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá còn thấp so với các nước trong khu vực
và trên thế giới, khiến cho các sản phẩm làm ra tiêu thụ khó khăn, ảnh hưởng bất lợi đến
thu nhập của người sản xuất. KH-CN chưa có sự tác động cần thiết và hiệu quả bản đảm
tính ổn định, bền vững của nông sản hàng hoá khi gặp phải rủi ro của thiên tai và thị
trường
- Phát triển công nghệ chế biến là nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình thực hiện
CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn, nhưng phát triển công nghiệp, chế biến như thế nào
lại là vấn đề bức xúc đang đòi hỏi nghiên cứu và làm rõ
13
- Gần đây, Nhà nước tiếp tục tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
cho nông nghiệp, nông thôn. Hiện có rất nhiều vấn đề về kỹ thuật để bảo đảm hiệu quả
vốn đầu tư của nhà nước chưa được giải quyết tốt. Do đó, nông nghiệp, nông thôn đang
rất cần có sự tác động của lực lượng KH- CN
Tình hình trên khẳng định vai trò của KH- CN trong quá trình thực hiện CNH-
HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay và đó cũng chính là những yêu cầu bức
xúc đặt ra đối với các nhà khoa học vì sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn. Tuy
nhiên, để huy động được các lực lượng KH- CN phục vụ nông nghiệp, nông thôn, chú ý
các vấn đề về tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành và các chính sách tác động, trong đó cốt
lõi là giải quyết hợp lý lợi ích cho người làm nghiên cứu, triển khai các thành tựu của
KH- CN.
Việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật, công nghệ, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật phục
vụ kinh tế nông nghiệp và nông thôn là một việc làm hiệu quả, đã khẳng định vai trò,
động lực chủ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn,
cần tổ chức, vận động thành phong trào rộng lớn đưa KH- CN về phục vụ CNH, HĐH
nông nghiệp và nông thôn nhằm tạo ra bước chuyển biến rõ rệt về năng suất chất lượng,
hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá, chủ động hội nhập cới khu vực và
quốc tế, góp phần chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
2.2.2. Khoa học công nghệ là động lực phát triển ngành công nghiệp Việt Nam
Quá trình phát triển ngành công nghiệp Việt Nam kể từ năm 1945 đến nay đã diễn
ra hơn một nửa thế kỷ. Quá trình phát triển đó đã trãi qua nhiều thời kỳ với những đặc
điểm và điều kiện rất khác nhau nhưng nói chung công nghiệp Việt Nam so với các nước
phát triển thì trình độ công nghệ sản xuất trong công nghiệp ở nước ta kém 2 đến 3 thế hệ
so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Mục tiêu của ngành công nghiệp Việt Nam là phát triển với nhịp độ cao, có hiệu
quả, và đầu tư theo chiều sâu đối với thiết bị công nghệ tiên tiến và tiến tới hiện đại hoá
từng thành phần các ngành sản xuất công nghiệp. Muốn đạt được mục tiêu này từ điểm
xuất phát thấp, quá trình phát triển công nghiệp ở nước ta phải thực hiện rút ngắn “đi tắt,
đón đầu” có như vậy chúng ta mới có thể rút ngắn được khoảng cách và tiến tới đuổi kịp
các nước phát triển. Muốn rút ngắn được quá trình phát triển ngành công nghiệp Việt
14
Nam không còn cách nào khác phải vận dụng những thành tựu mới của khoa học, công
nghệ vào sản xuất và khoa học công nghệ trở thành bộ phận chính yếu, là động lực phát
triển ngành công nghiệp. Dưới tác động của khoa học công nghệ, các ngành có hàm
lượng khoa học công nghệ cao sẽ phát triển nhanh hơn so với các ngành truyền thống,
chất lượng sản phẩm được nâng cao, năng suất, giá trị sản lượng không ngừng tăng lên.
2.2.3. Khoa học công nghệ thúc đẩy quá trình hình thành và chuyển dịch cơ
cấu công nghiệp.
Cơ cấu công nghiệp là số lượng các bộ phận hợp thành công nghiệp và mối quan
hệ tương tác giữa cá bộ phận ấy. Tỷ trọng thay đổi trong các nhóm ngành công nghiệp
thể hiện trong bảng:
Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế phân theo ngành công
nghiệp
Tiêu chí 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Công nghiệp khai thác 13.1 12.8 13.5 12.8 11.2 10.3 9.6 9.8
Công nghiệp chế biến 81.2 81.6 81.3 81.3 83.2 84.5 85.4 85.6
Sản xuất và phân phối
điện, khí đốt và nước 5.7 5.6 5,2 5.9 5.6 5.2 5.0 4.6
TỔNG SỐ (%) 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0
(nguồn: tổng cục thống kê)
Khoa học công nghệ thúc đẩy sự phát triển phân công lao động xã hội. Ở mỗi trình
độ công nghệ có những hình thức và mức độ phân công lao động thích ứng. Phân công lại
lao động là tác nhân trực tiếp của sự hình thành công nghiệp và sự phân hoá nội bộ công
nghiệp thành những phân hệ khác nhau. Bởi vậy, trình độ tiến bộ khoa học công nghệ
càng cao phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, sự phân hoá công nghiệp diễn ra
càng mạnh và cơ cấu công nghiệp càng phức tạp.
Khoa học công nghệ không những chỉ tạo ra những khả năng sản xuất mới, đẩy
nhanh nhịp độ phát triển một số ngành làm tăng tỷ trọng của chúng trong cơ cấu công
nghiệp, mà còn tạo ra những nhu cầu mới. Chính những nhu cầu mới mày đòi hỏi sự ra
đời và phát triển mạnh một số ngành. Những ngành này được coi là đại diện của công
nghệ tiên tiến, tuy là những ngành non trẻ, nhưng là sự khởi đầu của kỷ nguyên công
nghệ mới, nên có triển vọng phát triển mạnh mẽ trong tương lai.
15
Sự ảnh hưởng của nhân tố tiến bộ khoa học công nghệ đến cơ cấu công nghiệp
phụ thuộc vào chính sách khoa học của đất nước. Việc thực hiện chính sách này chính là
điều kiện nhân tố tiến bộ khoa học công nghệ vào việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu công
nghiệp.
Ngành công nghiệp Việt Nam đã có những bước tiến trong việc chuyển đổi cơ cấu
sản xuất, cơ cấu sản phẩm và cơ cấu công nghệ theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng
đáp ứng nhu cầu của thị trường. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm ngành công
nghiệp trong 5 năm qua đạt 18%. Đó là bước phát triển khá nhanh, góp phần làm cho nền
kinh tế tiếp tục tăng trưởng với tốc độ bình quân khoảng 7% trong điều kiện kinh tế các
nước trong khu vực đều suy giảm.
2.2.4. Khoa học công nghệ thúc đẩy quá trình phân công lao động, làm thay đổi
sâu sắc phương thức lao động của con người.
Loài người đã trải qua hàng nghìn năm trong giai đoạn thứ nhất của nền văn minh,
giai đoạn của nền sản xuất nông nghiệp thủ công với công cụ lao động chủ yếu là công cụ
thủ công sử dụng nguồn năng lượng của cơ thể và súc vật.
Ngày nay cách mạng khoa học công nghệ bùng nổ làm chuyển biến về chất của
phương thức sản xuất xã hội. Sự chuyển biến này kéo theo nó hàng loạt những chuyển
biến khác về tính chất lao động sản xuất của con người, về tổ chức sản xuất và hoạt động
kinh tế, nhất là trong ngành công nghiệp.
Khoa học công nghệ trang bị cho con người những tri thức khoa học cần thiết để
cho con người có thể hiều và sử dụng được những trang thiết bị kỹ thuật, máy móc tiên
tiến hiện đại. Từ chỗ có tri thức về khoa học và công nghệ con người và xã hội Việt Nam
sẽ chuyển dần từ chỗ chủ yếu là lao động cơ bắp thủ công với những trang thiết bị kỹ
thuật lạc hậu, thô sơ trong những ngành công nghiệp đơn giản, sử dụng ít chất xám sang
những ngành công nghiệp có hàm lượng trí tuệ, khoa học, kỹ thuật cao.
Khoa học công nghệ phát triển trực tiếp tác động đến sự phát triển ngành công
nghiệp, dẫn đến giảm tỷ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp tăng tỷ trọng lao
động trong ngành công nghiệp.
16
2.2.5. Khoa học công nghệ góp phần tăng giá trị sản xuất của ngành công
nghiệp.
Khoa học và công nghệ đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển toàn diện của
một quốc gia và thực sự đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nhận thức được tầm
quan trọng đó Đảng và Nhà nước ta đã áp dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào
trong các lĩnh vực sản xuất nói chung và sản xuất công nghiệp nói riêng và đã thu được
những kết quả rất tốt.
Nhiều lĩnh vực nghiên cứu KHCN đã đem lại hiệu quả kinh tế thiết thực. Trong
lĩnh vực công nghệ sinh học, Việt Nam đã nuôi cấy được tế bào gốc ứng dụng trong điều
trị bệnh tim mạch, tổn thương giác mạc và ung thứ máu. Công nghệ nhân giống tạo ra
được giống sạch bệnh, tránh ảnh hưởng điều kiện thời tiết bất lợi giúp giảm 95% chi phí
phân bón, tiết kiệm 98% nước và tăng năng suất cây trồng từ 45 lên 75%. Ngành thú y
cũng sản xuất được văcxin tụ huyết trùng cho trâu bò giúp giảm số lượt tiêm từ 2 lần
xuống 1 lần/năm làm lợi cho sản xuất hàng trăm tỷ đồng.
Nghiên cứu sản xuất vật liệu polymer siêu hấp thụ nước dùng cải tạo các vùng
đất khô hạn trong lĩnh vực công nghệ mới khi đem áp dụng vào thực tiễn sản xuất trên
quy mô lớn sẽ làm lợi cho xã hội hàng trăm tỷ đồng. Việt Nam cũng đã chết tạo được
đèn huỳnh quang và compact tăng độ sáng 30% giảm tiêu hao năng lượng 5% nhờ ứng
dụng công nghệ mới.
Ngành điện đã chế tạo được máy biến áp 500kV đầu tiên của Đông Nam Á, giúp
kéo giá thành nhập khẩu thiết bị giảm ít nhất 30%.
Việt Nam cũng làm chủ và ứng dụng thành công nhiều công nghệ, tự chế tạo được
dây chuyền sản xuất trong một số lĩnh vực và nâng cao tỉ lệ nội địa hóa trong sản xuất ô
tô, máy móc thiết bị...
Các tiến bộ KHCN trong nông nghiệp đã giúp tăng trưởng nông nghiệp đạt tới con
số 30%. Trong những năm qua, Việt Nam vẫn vững vàng ở vị trí thứ 2 thế giới về xuất
khẩu gạo, cà phê; thứ 4 thế giới về cao su; đứng đầu thế giới về xuất khẩu điều, hồ tiêu;
xuất khẩu thủy sản đạt 4,26 tỷ USD. Tổng giá trị xuất khẩu nông lâm, thủy sản năm 2009
đạt 15,2 tỷ USD.
Sau những năm thực hiện, nhiều kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công
nghệ có đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam, góp phần quan
trọng vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung
17
và mục tiêu tăng cường năng lực của ngành KHCN nói riêng, tạo tiền đề thuận lợi cho sự
phát triển KHCN giai đoạn 2011-2015.
2.3 Một số định hướng hoạt động KH - CN giai đoạn 2011 – 2015
* Khoa học tự nhiên:
- Phấn đấu đạt tỷ lệ 15- 20% số công trình nghiên cứu cơ bản được đăng trên tạp
chí khoa học quốc tế hoặc được báo cáo tại các hội thảo khoa học quốc tế. Số lượng sáng
chế đăng ký bảo hộ tăng 50% so với giai đoạn 2006 - 2010.
* Khoa học xã hội:
- Cung cấp đầy đủ và kịp thời các luận cứ khoa học cho việc hoạch định chủ
trương, đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước. Giải đáp kịp thời những vấn đề
lý luận và thực tiễn khác do cuộc sống đặt ra.
* Khoa học công nghệ:
- Nâng tỷ lệ nhiệm vụ KH - CN phục vụ các dự án kinh tế lên 50% tổng số các
nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng và triển khai thực nghiệm. Bố trí 50% nhiệm vụ của các
chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp nhà nước được ứng dụng và phục vụ
trực tiếp cho sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là đối với nhóm 10 sản phẩm xuất khẩu chủ
lực.
- Làm chủ được các công nghệ nền quan trọng, có khả năng tạo ra năng lực sáng
tạo công nghệ cao trong nước thuộc 4 hướng công nghệ ưu tiên: công nghệ thông tin và
truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công nghệ cơ khí - tự động hóa.
* Ứng dụng công nghệ:
- Bước đầu hình thành được một số ngành kinh tế - kỹ thuật công nghệ cao, đặc
biệt là trong lĩnh vực ứng dụng công nghệ thông tin và công nghệ sinh học. Nâng giá trị
sản phẩm công nghệ cao đến năm 2015 đạt khoảng 30% trong tổng GDP. 100% doanh
nghiệp sản xuất các sản phẩm, hàng hóa chủ lực có dự án nâng cao năng suất và chất
lượng.
- Phát triển thị trường công nghệ, bảo đảm giá trị giao dịch mua bán công nghệ đạt
mức tăng trưởng bình quân 20 - 25 %/năm.
* Xây dựng tiềm lực:
- Xây dựng 10 - 12 viện nghiên cứu và 20 - 30 tập thể khoa học, đủ sức tổ chức
nghiên cứu và giải quyết những nhiệm vụ khoa học và công nghệ trọng điểm quốc gia ở
18
trình độ quốc tế. Hình thành 100 - 120 nhóm nghiên cứu, tìm kiếm bí quyết công nghệ
làm cơ sở để hình thành và phát triển các doanh nghiệp khoa học và công nghệ. 100% các
phòng thử nghiệm chất lượng sản phẩm, hàng hóa chủ lực đạt tiêu chuẩn quốc tế.
- Xây dựng hệ thống thư viện điện tử dùng chung và kết nối giữa các trường đại
học và các viện nghiên cứu trong phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế. Xây dựng một số
phòng thí nghiệm hiện đại ở các trường đại học trọng điểm.
- Đa dạng hóa đầu tư cho KH - CN, phấn đấu đến năm 2015 đầu tư của Nhà nước
và xã hội cho KH - CN đạt 1,5% GDP, trong đó tỷ trọng đầu tư cho KH - CN từ các
nguồn khác ngoài ngân sách nhà nước được nâng lên gấp 2 lần so với hiện nay và chiếm
tỷ trọng tối thiểu 60 - 65%.
19
CHƯƠNG 3
THÀNH CÔNG VÀ HẠN CHẾ CỦA KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
3.1. Thành công
3.1.1. Lợi thế của nước đi sau.
Đặc điểm công nghệ của Việt Nam hiện nay là có trình độ thấp so với thế giới.
Chúng ta lạc hậu từ 3 - 4 thế hệ công nghệ, hay từ 50 - 100 năm về thời gian so với các
nước công nghiệp trên thế giới. So với các nước trong khu vực ASEAN thiết bị của Việt
Nam cũng lạc hậu khoảng 20 - 30 năm. Để đổi mới công nghệ cần có vốn, đây cũng là
vấn đề nan giải với Việt Nam. Nhưng chúng ta có tiềm năng về lao động, tài nguyên, vị
trí địa lý va có cơ hội để tiếp thu công nghệ hiện đại của những nước đi trước.
Lịch sử thế giới đã chứng kiến sự rút ngắn quá trình công nghiệp hoá qua các thời
kỳ khác nhau. Nếu nước Anh cần 10 năm, Tây Âu và Mỹ cần 80 năm, Nhật Bản cần 60
năm thì các nước NIC Châu á chỉ cần trên dưới 30 năm. Lợi thế của các nước đi sau
thường được thể hiện trên các mặt: về mặt công nghệ, các nước đi sau không cần phải tập
trung nhiều vốn và công sức vào phát minh, quan trọng hơn hết là biết cách lựa chọn, tiếp
thu, thích nghi và làm chủ các công nghệ có sẵn, những nước này có thể rút ngắn thời
gian và giảm mức độ mạo hiểm khi áp dụng các công nghệ mới. Về mặt kinh tế, những
nước này có thể lựa chọn các công nghệ tiêu tốn ít năng lượng và nguyên liệu. Về môi
trường có thể rút kinh nghiệm bài học của các nước đi trước, có thể lựa chọn những công
nghệ phù hợp với điều kiện sinh thái của đất nước mình.
3.2.2. Thành công khi áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất công nghiệp ở Việt
Nam.
KH- CN đã tập trung vào sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi
trường. Đã áp dụng các công nghệ và phương pháp nghiên cứu tiên tiến: viễn thám, địa
vật lý… vào công tác điều tra, thăm dò tài nguyên thiên nhiên. Nhiều kết quả nghiên cứu
môi trường được đánh giá cao : nghiên cứu chính sánh và biện pháp bảo vệ sự đa dạng
20
sinh học, cân bằng sinh thái và xử lý ô nhiễm nước, không khí ở các khu công nghiệp tập
trung, các thành phố lớn… các biện pháp trồng rừng, chống suy thái đất, cải tạo đất…
KH- CN đã chú ý phát triển các ngành khoa học tự nhiên và công nghệ cao.
Nhiều thành tựu toán học, cơ học, vất lý của ta… được đánh giá cả ở nước ngoài. Công
nghệ thông tin đã phát triển và mở rộng ứng dụng trong hệ thống ngân hàng, quản lý
hành chính, sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, công nghệ chế tạo vật hiệu mới, công nghệ
sinh học, tự động hoá… đã từng bước được quan tâm. Trong nông nghiệp. Nhờ áp dụng
những tiến bộ KH- CN về giống cây trồng, quy trình kỹ thuật thâm canh và chuyển đổi
cơ cấu mùa vụ, chúng ta đã tuyển chọn, lai tạo hàng chục giống lúa mới, phù hợp các
vùng sinh thái khác nhau, tạo mức tăng trưởng quan trọng. Nghiên cứu và tạo nhiều loại
giống gia súc, gia cầm, có giá trị kinh tế cao, thúc đẩy chăn nuôi phát triển. Hơn 20 năm
qua, năng suất lúa bình quân đã tăng hơn 2 lần. Tổng sản lượng lương thực 2010 ước đạt
hơn 39,9 triệu tấn. Nhiều loại phân vi sinh, thuốc trừ sâu vi sinh, chất kích thích tăng
trưởng thực vật … đã được sử dụng vào sản xuất, bảo vệ, phát triển các loại cây lương
thực. Cơ cấu cây trồng đã được thay đổi cơ bản. Trước năm 1989, từ chỗ còn thiếu lương
thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới sau Thái Lan.
Về thuỷ sản nhờ áp dụng kỹ thuật mới, nhiều năm nay năng suất cao, đến nay
sản lượng khai thác thuỷ sản ở Việt Nam ước đạt 216 ngàn tấn. Theo ước tính của Bộ
Thuỷ sản, giá trị kim ngạch xuất khẩu 8 năm 2010 ước đạt 1,75 tỷ USD, nâng giá trị kim
ngạch xuất khẩu 8 tháng đầu năm 2010 đạt 12,2 tỷ USD, tăng 20,1% so với cùng kỳ năm
2009. Đặc biệt kỹ thuật nuôi tôm đã được ứg dụng khắp nơi, tạo công ăn việc làm cho
350.000 ngư dân ven biển góp phần cải thiện và tăng kim ngạch xuất khẩu các ngành
thuỷ sản.Việc nuôi trồng thuỷ sản đã có sự đầu tư khoa học thích đáng trong việc tận
dụng mặt nước ao, hồ, nước biển mà sản lượng khai thác,nuôi trồng ,xuất khẩu... tăng
đáng kể.
Trong lĩnh vực năng lượng, nhiều công trình, nghiên cứu KH- CN đã tập trung
vào công tác quy hoạch, sử dụng hợp lý các nguồn năng lượng. Đổi mới CN xây dựng
các nhà máy thuỷ điện, nhiệt điện, nghiên cứu các phương pháp giảm tổn thất năng lượng
trong truyền tải điện và đổi mới CN. Hệ thống năng lượng đã phát triển nhanh chóng :
80% địa bàn xã ở khu vực nông thôn, hơn 50% hộ gia đình đã có điện sử dụng.
21
Trong giao thông vận tải, KH- CN đã góp phần quan trọng vào việc nâng cấp
và phát triển mạng lưới, đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường sông… đã xây dựng
một số công trình quan trọng bằng việc áp dụng các CN mới : đóng tàu biển trọng tải
3.000 tấn, công trình hạ tầng cất cánh sân bay Tân Sơn Nhất, thắng thầu nhiều công trình
giao thông ở Lào, Campuchia… với việc áp dụng CN mới trong gia cố nền móng và thi
công mặt đường.
Trong viễn thông, đã xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng thông tin hiện đại
bằng việc áp dụng kỹ thuật số, thông tin vệ tinh, cáp sợi quang… đủ mạnh để hoà nhập
mạng thông tin quốc tế và khu vực. Viễn thông nước ta hiện được xếp vào một trong
những nước có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới. Bên cạnh mạng lưới hữu tuyến điện
phát triển rộng khắp với các loại hình dịch vụ đa dạng, các hệ thống thông tin di động,
máy sóng ngắn, cực ngắn, cũng phát triển mạnh, được các tổ chức kinh tế, cơ quan trong
và ngoài nước sử dụng. Thị trường tin học nước ta những năm qua, có tốc độ tăng trưởng
trung bình hằng năm khoảng 40-50%. Hiện các cơ quan Đảng, chính phủ đang sử dụng
hàng vạn chiếc máy vi tính, trong đó lưu giữ nhiều thông tin, số liệu bí mật quan trọng.
Liên quan đến kinh tế, quốc phòng và an ninh quốc gia. Trên đà ấy, việc sử dụng máy vi
tính ở nước ta bắt đầu chuyển từ giai đoạn sử dụng riêng lẻ, sang hình thức sử dụng mạng
cục bộ và mạng diện rộng.
Trong y tế, hàng loạt các thành tựu chăm sóc sức khoẻ ban đầu, miễn dịch học, cắt
giảm, tỷ lệ mắc các chứng bệnh nguy hiểm : lao, phong, sốt rét, ho gà, bại liệt, sởi… Kết
hợp y học truyển thống với y học hiện đại, sản xuất nhiều mặt hàng thuốc mới. Nâng cao
trình độ trong phòng và chuẩn đoán bệnh, ngăn ngừa bệnh truyền nhiễm : viêm gan, viêm
não Nhật Bản…
Đến nay nước ta đã có đội ngũ cán bộ KH- CN hơn 800.000 người trình độ đại
hoc, 8.775 phó tiến sĩ- tiến sĩ, gần 3.000 giáo sư- phó giáo sư, hơn 45.000 cán bộ nghiên
cứu triển khai thuộc hơn 300 viện nghiên cứu- trung tâm và hơn 20.000 nhà khoa học vừa
nghiên cứu, vừa giảng dạy trong 105 trường đại học, cao đẳng, hơn 80 cơ sở đào tạo sau
đại học. Đây thực sự là một vốn quý cho sự nghiệp CNH, HĐH, được đào tạo từ nhiều
nguồn khác nhau .
22
3.2. Hạn chế
3.2.1. Đầu tư cho khoa học công nghệ còn ở mức thấp
Việt Nam chưa có chính sách khoa học dông nghệ nhất quán thể hiện bằng hệ
thống pháp luật như các quốc gia khác. Thời gian qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều cố
gắng tạo nguồn tài chính để đầu tư cho khoa học và công nghệ nhưng chưa thể đáp ứng
được nhu cầu phát triển. Theo số liệu thống kê từ năm 1965 đến nay, mức đầu tư tài
chính từ ngân sách nhà nước dành cho hoạt đông nghiên cứu và triển khai chiếm từ 0,2%
đến 0,82% thu nhập quốc dân. Trong 10 năm đổi mới, nước ta đạt được những thành tựu
kinh tế đáng mừng, tổng kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ được nâng lên dần,
nhưng do giá cả hàng hóa tăng cho nên giá trị thực tế của vốn đầu tư không tăng. Theo số
liệu của Bộ KH- CN và môi trường thì đầu tư tài chính cho kha học công nghệ chưa vượt
quá 1% ngân sách tiêu dùng hằng năm. Chi phí bình quân hằng năm cho một cán bộ khoa
học công nghệ từ ngân sách nhà nước khoảng 1.000 USD, rất thấp so với mức bình quân
của thế giới hiện là 55.324 USD và kếm các nước trong khu vực châu Á . Mức đầu tư
thấp nhưng lại phân tán và không ít trường hợp sử dụng lãng phí. Tuy Đảng và Nhà nước
đã có nhiều chủ trương, nghị quyết sáng suốt, nhấn mạnh vai trò của khoa học công nghệ
và coi trọng nó không kém gì các quốc gia khác trên thế giới, nhưng mức đầu tư cho khoa
học vẫn rất thấp. Có 2 khả năng lý giải tình hình trên. Thứ nhất, nếu huy động gấp đôi
vốn cho nghiên cứu khoa học và công nghệ thì việc nghiên cứu khoa học có mang lại
hiệu quả thiết thực hay không trong khi trình độ quản lý khoa học hiện tại còn yếu kém.
Thứ hai, ngân sách nhà nước trong nhiều năm thâm hụt, phải bảo đảm chi cho nhiều
ngành cũng quan trọng, do đó mức đầu tư kinh phí cho khoa học nhiều khi lại phụ thuộc
vào quan điểm của người lãnh đạo và các cơ quan quản lý của Nhà nước. Rốt cục quy
định trong các văn bản và chỉ thị của Đảng dành 2% ngân sách hằng năm cho hoạt động
khoa học và công nghệ vẫn không thực hiện được.
Với mức đầu tư như vậy nên chỗ làm việc chật chội, thiết bị lạc hậu, phòng thí
nghiệm và cụng cụ thí nghiệm thiếu… cơ quan khoa học và công nghệ chỉ có thể hoạt
động cầm chừng, chỉ giải quyết những vấn đề trước mắt mà không thể tạo ra được thành
quả khoa học có tầm chiến lược. Nếu không có các chính sách điều chỉnh, các cơ quan
23
nghiên cứu khoa học chắc chắn sẽ rơi vào tình trạng tồi tệ hơn, đội ngũ cán bộ nghiên
cứu có thể bị chia xẻ và giã từ những công việc chuyên môn mà lâu nay họ tâm huyết.
3.2.2. Lực lượng cán bộ nòng cốt thiếu và già yếu
Kết quả điều tra 233 cơ quan khoa học công nghệ chủ yếu thuộc trung ương cho
thấy : trong số 22.313 cán bộ công nhân viên thì số người có trình độ trên đại học là
2.509 người, cao đẳng và đại học 11.447 người và dưới cao đẳng là 8.357
Trong số các cán bộ có trình độ tiến sĩ và phó tiến sĩ chỉ có 15,1% là nữ, cũng
trong số các cán bộ có trình độ học vấn cao này chỉ có 19,9% giữ các chức vụ lãnh đạo.
So với yêu cầu phát triển thì nhiều ngành còn thiếu lực lượng lao động có trình độ
khoa học- kỹ thuật. Trước tình hình mở cửa nhiều công ty có vốn đầu tư nước ngoài,
công ty tư nhân đã thu hút số lượng đáng kể lao động có trình độ chuyên môn cao từ các
cơ quan khoa học công nghệ của nhà nước. Ở tất cả các đối tượng lao động, số trường
hợp ra đi nhiều hơn số trường hợp đến, đặc biệt với số cán bộ khoa học có học vị cao, số
ra đi vượt hẳn số đến.
Tuổi trung bình của cán bộ khoa học có học vị, học hàm khá cao. Bình quân
chung là 57,2 tuổi trong đó giáo sư là 59,5 tuổi và phó giáp sư là 56,4 tuổi. Số cán bộ cán
học vị, học hàm cao ở tuổi 50 chỉ chiếm 12% trong khi đó tuổi từ 56 trở lên là 65,7%,
riêng giáo sư chiếm tới 77,4% và phó giáo sư chiếm 62%. Khi phân chia theo lứa tuổi các
cán bộ khoa học công nghệ có học hàm thì phần đông giáo sư có tuổi trên 60 và phó giáo
sư có tuổi từ 56 đến 60. Khi một bộ phận lớn các cán bộ khoa học chủ chốt đang về già
và sẽ không có khả năng làm việc thì đội ngũ cán bộ trẻ thay thế lại chưa được chuẩn bị
bồi dưỡng đào tạo. Hẫng hụt đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ đầu ngành sẽ diễn ra
trong tương lai rất gần.
3.2.3. Sự phân bố lực lượng lao động khoa học không hợp lý
Có thể nói sự phân bố lực lượng lao động mất cân đối giữa các ngành, các khu vực
giữa các vùng, giữa các thành phần kinh tế đã gây ra hậu quả xấu cho quá trình phát triển,
càng làm sâu sắc thêm sự chênh lệch và phát triển giữa các vùng, các ngành.
Một điều mà nhiều người nhìn thấy rất rõ là trong nhiều năm, đặc biệt sau khi
chuyển sang kinh tế thị trường thì các ngành khoa học cơ bản bị xem nhẹ và dường như
đang bị bỏ rơi. Đó là một cách nhìn rất thiển cận và hậu quả của nó sau một số năm thấm
24
dần sẽ gây tác hại nghiêm trọng. Khoa học công nghệ là một hệ thống, cũng như một nền
kinh tế nếu không có hạ tầng cơ sở tốt thì không thể phát triển được. Trong khoa học nếu
chỉ coi trọng những ngành ứng dụng có lãi nhanh mà coi nhẹ khoa học cơ bản rút cục sẽ
đưa khoa học đến chỗ bế tắc và không có đủ năng lực tiếp thu làm chủ các lĩnh vực khoa
học công nghệ mới.
3.2.4. Những bất cập giữa KH- CN và hoạt động kinh tế ở VN
Mối quan hệ thống nhất giữa hoạt động khoa học công nghệ và hoạt động kinh tế
là cơ sở quan trọng bảo đảm cho sự phát triển của một quốc gia. Tuy nhiên, ở VN hiện
nay giữa hoạt động khoa học công nghệ và hoạt động kinh tế lại bộc lộ những bất cập rõ
rệt
Một là, mặc dù tồn tại số lượng đáng kể các cơ quan nghiên cứu khoa học công
nghệ và dưới nhiều dạng thực phong phú, nhưng các viện nghiên cứu, các trường đại học
thường mạng nặng tính hàn lâm và ít gắn bó hữu ích với các tổ chức kinh tế. Ngoài mối
quan hệ lỏng lẻo giữa cơ quan nghiên cứu và các đơn vị kinh tế còn một khía cạnh nữa là
bản thân hệ thống cơ quan nghiên cứu vẫn thiếu phương pháp luận tiếp cận có hiệu quả
tới hệ thống kinh tế. Ở đây đòi hỏi sự hợp tác, trao đổi qua lại nhiều vòng giữa các nhà
khoa học và đại diện của các khu vực sản xuất. Các hãng luôn được coi như nhân vật
trung tâm của đổi mới khoa học công nghệ… Đáng tiếc phương pháp này còn xa lạ đối
với VN.
Thiếu những định hướng rõ ràng, cụ thể đã làm cho các chương trình nghiên cứu
khoa học công nghệ trở nên kéo hiệu quả
Hai là, cơ cấu của đội ngũ hoạt động khoa học công nghệ hiện mất cân đối đáng
kể so với cơ cấu nền kinh tế. Trong các lĩnh vực công nghệ tiên tiến, việc khắc phục
khoảng trống bằng cách chuyển các nhà nghiên cứu khoa học cơ bản sang cũng chưa đáp
ứng được yêu cầu đòi hỏi tối thiểu.
Mặt khác, sự phân bố của lực lượng khoa học công nghệ không sát với địa bản
hoạt động kinh tế. Trên thực tế, có nhiều vùng kinh tế còn như vùng trắng của hoạt động
khoa học công nghệ
Ba là, Thực tế đổi mới vừa qua đã xuất hiện một nghịch lý và mở của mang lại sự
khởi sắc cho nền kinh tế thì nó lại làm cho vị thế của các nhà khoa học trong nước giảm
25
xuống tương đối. Một bộ phận không nhỏ đội ngũ các nhà khoa học công nghệ buộc phải
làm thêm nghề khác hoặc đổi hẳn nghề.
Sự lão hoá của đội ngũ khoa học cũng lý giải một phần cho hiện tượng này. Tuổi
trung bình của cán bộ khoa học công nghệ làm việc ở các viện nghiên cứu là 45- 46 tuổi,
tuổi trung bình của cán bộ nghiên cứu có trình độ cao vào khoảng 55 và 60… có thể do
nhiều lý do, trong đó một lý do quan trọng là : coi giai đoạn hiện nay như là quá độ
chuyển đổi từ mô hình nghiên cứu khoa học công nghệ kiểu cũ sang mô hình nghiên cứu
kiểu mới. Đối với lớp trẻ, hình mẫu các nhà nghiên cứu thế hệ trước không còn mấy hấp
dẫn, họ đang tìm kiếm những con đường khác, những phương thức hoạt động khoa học
khác
Bốn là, Chúng ta từng hy vọng có thể thông qua hoạt động đầu tư nước ngoài vào
VN để nhận được những công nghệ cần thiết tiến hành CNH, HĐH. Tuy nhiên thực tế
diễn ra không như mong muốn. Trước hết, luồng đầu tư nước ngoài đang có xu hướng
chững lại sẽ hạn chế khuôn khổ chuyển giao công nghệ. Thứ hai, cơ cấu đầu tư với
18,7% vào khách sạn dụ lịch… là một nhân tố góp phần hạn chế quy mô chuyển giao
công nghệ tiên tiến. Thứ ba, ngay trong bản thân lĩnh vực công nghiệp, các chủ đầu tư
nước ngoài dường như chẳng hề sốt sắng du nhập các công nghệ tiên tiến vào VN, thay
vào đó, họ chú ý nhiều đến các công nghệ thế hệ cũ cho phép thu lại lợi nhuận tức thì từ
lao động rẻ, môi trường đầu tư dễ dãi và miền đất đầu tư mới mẻ.
Nguyên nhân của những thực trạng trên là do các nguyên nhân sau:
Do tỷ lệ cán bộ KH- CN trong các doanh nghiệp còn thấp ; cấu trúc và phân bố
đội ngũ chưa hợp lý ; số cán bộ được đào tạo về các ngành KH và KT chỉ chiếm 15,4%
trong tổng số đội ngũ cán bộ KH- CN ; sự phân bố cán bộ KH- CN theo vùng lãnh thổ
còn mất cân đối lớn. Đội ngũ cán bộ KH đông nhưng chưa mạnh
Chất lượng đào tạo cán bộ KH- CN thấp. Về trình độ, chưa cập nhật CN và tri
thức hiện đại của thế giới, bị hổng nhiều về CN cao, quản tri kinh doanh, tiếp thị, ngoại
ngữ… Đội ngũ cán bộ KH- CN nước ta có tiềm năng trí tuệ đáng kể, tiếp thu nhanh tri
thức mới, nhưng còn thiếu tính liên kết cộng đồng, khó hợp tác giữa cơ quan và cá nhân,
thiếu cán bộ đầu đàn có khả năng tổ chức và thực hiện những chương trình nghiên cứu
mang tính đột phá cao. Lực lượng chuyên gia giỏi ở các ngành hiện nay rất mỏng, phần
lớn chỉ nắm lý thuyết, thiếu thực hành.
26
Có sự mất cân đối lớn trong phân bố theo vùng lãnh thổ mạng lưới các cơ quan
nghiên cứu- triển khai. Nhiều cơ quan nghiên cứu có chức năng trùng lắp, không đồng
bộ. Việc sắp xếp và đầu tư cho các cơ quan này không theo các hướng ưu tiên trọng
điểm. Cơ sở vật chất của cơ quan nghiên cứu- triển khai các trường đại học, nghèo nàn,
lạc hậu : phần lớn được xây dựng và trang bị đã trên 30 năm trình độ thiếu bị thua kém
ngay cả các cơ sở doanh nghiệp trong nước.
Đầu tư tài chính cho KH- CN từ ngân sách, nhà nước ở nước ta, hiện còn thấp. Do
vậy, nền khoa học của ta chỉ giải quyết những vấn đề trước mắt, chưa tạo được kết quả
KH lớn, tầm cỡ chiến lược. Việc sử dụng tài chính cho KH- CN hiện nay với một cơ chế
thường thúc ép chúng ta rơi vào thế phả chi, chia bị động,. Số chương trình và đề tà cấp
nhà nước, cấp bộ còn nhiều và dàn trải so với khả năng kinh phí hiện có. Nguồn ngoại tệ
viện trợ không điều chỉnh được trong phạm vi quản lý nguồn vốn KH- CN, nên hiệu quả
còn thấp. Việc huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước cho hoạt động nông
nghiệp gặp nhiều khó khăn, chưa có cơ chế và chính sách đồng bộ để khuyến khích các
doanh nghiệp, các tổ chức tư nhân tự nguyện đầu tư. Nhiều cơ quan nghiên cứu- triển
khai, hoạt đông KH- CN còn dựa chủ yếu vào ngân sách Nhà nước. Thực tế trên đã dẫn
đến một nghịch lý: vốn cho KH-CN gần như duy nhất từ nhà nước lại bị phân chia dàn
trải.Trong khi đó, một số lĩnh vực cần đầu tư thích đáng :giáo dục y tế bảo vệ môi trường
hoặc những hướng nghiên cứu triển khách quan trọng mang ý nghĩa chiến lược lại bị hạn
chế do thiếu vốn .Việc thực hiện một phần vốn trong tổng giá trị dự án đầu tư cho công
tác nghiên cứu triển khai vẫn chưa được thực hiện, do nghiên cứu khoa học công nghệ
chưa được coi là một nội dung chỉ trong cơ chế quản lý đầu tư.Vai trò của khoa học công
nghệ chưa thể hiện bằng biện pháp cụ thể về mức đầu tư tài chính,chế độ cán bộ, chưa tạo
lập được hệ thống chính sách thích hợp để thúc đẩy các nhà hoạt động sản xuất kinh
doanh, dịch vụ phảI dựa trên KH- CN và hướng theo nhu cầu của sự phát triển kinh tế- xã
hội.
Sau khi được chuyển thành cơ quan quản lý nhà nước về các hoạt động KH- CN,
Bộ KH- CN và môI trường đã từng bước phát huy vai trò quản lý nhà nước trong việc
giám sát, kiểm tra các hoạt động KH- CN, quản lý nhà nước về chuyển giao CN, trình độ
CN trong sản xuất và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, công tác quản lý chưa thể hiện được
tính đồng bộ, chưa gắn kết chặt chẽ với quản lý kinh tế và xã hội, chưa tạo lập thị trường
27
rộng rãi cho KH- CN. Nhiều công trình KH khi áp dụng vào sản xuất, còn gặp trở ngại.
Bởi sản xuất chưa thực sự có nhu cầu KH. Cạnh đó, nhiều viện nghiên cứu có khả năng
đáp ứng nhu cầu của sản xuất, lại không có đơn đặt hàng. Hiện tượng tách rời gữa KH và
sản xuất còn phổ biến.
Thành tựu KH, các tiến bộ CN, chưa được áp dụng rộng rãi nên chưa tạo chuyển
biến rõ nét về năng suất, chất lượng, hiệu quả trong sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Chưa
tạo được những ngành nghề mới xuất phát từ kết quả của hoạt động KH- CN. Thị trường
cho KH- CN chưa được hình thành. Trình độ CN nói chung còn ở mức thấp. Trong các
ngành công nghiệp, hệ thống máy móc thiết bị hiện tại lạc hậu so với thế giới và hình
thành từ nhiều nguồn chắp vá. Mẫu mã hàng hoá đơn điệu, chất lượng sản phẩm thấp,
khả năng cạnh tranh, xuất khẩu kém. Quy mô dự án còn nhỏ, chưa tương xứng với tầm
nhiệm vụ cấp nhà nước, phần lớn chỉ dừng ở quy mô ngành, địa phương, hoặc cấp cơ sở,
ít có tác dụng thúc đẩu sản xuất.
Công tác quản lý KH- CN tuy đã được đổi mới, nhưng chưa đồng bộ và hoàn
chỉnh. Cơ chế quản lý các chương trình trọng đIúm cấp nhà nước còn nhiều thủ tục rườm
ràc không chặt chẽ, chưa bảo đảm tập trung các nguồn lực vào những mục tiêu chủ yếu.
Cơ chế chính sách hiện hành không khuyến khích và bắt buộc các doanh nghiệp tiến hành
nghiên cứu triển khai hoặc có chiến lược lâu dàI về đổi mới CN, đổi mới sản phẩm.
28
KẾT LUẬN VÀ GIẢI PHÁP
Từ những phân tích trên ta nhận thấy khoa học công nghệ có vai trò hết sức quan
trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển ngành công nghiệp, đưa ngành công nghiệp
nước ta từ một ngành có xuất phát điểm thấp, lạc hậu, so với các nước trên thế giới trở
thành một ngành mũi nhọn, có tốc độ tăng trưởng cao, ổn định, đóng góp đáng kể vào
GDP đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp phát
triển sánh với các cường quốc năm châu. Tuy nhiên trong quá trình phát triển, ứng dụng
khoa học công nghệ vào sản xuất công nghiệp còn gặp nhiều khó khăn vì vậy chúng ta
cần khắc phục những hạn chế và phát huy những mặt tích cực để hoàn thành sự nghiệp
xây dựng và phát triển đất nước. Những thành tựu và kinh nghiệm mà chúng ta đã đạt
được trong vòng 20 năm đổi mới đã tạo ra những tiền đề cho phép Đảng ta xác định: Phát
triển kinh tế dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra
năng suất lao động xã hội cao, nền kinh tế tăng trưởng nhanh, ổn định. Quan điểm này đã
khẳng định khoa học công nghệ có vai trò then chốt đẩy mạnh công nghiệp hoá, chuyển
mọi hoạt động kinh tế của đất nước sang thời kì mới đặc trưng là nền kinh tế tri thức,
thưc hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh đưa nước ta tiến
nhanh, tiến chắc trên con đường xã hội chủ nghĩa
Để thực hiện được mục tiêu chiến lược phát triển khoa học và công nghệ, đưa
khoa học và công nghệ nước ta thực sự trở thành nền tảng và động lực cho quá trình công
nghiệp hoá - hiện đại hoá, trong giai đoạn tới chúng ta cần tập trung thực hiện các giải
pháp cơ bản sau:
Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế và hoàn thiện hệ thống pháp luật để khoa học và
công nghệ trở thành lực lượng sản xuất hàng đầu trong phát triển kinh tế xã hội.
Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư
cho đổi mới công nghệ, ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất, quan tâm tới hiệu
quả khi lựa chọn công nghệ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho mọi nỗ lực của các doanh
nghiệp, trường đại học, viện nghiên cứu và các cá nhân tiếp cận, vận dụng, nghiên cứu và
phát triển khoa học và công nghệ theo mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước .
Đổi mới quản lý khoa học và công nghệ là ưu tiên phát triển công nghệ cao. Đây
là một giải pháp có ý nghĩa đột phá. Trong giai đoạn tới, chúng ta cần chuyển đổi căn bản
29
cơ chế quản lý khoa học và công nghệ hiện nay còn nặng về hành chính, bao cấp sang cơ
chế mới dựa trên nguyên tắc hướng dẫn, phân cấp, hướng tới thị trường và phù hợp với
đặc thù của hoạt động khoa học và công nghệ ; nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của các tổ chức và cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ. Đặc biệt chú trọng chính
sách đối với cán bộ khoa học và công nghệ trong đào tạo, tuyển dụng, đãi ngộ nhằm tạo
động lực thu hút và khuyến khích nhân tài cống hiến cho sự nghiệp khoa học và công
nghệ. Đồng thời cần sắp xếp lại các tổ chức khoa học và công nghệ phù hợp với từng loại
hình hoạt động và định hướng ưu t iênvề phát triển khoa học và công nghệ.
Xây dựng và phát triển thị trường khoa học và công nghệ.
Trước hết cần xây dựng năng lực đổi mới công nghệ và tạo nhu cầu mạnh mẽ từ
phía doanh nghiệp thông qua việc tăng cường hỗ trợ của nhà nước nhằm nâng cao năng
lực đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng sản phẩm khoa học và
công nghệ đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống như: dành tỷ lệ thích đáng kinh phí
khoa học và công nghệ của nhà nước cho việc hỗ trợ, hoàn thiện sản phẩm nghiên cứu có
khả năng thương mại hoá, hoàn thiện quy trình, quy phạm giám định về độ tin cậy, chất
lượng, an toàn và giá cả của công nghệ trước chuyển giao. Phát triển các dịch vụ môi giới
về thị trường khoa học và công nghệ, kể cả nước ngoài. Phát triển các tổ chức tư vấn
khoa học và công nghệ, dịch vụ môi giới về công nghệ, cung cấp thông tin thị trường
khoa học và công nghệ. Xây dựng các chợ công nghệ ( techmart ) làm cầu nối giữa cung
và cầu của công nghệ. Hoàn thiện môi trường pháp lý cho phát triển thị trường khoa học
và công nghệ, đặc biệt là các văn bản pháp luật về bảo vệ sở hữu trí tuệ.
Phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ, tập trung đầu tư xây dựngcác lĩnh vực
khoa học và công nghệ trọng điểm quốc gia.
Có như vậy mới nhanh chóng rút ngắn khoảng cách với khu vực và quốc tế, phục
vụ có hiệu quả cho mục tiêu kinh tế xã hội trong giai đoạn tới. Thực hiện xã hội hoá đầu
tư cho khoa học và công nghệ. Một mặt tăng cường đầu tư ngân sách nhà nước để xây
dựng hạ tầng cơ sở vật chất kỷ thuật và các nguồn lực cho các hướng khoa học và công
nghệ ưu tiên trọng điểm quốc gia. Mặt khác xoá bỏ bao cấp tràn lan, tạo môi trường
thuận lợi để huy động nguồn lực xã hội nhằm gắn kết khoa học và công nghệ với sản
xuất và đời sống.
30
Mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, hợp tác quốc tế về khoa học và
công nghệ có vai trò hết sức quan trọng, đặc biệt với nước ta hiện nay. Định hướng giải
pháp về hợp tác khoa học và công nghệ trong những năm tới là tạo ra cơ chế, chính sách
thuận lợi để các tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ được học tập, đào tạo,
giao lưu, hợp tác nghiên cứu với thế giới và khu vực. Đồng thời khuyến khích, thu hút
cán bộ khoa học Việt Nam ở nước ngoài đầu tư, liên kết, hợp tác phát triển khoa học và
công nghệ tại Việt Nam. Chúng ta đang đứng trước những thách thức to lớn trong bối
cảnh toàn cầu hoá và hội nhập, xu thế phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ
cũng như nền kinh tế dựa trên tri thức. Nhưng điều này càng khẳng định vai trò đặc biệt
quan trọng của khoa học và công nghệ trong tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá và
phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Để cho khoa học và công nghệ thực sự trở thành lực
lượng sản xuất hàng đầu cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, chúng ta cần phải
quán triệt quan điểm phát triển khoa học và công nghệ trong toàn Đảng, toàn dân.
Đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ đối với nước ta không chỉ bắt nguồn
từ đòi hỏi bức xúc của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá và quá trình
phát triển nền kinh tế thị trường mà còn bắt nguồn từ yêu cầu phát triển đất nước theo
định hướng XHCN mà về bản chất là một kiểu định hướng tổ chức nền kinh tế xã hội vừa
dựa trên nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên nguyên tắc và mục
tiêu của CNXH. Muốn đạt được điều đó, chúng ta cần có sự nỗ lực và sáng tạo rất cao,
mà nếu không đủ trình độ trí tuệ, không đủ năng lực nội sinh thì khó có thể thành công.
Do vậy, đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ trở nên rất quan trọng và bức thiết.
Muốn vậy, chúng ta phải thực hiện một số phương pháp sau :
Một là, tạo ra được động lực cho sự phát triển khoa học và công nghệ. Động lực
phát triển khoa học và công nghệ luôn luôn vận động từ hai phía: khoa học và sản xuất.
Do vậy, chúng ta cần phải khuyến khích người sản xuất tự tìm đến khoa học, coi khoa
học và công nghệ là yếu tố sống còn và phát triển của doanh nghiệp. Chỉ có như vậy mới
có thể thúc đẩy nhu cầu về khoa học và công nghệ, các nhà khoa học mới có cơ hội để
phát huy triệt để năng lực của mình . Để tạo được năng lực này, chúng ta cần phải :
- Hình thành cơ chế chính sách thúc đẩy các doanh nghiệp làm việc có hiệu quả
bằng cách ứng dụng khoa học, triển khai công nghệ.
31
- Cho phép các doanh nghiệp dùng vốn của mình để sử dụng và phát triển khoa
học.
- Sớm sửa đổi và hoàn thiện các chính sách miễn và giảm thuế cho các doanh
nghiệp sử dụng công nghệ tiên tiến, đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm. Đánh thuế cao
đối với các doanh nghiệp sử dụng công nghệ lạc hậu, tiêu tốn nguyên liệu và nhiên liệu,
gây ô nhiễm môi trường ...
Đối với những người làm khoa học, chúng ta cần phải đảm bảo cho có đựơc mức
thu nhập tương ứng với giá trị lao động mà họ đã bỏ ra, trang bị cơ sở vật chất cần thiết
để làm việc, khuyến khích tạo điều kiện để cán bộ khoa học và công nghệ là người Việt
Nam sống ở nước ngoài chuyển giao tri thức, công nghệ về nước .
Hai là, tạo vốn cho hoạt động khoa học và công nghệ .Vốn là nguồn lực để phát
triển khoa học và công nghệ. Nếu không có hoặc thiếu vốn thì đều không có đủ điều kiện
để thực hiện các mục tiêu khoa học và công nghệ. Kinh nghiệm ở các nước cho thấy vấn
đề phát triển khoa học và công nghệ thường được huy động từ hai phía nhà nước và khu
vực doanh nghiệp, trong đó phần nhiều là từ các nhà doanh nghiệp. Tại hội nghị ban chấp
hành TW khoá VIII lần hai, Đảng ta đưa ra chính sách đầu tư khuyến khích hỗ trợ phát
triển khoa học và công nghệ, theo đó một phần vốn ở các doanh nghiệp được dành cho
nghiên cứu, đổi mới công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực. Một phần vốn từ các chương
trình kinh tế - xã hội và dự án được dành để đầu tư cho khoa học và công nghệ nhằm đẩy
mạnh việc nghiên cứu, triển khai và đảm bảo hiệu quả của dự án. Tăng dần tỷ lệ chi ngân
sách nhà nước hàng năm cho khoa học và công nghệ đạt không dưới 2 % tổng chi ngân
sách nhà nước .
Ba là, mở rộng quan hệ quốc tế về khoa học và công nghệ. Có thể nói, đây là điều
kiện rất quan trọng để phát triển khoa học và công nghệ. Nếu không thực hiện có hiệu
quả quan hệ hợp tác và trao đổi quốc tế về nghiên cứu - triển khai ... thì không thể tiếp
nhận được khoa học và công nghệ tiên tiến của nhân loại, không thể tranh thủ nhân tố
ngoại sinh hết sức cần thiết để làm biến đổi các nhân tố nội sinh, thúc đẩy năng lực khoa
học và công nghệ quốc gia. Chúng ta cần coi trọng hợp tác nhằm phát triển các ngành
công nghệ cao, ưu tiên hợp tác đầu tư nước ngoài vào phát triển khoa học và công nghệ,
chỉ nhập khẩu và tiếp nhận chuyển giao những công nghệ tiên tiến phù hợp với khả năng
của chúng ta .
32
Bốn là, tăng nguồn nhân lực khoa học và công nghệ. Nguồn nhân lực khoa học và
công nghệ là lực lượng chủ yếu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá và triển khai khoa học
và công nghệ. Thiếu nguồn lực này thì không thể nói tới sự phát triển. Vì vậy, chúng ta
cần đẩy nhanh việc đào tạo các cán bộ khoa học và công nghệ, nhất là cho các ngành kinh
tế trọng yếu và các ngành công nghệ cao; trẻ hoá đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ
trong các cơ sở nghiên cứu, các trường học và các cơ sở kinh doanh, đẩy nhanh tốc độ
phát triển thị trường nhân lực khoa học và công nghệ.
Năm là, tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức quản lý hoạt động khoa học - công
nghệ. Hệ thống này đóng vai trò phân phối, tập trung và quản lý lực lượng cán bộ khoa
học và công nghệ, đảm bảo tính hiệu quả của các mục tiêu phát triển. Một trong những
nguyên nhân khiến cho khoa học và công nghệ quốc gia hiện nay còn thua kém các nước
trên thế giới là do tổ chức quản lý khoa học và công nghệ còn kém hiệu quả. Vì vậy, việc
tiếp tục đổi mới hệ thống này theo hướng nhà nước thống nhất quản lý các hoạt động
khoa học và công nghệ có ý nghĩa chiến lược nhằm phát triển tiềm lực, đón đầu và phát
triển những công nghệ mới có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ nền kinh tế.
Những giải pháp này luôn có mối liên hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau.
Do vậy, việc thực hiện đồng bộ chúng sẽ mang lại hiệu quả cao trong sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
33
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX - NXB
Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2001
2. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006
3. Giáo trình triết học Mác – Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999.
4. Trung tâm thông tin tư liệu khoa học và công nghệ quốc gia, Khoa học và công
nghệ thế giới - Kinh nghiệm và định hướng chiến lược, NXB Bộ Khoa học, công
nghệ và môi trường, Hà Nội, 2002
5. TS Nguyễn Chí Hải: Bài giảng môn Kinh tế phát triển, Khoa Kinh Tế, ĐH Kinh
tế-Luật, ĐHQG TpHCM
6. TS. Lưu Bích Hồ, Tầm nhìn khoa học công nghệ. Ngày đăng:23/03/2010 20:18
GM T+7 (
7. Lê Huy Thực, Về luận điểm “khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”,
Ngày đăng: Thứ ba, 10/10/2006 06:35' AM
(
Hoc/Ve_luan_diem_KhoaHoc_tro_thanh_llsx/)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_lop_kttg_k9_0172.pdf