Tiểu luận Bình luận về nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam và vai trò của chính sách tiền tệ giai đoạn 1/2007- 9/2011

Ổn định thị trường vàng : mởlại các sàn vàng + cơ chế giám sát chặt chẽ, minh bạch thông tin. Đưa ra các biện pháp cụ thể và hiệu quả để chấm dứt hiện tượng nhập lậu và đầu cơvàng, đầu cơ USD Dành một phần lượng tiền cung ứng đẻ cho vay tái cấp vốn với lãi suất hợp lí, hỗtrợ TCTD mở rộng tín dụng ngắn hạn , trung và dài hạn đối với lĩnh vực nông nghiệp , nông thôn, xuất khẩu.

pdf25 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2945 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Bình luận về nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam và vai trò của chính sách tiền tệ giai đoạn 1/2007- 9/2011, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN BÌNH LUẬN VỀ NGUYÊN NHÂN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM VÀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 1/2007- 9/2011. Lạm phát là một căn bệnh tiềm ẩn đối với nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường và nó xuất hiện khi nền kinh tế chứa đựng dấu hiệu mất cân đối giữa cung – cầu hàng hóa, mất cân đối giữa cung – cầu tiền tệ.Mỗi lần xuất hiện mang theo một sức mạnh tàn phá tiềm ẩn làm rối loạn nền kinh tế, làm giảm mức sống của người dân và ở một mức nào đó thì nó có thể gây rối loạn chính trị xã hội. Khi một nền kinh tế có lạm phát ở mức độ cao sẽ dẫn đến sụt giảm tiết kiệm, sụp đổ đầu tư, các nguồn vốn trong nước sẽ chảy ra nước ngoài. Ngoài ra, lạm phát sẽ làm giảm nhịp độ tăng trưởng kinh tế, mất khả năng thực hiện những kế hoạch dài hạn của quốc gia và cao điểm của nó tạo nên sự căng thẳng về chính trị xã hội… Trong bối cảnh hiện nay của nước ta,khi tình hình lạm phát ngày càng leo thang và vào những tháng vừa qua đã là 2 con số vượt qua ngưỡng tối đa cho phép là 9%.Vậy nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng lạm phát như hiện nay? Những chính sách tiền tệ nào đã được đưa ra trong thời gian qua để kiểm soát tình hình trên và chúng đã có những tác động như thế nào? Và liệu có những giải pháp nào khác tối ưu hơn để kiềm chế lạm phát trong thời gian tới? Với những lý do trên nhóm chúng tôi quyết định chọn đề tài “Bình luận về nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam và vai trò của chính sách tiền tệ” II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu -Mục đích làm rõ thực trạng, nguyên nhân lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2007- 9/2011, tìm hiểu và bình luận về tác động của những chính sách tiền tệ đã được thực hiện trong những năm qua để kiểm soát lạm phát,đưa ra những giải pháp có thể kìm chế lạm phát trong thời gian tới. -Trình bày cơ sở lý luận về lạm phát bao gồm: định nghĩa về lạm phát, tác động của lạm phát, nguyên nhân của lạm phát. -Trình bày cơ sở lý luận về chính sách tiền tệ bao gồm : định nghĩa về chính sách tiền tệ, vai trò của chính sách tiền tệ. -Phân tích diễn biến và thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007-9/2011 và đánh giá hiệu quả của chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát. -Dựa trên cơ sở của việc phân tích đưa ra những giải pháp ,kiến nghị về chính sách tiền tệ mà ta có thể thực hiện trong thời gian tới đề kiểm soát lạm phát được tốt hơn. III. Phương pháp nghiên cứu -Sử dụng phương pháp thống kê mô tả tập hợp các số liệu thu thập được để mô tả khái quát tình trạng lạm phát và những ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế. -Sử dụng phương pháp tổng hợp và phân tích những mối quan hệ tương quan giữa chính sách tiền tệ trong thời gian qua với tình hình lạm phát từ đó nghiên cứu và suy luận về những giải pháp có thể áp dụng trong thời gian tới. IV. Cơ sở lý luận 1./ Lạm phát: Lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi phí tăng trong một thời gian dài. Cũng như M. Friedman đã nói : nạn lạm phát luôn luôn và bất cứ đâu cũng là hiện tượng của tiền tệ. 2./Chính sách tiền tệ: 1. Khái niệm: Chính sách tiền tệ (CSTT) là tổng hòa các phương thức mà NHNN sử dụng nhằm tác động đến lượng tiền cung ứng để đạt được các mục tiêu kinh tế, xã hội đất nước trong thời kỳ nhất định. Như vậy, với các công cụ trong tay, NHNN có thể chủ động tạo ra sự thay đổi trong cung ứng tiền (mở rộng hay thắt chặt), qua đó tác động đến các biến số vĩ mô nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra. Trong đó có hai chính sách chủ yếu: - Chính sách tiền tệ mở rộng: cung ứng thêm tiền,khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất.., chống suy thoái. - Chính sách tiền tệ thắt chặt: giảm cung ứng tiền nhằm hạn chế đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá nóng của nền kinh tế..., kiềm chế lạm phát. 2. Mối quan hệ giữa các mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ: Các mục tiêu của chính sách tiền tệ rất đa dạng như kiểm soát lạm phát, ổn định giá cả, tạo công ăn việc làm (giảm tỷ lệ thất nghiệp), tăng trưởng kinh tế, ổn định thị trường tài chính, lãi suất, tỷ giá hối đoái... Do lạm phát cao có tác động xấu đến các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, trong khi đó nguyên nhân lạm phát lại là tiền tệ. Chính vì vậy, ở hầu hết các nước, kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả là mục tiêu hàng đầu và mục tiêu dài hạn của CSTT. Tùy vào tình hình kinh tế của mỗi quốc gia mà sẽ có một tỷ lệ lạm phát phù hợp. Thông thường để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả NHNN áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt. Bên cạnh đó còn hai mục tiêu là tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Để thực hiện hai mục tiêu này thì NHNN thường thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng. Như vậy, xét cả 3 mục tiêu thì ta thấy mục tiêu giảm lạm phát, bình ổn giá cả mâu thuẫn với hai mục tiêu còn lại trong ngắn hạn. Bởi vì để thực hiện mục tiêu giảm lạm phát, ổn định giá cả thì phải áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt. Và như vậy thì trong ngắn hạn không thể thực hiện được hai mục tiêu còn lại. Ngược lại, khi nền kinh tế mở rộng, thất nghiệp giảm, nền kinh tế phát triển quá nóng dẫn đến lạm phát gia tăng. Tuy nhiên, xét các mục tiêu trên trong dài hạn thì chúng lại không mâu thuẫn với nhau. Mối quan hệ giữa mục tiêu giảm thất nghiệp và mục tiêu tăng trưởng kinh tế không mâu thuẫn cả trong ngắn hạn và dài hạn. Hầu hết NHTW đều đặt ổn định giá cả là mục tiêu chủ yếu và dài hạn của CSTT. Nhưng trong ngắn hạn, dưới áp lực của chính trị, họ có thể tạm thời từ bỏ mục tiêu chủ yếu để hạn chế tình trạng thất nghiệp...Ngân hàng trung ương không thể đạt được đồng thời tất cả các mục tiêu trong ngắn hạn và thường thì NHTW theo đuổi một mục tiêu trong dài hạn và đa mục tiêu trong ngắn hạn. Theo luật Ngân hàng Nhà nước 2003 “ Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận của chính sách kinh tế-tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền,kiềm chế lạm phát,góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội,bảo đảm quốc phòng,an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân .” 3./Trường phái lý thuyết: Theo trường phái tiền tệ : Căn nguyên của lạm phát là việc bất cân đối giữa cung - cầu tiền. V. NỘI DUNG: Từ năm 2007 đến nay, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu và khủng hoảng nợ công ở châu Âu, tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam cũng có những diễn biến phức tạp; sau những khó khăn về kinh tế năm 2008, 2009, bước sang năm 2010 nền kinh tế có dấu hiệu ổn định hơn, nhưng từ đầu năm 2011, một số vấn đề kinh tế vĩ mô lại nổi lên, đòi hỏi Chính phủ và các nhà hoạch định chính sách phải nghiên cứu giải quyết như: tỷ lệ lạm phát gia tăng; lãi suất cao; tiền Việt Nam mất giá so với đô la Mỹ; thâm hụt ngân sách vẫn ở mức cao; hiệu quả của đầu tư công thấp; nhập siêu vẫn ở mức cao; tăng trưởng có xu hướng chậm lại…trong đó nhức nhối nhất vẫn là vấn đề lạm phát. Lạm phát của Việt Nam luôn cao hơn một cách bất thường so với các nước trong khu vực hay các đối thủ cạnh tranh cũng như các nước có điều kiện tương tự. Ở các nước này, nhìn chung mức lạm phát luôn thấp hơn mức tăng trưởng GDP , trong khi từ năm 2007 đến nay, lạm phát ở Việt Nam luôn cao hơn tăng trưởng GDP. Cá biệt năm 2008 lên đến 23%, gấp khoảng 3 lần mức tăng GDP; năm 2010 ở mức 11,75%, gấp gần 2 lần mức tăng GDP; và 9 tháng đầu năm 2011 lạm phát đã 2 con số. Biểu đồ 3: Lạm phát tại các nước phát triển, các nước mới nổi và đang phát triển, các nước châu Á đang phát triển và Việt Nam (bình quân năm) Năm 2007 Năm 2007 lạm phát của Việt Nam tăng cao ở mức hai con số 12,63%. Nếu so sánh với mức lạm phát của một số nước trong khu vực và trên thế giới như Trung Quốc: 6,5%; Indonesia: 6,59%; Mỹ: 4,08%, Thái Lan: 3,21%, Khu vực đồng Euro: 3,07%, Nhật Bản: 0,7% thì lạm phát của Việt Nam có phần cao hơn. Quý I/08 lạm phát của Việt Nam đạt 9,19%, vẫn cao hơn so với mức 3,02% của Quý I/07 và bằng khoảng trên 70% so với mức tăng của cả năm 2007. Đây là mức tăng cao trong vòng 12 năm trở lại đây. Vậy thì đâu là nguyên nhân dẫn đến lạm phát của Việt Nam tăng cao? Có thể đề cập đến hai nhóm nguyên nhân: các nhân tố tác động từ kinh tế toàn cầu, và các nhân tố từ nội tại nền kinh tế Việt Nam, cụ thể như sau: Các yếu tố tác động từ kinh tế thế giới: Thứ nhất, một khối lượng tiền lớn được đưa ra nền kinh tế toàn cầu : Trước bối cảnh lạm phát gia tăng và kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái, các NHTW không còn cách nào khác là phải bơm một lượng tiền khổng lồ để cứu vãn nền kinh tế, trong đó riêng Mỹ từ tháng 8/2007 đến nay đã phải đưa ra nền kinh tế trên 2.300 tỷ USD, trong đó có 800 tỷ USD tiền mặt để cứu vãn hệ thống ngân hàng, NHTW Châu Âu, Nhật Bản, Anh cũng phải đưa một lượng tiền lớn để cứu vãn nền kinh tế cũng như hệ thống ngân hàng; cùng với việc một số NHTW phải thực hiện cắt giảm lãi suất từ tháng 8/2007 trở lại đây như Mỹ, Anh, Canada. Việc cứu vãn nền kinh tế thế giới rơi vào suy thoái bằng biện pháp đưa hàng nghìn tỷ USD ra nền kinh tế lại càng đẩy lạm phát toàn cầu tiếp tục tăng cao. Thứ hai: Giá lương thực, thực phẩm liên tục gia tăng. Thứ ba: Giá dầu và giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào của sản xuất liên tục gia tăng: Trong 4 năm từ 2003-2006 kinh tế toàn cầu liên tục tăng trưởng cao, đặc biệt là nhóm các nước "mới nổi" ở khu vực Châu á, nhất là Trung Quốc đã đẩy nhu cầu năng lượng toàn cầu tăng cao đột biến, cùng với những bất ổn và xung đột chính trị quân sự tại khu vực Trung Đông là các nguyên nhân trực tiếp đẩy giá dầu lên cao chưa từng có trong lịch sử 110 USD/thùng trong tháng 3/2008, đồng thời giá các nguyên vật liệu đầu vào khác như sắt thép, phân bón, xi măng cũng liên tục gia tăng… Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là cùng một bối cảnh thế giới như nhau, tại sao các nước khác như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia lại có mức lạm phát thấp hơn so với lạm phát của Việt Nam? Vậy, mức lạm phát của Việt Nam tăng cao trong thời gian vừa qua ngoài những yếu tố thế giới thì còn những nguyên nhân nào khác? Các yếu tố nội tại ở Việt Nam: Thứ nhất: Chi phí sản xuất tăng cao: Trước bối cảnh lạm phát toàn cầu gia tăng đã tác động làm giá hầu hết các nhóm hàng nhập khẩu của Việt Nam gia tăng mạnh mẽ như xăng dầu, sắt thép, phân bón, thuốc trừ sâu - là những nguyên nhiên vật liệu đầu vào chính của sản xuất. đầu năm 2007 đến hết Quý I/08 giá xăng dầu đã phải điều chỉnh tăng 4 lần, tính chung giá xăng dầu đã tăng tới 38%, giá thép tăng 91%, giá điện tăng 7,6%; giá than tăng 30%; giá xi măng tăng 15%; giá phân bón tăng 58%. Thứ hai: Giá lương thực, thực phẩm tăng cao: việc giá lương thực, thực phẩm thế giới tăng cao đã khiến giá gạo xuất khẩu và giá một số mặt hàng thực phẩm xuất khẩu khác như thuỷ hải sản gia tăng cộng với chi phí sản xuất tăng cao đã đẩy giá lương thực, thực phẩm trong nước tăng cao ở mức 18,92% năm 2007 và 14,45% trong QI/2008, cao gấp 5 lần so với mức tăng 4,18% của quý I/2007, trong khi nhóm này có quyền số 42,85%, lớn nhất trong rổ hàng hoá CPI, có thể nói đây là nguyên nhân chủ yếu tác động làm CPI tăng mạnh. Thứ ba: Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ liên tục mở rộng từ 2001-2006 nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: tín dụng của hệ thống ngân hàng tăng cao trong suốt năm 2007 và 3 tháng đầu năm 2008, đó là nguyên nhân rất quan trong gây sức ép rất lớn làm gia tăng lạm phát trong thời gian qua. Thứ tư: Luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam gia tăng mạnh: Năm 2007 luồng vốn FDI tăng 20,3 tỷ USD vốn đăng ký, cao hơn nhiều so với mức 10,2 tỷ USD của năm 2006, đặc biệt là luồng vốn đầu tư gián tiếp gia tăng mạnh mẽ khoảng trên 6 tỷ, gấp 5 lần con số của năm 2006. CSTT: Khi Việt Nam chính thức là thành viên của WTO lượng vốn đầu tư nước ngoài và kiều hối tăng đột biến ( đến năm 2007 là 20 tỷ USD) . NHNN đã phát hành VND mua lại ngoại tệ trên với mục đích kiềm tỷ giá VND với USD thấp hơn điểm cân bằng nhằm tăng tính cạnh tranh trong XK. Giữ VND yếu là một cách trợ giá cho XK.Khi bơm ra một lượng tiền đồng khổng lồ để mua ngoại tệ. Đồng USD mất giá, VND lên giá người ta lại dồn dập bán USD để thu VND. Cung tiền đồng phải tăng lên để giữ tỉ giá hối đoái khỏi xuống quá thấp , làm cho lượng cung tiền của Việt Nam từ năm 2005 đến hết tháng 6/2007 tăng tổng công 110% . Đây là mất tăng rất lớn, tác nhân quan trọng đối với lạm phát Sau đó để thực hiện CSTT thắt chặt NHNN đã: Tăng Dự trữ bắt buộc (DTBB) 2 lần từ 5%-10%-11% đối với VND và từ 8%-10%-11% đối với ngoại tệ, đồng thời mở rộng kỳ hạn tiền gửi phải thực hiện DTBB từ 24 tháng thành tất cả các kỳ hạn, để hạn chế mức dư thừa vốn khả dụng của các TCTD, qua đó hạn chế tăng trưởng tín dụng vào các lĩnh vực đầu tư kém hiệu quả, giảm sức ép tăng lạm phát Hạn chế cho vay có bảo đảm bằng các giấy tờ cầm cố có giá, thực hiện cho vay chiết khấu trong hạn mức phân bổ. Nhằm hạn chế việc đưa thêm tiền ra lưu thông và tốc độ tăng trưởng tín dụng. Tăng tất cả các mức lãi suất cơ bản từ 8,25%-8,75%, lãi suất tái cấp vốn từ 6,5%-7,5%, lãi suất tái chiết khấu từ 4,5%-6%; Liên tục hút tiền về trên Thị trường mở; NHNN phát hành tín phiếu bắt buộc khoảng trên 20 nghìn tỷ đồng bắt đầu từ 19/3/2008 với kỳ hạn 12 tháng, lãi suất 7,58%; Tiếp tục thực hiện chuyển khoảng 50 nghìn tỷ đồng từ tiền gửi kho bạc về Ngân hàng Nhà nước; Trong quý IV/2007, NHNN thực hiện hạn chế tối đa mua ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng để hạn chế tổng phương tiện thanh toán tăng cao; Thắt chặt cho vay chứng khoán ở mức 3%/tổng dư nợ, sau đó tiếp tục kiểm soát mức cho vay đầu tư chứng khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ, đồng thời tăng hệ số rủi ro đối với cho vay đầu tư chứng khoán từ 150% lên 250% theo Quyết định 03 ngày 1/2/2008 của NHNN. Tỷ giá linh hoạt với việc nới lỏng biên độ tỷ giá từ 0,25% lên 0,5% vào đầu năm và tiếp tục lên 0,75% vào ngày 12/12/2007. Biên độ dao động không đáng kể chưa đủ thích ứng với các tác động bên ngoài. Trước bối cảnh Việt Nam bắt đầu trở thành thành viên của WTO nên lần đầu tiên phải đối mặt với tình hình đầu tư gián tiếp nước ngoài gia tăng mạnh mẽ, trong khi kinh nghiệm thực tế chưa có nhiều nên việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN có phần chưa linh hoạt, thể hiện việc NHNN "đã thực hiện đồng thời nhiều giải pháp mạnh vào cùng một thời điểm, nhưng lại thiếu đồng bộ với các biện pháp khác, tuy có góp phần ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực trên thị trường tiền tệ, nhưng cũng gây khó khăn cho NHTM, tạo nên việc chạy đua nâng lãi suất huy động vốn, gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh và xuất khẩu, ảnh hưởng đến tâm lý xã hội" . Năm 2008: Cùng với sự bất ổn của thị trường tài chính thế giới, tình hình kinh tế trong nước cũng diễn biến hết sức phức tạp. Giá dầu thô tăng cao cộng với sự dồn tích khá lâu về lượng tiền thừa đã làm cho thị trường hàng hóa Việt Nam tăng giá cao ở mức đáng lo ngại. So với tháng 12/2007 giá tiêu dùng tăng 17,18%, mức cao nhất so với nhiều năm trở lại. Trong đó đáng quan tâm nhất là hai nhóm hàng lương thực và thực phẩm : nhóm lương thực tăng 59,44% ; nhóm thực phẩm tăng 21,83% đã góp phần đẩy chỉ số lạm phát bình quân 6 tháng đầu năm lên mức 2,86% /tháng . Đến 6 tháng cuối năm tuy có tăng chậm nhưng vẫn ở mức cao nhất so với cùng kì của nhiều năm trước ( 2,14%). Lạm phát tăng cao năm 2008 không phải do ảnh hưởng toàn cầu mà do quản lý kém và kế hoạch sai. Quản lý kém vì Việt Nam không có một cơ cấu quản lý, hạn chế dòng vốn nhập và xuất. Luồng vốn nhập vào Việt Nam quá cao, làm “hâm nóng“ nền kinh tế do không có công cụ quản lý, hạn chế xuất và nhập luồng vốn từ nước ngoài. Kế hoạch sai vì mục đích của nền kinh tế Việt Nam hiện nay chỉ nhắm vào con số tăng trưởng kinh tế, bỏ mặt việc xây dựng nền kinh tế bền vững và lâu dài. CSTT Năm 2008 là năm có nhiều biến động lớn nhất của nền kinh tế. Để kiềm chế lạm phát, NHNN đã quyết định: Tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11% đồng thời mở rộng thêm phạm vi tiền gởi có dự trữ bắt buộc. Phát hành 20.300 tín phiếu bắc buộc. Các tín phiếu trước đó đã được giao dịch trên thị trường mở thì giờ NHNN quy định không được vay tái cấp vốn. Tăng các loại lãi suất chủ đạo của NHNN -> lãi suất liên tục tăng cao trong những tháng đầu năm đỉnh điểm là vào tháng 6/2008 LSCB lên đến 14%.và giảm dần những tháng cuối năm . Ban hành quyết định 03/2008/ QĐ-NHNN thắt chặt cho vay chứng khoán. Với 4 biện pháp cứng rắn nêu trên đã gây sốc và tác động tiêu cực tức thì đối với thị trường tiền tệ và NHTM. Làm tăng chi phí kinh doanh, tăng lãi suất cho vay của các NHTM, và trực tiếp đến thanh khoản của các NHTM trong thời gian này. Đây có thể xem là một cú phanh gấp nhằm thu hồi lượng tiền mặt quá lớn và thắc chặt tín dụng để ngăn chặn cú trượt dài của VNĐ. Tỷ giá trên thị trường diễn biến phức tạp và chia ra thành 4 giai đoạn: Giai đoạn 1 ( 3 tháng đầu năm): Tỷ giá liên tục giảm dưới mức sàn ( trên thị trường LNH giảm từ 16.112 xuống 15.960, trên thị trường tự do dao động từ 15.700 – 16.000 ). Có nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân từ việc Chính Phủ và NHNN đang đẩy mạnh việc kiềm chế lạm phát, thực hiện CSTT thắt chặt, tăng lãi suất cơ bản từ 8.25 lên 8.75%. NHNN thực hiện không mua USD nhằm tránh đưa thêm tiền ra lưu thông , tăng biên độ tỷ giá USD/VNĐ từ 0.75% lên 1% trong ngày 10/03/2008. Giai đoạn 2 ( 26/3- 16/7): Tỷ giá tăng với tốc độ chống mặt,đỉnh điểm lên đến 19.400 vào ngày 18/6 cách hơm 2.600 đồng so với mức trần, tạo nên cơn sốt USD trên cả hai thị trường LNH và thị trường tự do. Ngày 27/6 NHNN đã tăng biên độ dao động tỷ giá từ 1% lên 2%. Nguyên nhân từ phía CSTT là do quyết định số 09/2008 QĐ-NHNN không cho phép doanh nghiệp xuất khẩu vay ngoại tệ để chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu , vay thực hiện dự án xuất khẩu. Nhằm tránh việc vay rồi bán lại trên thị trường . Giai đoạn 3 (17/07-15/10) Giảm mạnh và dần đi vào ổn định nhờ các biện pháp kịp thời và hiệu quả của NHNN. Tỷ giá giảm mạnh từ 19.400 đồng xuống còn 16.400 đồng. Nhận thấy tình trạng sốt USD ở mức báo động, lần đầu tiên trong lịch sử NHNN công bố dự trữ ngoại hối quốc gia 20.7 tỷ USD nhằm bác bỏ tin đồn USD đang khan hiếm. NHNN cũng ban hành một loạt các chính sách (CS) nhằm bình ổn thị trường ngoại tệ như kiểm soát chặt các điểm thu đổi ngoại tệ ( cấm buôn bán ngoại tệ trên thi trường tự do không đăng kí với NHTM). Cấm buốn bán USD với ngoại tệ khác nhằm lách biên độ. Cấm nhập khẩu vàng và cho phép xuất khẩu vàng. Bán ngoại tệ can thiệp thị trường thông qua các NHTM lớn. Giai đoạn 4 (những tháng cuối năm): Tỷ giá USD tăng trở lại cao nhất là 17.440 đồng sau khi NHNN tăng biên độ tỷ giá từ 2% lên 3% trong ngày 07/11/2008. Cầu USD trên thị trường tự do tăng cao bởi NHNN không cho NK vàng, tình trạng nhập lậu gia tăng dẫn đến tăng cầu USD. Trước tình hình này NHNN đã bán 1 tỷ USD cho các NHTM đáp ứng được nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu. Dự trữ bắt buộc: Để thực hiện mục tiêu kìm chế lạm phát 2/2008 NHNN đã tăng 1% đối với DTBB đối với tất cả các kỳ hạn, áp dụng đối với cả VNĐ và ngoại tệ đối với hầu hết các TCTD. Nhưng đến cuối năm để ngăn chặn suy giảm kinh tế, NHNN đã giảm DTBB đối với VNĐ từ 11% xuống còn 6% và tiền gởi bằng ngoại tệ từ 11% xuống còn 7%. Như vậy năm 2008 là một năm đầy khó khăn thách thức chưa từng có trong vòng 20 đổi mới đối với hệ thống NH. Trước bối cảnh phức tạp của nền kinh tế thế giới và trong nước trong 6 tháng đầu năm 2008 NHNN Việt Nam đã có những phản ứng kịp thời sử dụng đồng bộ và quyết liệt về điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát ( tuy có nới lỏng một cách thận trọng vào cuối năm để đảm bảo tăng trưởng) có hiệu quả và ổn định kinh tế vĩ mô. Các công cụ chính sách linh hoạt được dùng để hút tiền trong lưu thông nhưng vẫn đảm bảo tính thanh khoản cho nền kinh tế. Điều hành tỷ giá linh hoạt theo tín hiệu của thị trường. NHNN đã tăng cường công tác thanh tra, dám sát hoạt động của thị trường ngoại hối và các tổ chức tín dụng, hạn chế tăng trưởng quá nóng để đảm bảo an toàn cho hệ thống TCTD. Dù có những bước đi chưa hoàn hảo ( gây nên tình trạng nhập khẩu vàng tăng cao, góp phần tạo ra cơn sốt USD trên thị trường trong một thời gian ngắn…) nhưng có thể nói năm 2009 là năm thành công của các CSTT trong điều hành kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên do khả năng dự báo còn hạn chế nên CSTT của NHNN luôn trong trạng thái bị động và căng thẳng. Việc thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt một cách đột ngột đã gây ra cú sốc lớn cho nền kinh tế và tạo ra các tiêu cực tức thời cho nền kinh tế như làm tăng chi phí kinh doanh, tăng lãi suất cho vay của các NHTM, và trực tiếp đến thanh khoản của các NHTM...Thêm vào đó là xung đột từ những mục tiêu ngắn hạn cộng với sự không độc lập của NHNN đối với CP nên khó có thể đạt được hết các mục tiêu của CSTT. CSTT năm 2008 dù đã rất cố gắng nhưng lạm phát vẫn ở mức rất cao 22.97%. Nhận xét: Giai đoạn 6 tháng đầu năm.: Trong điều kiện tiền quá nhiều trong lưu thông thì việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để giảm lượng tiền thừa là hoàn toàn đúng xét cả về lý thuyết lẫn thực tiễn. Sự can thiệp quyết liệt của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho thấy được chính kiến cũng như sự quyết tâm của toàn hệ thống ngân hàng trong việc kiềm chế lạm phát. Và kết quả là lạm phát đã bị chặn đứng và đẩy lùi từ đỉnh điểm 3,91%/tháng (tương đương 25,2%/năm) trong tháng 5 xuống các mức thấp hơn trong quý và thậm chí âm trong các tháng cuối năm. Tỷ lệ lạm phát cả năm 2008 chỉ còn là 19,89%.Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng thực sự các NHTM đã phải trải qua những tháng ngày (đặc biệt là trong tháng 2, tháng 3) cực kỳ khó khăn về thanh khoản và luôn nằm trong tình trạng “nguy cơ”. Chiến dịch lãi suất của các ngân hàng giai đoạn này đã tạo nên một dấu ấn khá sâu đậm. Có lẽ mãi sau này người ta cũng không thể quên được cảnh tượng “tháo chạy” của khách hàng khỏi ngân hàng có lãi suất thấp và dòng người xếp hàng bất chấp thời gian trước những ngân hàng có lãi suất cao để gửi tiền vào. Chỉ trong khoảng thời gian vài ngày, có ngân hàng đẩy lãi suất tiền gửi từ 15%/năm lên 19%/năm, lãi suất cho vay được đẩy lên đúng với lãi suất tối đa 21%/năm ở hầu hết các ngân hàng . Lãi suất cho vay rất cao đồng nghĩa với các doanh nghiệp vừa và nhỏ khó nghiệp sẽ đẩy có khả năng vay vốn kinh doanh. Giá cả cũng chưa chắc xuống thấp được vì dù đồng tiền tăng giá vì lượng tiền lưu thông giảm xuống nhưng chi phí vốn của các doanh giá lên (lạm phát chi phí đẩy). Giai đoạn từ tháng 6 đến cuối năm 2008: Chính phủ đã có chủ trương giảm tăng trưởng, tập trung chống lạm phát. Sau khi đã thực hiện thành công vai trò kiềm chế lạm phát, NHNN đã từng bước nới lỏng chính sách tiền tệ và lãi suất vẫn là một công cụ hết sức quan trọng. LSCB đã hạ dần từ đỉnh 14% xuống 13% (từ 21/10/08), 12% (từ 05/11/08) và liên tiếp được điều chỉnh tới 3 lần trong vòng 1 tháng cuối năm 2008 (11% từ 21/11/08, 10% từ 05/12/08, 8,5% từ 22/12/08). Cùng với LSCB, LSTCK, LSTCV cũng được điều chỉnh giảm; các NHTM được bán tín phiếu bắt buộc trước hạn; Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được nới lỏng dần đi kèm với việc điều chỉnh lãi suất DTBB. Các công cụ trên đã tác động mạnh tới thị trường, làm tăng dần mức cung tiền cho nền kinh tế. Tăng trưởng tín dụng 2008 đạt ~ 23%. Tăng trưởng tín dụng đã góp phần chặn đà suy giảm, ổn định kinh tế vĩ mô Năm 2009 CPI của cả năm 2009 dừng ở mức 6,88%, đúng mục tiêu của Chính phủ đề ra là kiểm soát lạm phát dưới hai con số. Năm 2009 một năm đầy thách thức và khó khăn của CSTT từ những bất ổn tài chính và suy thoái kinh tế. Lạm phát cao năm 2008 cùng với sự đảo chiều của vốn đầu tư nước ngoài và sự thâm hụt của cán cân thương mại (12,783 tỷ USD) đã tác động mạnh đến tâm lí nhà đầu tư và gây sức ép lên tỷ giá. Giải pháp hỗ trợ lãi suất có tác động tích cực đến việc sx và kinh doanh của các doanh nghiệp , làm khởi sắc TTCK, thị trường BĐS và thị trường tín dụng…Tuy nhiên cũng gây sức ép tăng khối lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế , tín dụng tăng trưởng cao và tăng tỷ lệ lạm phát. CSTT Đầu năm 2009 nhằm tạo điều kiện cho DN và cư dân tiếp cận vốn vay của các NH theo tinh thần các gói kích cầu của CP , cũng như tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại hoạt động ổn định và hiệu quả NHNN đã hạ thấp lãi suất chỉ đạo từ 14% xuống 7%. Hạ thấp tỉ lệ DTBB từ 11% xuống còn 5%. Đây có phải là bước đi sai lầm của NHNN khi mà lạm phát năm 2008 rất cao 22,97% và có phải nó đã góp phần dẫn tới những bất ổn vĩ mô hiện nay. Thị trường tiền tệ dần đi vào ổn định. Tuy nhiên 6 tháng đầu năm 2009 thị trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi . Do áp lực từ những cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu , lo ngại rủi ro biến động tỷ giá, các doanh nghiệp có tâm lý găm giữ ngoại tệ. Mặt khác do chính sách hạ thấp lãi suất VNĐ nên các DN có xu hướng chuyển từ vay USD sang vay VNĐ rồi dùng tiền vay mua USD, dẫn đến nhu cầu mua ngoại tệ tăng mạnh, cung- cầu ngoại tệ trở nên căng thẳng. Để tăng nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ NHNN đã tăng cường nhiều giải pháp như mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VNĐ từ 3% lên 5% so với tỷ giá bình quân LNH. Cùng phối hợp với các biện pháp điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ như bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống , điều hòa ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ NH. Các biện pháp chấn chỉnh ngoại hối cũng được tăng cường. Đặt biệt áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế tâm lí găm giữ ngoại tệ của DN và dân cư , đẩy mạnh công tác truyên truyền và công bố công khai rộng rãi về tình hình ngoại hối , tỷ giá. Yêu cầu các NHTM NN giảm lãi suất huy động và cho vay bằng ngoại tệ. Đề nghị Hiệp hội Ngân Hàng yêu cầu các NHTM như các NHTM NN kể từ ngày 8/6/2009. Các biện pháp trên ít nhiều cũng đã góp phần giảm bớt căng thẳng cung- cầu ngoại tệ. Tuy nhiên thâm hụt cán cân thương mại không được cải thiện mà vẫn tiếp tục gia tăng ( theo số liệu của tổng cục hải quan 11 tháng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước giảm 14,7% so với cùng kì năm 2008). Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao nhưng vẫn không đáp ứng được nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp biểu hiện ở lãi suất VNĐ tăng cao và thanh khoản yếu của các NH. Do thị trường vẫn thiếu vốn hay do các DN làm ăn không hiệu quả và sự thiếu thận trọng của các NH khi cho vay chấp nhận rủi ro cao khiến nợ xấu ngày càng tăng và thanh khoản yếu đi. Sự khan hiếm về mặt lý thuyết đã làm cho VNĐ lên giá. Nhưng mục tiêu chính sách điều tiết vĩ mô thì là lãi suất lại thấp , kích thích nhu cầu dùng tiền đồng, tăng nhu cầu tín dụng , gây ra vòng xoáy khan hiếm tiền đồng, gây áp lực của NHNN phải cung ứng thêm tiền đồng. Điều này tiếp tục gây áp lực giảm giá VND .Đồng thời sự biến động của giá vàng cũng gây áp lực lên tỷ giá. Trước tình này ngày 26/11 NHNN đã kịp thời điều chỉnh tỷ giá nâng tỷ giá công bố lên 17.809 VNĐ tăng 5,4% so với ngày trước đó , điều chỉnh biên độ dao động xuống còn 3%. Các NH có trạng thái ngoại tệ âm 5% trở xuống được NHNN bán ngoại tệ hỗ trợ nhằm đảm bảo cam kết cung cấp đủ ngoại tệ cho các ngân hàng xuất nhập khẩu đặc biệt ưu tiên cho việc NK phụ vụ cho sản xuất. Đòng thời nâng các mức lãi suất chỉ đạo thêm 1%. Đây là những giải pháp có tính đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tế, vừa có tác dụng tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng đồng thời chủ động ngăn chặn nguy cơ lạm phát và ổn định thị trường ngoại hối. Mặc dù hiệu quả chưa cao vì gặp phải rất nhiều khó khăn nhưng CSTT đã đạt được mục tiêu của năm 2009 và góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên nền kinh tế vẫn còn nhiều nguy cơ tiềm ẩn và đòi hỏi CSTT của NHNN phải có các phản ứng kịp thời để ngăn chặn. Năm 2010 WB cho rằng, giá hàng hóa và sản phẩm công nghiệp tăng vẫn là những nguyên nhân chính gây ra tình trạng lạm phát tăng cao trong năm 2010. Tỉ trọng thương mại so với GDP lên đến gần 150% và VNĐ đang mất giá cùng với sự tăng giá hàng hóa trên thế giới chắc chắn sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới mặt bằng giá trong nước.Ngoài ra, các cú sốc nguồn cung như lụt lội nghiêm trọng tại các tỉnh miền Trung cũng góp phần gây ra lạm phát. Theo WB, khác với câu chuyện lạm phát năm 2007, 2008, tình hình lạm phát gia tăng năm 2010 không đi đôi với sự tăng giá của mọi loại hình tài sản. Tính đến tháng 11, chỉ số VN Index đã giảm 8,8% kể từ đầu năm khiến chứng khoán Việt Nam trở thành một trong những thị trường ảm đạm nhất khu vực. Giá bất động sản năm nay cũng tăng không đáng kể. Nhìn nhận từ góc độ lịch sử, Việt Nam luôn có tỷ lệ lạm phát cao hơn các nước láng giềng. Ví dụ, lạm phát trung bình ở Việt Nam trong 10 năm vừa rồi là khoảng 8,8%, so với con số 2,7% của Thái Lan và 5,1% của Philippines. "Ở một mức độ nào đó, điều này có thể cho thấy mục tiêu chính sách của Việt Nam có sự thiên vị cố hữu, coi trọng mục tiêu tăng trưởng cao hơn duy trì ổn định kinh tế vĩ mô. Đến khi phải đối mặt với tỷ lệ lạm phát cao hơn dự kiến, Chính phủ lại phải viện đến các cơ chế hành chính như kiểm soát giá cả, lập quỹ bình ổn giá" - Ngân hàng Thế giới nhận định. CSTT Với mục tiêu duy trình ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát , tăng trưởng kinh tế bền vững trong năm 2010 . Trước tình hình kinh tế thế giới đầy biến động , NHNN quyết định điều chỉnh lãi suất quy định lên 1%. Cụ thể lãi suất cơ bản 8%, lãi suất tái cấp vốn 8%, lãi suất chiết khấu 6%. Áp dụng từ ngày 1/12/2009. Trong 10 tháng đầu năm lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn ổn định ở mức 8% . Điều chỉnh lãi suất huy động và cho vay giảm dần.(đến cuối tháng 10 , lãi suất huy động VND 10,44% /năm , cho vay 13,18%/năm. Hai tháng cuối năm NHNN tiếp tục tăng lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn thêm 1% . Kết hợp điều hành chặt chẽ lượng tiền cung ứng , quy định trần lãi suất huy động VND 14% để ổn định thị trường đã tăng lãi suất thị trường và giảm cầu tín dụng. Điều chỉnh tỷ giá - mua bán ngoại tệ của các TCTD tăng 5,52% , thực hiện các biện pháp ổn định thị trường tiền tệ. -> thị trường ngoại tệ và tỷ giá tương đối ổn định trong 9 tháng đầu năm, từ tháng 10 tỷ giá thị trường tăng phù hợp với điều kiện kinh tế vĩ mô. Thực hiện các giải pháp kiểm soát chặt chẽ thị trường vàng ngay từ đầu năm. Đóng cửa sàn giao dịch vàng và chấm dứt kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài , điều hành xuất nhập khẩu vàng phù hợp với nhu cầu thị trường : ban hành thông tư số 22/2010/TT- NHNN ngày 29/10/2010 thu hẹp huy động và cho vay bằng vàng -> giá vàng trong nước bám sát giá vàng thế giới, hiệu ứng đám đông và hiện tượng đầu cơ có xu hướng giảm. Giám sát chặt chẽ diễn biến thị trường tiền tệ và thực hiện các giải pháp đảm bảo an toàn hệ thống. -> tình hình thanh khoản và lãi suất thị trường tiền tệ trong nửa cuối tháng 12 tương đối ổn định. Tiếp tục hỗ trợ lãi suất cho các khoản vay được giải ngân năm 2009 và các khoản vay năm 2010 theo quyết định số 2213/QĐ-TTg ngày 31/12/2009 … Các CS của NHNN đã đem lại nhiều hiệu quả tích cực cho thị trường. Tuy nhiên có một số vấn đề bất lợi như: tỷ trọng tín dụng đối với lĩnh vực phi sản xuất giảm chậm,tín dụng có sức ép tăng, nếu không kiểm soát chặt chẽ sẽ vượt xa mục tiêu 25% , ảnh hưởng đến lạm phát và cán cân thanh toán quốc tế. Nhìn chung thị trường tiền tệ 2010 tương đối ổn định. Thị trường ngoại tệ và thị trường vàng đã dần ổn định. Năm 2011 GDP 9 tháng đầu năm 2011 tăng 5,76% so với cùng kỳ. Thực trạng này đã khiến mục tiêu kìm chân lạm phát ở mức 7% của Quốc hội trở thành một nhiệm vụ bất khả thi trong năm nay. Vậy đâu là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình hình lạm phát đáng báo động ở Việt Nam hiện nay. Ở Việt Nam, song hành với tăng trưởng nóng là lạm phát cao. Trong năm 2010, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam đã vượt ngưỡng 10%. Và sang năm 2011, tình hình có vẻ như không có dấu hiệu khả quan hơn. Nguyên nhân đầu tiên dẫn đến tình trạng hiện nay đó là sự kém hiệu quả của hoạt động đầu tư công. Báo cáo mới nhất của Ủy ban Tài chính Ngân sách Quốc hội khi thẩm tra tình hình thu chi ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2010 đã "đề nghị xem xét lại đầu tư công những năm qua có xu hướng tăng cao và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn so với tổng đầu tư toàn xã hội". Năm 2007 chiếm 37,2%, năm 2008 chiếm 33,9%. Năm 2009 chiếm 40,6% và năm 2010 chiếm 46,2%. Tỷ lệ ngân sách chi cho các dự án đầu tư công dường như tỷ lệ nghịch với hiệu quả của các dự án trên. Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản như đường xá, cầu cống, sân bay, hải cảng... là rất cần thiết để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Tuy nhiên, một thực trạng đáng buồn ở Việt Nam hiện nay đó là các dự án đầu tư công đang dàn trải, không có định hướng quy hoạch cụ thể. Các dự án đòi hỏi đầu tư với lượng vốn lớn nhưng hiệu suất sử dụng thu về thì không nhiều. Điều này tạo ra một sự mất cân đối trong nền kinh tế, khiến thâm hụt ngân sách của nước ta hàng năm tăng cao trong khi đó bộ mặt của nền kinh tế không có dấu hiệu cải thiện rõ rệt. Tốc độ tăng truởng tín dụng cao gấp nhiều lần tăng trưởng GDP. Tình trạng Dola hóa,Vàng hóa tác động tiêu cực đối với lạm phát chưa được chấm dứt. Thực hiện giá thị trường dồn dập tạo ra mặt bằng giá mới cao hơn. Giá cả thế giới tăng cao, sự chuyển dịch của các dòng tiền tạo nên sự cộng hưởng và chia sẽ dòng tiền với thị truờng tiêu dùng. CSTT Với mục tiêu hàng đầu là kiểm soát lạm phát. Ngày 8/3/2011 , NHNN ban hành quyết định số 379/ QĐ-NHNN theo quyết định này lãi suất chiết khấu , lãi suất cho vay qua đêm, lãi suất cho vay qua đêm bằng 12%/năm. Ngày 9/4/2011 NHNN đã ban hành quyết định số 750/QĐ-NHNN điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc ngoại tệ từ 4% lên 6% đối với các tổ chức tín dụng. Nghị quyết số 94/NQ-CP ngày 27/9/2011 và diễn biến thị trường tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định điều chỉnh một số mức lãi suất điều hành như sau: Điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn từ 14%/năm lên 15%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng từ 14%/năm lên 16%/năm áp dụng từ ngày 10/10/2011. Giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ của các TCTD tại NHNN từ 0,1%/năm xuống 0,05%/năm, áp dụng từ kỳ dự trữ bắt buộc tháng 10/2011; giảm lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ và Kho bạc Nhà nước tại NHNN từ 0,1%/năm xuống 0,05%/năm, áp dụng từ ngày 10/10/201 Ngày 17/8/2011 tăng tỷ giá lên 18.932 VND (tăng gần 2,1%). Trong khi đó biên độ tỷ giá giữ nguyên ở mức +/-3%. Đây là lần thứ hai kể từ đầu năm Ngân hàng Nhà nước trực tiếp tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Trước đó, ngày 11/2/2010, nhà điều hành chính sách tiền tệ cũng đã có quyết định tăng tỷ giá này thêm hơn 3%, lên mức 18.544 VND. Hầu hết chuyên gia đều cho rằng việc điều tăng tỷ giá USD thời điểm này của Ngân hàng Nhà nước là quyết định hợp lý, linh hoạt và kịp thời. Và quan trọng hơn là việc tăng tỷ giá được đưa ra trong cam kết chỉ nâng giá USD thêm 1% từ nay đến cuối năm. "Tôi cho rằng việc điều chỉnh tỷ giá lần này là động thái tích cực, kịp thời của Ngân hàng Nhà nước", Tiến sĩ Doanh nhận định. Tuy nhiên sau 9 tháng đầu năm tỷ lệ tăng trưởng tín dụng vẫn còn cao, lạm phát chưa có dấu hiệu suy giảm. Do tác động của CSTT có độ trễ nhất định nên những CS được đưa ra từ đầu năm tới nay chưa phát huy hiệu quả. Tình hình kinh tế vĩ mô hiện nay phần lớn là do hệ quả của CSTT từ những năm trước mang lại. CSTT trong thời gian tới nhằm kiểm soát lạm phát ở Việt Nam: Trên cơ sở phân tích nguyên nhân lạm phát và những vấn đề tồn động của CSTT trong việc chống lạm phát, phần này đề ra các giải pháp và cách thức thự hiện cụ thể góp phần ổn định kinh tế vĩ mô cho mục tiêu trước mắt năm 2011 và mục tiêu dài hạn 2011-2015. Thực thi CSTT kiểm soát lạm phát ở mức vừa phải, ổn định, phù hợp với các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, thất nghiệp, an sinh xã hội,…đủ để kích thích sự tăng trưởng kinh tế một cách bền vững, đảm bảo công bằng xã hội. Tình trạng lạm phát luôn song hành với nền kinh tế, vì vậy các chích sách, giải pháp kiểm soát lạm phát phải mang tính lâu dài, vì mục tiêu dài hạn. Các giải pháp từ CSTT phải mang tính đồng bộ và phối hợp nhịp nhàng với các giải pháp khác . Các CSTT đều có độ trễ về thời gian , vì vậy không thể nôn nóng trong việc điều hành và thực thi chích sách, lại càng không thể hướng đến mục tiêu ngắn hạn. Trong dài hạn, nền kinh tế thị trường phải được điều hành bằng các CS mang tính thị trường, không nên lạm dụng các biện pháp hành chính, dễ gây những tác động trái chiều. Chú trọng phát triển bền vững hệ thống tài chính. Nâng cao năng lực điều hành của CP. Sự phối hợp giữa các ban ngành và niềm tin, sự kỳ vọng của người dân. CP nên thắt chặt và kiểm soát mức cung tiền và tín dụng cho từng năm,cho trung và dài hạn, định lượng cụ thể trong mối tương quan với các mục tiêu về lạm phát, tăng trưởng GDP thực tế và cán cân thanh toán. Sau khi đã có các chỉ tiêu kế hoạch, CP phải kiên định theo chỉ tiêu đã dặt ra . Thắt chặt hoạt động tín dụng là điều tiên quyết, đặc biệt đối với kênh cho vay đầu tư vào TTCK và BĐS. Cần có những phân định rõ ràng và chi tiết trong việc xét hồ sơ vay vốn, cần phải linh hoạt trong vấn đề cho vay đối với ngành phi sản xuất. Chẳng hạn đối với BĐS thương mại thì hạn chế nhưng đối với đầu tư BĐS nhằm phục vụ sản xuất như xây dựng cơ sở hạ tầng công nghiệp, mở rộng nhà xưởng …thì không nên quá hạn chế , hoặc đối với các hoạt độngdịch vụ. Hiện nay với lãi suất cho vay thực tế trên 20% thì nếu ưu tiên định hướng dòng chảy tín dụng vào lĩnh vực sản xuất thì các nhà đầu tư cũng không thể vay vì chi phí vốn quá cao. Bên cạnh đó các NHTM vẫn cho vay vào lĩnh vực phi sản xuất nhưng lách luật bằng cách sửa đổi hồ sơ vay vốn. NHNN cần có những CS khơi thông và kiểm soát dòng chảy tín dụng này. Triển khai các CS cho vay ưu đãi với ND, các nhà sản xuất, gỡ bỏ các rào cản để giúp các thành phần này dễ dàng tiếp cận nguồn vốn; tăng cường kiểm soát dư nợ cho vay đối với các NHTM. Để các giải pháp hạn chế mức tín dụng đối với các NHTM, NHNN phải có lộ trình dài hạn trong việc điều hành CS. ( vì các khoản vay lớn tại các NH đều là trung và dài hạn). CS tỷ giá nên linh hoạt và thận trọng .Với bối cảnh hiện nay ta nên giảm từ từ tỷ giá là điều cần thiết.Các cơ quan quản lí và NHTW phải quản lí được tất cả các nguồn ngoại tệ và các luồng tiền nói chung.Hạn chế và tiến tới xóa bỏ thị trường ngoại tệ tự do bằng cách hút ngoại tệ vào NH. Tăng dự trữ ngoại tệ. Kiểm soát tỷ giá biến động thấp hơn mức lạm phát kỳ vọng , tiếp tục thực hiện các giải pháp tăng cung và giảm cầu ngoại tệ như năm 2010, đi đôi với chống đầu cơ và găm giữ ngoại tệ. Thực hiện mua ngoại tệ bổ sung dự trữ ngoại tệ của NHNN và đáp ứng đủ vốn cho các DN XNK. Giảm lãi suất huy động USD và kì vọng lạm phát. Ổn định thị trường vàng : mở lại các sàn vàng + cơ chế giám sát chặt chẽ, minh bạch thông tin.. Đưa ra các biện pháp cụ thể và hiệu quả để chấm dứt hiện tượng nhập lậu và đầu cơ vàng, đầu cơ USD… Dành một phần lượng tiền cung ứng đẻ cho vay tái cấp vốn với lãi suất hợp lí, hỗ trợ TCTD mở rộng tín dụng ngắn hạn , trung và dài hạn đối với lĩnh vực nông nghiệp , nông thôn, xuất khẩu. Tiếp tục áp dụng biện pháp mua tín phiếu NHNN bắt buộc đã công bố . Kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng ( tối đa 30%) , tổng phương tiện thanh toán một cách hợp lí. Kiểm soát cho vay BĐS , KDCK và cho vay tiêu dùng. Thanh lọc hệ thống NH. Tăng cường tính độc lập của NHTW trong các quyết định về CSTT. Tránh bị tác động bởi CP. Khi đó NHTW sẽ có đầy đủ quyền lực vê nghiệp vụ để tác động đến tổng cầu, đảm bảo mục tiêu lạm phát, ổn định thị trường ngoại tệ mà không cần dùng biện pháp hành chính, kêu gọi sự đồng thuận hay áp dụng mức trần sàn của lãi suất. Đặt mục tiêu kiềm chế lạm phát lên hàng đầu. Nâng cao chất lượng dự báo lạm phát, dự báo tác đọng của các yếu tố vĩ mô trong và ngoài nước. Đánh giá được độ trễ của CSTT đến lạm phát trong tình hình thực tế của Việt Nam. Kết Luận Qua bài phân tích và bình luận trên, chúng ta nhận thấy vai trò quan trọng của CSTT đối với việc kiềm chế lạm phát .Một CSTT tốt là một chính sách góp phần tăng tính ổn định và phát triển bền vững của nền kinh tế trong dài hạn. T rong ngắn hạn nếu có CSTT kịp thời , phù hợp và linh hoạt thì nó sẽ trở thành một công cụ hữu ích điều tiết nền kinh tế trước những biến động hằng ngày theo quy luật chung của nó. Lạm phát ở mức cao là một hiện trạng không thể tránh khỏi đối với một nền kinh tế đang trên đà phát triển như Việt Nam. Lạm phát giống như con dao hai lưỡi nếu biết cách sử dụng thì con dao ấy sẽ là vũ khí sắc bén để giúp Việt Nam hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước trong tương lai gần.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdflamphat_cstt_7388.pdf
Luận văn liên quan