Hướng tới tăng trưởng và phát triển bền vững là mục tiêu lâu dài và nhiều khó
khăn của Đảng và Nhà nước ta. Trong những năm qua (2001-2006), nước ta đã hết sức
nỗ lực, tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn đạt mức cao; đồng thời chất lượng tăng trưởng
cũng được cải thiện. Thu nhập theo đầu người ngày càng tăng, tỷ lệ nghèo đói có xu
hướng giảm mạnh, chỉ số phát triển con người (HDI) tăng lên đáng kể, đời sống sinh
hoạt của người dân được cải thiện; có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện
đại hoá, năng suất lao động tăng; thể chế kinh tế thị trường bước đầu được hình thành.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, tăng trưởng kinh tế Việt Nam còn bộc lộ một số điểm hạn chế
như hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào cho tăng trưởng còn thấp, hiệu quả hoạt động
xuất nhập khẩu hàng hoá còn thấp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm và lạc hậu,
chênh lệch giàu nghèo có xu hướng gia tăng, tài nguyên môi trường chưa được khai
thác hiệu quả, năng lực cạnh tranh quốc gia thấp. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến
mục tiêu tăng trưởng bền vững của nước ta. Do đó, trong thời gian tới cần triển khai
đồng bộ các giải pháp, khắc phục những hạn chế, đưa kinh tế Việt Nam tăng trưởng và
phát triển đảm bảo tốt cả về số lượng và chất lượng
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đánh giá thực trạng về số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001 - 2006, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giá trị: tổng thu nhập và thu nhập bình quân
Vai trò của tăng trưởng kinh tế rất quan trọng đối với mỗi quốc gia, đó là điều
kiện cần thiết để khắc phụ đói nghèo lạc hậu, cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc
sống cho mọi người dân: tăng tuổi thọ, giảm suy dinh dưỡng, giảm bệnh tật để phát
triển giáo dục, văn hóa tinh thần. Tăng trưởng kinh tế còn là điều kiện vật chất để tăng
thêm việc làm giảm thất nghiệp. Tuy nhiên vấn đề này chỉ giải quyết có hiệu quả khi có
mức tăng trưởng hợp lý.
Tính hai mặt của tăng trưởng kinh tế : Nói tới tăng trưởng là nói tới mặt mặt số
lượng và mặt chất lượng của sự gia tăng.
2. Phân tích mặt lượng của tăng trưởng kinh tế
Khái niệm và thước đo
Khái niệm: mặt lượng của tăng trưởng là biểu hiện bề ngoài của tăng trưởng và
được phản ánh qua các chỉ tiêu đánh giá qui mô và tốc độ tăng trưởng.
Ở mặt lượng của tăng trưởng, người ta thường quan tâm tới các vấn đề như tăng
được bao nhiêu, nhiều hay ít, nhanh hay chậm, và điều đó được thể hiện qua:
Các chỉ tiêu đo lường (bằng giá trị): qui mô và tốc độ tăng của các chỉ tiêu:
1. Tổng giá trị sản xuất (GO)
2. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) (Gross Domestic Products, GDP) hay tổng sản
sản phẩm trong nước là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng
được sản xuất, tạo ra trong phạm vi một nền kinh tế trong một thời gian nhất định
(thường là một năm tài chính)
3. Tổng thu nhập quốc dân (Gross National Products, GNP) là giá trị tính bằng tiền của
tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi công dân một nước trong một thời
gian nhất định (thường là một năm). Tổng sản phẩm quốc dân bằng tổng sản phẩm quốc
nội cộng với thu nhập ròng.
4. Thu nhập quốc dân sản xuất (NI)
5. Thu nhập quốc dân sử dụng (DI)
6. GDP bình quân đầu người :Tổng sản phẩm bình quân đầu người là tổng sản phẩm
quốc nội chia cho dân số. Tổng thu nhập bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc
gia chia cho dân số.
Những khía cạnh cần chú ý trong phân tích và đánh giá số lượng tăng trưởng
ở các nước đang phát triển:
- Chỉ tiêu thường sử dụng và đánh giá chính xác nhất: GDP và GDP/người.
- Các nước đang phát triển: có nhu cầu và khả năng đạt tốc độ tăng trưởng GDP
cao hơn các nước phát triển.
- Giá sử dụng để tính GDP
- Giá thực tế: GDPr
- Giá so sánh:GDPn
- Giá sức mua tương đương: GDPppp
3. Phân tích mặt chất lượng của tăng trưởng
Tăng trưởng là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng hàng đầu, có liên quan
mật thiết đến các biến số vĩ mô khác như việc làm, lạm phát, đói nghèo Tuy nhiên
nếu chỉ xem xét tăng trưởng kinh tế trên giác độ số lượng thu nhập tăng thêm thì chưa
đủ. Thực tế cho thấy nhiều loại tăng trưởng không những không đem đến cho con
người cuộc sống tốt đẹp hơn mà trái lại còn để lại những hậu quả không tốt mà các thế
hệ thương lai phải gánh chịu. Năm 1996, UNDP đã chỉ ra 5 loại tăng trưởng xấu để các
quốc gia tham khảo, đó là:
- Tăng trưởng không việc làm: Tăng trưởng không tạo ra việc làm mới.
- Tăng trưởng không lương tâm: Tăng trưởng chỉ đem lại lợi ích cho một bộ phận
nhỏ người giàu, điều kiện sống của phần đông người nghèo không được cải thiện.
- Tăng trưởng không tiếng nói: Tăng trưởng không gắn với sự cải thiện về dân
chủ.
- Tăng trưởng không gốc rễ: Tăng trưởng nhưng đạo đức xã hội bị suy thoái.
- Tăng trưởng không tương lai: Tăng trưởng nhưng huỷ hoại môi trường sống của
con người.
Chính vì lẽ đó, khi phân tích về tăng trưởng kinh tế, bên cạnh sự gia tăng về số
lượng còn cần và nhất thiết phải quan tâm đến khía chạnh chất lượng.
Khái niệm:
Nghĩa hẹp của chất lượng tăng trưởng:
Chất lượng tăng trưởng là thuộc tính bên trong của quá trình tăng trưởng kinh tế,
thể hiện qua các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đạt được mặt số lượng của tăng trưởng và
khả năng duy trì nó trong dài hạn.
Nghĩa rộng của chất lượng tăng trưởng:
Chất lượng tăng trưởng thể hiện năng lực sử dụng các yếu tố đầu vào, tạo nên tính
chất, sự vận động của các chỉ tiêu tăng trưởng và ảnh hưởng lan tỏa của nó đến các lĩnh
vực của đời sống kinh tế - xã hội - môi trường.
Trên giác độ các yếu tố đầu vào, một nền kinh tế đạt được tăng trưởng dựa chủ
yếu vào 3 nhân tố chính: vốn (K), lao động (L), và năng suất các nhân tố tổng hợp
(TFP).
Phân tích cấu trúc đầu vào của tăng trưởng
Hàm sản xuất:
Y= f(K,L,TFP)
Tăng trưởng kinh tế được phân làm 2 loại:
+ Tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng, phản ánh tăng thu nhập phụ thuộc vào
tăng quy mô nguồn vốn (K), số lượng lao động (L) và lượng tài nguyên thiên nhiên
được khai thác;
+ Tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu là sự gia tăng thu nhập do tác động của yếu
tố TFP. Trong đó:
K,L: Các yếu tố tăng trưởng theo chiều rộng.
TFP: Các yếu tố tăng trưởng theo chiều sâu
Phân tích chất lượng tăng trưởng theo nghĩa hẹp gồm:
- Phân tích hiệu quả của tăng trưởng
- Phân tích cấu trúc đầu vào của tăng trưởng
- Phân tích cấu trúc tăng trưởng theo ngành
- Phân tích cấu trúc đầu ra của tăng trưởng
Phân tích chất lượng tăng trưởng theo nghĩa rộng gồm:
- So sánh các chỉ tiêu tăng trưởng với mục tiêu cuối cùng cần đạt được về
mặt kinh tế:
+ Tốc độ tăng GO và GDP(VA)
+ Tốc độ tăng GDP với tốc độ tăng GDP/người
- So sánh kết quả đạt được các chỉ tiêu tăng trưởng với chi phí bỏ ra:
+ Tăng trưởng với lao động
+ Tăng trưởng với vốn
- Đánh giá tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người
Tốc độ tăng
GDP/người
Tốc độ tăng
GDP
Tốc độ tăng
dân số
= -
So sánh tăng trưởng với chi phí lao động: Sử dụng chỉ tiêu năng suất lao động
So sánh tăng trưởng với chi phí vốn: tỷ suất đầu tư tăng trưởng
Phân tích cấu trúc tăng trưởng theo ngành
Là việc phân tích đánh giá sự tăng trưởng thông qua các chỉ tiêu ngành:
- Đánh giá tác động của ba nhóm ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ đến
tăng trưởng kinh tế.
- Xu thế chuyển dịch cơ cấu sản phẩm của từng ngành. Đối với các nước phát
triển tỷ trọng của ngành dịch vụ trong tăng trưởng kinh tế là lớn nhất, tiếp đến là ngành
công nghiệp và sau cùng mới là ngành nông nghiệp. Nhưng đối với các nước kém phát
triển hoặc đang phát triển thì ngược lại. Do vậy để đạt tăng trưởng kinh tế hiệu quả, xu
thế chuyển dịch cơ cấu sản phẩm ngành là giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng
cường giá trị và tỷ trọng ngành dịch vụ và công nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân.
Phân tích cấu trúc tăng trưởng theo đầu ra
Xem xét GDP theo chi tiêu:
AD = (C + G) + I +NX
Xu huớng ở các nước phát triển: Sự lấn áp của chi cho tiêu dùng
Xu hướng của các nước đang phát triển:
- xem xét xu hướng và quy mô đóng góp của yếu tố I
- Xem xét sự biến động của yếu tố NX
Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ
tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một giai đoạn.
Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần so
sánh.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô kinh
tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %.
Biểu diễn bằng toán học, sẽ có công thức:
y = dY/Y × 100(%),
trong đó Y là qui mô của nền kinh tế, và y là tốc độ tăng trưởng. Nếu quy mô kinh
tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hoặc
GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) thực tế, thì
sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế. Thông thường, tăng trưởng kinh tế
dùng chỉ tiêu thực tế hơn là các chỉ tiêu danh nghĩa.
Phần II: Đánh giá thực trạng về số và chất lượng của tăng trưởng kinh tế Việt
Nam (2001-2006)
1. Đánh giá thực trạng trăng trưởng kinh tế Việt Nam về số lượng
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực xảy ra cuối năm 1997 đã tác
động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta. Tổng sản phẩm trong nước trong những năm
1992-1997 thường đạt mức tăng trưởng hàng năm 8-9% đã đột ngột giảm xuống chỉ
còn tăng 5,8% vào năm 1998 và tăng 4,8% vào năm 1999. Nhưng từ năm 2000 đến nay,
nền kinh tế nước ta đã lấy lại được đà tăng trưởng với tốc độ tăng năm sau luôn luôn
cao hơn năm trước (Năm 2000 tăng 6,79%; năm 2001 tăng 6,89%; năm 2002 tăng
7,08%; năm 2003 tăng 7,34%; năm 2004 tăng 7,79%; năm 2005 tăng 8,43%, năm 2006
tăng 8,20%). Tính ra trong 6 năm 2001-2006, bình quân mỗi năm tổng sản phẩm trong
nước tăng 7,62%, đưa quy mô nền kinh tế năm 2005 gấp 1,52ần năm 2000.
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm trong 5 năm 2001-
2005 đạt 7,62 không những cao hơn hẳn tốc độ tăng bình quân 6,95% mỗi năm trong
kế hoạch 5 năm 1996-2000 mà còn đứng vào hàng các nền kinh tế có tốc độ tăng
trưởng cao của khu vực và thế giới (Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới và ESCAP
thì tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm trong những năm 2000-
2004 của Trung Quốc là 8,5%; Hàn Quốc 5,5%; Thái Lan và Ma-lai-xi-a 5,0%; In-đô-
nê-xi-a 4,6%; Phi-li-pin 4,5%; Xin-ga-po 4,1%).
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước giai đoạn năm 2001-2006 (%)
2001 2002 2003 2004 2005 2006 BQ mỗi năm
2001-2006
Tổng số 6,89 7,08 7,34 7,79 8,43 8,2 7.62
- Nông lâm nghiệp và thuỷ sản 2,98 4,17 3,62 4,36 4,04 3,23 3.73
- Công nghiệp và xây dựng 10,39 9,48 10,48 10,22 10,65 10,46 10.28
- Dịch vụ 6,10 6,54 6,45 7,26 8,48 8,25 7.18
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Sở dĩ tổng sản phẩm trong nước đạt được tốc độ tăng trưởng như trên là do hầu hết
các ngành, các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế đều có mức tăng trưởng khá cao. Ước
tính năm 2006 so với năm 2000, giá trị sản xuất nông lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 36%
với tốc độ tăng bình quân mỗi năm 5,42%, trong đó nông nghiệp tăng 4,11%/năm, lâm
nghiệp tăng 1,37%/năm, thuỷ sản tăng 12,12%/năm; giá trị sản xuất công nghiệp gấp 2,1
lần, bình quân mỗi năm tăng 16,02%, trong đó công nghiệp Nhà nước gấp 1,73 lần, bình
quân mỗi năm tăng 11,53%; công nghiệp ngoài Nhà nước gấp 2,69 lần, bình quân mỗi
năm tăng 21,91%; công nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài gấp 2,17 lần, bình
quân mỗi năm tăng 16,8%; tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
theo giá thực tế gấp 1,96 lần; tổng mức lưu chuyển hàng hoá ngoại thương gấp 2,3 lần,
bình quân mỗi năm tăng 18,18%, trong đó xuất khẩu gấp 2,24 lần, bình quân mỗi năm
tăng 17,5% nhập khẩu gấp gần 2,36 lần, bình quân mỗi năm tăng 18,58%.
Tốc độ tăng của một số ngành và một số lĩnh vực kinh tế 2001-2006
Năm 2006 so
với năm 2000
(Lần)
Tốc độ tăng bình quân
mỗi năm trong 6 năm
2001-2006 (%)
- Tổng sản phẩm trong nước theo giá so sánh 1994 1,44 7,51
- Giá trị sản xuất nông lâm nghiệp và thuỷ sản theo giá so sánh 1994 1,32 5,42
- Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 1994 2,10 16,02
- Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ theo giá thực tế 1,96 14,41
- Tổng mức lưu chuyển hàng hoá ngoại thương theo giá thực tế 2,30 18,18
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải giữ vững vai
trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Yêu cầu có tính nguyên tắc này đã được bảo đảm
trong suốt quá trình cơ cấu lại nền kinh tế những năm vừa qua. Mặc dù trong những
năm 2001-2006, số lượng doanh nghiệp Nhà nước đã giảm đáng kể do tổ chức, sắp xếp
lại và thực hiện cổ phần hoá, nhưng tỷ trọng của khu vực kinh tế Nhà nước trong tổng
sản phẩm trong nước vẫn duy trì ở mức trên 38% (Năm 2001 chiếm 38,40%, năm 2002
chiếm 38,38%; 2003 chiếm 39,08%; 2004 chiếm 39,10%; năm 2005 ước tính chiếm
38,42%). Kinh tế ngoài Nhà nước được khuyến khích phát triển nên thường xuyên tạo
ra 46-47% tổng sản phẩm trong nước. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục
giữ vị trí quan trọng. Năm 2000 khu vực này tạo ra 13,28% tổng sản phẩm trong nước
và đến năm 2005 đã tạo ra 15,89%.
Cơ cấu GDP (2001-2006) theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế (%)
2001 2002 2003 2004 2005 2006
Tổng số 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
Kinh tế Nhà nước 38,40 38,38 39,08 39,10 38,42 38,12
Kinh tế ngoài Nhà nước 47,84 47,86 46,45 45,77 45,69 45,83
Kinh tế tập thể 8,06 7,99 7,49 7,09 6,83 6,22
Kinh tế tư nhân 7,94 8,30 8,23 8,49 8,91 8,95
Kinh tế cá thể 31,84 31,57 30,73 30,19 29,95 29,45
Kinh tế có vốn ĐTNN 13,76 13,76 14,47 15,13 15,89 16,21
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
2. Đánh giá thực trạng tăng trưởng kinh tế Việt Nam về chất lượng
2.1. Tăng trưởng kinh tế có những điểm mới nhưng chưa thực sự hiệu quả
Phát triển kinh tế là một trong những động lực chính góp phần xóa đói giảm
nghèo nhanh chóng ở Việt Nam. Quá trình này đã tăng tốc mạnh mẽ kể từ năm 2000.
Cùng với hàng nghìn công ty có vốn đầu tư nước ngoài và hàng triệu doanh nghiệp hộ
gia đình, các doanh nghiệp tư nhân đã mang lại việc làm cho 21% lực lượng lao động
của Việt Nam. Tạo việc làm với quy mô lớn đã cho phép hấp thụ từ 1,4 đến 1,5 triệu
lao động bước vào thị trường lao động hàng năm, tạo ra cơ hội rời khỏi việc làm nông
nghiệp cho người dân ở nông thôn, đặc biệt là cho nữ thanh niên. Những cơ hội to lớn
được tạo ra thông qua quá trình này đã giúp cho những lợi ích do tăng trưởng kinh tế
mang lại được chia sẻ rộng rãi trong xã hội.
Số liệu thống kê cho thấy tốc độ tăng trưởng GO và tốc độ tăng GDP (VA) cho
thấy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có xu hướng tăng giai đoạn 2001-2006.
Động thái tăng trưởng GO và GDP của Việt Nam
(2001-2006)
6.89 7.08 7.34
7.79
8.43 8.17
12.06
11.09
12.43
11.78
12.74 12.4
0.00
2.00
4.00
6.00
8.00
10.00
12.00
14.00
2001 2002 2003 2004 2005 2006
Tốc độ tăng GDP
Tốc độ tăng GO
Cùng với sự tăng trưởng của GO và GDP. Tăng trưởng kinh tế đã đưa lại những
hiệu quả đang kể cho sự phát triển của nền kinh tế trên các góc độ sau:
Chi phí lao động
Để có được một khối lượng lớn người lao động làm việc thỏa mãn nhu cầu thị
trường, chúng ta cũng cần chú ý đến khâu đào tạo. Đây là một khoản chi phí đáng kể
đối với một đất nước có đến 1.5 lao động tham gia vào thị trường lao động như Việt
Nam. Trên thực tế một việc làm có chi phí cao hơn đi kèm với lượng vốn lớn hơn cho
mỗi lao động thường có năng suất cao hơn. Như vậy, nhìn từ góc độ kinh tế thì các việc
làm có chi phí cao (ít nhất trên nguyên tắc) sẽ hiệu quả hơn so với những việc làm tốn ít
chi phí hơn. Trong những năm gần đây , khu vực kinh tế tư nhân có hiệu quả lớn nhất
trong việc tạo việc làm với chi phí thấp nhất. Một cách dễ dàng nhận thấy điều này là
tính số vốn trung bình cho một công nhân trong các DNNN, doanh nghiệp FDI và khu
vực kinh tế tư nhân trong nước. Ta sẽ thấy rằng hàm lượng vốn là cao nhất trong các
doanh nghiệp FDI, và thấp nhất trong khu vực tư nhân
Vốn tính trên lao động, 2000 và 2003
0
100
200
300
400
SOE FDI Private
Loại hình sở hữu DN
T
ri
ệu
V
N
D
2000
2003
Vốn bổ sung trên mỗi lao động bổ sung, 2001-
2003
0
200
400
600
DNNN FDI Tư nhân
trong
nước
Loại hình sở hữu DN
T
ri
ệu
V
N
D
Series1
(Báo cáo phát triển Việt Nam 2006
Song so sánh này có thể không hợp lý, vì một số DNNN vẫn đang chịu cảnh dư
thừa biên chế mà họ kế thừa từ thời kỳ kế hoạch hóa tập trung. Nếu so số lao động này
được điều chỉnh giảm xuống để tối đa hóa lợi nhuận thì hàm lượng vốn tính cho một
người lao động sẽ tăng lên.
Năng suất lao động
Các DNNN đã có những lợi thế hơn hẳn so với các doanh nghiệp tư nhân trong
nước, đặc biệt về khả năng tiếp cận vốn và đất đai. Đi đôi với quá trình cổ phần hóa,
các DNNN đã hoạt động ngày càng hiệu quả hơn. Cổ phần hóa làm giảm gánh nặng
hành chính đối với doanh nghiệp và làm cho doanh nghiệp trở nên độc lập hơn đối với
những lợi ích thường bị xung đột của các bên liên quan. Điều này cho phép doanh
nghiệp tiến gần hơn đến mức hiệu quả cao nhất.
So sánh với các quốc gia khác trên thế giới ta có bảng số liệu sau:
So sánh tăng trưởng với chi phí vốn: suất đầu tư tăng trưởng
Thời kỳ tăng
trưởng nhanh
Tỷ lệ đầu
tư (%GDP)
Tỷ lệ tăng
trưởng (%)
SĐTTT
Việt Nam
2001-2005
2006
37,7
40%
7,5
8,17
5,0
5,01
Trung Quốc 1991-2003 39,1 9,5 4,1
Nhật Bản 1961-1970 32,6 10,2 3,2
Hàn Quốc 1981-1990 29,6 9,2 3,2
Đài Loan 1981-1990 21,9 8,0 2,7
(Nguồn : Chi Hung KWAN, Why China’s Investment Efficiency is Low, China in
Transition, June 18, 2004. c)
Chỉ tiêu năng suất lao động sẽ được phản ánh chi tiết hơn khi nghiên cứu cấu
trúc đầu vào của tăng trưởng.
Tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người:
Theo bản Báo cáo công tác của Chính phủ nhiệm kỳ 2002-2007 năm tiến bộ chủ
yếu về công tác quản lý Nhà nước và sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ trong cả nhiệm kỳ qua được nêu ra bao gồm: hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường, kiểm soát và ổn định kinh tế vĩ mô, huy động các nguồn lực cho phát
triển kinh tế-xã hội; mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế;
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, cải thiện đời sống nhân dân; đẩy mạnh cải cách
hành chính và chống tham nhũng, lãng phí; bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an
toàn xã hội.
2.2. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào vốn, hiệu quả đầu tư và năng suất lao
động thấp
Đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế, không thể không quan tâm đến cấu trúc
đầu vào của tăng trưởng, tức là xem xét đóng góp của yếu tố vốn đầu tư, của lao động
và yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP).
Năm GDP Tổng vốn đầu tư VĐT/GDP
2001
481,295 170,496 35.4%
2002
535,762 200,145 37.4%
2003
613,443 239,246 39.0%
2004
715,307 290,927 40.7%
2005
839,211 343,135 40.9%
2006
974,266 404,712 41.5%
Bảng: Đóng góp của yếu tố vốn đầu tư vào tăng trưởng kinh tế
Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP đạt mức 35,4% năm 2001 và không ngừng tăng lên
trong các năm tiếp theo, từ năm 2004 – 2006 con số này luôn đạt mức trên 40%, tỷ lệ ở
mức cao trên thế giới (chỉ sau Trung Quốc với 44%). Qua đó, có thể thấy tăng trưởng
kinh tế Việt Nam chủ yếu dựa vào sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư.
Bên cạnh đó, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện còn dựa một phần quan trọng
vào yếu tố số lượng lao động, sự quan trọng này được xét trên hai mặt. Một mặt, do
nguồn lao động hàng năm vẫn còn tăng khoảng 2%, tức là trên 1 triệu người mỗi năm.
Mặt khác, do tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn còn cao.
Như vậy, sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư và số lượng lao động đã
chiếm hơn 75% tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam; đồng nghĩa với sự đóng
góp của yếu tố TFP đối với tăng trưởng kinh tế còn nhỏ, thấp chỉ bằng hai phần ba tỷ
trọng đóng góp của yếu tố này của các nước trong khu vực hiện nay. Biểu hiện:
Thứ nhất, hiệu quả sử dụng vốn thấp thông qua 2 chỉ tiêu:
- Hệ số ICOR (tỷ lệ vốn đầu tư/GDP chia cho tốc độ tăng trưởng GDP) của Việt
Nam khá lớn, ở mức 4,86 lần, cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực.
Quốc gia Hệ số ICOR Thời kỳ
Việt Nam 4.86 1991-2007
Đài Loan 2.7 1961-1980
Hàn Quốc 3 1961-1980
Indonexia 3.7 1981-1995
Trung Quốc 4 2001-2006
Thái Lan 4.1 1981-1995
Malaysia 4.6 1981-1995
Bảng: Hệ số ICOR một số nước trong khu vực
- Chỉ tiêu GDP/vốn đầu tư hàng năm với ý nghĩa một đồng vốn đầu tư tạo ra bao
nhiêu đồng GDP liên tục sụt giảm qua các thời kỳ.
Thời kỳ
GDP/VĐT
(đồng/đồng)
Thay đổi
1991-1995 3.55
1996-2000 3 -15.5%
2001-2005 2.56 -14.7%
Bảng: GDP/vốn đầu tư qua các thời kỳ ở Việt Nam
(Nguồn: Tạp chí Cộng sản)
Thứ hai, năng suất lao động của toàn bộ nền kinh tế cũng như của từng ngành
còn thấp, đặc biệt là trong ngành nông nghiệp, mặc dù chiếm tỷ trọng lao động cao,
nhưng lượng GDP đóng góp chưa tương xứng.
Năm
Số lượng lao động (nghìn người) Năng suất lao động (đồng/người/năm)
Cả
nước
Nông lâm
thuỷ sản CN - XD Dịch vụ Cả nước
Nông lâm
thuỷ sản CN - XD Dịch vụ
2001 37609.6 24480.6 4929.2 8199.8
12,850,336
4,650,989 37,230,179
22,673,968
2002 38562.7 24469.6 5554.8 8538.3
13,945,185
5,124,113 37,120,508
24,147,898
2003 39507.7 24455.8 6084.7 8967.2 39,792,595
15,577,875 5,736,390 25,987,153
2004 40573.8 24443.4 6670.5 9459.9
17,679,167
6,463,790 43,117,607
28,721,022
2005 41586.3 24430.7 7216.5 9939.1
20,228,224
7,285,465 47,699,577
32,095,864
2006 42526.8 24282.4 7739.9 10504.5
22,956,583
8,269,487 52,286,980
35,296,397
Các con số trên còn thấp xa so với năng suất lao động chung của thế giới (trên
14.600 USD), còn thấp hơn cả mức bình quân đầu người của thế giới (khoảng 6.500
USD/người). Với năng suất thấp như trên thì giá trị thặng dư còn đang rất nhỏ nhoi.
Năng suất lao động thấp chẳng những làm cho giá trị thặng dư, tích lũy thấp mà
còn làm cho tiêu dùng bình quân đầu người cũng thấp. Nếu nhìn dưới góc độ hiệu quả,
năng suất lao động thấp cũng là một trong những yếu tố làm cho lạm phát cao, đồng
thời cũng ảnh hưởng tới tăng trưởng bền vững.
Năng suất lao động thấp do nhiều nguyên nhân. Cơ cấu lao động theo ngành kinh
tế chuyển dịch chậm. Tỷ trọng lao động làm việc trong nhóm ngành nông, lâm nghiệp -
thủy sản hiện còn khá cao (54,2%), trong khi năng suất lao động của nhóm ngành này
thấp. Công nghiệp năm 2006 tăng khá về giá trị sản xuất, nhưng lại tăng thấp về giá trị
tăng thêm do chi phí trung gian cao, tính gia công lớn, giá trị tăng thêm thấp. Nhóm
ngành dịch vụ tuy GDP tăng cao hơn tốc độ chung, nhưng chủ yếu là thương nghiệp
thuần túy, các dịch vụ có giá trị gia tăng cao lại chiếm tỷ trọng nhỏ, còn mang nặng tính
kiêm nhiệm, tính chuyên nghiệp không cao nên năng suất lao động bị giảm tương đối
(tỷ trọng về lao động tăng từ 17,4% năm 1995 lên 25,9% năm 2007, nhưng tỷ trọng về
GDP lại giảm tương ứng từ 44,06% xuống 38,12%).
Chất lượng lao động hiện là “nút cổ chai” lớn nhất. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo
hiện còn thấp xa so với mục tiêu đề ra cho đến năm 2010 (trên 30% so với 40%). Cơ
cấu đào tạo vẫn còn “thiếu thợ hơn thiếu thầy” (thế giới là 1 cao đẳng, đại học/4 trung
cấp chuyên nghiệp/10 đào tạo nghề, còn ở Việt Nam tương ứng là 1/0,98/3,02). Về
trình độ, đào tạo thợ nhưng thiếu tay nghề cao, lý thuyết nhiều, các doanh nghiệp khi sử
dụng phải đào tạo lại. Trung cấp, cao đẳng, đại học khoa học ứng dụng cũng còn yếu.
Giáo sư, tiến sĩ thì có tới trên dưới 1/4 là danh là nhiều hơn thực. Việc sử dụng cán bộ
khoa học, kỹ thuật chưa hợp lý còn tình trạng hoặc là chéo ngành, chéo nghề. Đó là
chưa kể tình trạng sao chép, mua bán bằng cấp vẫn còn xảy ra
Năng suất lao động thấp chẳng những làm cho giá trị thặng dư, tích lũy thấp mà
còn làm cho tiêu dùng bình quân đầu người cũng thấp. Nếu nhìn dưới góc độ hiệu quả,
năng suất lao động thấp cũng là một trong những yếu tố làm cho lạm phát cao, đồng
thời cũng ảnh hưởng tới tăng trưởng bền vững.
Một nền kinh tế tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn, mà hiệu quả đầu tư thấp, nhất
là hiệu quả đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước còn thấp hơn; năng suất lao động
thấp,... nên nhu cầu đối với tiền tệ, yêu cầu cung tiền luôn luôn cao, tạo sức ép làm tăng
lạm phát. Sức ép này cộng hưởng với lạm phát trên thế giới trong khi đồng Việt Nam
được neo giá chặt với USD mà USD lại mất giá lớn so với các đồng tiền mà Việt Nam
có quan hệ buôn bán lớn nhất lại càng tạo ra sưc ép lạm phát tại Việt Nam lớn hơn các
nước.
2.3. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu do tăng trưởng tiêu dùng cuối cùng và tích luỹ
tài sản; tình trạng nhập siêu gia tăng
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế chủ yếu do tăng trưởng tiêu dùng cuối cùng. Điều
đó được lý giải là do quy mô GDP của Việt Nam còn thấp, nên tỷ trọng tiêu dùng cuối
cùng hiện đang chiếm tỷ trọng lớn trong GDP (trên dưới 70%); mức tiêu dùng bình
quân đầu người trong nhiều năm còn thấp nên nhu cầu và tốc độ tăng thường khá cao
(mấy năm liên tục tăng trên 7%, gần bằng với tốc độ tăng của GDP).
Một nét quan trọng là tiêu dùng cuối cùng thông qua mua bán trên thị trường ngày
một chiếm tỷ trọng lớn, do tốc độ tăng qua các năm (đã loại trừ yếu tố giá) gần đây liên
tục tăng hai chữ số (năm 2002 tăng 11,2%, năm 2003 tăng 15,2%, năm 2004 tăng
10,8%, năm 2005 tăng 11,3%, năm 2006 tăng 12,5%). Khi tiêu dùng cuối cùng thông
qua mua bán trên thị trường tăng nhanh và trở thành động lực của tăng trưởng kinh tế
thì một mặt nó hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, mặt khác tạo áp lực tăng cung tiền
tệ, tạo áp lực lạm phát.
Cùng với tăng trưởng tiêu dùng chung thì tiêu dùng của một bộ phận dân cư đã
tăng rất cao về quy mô, đa dạng về chủng loại, mẫu mã, chất lượng. Cùng với xu hướng
này cũng đã xuất hiện tâm lý ưa chuộng hàng hiệu, hàng ngoại, thậm chí mua bán với
bất kỳ giá nào.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế do tăng trưởng tích lũy tài sản chiếm tỷ trọng khá
cao. Đây cũng là một tín hiệu tốt thể hiện tâm lý tiết kiệm để dành cho tích lũy của khu
vực Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng.
Tuy nhiên, bên cạnh việc trực tiếp đầu tư tăng trưởng, có một phần không nhỏ đã
được để dành dưới dạng cất trữ hoặc chạy lòng vòng qua các kênh gây ra những cơn sốt
nóng hoặc lạnh ở các kênh này mà không được đầu tư trực tiếp cho sản xuất kinh
doanh. Hiện có hàng trăm tỷ đồng vốn đầu tư đang được chôn vào bất động sản, vàng.
Thứ ba, tăng trưởng xuất khẩu ròng hiện đang mang dấu âm do nhập siêu gia tăng
mạnh cả về quy mô, cả về tỷ lệ so với xuất khẩu. Nhập siêu cả về hàng hóa, cả về dịch
vụ.
Năm
Giá trị Thay đổi
Xuất
khẩu
Nhập
khẩu
Cán cân
TM
Xuất
khẩu
Nhập
khẩu
Cán cân
TM
2,001
15,029
16,218 (1,189)
2,002
16,706
19,746 (3,040) 11.2% 21.8% 155.7%
2,003
20,149
25,256 (5,107) 20.6% 27.9% 68.0%
2,004
26,485
31,969 (5,484) 31.4% 26.6% 7.4%
2,005
32,447
36,761 (4,314) 22.5% 15.0% -21.3%
2,006
39,826
44,891 (5,065) 22.7% 22.1% 17.4%
Bảng: Tình hình XNK nước ta (2001-2006)
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
2.4. Tăng trưởng kinh tế chưa có tác động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu theo
hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả hơn
Cơ cấu kinh tế theo ngành và tác động của tăng trưởng kinh tế đến chuyển dịch cơ
cấu kinh tế là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tăng trưởng.
Từ năm 2001 đến 2006, cơ cấu ngành của nước ta đã có sự chuyển dịch mạnh theo
hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp – xây dựng
và dịch vụ. Sự chuyển dịch này là phù hợp với xu thế chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá của Đảng và Nhà nước.
Bảng: Cơ cấu kinh tế GDP theo giá thực tế phân theo ngành kinh tế (2001-2006)
Năm
GDP thực tế theo ngành
GDP
Tỷ trọng đóng góp vào GDP
Nông lâm ngư
nghiệp
Công nghiệp
xây dựng
Dịch
vụ
Nông lâm ngư
nghiệp
Công nghiệp
xây dựng
Dịch
vụ
2001 113,859 183,515
185,922
483,296 23.6% 38.0% 38.5%
2002 125,385 206,197
206,182
537,764 23.3% 38.3% 38.3%
2003 140,288 242,126
233,032
615,446 22.8% 39.3% 37.9%
2004 157,997 287,616
271,698
717,311 22.0% 40.1% 37.9%
2005 177,989 344,224
319,004
841,217 21.2% 40.9% 37.9%
2006 200,803 404,696
370,771
976,270 20.6% 41.5% 38.0%
(Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam)
Qua bảng số liệu trên, có thể thấy tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP cả nước
có xu hướng giảm, từ 23,6% năm 2001 xuống còn 20,6% năm 2006. Trong khi đó, các
ngành công nghiệp, xây dựng ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, tăng từ con số 38% năm
2001 lên 41,5% năm 2006. Ngành dịch vụ duy trì ở mức ổn định, trên dưới 38%. Điều
này thể hiện, nước ta đang trong giai đoạn xây dựng cơ bản, tập trung xây dựng cơ sở
hạ tầng là chủ yếu. Đồng thời, cơ cấu kinh tế ngành còn chưa đi vào ổn định.
23.6%
38.0%
38.5%
23.3%
38.3%
38.3%
22.8%
39.3%
37.9%
22.0%
40.1%
37.9%
21.2%
40.9%
37.9%
20.6%
41.5%
38.0%
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
Năm
Dịch vụ
Công nghiệp xây dựng
Nông lâm ngư nghiệp
2001 2002 2003 2004 2005 2006
Biểu đồ: Tỷ trọng đóng góp của các ngành kinh tế vào GDP Việt Nam (2001 – 2006)
Bên cạnh đó, xét theo từng nhóm ngành, cơ cấu ngành kinh tế cũng có những
bước thay đổi đáng kể.
Trong nhóm ngành nông – lâm - thuỷ sản:
Năm
Giá trị Tỷ trọng Tốc độ tăng
Nông
nghiệp
Lâm
nghiệp
Thuỷ
sản
Nông
nghiệp
Lâm
nghiệp
Thuỷ
sản
Nông
nghiệp
Lâm
nghiệp
Thuỷ
sản
2001
87,861
6,093
17,904 78.5% 5.4% 16.0%
2002
96,543
6,500
20,340 78.2% 5.3% 16.5% 9.9% 6.7% 13.6%
2003
106,385
7,775
24,125 76.9% 5.6% 17.4% 10.2% 19.6% 18.6%
2004
119,107
9,412
27,474 76.4% 6.0% 17.6% 12.0% 21.1% 13.9%
2005
132,985
10,052
32,947 75.6% 5.7% 18.7% 11.7% 6.8% 19.9%
2006
149,660
10,802
38,335 75.3% 5.4% 19.3% 12.5% 7.5% 16.4%
Bảng : Giá trị và tỷ trọng đóng góp của các ngành trong GDP nông – lâm - thuỷ sản
Tỷ trọng của nhóm ngành nông nghiệp và lâm nghiệp đã giảm từ 84% năm 2001
xuống còn 80,7% năm 2006, nhường chỗ cho sự đi lên của nhóm ngành thuỷ sản.
Các nhóm ngành nông – lâm - thuỷ sản giữ được tốc độ tăng trưởng tăng dần qua
các năm, đặc biệt ngành thuỷ sản có tốc độ tăng cao nhất (năm 2006 đạt 16,4%) đảm
bảo tốc độ tăng trưởng chung của ngành nông nghiệp đạt mức 10,1% năm 2001 lên
12,8% năm 2006.
Tuy nhiên, so với lượng lao động tham gia ngành nông nghiệp, với lượng giá trị
sản phẩm quốc dân như trên phản ánh năng suất lao động của ngành còn chưa thực sự
hiệu quả. Sự gia tăng của ngành chủ yếu còn phụ thuộc vào nguồn tài nguyên sẵn có
như đất đai, biển, rừng... mà thiếu đi sự ổn định với khả năng tăng trưởng theo chiều
sâu.
Cơ cấu ngành công nghiệp – xây dựng:
Giá trị sản xuất ngành công nghiệp – xây dựng của nước ta tăng 12,4% năm 2001,
sau đó tăng mạnh từ 17,4% năm 2002 lên 19,7% năm 2005; tuy nhiên đến năm 2006,
tốc độ tăng có xu hướng chững lại, giảm xuống ở mức 17,6%.
Năm
Giá trị Tỷ trọng
CN khai
thác mỏ
CN chế
biến
Sx,pp điện, khí
đốt, nước
Xây
dựng
CN khai
thác mỏ
CN chế
biến
Sx,pp điện,
khí đốt,nước
Xây
dựng
2001
44,345
95,211 16,028
27,931 24.2% 51.9% 8.7% 15.2%
2002
46,153
110,285 18,201
31,558 22.4% 53.5% 8.8% 15.3%
2003
57,326
125,476 22,224
37,100 23.7% 51.8% 9.2% 15.3%
2004
72,492
145,475 25,091
44,558 25.2% 50.6% 8.7% 15.5%
2005
88,897
173,122 28,929
53,276 25.8% 50.3% 8.4% 15.5%
2006
99,702
207,027 33,464
64,503 24.6% 51.2% 8.3% 15.9%
Trong ngành công nghiệp, công nghiệp chế biến luôn chiếm tỷ trọng đáng kể, tuy
nhiên chưa có xu thế gia tăng trong thời gian qua; công nghiệp khai khoáng còn chiếm
tỷ lệ cao và giữ ở mức khá ổn đình; điều đó phản ánh mức độ thay đổi trong ngành
công nghiệp – xây dựng còn hạn chế.
Cơ cấu ngành dịch vụ:
Cùng với ngành công nghiệp và xây dựng, ngành dịch vụ nước ta đã có bước
tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm 2001 – 2006, duy trì tốc độ tăng trưởng trung
bình trên 16% từ năm 2003 đến 2006.
Bảng : Giá trị đóng góp GDP của các hoạt động trong ngành dịch vụ (2001 – 2006)
Năm
Giá trị
Thương
nghiệp
Ksạn,
N/hàng
Vận tải, kho
bãi
TC, tín
dụng Khác
2001 67,788 15,412 19,431 8,762
74,529
2002 75,617 17,154 21,095 9,763
82,553
2003 83,297 18,472 24,725 10,858
95,680
2004 96,995 22,529 30,402 12,737
109,035
2005 113,768 29,329 36,629 15,072
124,206
2006 132,794 35,861 43,825 17,607
140,684
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Ngành dịch vụ thay đổi theo hướng tăng nhanh tỷ trọng các hoạt động có chất
lượng dịch vụ cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch... Tuy nhiên, các hoạt
động dịch vụ khác như y tế, giáo dục, đào tạo, khoa học, thể thao, các hoạt động đoàn
thể... còn chưa mang lại giá trị cao cho sự phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế đất
nước.
Sự phân tích trên có thể rút ra nhận xét như sau: Nếu căn cứ vào cơ cấu 3 nhóm
ngành chính thì cơ cấu kinh tế của nước ta đã đảm bảo yêu cầu về tỷ lệ giữa các nhóm
ngành theo yêu cầu của phát triển bền vững song sự không bền vững là ở cơ cấu trong
nội bộ các nhóm ngành xét trên cả phương diện cơ cấu ngành và cơ cấu thành phần
kinh tế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế tương đối chậm và chưa rõ nét, chưa có dấu hiệu
của sự thay đổi căn bản, những thế mạnh kinh tế của thành phố công nghiệp – thương
mại – dịch vụ chưa được thể hiện. Kinh tế nhà nước còn khá lớn, kinh tế tư nhân và
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển chưa xứng với tiềm năng.
2.5. Ảnh hưởng lan toả của tăng trưởng kinh tế đối với các lĩnh vực của đời sống
kinh tế, xã hội, môi trường
Một trong những thành quả nổi bật của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới chính
là tốc độ TTKT cao khá ổn định. Thời kỳ từ năm 1986 tới nay là thời kỳ đổi mới, tốc độc tăng
trưởng bình quân 1986 1990 là 4,5%, thời kỳ 1991-1995 là 8,2%, thời kỳ 1996-2000 là 7% và
từ 2001-2007 là 7,6%. Tốc độ TTKT ngang bằng Hàn Quốc và chỉ đứng sau Trung Quốc.
Biểu đồ tốc độ TTKT qua các năm Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam từ 1985 đến 2006 Tuyển tập
Báo cáo “Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học” lần thứ 6 Đại học Đà Nẵng - 2008
2.5.1. Kết quả sự kết hợp giữa TTKT với tiến bộ và công bằng xã hội
- TTKT với vấn đề giải quyết việc làm
Hằng năm nước ta có khoảng 1,7 triệu người bước vào độ tuổi lao động. Số lao động được giải
quyết việc làm bình quân hằng năm khoảng 1,5 đến 1,6 triệu người. Tỷ lệ thất nghiệp thành thị
giảm từ 5,88% năm 1996 xuống còn 5,31% năm 2005 và đến năm 2006 còn 4,82%. Tuy nhiên
vùng nông thôn tỷ lệ thiếu việc làm vẫn ở mức khá cao, nhất là ở khu vực đồng bằng.
- TTKT với nâng cao thu nhập cho nhân dân, xóa đói giảm nghèo
Bảng 1 Thu nhập thực tế bình quân đầu người ĐVT: (1000đ/ người/tháng)
1999 2002 2004
Cả nước 295 356 448
Phân theo thành thị và nông thôn:
Thành thị 517 622 815
Nông thôn 225 275 378
Phân theo vùng:
ĐB sông Hồng 280 353 488
Đông Bắc 210 269 380
Tây Bắc 210 197 266
2.5.2. Chỉ số phát triển con người Việt Nam ngày càng tăng hơn
Chỉ số HDI của Việt Nam đã liên tục tăng trong những năm gần đây: Từ 0,671
điểm (năm 2000) đã tăng lên 0,688 điểm (2003); 0,704 điểm (2005); 0,733 điểm
(2007). Đáng lưu là, từ năm 1995 đến nay (2007), xếp hạng HDI của Việt Nam trong
khu vực đã được nâng lên từ thứ bậc 7 lên thứ bậc 6; ở Châu Á từ thứ bậc 32 lên thứ
bậc 28 và trên thế giới từ thứ bậc 122 lên thứ bậc 105 so vớí 177 nước trên thế giới.
2.5.3. Chỉ số đói nghèo của con người
Theo chỉ tiêu này, Việt Nam còn ở mức thấp, xếp thứ 136/177 nước, có nghĩa Việt
Nam năm 2007 mặc dù đã tăng mạnh tới 835 USD/người so với năm 2005 còn ở mức
640 USD nhưng vẫn thuộc vào nhóm các nước nghèo có thu nhập GDP/người/năm
dưới 950 USD theo quy định của UNDP.
2.5.4. Các chỉ số khác về trình độ phát triển và chất lượng sống của người Việt Nam
cũng ngày càng khả quan hơn
- Thực hiện công bằng về giới
Theo Báo cáo phát triển 2007/2008 của UNDP, Việt Nam là nước có nhiều tiến bộ
trong cải thiện công bằng giới, thông qua chỉ số bình đẳng về giới (GDI) và bất bình
đẳng về giới (GEM).
- Công tác chăm sóc sức khoẻ cộng đồng có nhiều tiến bộ
Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng đã liên tục giảm nhanh từ 33,4% năm
2000 xuống còn 31,9% năm 2001, 30,1% năm 2002, 28,4% năm 2003, 26,6% năm
2004, 25,5% năm 2005, 23,4% năm 2006 và xuống còn 21,2% năm 2007. Tỷ lệ trẻ mới
sinh nặng dưới 2,5kg ở mức thấp, gần 8%. Tỷ lệ trẻ em bị tử vong dưới 1 tuổi năm
2006 giảm còn 15/1.000 trẻ đẻ sống. Tỷ suất tử vong bà mẹ liên quan đến thai sản giảm
xuống còn 80/100.000 trẻ đẻ sinh sống. Hầu hết các xã phường trong cả nước đều đã có
trạm y tế, trong đó có trên 65% số trạm có bác sĩ. ...
- Sự nghiệp phát triển giáo dục – đào tạo có bước phát triển mạnh và ngày
càng mang tính xã hội hoá cao hơn
Đầu tư cho các cơ sở giáo dục và đào tạo ở các cấp được tăng cường. Nhiều tỉnh
đã xây dựng được trường chuẩn quốc gia. Chi cho giáo dục và đào tạo tiếp tục tăng lên,
năm 2007-2008 đã đạt tới 20% tổng chi ngân sách nhà nước.
- Đời sống văn hoá không ngừng nâng cao
Tính đến năm 2005, đã có khoảng 95% số hộ được nghe Đài tiếng nói Việt Nam,
90% số hộ được xem truyền hình Việt Nam. Đáng lưu ý, có nhiều vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào các dân tộc thiểu số đã được phủ sóng phát thanh, truyền hình.
2.5.5. Chất lượng TTKT ngày càng được cải thiện
Nhờ đạt được tốc độ TTKT cao trong suốt thời kỳ đổi mới, chất lượng TTKT của
Việt Nam cũng ngày càng được cải thiện. Điều đó thể hiện ở các khía cạnh cơ bản sau:
- Thu nhập theo đầu người ngày càng tăng. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân
đầu người ở Việt Nam trong giai đoạn 1990 - 2002 đạt trung bình 5,2%. Thu nhập bình
quân đầu người năm 2007 của người dân Việt Nam đã đạt 820 USD/năm. So với năm
1995, mức thu nhập bình quân đầu người hiện nay của Việt Nam đã tăng khoảng 2,8
lần.
- Tỷ lệ nghèo đói có xu hướng giảm mạnh. Trên cơ sở kinh tế tăng trưởng nhanh,
mức độ nghèo đói của dân cư giảm mạnh. Năm 2006, tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam là
18,1% (tính theo chuẩn nghèo quốc tế) và được thế giới đánh giá là thành công trong
việc chống nghèo đói.
- Đời sống kinh tế, sinh hoạt của người dân ngày càng được cải thiện. Tuổi thọ
của người dân (năm 2006) đạt 71,3 tuổi. Phần lớn người dân Việt Nam đã có những
tiện nghi tối thiểu cho sinh hoạt hằng ngày như điện, nước sạch, ti vi... Tỷ lệ hộ dân có
phương tiện đi lại bằng xe máy, ô-tô và sử dụng các phương tiện sinh hoạt cao cấp như
điện thoại di động, máy tính cá nhân,... ngày càng có xu hướng tăng nhanh.
- Cơ cấu kinh tế có sự dịch chuyển rõ nét theo hướng hiện đại hóa. Nếu năm
1990, ngành nông - lâm - ngư nghiệp chiếm tới 38,7% GDP, thì đến năm 2006 giảm
còn 20,4%. Trong khi đó, các ngành công nghiệp và xây dựng ngày càng chiếm tỷ
trọng lớn, tăng tương ứng từ 22,7% lên 41,5%. Ngành dịch vụ duy trì khá ổn định ở
mức khoảng 38%.
- Năng suất lao động ngày càng tăng. Những ngành có năng suất lao động tăng
cao nhất phải kể đến là ngành khai thác (tăng 17%/năm), ngành điện, khí đốt, nước
(tăng 11,1%). Hệ số vốn đầu tư phát triển so với tốc độ tăng GDP đã giảm, chứng tỏ
hiệu quả đầu tư đã tăng lên. Tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam thời kỳ 2001
- 2005 đạt bình quân 4,81%/năm
- Thể chế kinh tế thị trường bước đầu được hình thành. Việt Nam đã có Luật
Đầu tư nước ngoài từ năm 1987, Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty (năm
1991). Hiến pháp sửa đổi năm 1992 đã bảo đảm sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường và khu vực đầu tư nước
ngoài. Tiếp theo đó là hàng loạt đạo luật quan trọng để vận hành nền kinh tế thị trường
đã ra đời như Luật Đất đai, Luật Thuế, Luật Phá sản, Luật Môi trường
2.5.6. Những hạn chế về chất lượng TTKT
- Hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào cho TTKT còn thấp. TTKT của Việt
Nam hiện nay vẫn chủ yếu nghiêng về chiều rộng hơn là chiều sâu, nghĩa là tỷ trọng tác
động của 2 nhân tố vốn và lao động gấp nhiều lần tác động của khoa học - công nghệ
tới tăng trưởng. Lao động là yếu tố dồi dào nhất của Việt Nam, hiện lại đang có xu
hướng dư thừa bởi số người đến độ tuổi bổ sung vào đội quân lao động hằng năm vẫn
khá lớn (hơn 1 triệu người). Nguồn nhân lực của nước ta đã không được sử dụng hết,
thậm chí lãng phí. Cụ thể là: Tỷ lệ thất nghiệp tuy có giảm nhưng vẫn ở mức cao và tỷ
lệ lao động được đào tạo (tốt nghiệp đại học, cao đẳng và dạy nghề) không có việc làm
hoặc việc làm không đúng chuyên môn còn rất lớn.
- Chất lượng TTKT còn thấp thể hiện cả ở yếu tố đầu ra. Xuất khẩu của Việt
Nam có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, chiếm tới 50% GDP của cả nước nhưng cơ
cấu xuất khẩu đang đối mặt với nhiều vấn đề. Hàng nguyên liệu, hàng thô, hàng sơ chế,
hàng gia công hiện chiếm tỷ trọng khá cao, do đó khả năng thu ngoại tệ chưa khai thác
hết. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu, kim ngạch của các mặt hàng này chiếm tới 3/4,
chủ yếu là do sự tăng nhanh về lượng của các mặt hàng than đá, dầu thô, cà phê, hạt
tiêu, điều, chè và sự tăng nhanh về giá của các mặt hàng dầu thô, than đá, gạo, cao su,
hạt điều, lạc,...
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm và lạc hậu. TTKT của Việt Nam vẫn chủ yếu
tập trung ở một số ngành và sản phẩm truyền thống, có công nghệ không cao như dệt
may, thủy sản, nông sản chưa qua chế biến,...
- Chênh lệch giàu nghèo có xu hướng gia tăng. Mặc dù Việt Nam đạt nhiều
thành công trong công tác chống đói nghèo, nhưng tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam ở các
vùng Tây Nguyên, vùng núi phía Bắc và vùng duyên hải Bắc Trung Bộ vẫn còn cao.
Ngoài ra, khoảng cách giàu nghèo ngày càng doãng rộng đồng thời với quá trình giảm
nghèo.
- Tài nguyên môi trường chưa được khai thác hiệu quả, ô nhiễm môi trường gia
tăng. trong thời kỳ 10 năm (1990 - 2000), diện tích rừng trồng mới tăng trung bình
0,5%/năm, nhưng tỷ lệ diện tích rừng bị cháy và phá rừng cũng rất cao, tập trung ở một
số tỉnh nghèo, sản xuất nông nghiệp dựa chủ yếu vào tài nguyên rừng như Lai Châu,
Quảng Trị,... Lượng CO2 thải ra tính trên đầu người tăng gấp đôi trong thời kỳ đổi mới.
Tại một số thành phố và trung tâm công nghiệp, ô nhiễm môi trường nước, không khí
và chất thải công nghiệp đã vượt quá mức cho phép.
- Năng lực cạnh tranh quốc gia thấp và khoảng cách tụt hậu so với các nước
trong khu vực có xu hướng tăng. Việt Nam hiện đang ở trong tình trạng năng lực cạnh
tranh thấp và có xu hướng tụt hạng so với thời kỳ trước năm 1996. Vào năm 2003, Việt
Nam đứng thứ 60 trên thế giới về năng lực cạnh tranh, tăng 5 bậc so với năm 2002,
nhưng giảm 7 bậc so với thứ hạng 53 của năm 2000 và giảm 21 bậc so với thứ hạng
năm 1998. Năm 2006, Việt Nam xếp thứ 77/125 quốc gia, tụt 3 hạng so với năm 2005.
Phần III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO SỐ VÀ CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
Để có thể nâng cao số và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới thì
việc quan trọng nhất là thay đổi tư duy về mô hình tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng
kinh tế cần dựa trên nền tảng coi trọng chất lượng. Theo đó, trong dài hạn cần từ bỏ
quan điểm phải đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh theo chiều rộng, tăng trưởng nhờ
tăng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên thiên nhiên và sức lao động, mà chuyển dần sang
mô hình tăng trưởng dựa vào tri thức và công nghệ ngoài ra cần phải thực hiện đồng bộ
với một số giải pháp sau:
1. Thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
Trước hết, tăng cường đầu tư cho khoa học công nghệ nhằm nâng cao trình độ
khoa học công nghệ, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sử dụng vốn. Cần đầu tư
có trọng tâm để tạo sự bứt phá của một số công nghệ cao có tác động tích cực đến sức
cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế. Khuyến khích các tổ chức nghiên cứu khoa học
tham gia trao đổi sản phẩm công nghệ trên thị trường. Nên sử dụng FDI như là xung lực
để tạo hiệu ứng lan toả thúc đẩy công nghệ phát triển.
Tiếp theo, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ NSNN. Đổi mới công tác
quản lý nhà nước về đầu tư theo hướng loại bỏ tình trạng khép kín trong quản lý đầu tư
xây dựng cơ bản, tách chức năng quản lý nhà nước với quản lý kinh doanh. Từ đó, tăng
cường tính công khai, minh bạch và thực hiện đầu tư có hiệu quả, tránh dàn trải. Nâng
cao chất lượng công tác quy hoạch và thực hiện quản lý đầu tư theo quy hoạch. Khắc
phục tình trạng tiêu cực, lãng phí, thất thoát trong đầu tư, tăng cường công tác giám sát
đầu tư, kiểm tra, kiểm soát, phát hiện và xử lý nghiêm những hành vi vi phạm quy định
về quản lý đầu tư.
Bên cạnh đó, cần tiếp tục tăng cường và nâng cao hiệu quả các chính sách
khuyến khích đầu tư trong nước nhằm thu hút vốn đầu tư của khu vực tư nhân.
Chính sách khuyến khích đầu tư hiện nay cần được hiểu và vận dụng với nội
hàm rộng hơn. Nếu như trước kia, khuyến khích đầu tư đồng nghĩa với việc Chính phủ
ban hành các chính sách ưu đãi (miễn, giảm) đối với các yếu tố đầu vào của doanh
nghiệp thông qua các công cụ như thuế, tín dụng, đất đai, thì trong bối cảnh hội nhập,
các chính sách ưu đãi trên khó được áp dụng một cách riêng lẻ do sự ràng buộc của các
nguyên tắc đối xử mà VN đã ký kết với cộng đồng quốc tế. Chính sách khuyến khích
đầu tư cần được xây dựng nghiêng nhiều hơn về khía cạnh cơ chế đối xử bình đẳng trên
tất cả các lĩnh vực giữa các thành phần kinh tế (Nhà nước, ngoài Nhà nước và có vốn
đầu tư nước ngoài).
Đồng thời, tăng cường thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ngoài nước, cụ
thể là FDI và ODA.
Đối với vốn FDI, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho
các nhà đầu tư quốc tế nhằm thu hút vốn, công nghệ và tạo ra nhiều việc làm mới cho
lao động VN. Trong thời gian trước mắt, nên tập trung giải quyết dứt điểm những tồn
tại mà các nhà đầu tư nước ngoài còn vướng mắc để đưa các dự án đã được cấp giấy
phép đi vào hoạt động. Chính sách đầu tư nước ngoài cần đặt mục tiêu thu hút các công
ty có tiềm năng lớn về vốn và khả năng cao trong việc nghiên cứu, chuyển giao công
nghệ, các công ty hàng đầu trên thế giới đầu tư vào VN.
Đối với vốn ODA, để nâng cao hiệu quả cần phát huy vai trò làm chủ quốc gia
từ khâu vận động đến khâu sử dụng và khai thác dự án, lựa chọn những lĩnh vực phù
hợp để vận động ODA, từ đó tối đa hoá hiệu quả và tác động lan toả của các chương
trình, dự án ODA. Về công tác quản lý, nên tăng cường sự tham gia của các đối tượng
thụ hưởng ở các cấp vào quá trình chuẩn bị, tổ chức thực hiện và theo dõi giám sát các
chương trình, dự án để góp phần làm cho nguồn vốn này được quản lý và sử dụng một
cách công khai, minh bạch, chống được thất thoát, lãng phí và tham nhũng.
2. Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, coi đây là nhân tố chính quyết định
tốc độ và chất lượng của Tăng trưởng kinh tế
Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực chất chính là tăng cường đầu tư
cho giáo dục - đào tạo. Giải pháp trước mắt đó là nâng cao trình độ văn hoá và trình độ
nhận thức cho người lao động. Phấn đấu hoàn thành chiến lược phổ cập trung học cơ sở
vào năm 2010, tiếp tục nâng cao chất lượng phổ cập tiểu học, tiến tới thực thi chiến
lược phổ cập trung học phổ thông. Từng bước xây dựng và hoàn thiện các cơ sở dạy
nghề hiện có theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá. Cùng với đó, cần tiếp tục đổi mới và
chuẩn hoá nội dung, chương trình đào tạo, giáo trình của các cơ sở đào tạo để tăng tính
thực tiễn, sát với thực tế VN, theo kịp tiến bộ khoa học kỹ thuật trên thế giới, đáp ứng
nhu cầu của thị trường lao động trong nước và thế giới. Chất lượng đội ngũ giáo viên và
cán bộ quản lý trong các cơ sở đào tạo cũng cần được nâng cao trên tất cả các mặt như
phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học.
Nhà nước có chính sách thiết thực khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài có
kinh nghiệm, có trình độ quản lý thành lập cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài để
đào tạo người lao động. Trong đó chú trọng hướng các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện
các dự án thuộc các lĩnh vực: đào tạo nghề, phát triển khoa học công nghệ, giáo dục đại
học và sau đại học, Các lĩnh vực này có khả năng tạo lợi nhuận cao cho các nhà đầu
tư, đồng thời cần phát triển nhanh để đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
đáp ứng nhu cầu CNH – HĐH đất nước. Bên cạnh đó, tăng cường vận động ODA cho
giáo dục ở mọi cấp học, ưu tiên cho cấp phổ cập, dành một tỷ lệ thích đáng vốn ODA
(kể cả đi vay ưu đãi) đầu tư xây dựng đồng bộ hệ thống trường đại học, cao đẳng, dạy
nghề ở cả 3 miền Bắc, Trung và Nam.
3. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Cần có chính sách hình thành và thúc đẩy sự phát triển đồng bộ của 5 loại thị
trường cơ bản: thị trường hàng hoá - dịch vụ, thị trường lao động, thị trường vốn, thị
trường khoa học - công nghệ và thị trường bất động sản. Trong bối cảnh VN là thành
viên chính thức của WTO, hệ thống văn bản pháp luật cần nhanh chóng sửa đổi, bổ
sung và ban hành mới nhằm thực hiện đầy đủ các cam kết của VN với quốc tế. Nghiên
cứu thực hiện trước thời hạn một số cam kết nếu thấy có cơ hội thuận lợi và việc thực
hiện đem lại lợi ích cho quốc gia. Đây chính là kinh nghiệm thành công của Trung
Quốc khi là thành viên của WTO. Bên cạnh đó, thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình cải cách
hành chính để Chính phủ thực sự trở thành Chính phủ vì nhân dân, vì doanh nghiệp.
KẾT LUẬN
Hướng tới tăng trưởng và phát triển bền vững là mục tiêu lâu dài và nhiều khó
khăn của Đảng và Nhà nước ta. Trong những năm qua (2001-2006), nước ta đã hết sức
nỗ lực, tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn đạt mức cao; đồng thời chất lượng tăng trưởng
cũng được cải thiện. Thu nhập theo đầu người ngày càng tăng, tỷ lệ nghèo đói có xu
hướng giảm mạnh, chỉ số phát triển con người (HDI) tăng lên đáng kể, đời sống sinh
hoạt của người dân được cải thiện; có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện
đại hoá, năng suất lao động tăng; thể chế kinh tế thị trường bước đầu được hình thành.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, tăng trưởng kinh tế Việt Nam còn bộc lộ một số điểm hạn chế
như hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào cho tăng trưởng còn thấp, hiệu quả hoạt động
xuất nhập khẩu hàng hoá còn thấp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm và lạc hậu,
chênh lệch giàu nghèo có xu hướng gia tăng, tài nguyên môi trường chưa được khai
thác hiệu quả, năng lực cạnh tranh quốc gia thấp.... Điều này ảnh hưởng rất lớn đến
mục tiêu tăng trưởng bền vững của nước ta. Do đó, trong thời gian tới cần triển khai
đồng bộ các giải pháp, khắc phục những hạn chế, đưa kinh tế Việt Nam tăng trưởng và
phát triển đảm bảo tốt cả về số lượng và chất lượng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế phát triển, ĐHKTQD, NXB Lao động – xã hội, 2005
2. Sách chuyên khảo dành cho chương trình cao học, NXB Lao động – xã hội,
2008
3. Báo cáo phát triển Việt Nam 2006 –kienthuckinhte.com
4. Tổng cục Thống kê Việt Nam
5. Tạp chí Cộng sản
6. Các website: www.vietbao.vn; www.economy.vn; www.daidoanket.net;
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tonghopbaivietnhom6_2661.pdf