Khóa luận Khảo sát thành phần hóa học cao Methanol trong lá cây chùm ngây Moringa oleifera L. họ Moringaceae

Trong khóa luận này, chúng tôi đã khảo sát thành phần hóa học cao MeOH ly trích từ lá cây Chùm ngây. Sau một thời gian tìm hiểu và tiến hành thực hiện đề tài, bằng cách sử dụng phương pháp SKC trên silicagel pha thường kết hợp với SKLM, chúng tôi đã cô lập được các hợp chất trên. Dựa vào kết quả các phổ 1H – NMR, 13C – NMR, HMBC, HSQC, HR-ESI-MS, ESI-MS cấu trúc hóa học các hợp chất được xác định là: MO17 (hỗn hợp của 2 hợp chất là 4-(α-L-Rhamnopyranosyloxy)-benzaldehyde và Niazirin), MO18 (4-(α- rhamnosyloxy)benzylamine).

pdf65 trang | Chia sẻ: toanphat99 | Lượt xem: 2994 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Khảo sát thành phần hóa học cao Methanol trong lá cây chùm ngây Moringa oleifera L. họ Moringaceae, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Vị trí cây Chùm ngây trong bảng hệ thống phân loại thực vật. Sơ đồ 2. Sơ đồ tổng quan phân lập MO17, MO18 từ bột lá cây Chùm ngây. Sơ đồ 3. Qui trình điều chế các phân đoạn từ cao MeOH. Sơ đồ 4. Sơ đồ phân lập hợp chất MO17 từ phân đoạn M4. Sơ đồ 5. Sơ đồ phân lập hợp chất MO18 từ phân đoạn M4. DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 1. Cây Chùm ngây Hình 2. Quả Chùm ngây Hình 3. Lá Chùm ngây tươi Hình 4. Hoa Chùm ngây Hình 5. Cấu trúc hóa học của hợp chất MO17 Hình 6. Cấu trúc hóa học hợp chất MO18 và tương quan HMBC trên MO18. DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1 CÁC PHỔ CỦA MO17 Phụ lục 1.1. Phổ 1H – NMR Phụ lục 1.2. Phổ 13C – NMR Phụ lục 1.3. Phổ DEPT 90 và 135 Phụ lục 1.4. Phổ HMBC Phụ lục 1.5. Phổ HSQC Phụ lục 1.6. Phổ ESI-MS Phụ lục 1.7. Phổ HR-ESI-MS. PHỤ LỤC 2 CÁC PHỔ CỦA MO18 Phụ lục 2.1. Phổ 1H – NMR Phụ lục 2.2. Phổ 13C – NMR Phụ lục 2.3. Phổ DEPT 90 và 135 Phụ lục 2.4. Phổ HMBC Phụ lục 2.5. Phổ HSQC MỞ ĐẦU Cho đến nay, y học cổ truyền và y học hiện đại đã có sự kết hợp rất tốt trong điều trị một số loại bệnh. Trong thế giới tự nhiên tiềm ẩn rất nhiều loại thảo dược tưởng như vô năng nhưng lại có công dụng chữa bệnh rất hữu hiệu. Hơn nữa điều trị bằng thảo dược chứa các hoạt chất tự nhiên hiện nay đang là một hướng đi tích cực được khuyến khích trong y học Việt Nam cũng như trên thế giới vì khả năng chữa khỏi bệnh mà lại ít độc hại và chi phí không quá lớn. Mặt khác, theo các tài liệu công bố hiện nay khoảng từ 70%-80% các loại thuốc chữa bệnh đang được lưu hành hoặc đang trong giai đoạn thử nghiệm lâm sàng có nguồn gốc từ các hợp chất thiên nhiên. Tuy nhiên, phần lớn các dược phẩm hiện đang được lưu hành trong nước ta đều phải nhập khẩu do khả năng nghiên cứu và cung cấp dược liệu cho ngành công nghiệp hoá dược nước ta còn rất hạn chế trong khi tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên của nước ta được đánh giá là phong phú vào loại bậc nhất thế giới. Mặc dù chúng ta đã có những thành công nhất định trong việc nghiên cứu tạo ra các sản phẩm thuốc chữa bệnh, nhưng mới chỉ đáp ứng được chừng vài phần trăm nhu cầu. Rõ ràng những kết quả đó chưa tương xứng với tiềm năng to lớn về tài nguyên thiên nhiên của nước ta. Điển hình trong số những loài thảo dược quý đó là cây Chùm ngây. Chùm ngây được xem là một cây đa dụng, rất hữu ích tại những quốc gia nghèo nên đã được nghiên cứu khá nhiều về các hoạt tính dược dụng, giá trị dinh dưỡng và công nghiệp Cây rất dễ trồng vì có thể mọc từ hột và bằng cách cắm cành xuống đất. Vì có chứa các chất dinh dưỡng hàm lượng cao nên hiện nay các cơ quan quốc tế như Tổ chức Y tế thế giới và nhiều cơ quan khác đang khuyến khích và hỗ trợ việc trồng cây Chùm ngây. Dù đã được biết đến từ thời xa xưa nhưng đến nay, Chùm ngây chỉ được sử dụng trong dân gian chứ chưa có công trình nghiên cứu cụ thể. Do đó, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Khảo sát thành phần hóa học cao Methanol trong lá cây Chùm ngây” với mong muốn góp một phần hiểu biết về thành phần hóa học của cây Chùm ngây. Chương 1 TỔNG QUAN TỔNG QUAN 1.1. ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT CÂY CHÙM NGÂY [8] Chi Chùm ngây là chi duy nhất trong họ Chùm ngây (Moringaceae) bao gồm 13 loài và loài phổ biến nhất là Chùm ngây. Tên thông dụng: Chùm ngây (Việt Nam), Drumstick tree (Mỹ), Horseradish tree, Behen, Drumstick Tree, Indian Horseradish, Noix de Bahen. Tên Khoa học: Moringa oleifera Lam, Moringa pterygosperma Gaertn thuộc họ Moringaceae. 1.1.1 Thực vật học [2]: Vị trí trong hệ thống phân loại thực vật Sơ đồ 1. Vị trí cây Chùm ngây trong bảng hệ thống phân loại thực vật Giới thực vật bậc cao Ngành Ngọc lan Lớp Ngọc lan Bộ cải Họ Chùm ngây (Moringaceae) Chi (Moringa) Loài (Moringa oleifera L.) 1.1.2. Mô tả chung[7]: Cây gỗ nhỏ, cao 8 – 10 m, phân nhánh nhiều, thân có tiết diện tròn, thân non màu xanh có lông, thân già màu xám nốt sần, trồng lâu năm có thể cao đến 12m, đường kính thân cây 20 – 40cm. Lá kép lông chim 3 lần lẻ, mọc cách. Gân lá hình lông chim, nổi rõ mặt dưới. Cuống lá dài 18 – 25cm. Hoa không đều lưỡng tính, màu trắng hơi vàng, mùi thơm, cuống hoa dài 1-2 cm. Quả mọc treo, có 3 cạnh, dài 25 – 30cm, hơi gồ lên ở chỗ có hạt, khía rãnh dọc. Hạt màu đen, to bằng đậu Hà Lan, tròn có cạnh và 3 cánh màu trắng dạng màng. Cây ra hoa vào tháng 1 – 2. Hình 1. Cây Chùm ngây Hình 2. Quả Chùm ngây Hình 3. Lá Chùm ngây tươi Hình 4. Hoa Chùm ngây 1.1.3. Vùng phân bố và thu hái[3] Cây Chùm ngây vốn được coi có vùng bản địa là vùng tây bắc Ấn Độ và Pakistan, sau đó được trồng rộng rãi ở Ấn Độ và các nước Đông Nam Á khác. Hiện nay vẫn còn tồn tại quần thể Chùm ngây mọc hoang dại ở cận Hymalaya, từ vùng Chenab phía đông của Sarda (Ấn Độ). Ở Việt Nam, cây Chùm ngây được trồng rải rác ở các tỉnh phía Nam, từ Quảng Nam trở vào, đặc biệt là các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Phú Quốc. Cây ưa sáng và khí hậu nhiệt đới nóng ẩm; có thể sống và phát triển tốt trên nhiều loại đất, từ đất đỏ bazan ở Tây Nguyên đến đất sét pha cát hoặc trên đất cát vùng ven biển. Cây trồng bằng hạt hay bằng cành, sau 2 năm bắt đầu có hoa. Cây trồng ở miền Nam thường ra hoa quả một vụ trong năm. Ở vùng nam Ấn Độ, hằng năm có 2 vụ hoa quả thậm chí có hoa quả rải rác quanh năm. Người ta thu hái quả non sau 55 – 77 ngày kể từ ngày hoa nở và quả chín sau 100 – 115 ngày. 1.2. CÔNG DỤNG CỦA CÂY CHÙM NGÂY Theo lương y Nguyễn Công Đức – giảng viên khoa y học cổ truyền (Đại học Y dược Tp.HCM), Chùm ngây đã được biết đến và dùng hơn nghìn năm nay ở các nước có nền văn minh cổ như Hy Lạp, Ấn Độ. Đây là loài cây đa tác dụng, vì vậy ở nhiều nơi trên thế giới nó được xem là nguồn tài nguyên vô giá; giúp chống nạn thiếu dinh dưỡng, bảo vệ sức khỏe cộng đồng và phòng hộ giảm nhẹ thiên tai. Ngoài ra, các bộ phận của cây còn có dược tính phổ rộng, được dùng để điều trị rất nhiều loại bệnh khác nhau. 1.2.1. Về giá trị dinh dưỡng[25] Lá cây được dùng làm rau ăn (lá, chồi, cành non và cả cây con được dùng trộn dầu dấm ăn thay rau diếp), làm bột cà ri, ủ chua làm gia vị, làm trà giải khát... Ở châu Phi, nó được dùng để chống suy dinh dưỡng cho trẻ em. Lá Chùm ngây chứa rất nhiều vitamin và muối khoáng với hàm lượng cao: vitamin C cao gấp 7 lần trong cam, provitamin A cao gấp 4 lần trong cà rốt, calcium cao gấp 4 lần trong sữa, potassium cao gấp 3 lần trong chuối, sắt cao gấp 3 lần trong rau diếp và ngay cả protein cũng cao gấp 2 lần trong sữa. Ngoài ra, lá còn chứa nhiều vitamin B và E , khoáng chất và các axit amin như methionine, cystein, leucine, isoleucine, valine, phenylalanine,... Bảng 1. Thành phần các amino axit (g/100g protein) có trong cây Chùm ngây[12] Amino acids Moringa oleifera Lysine 3.21 Phenylalanine 4.24 Lysine 5.74 Isoleucine 4.01 Methionine 1.00 Valine 3.05 Cystine 2.09 Threonine 3.03 Glutamic Acid 14.43 Arginine 8.00 Aspartic Acid 6.88 Serine 4.22 Glycine 4.96 Alanine 3.22 Histidine 2.20 Proline 2.09 Tyrosine 2.37 Hoa Chùm ngây có thể dùng làm rau ăn hoặc làm trà (nhiều nước phương Tây sản xuất trà hoa chùm ngây bán ngoài thị trường). Nó cũng là nguồn cung cấp nguyên liệu rất tốt cho người nuôi ong. Quả non của nó có thể chiên xào để ăn với hương vị như măng tây. Hạt Chùm ngây chứa nhiều dầu, lượng dầu chiếm đến 30 – 40% trọng lượng hạt, trong đó chứa 65,7% acid oleic, 9,3% acid palmitic, 7,4% acid stearic và 8,6% acid behenic. Ở Malaysia, hạt được dùng để ăn như đậu phụng. Dầu Chùm ngây ăn được và còn được dùng để bôi trơn máy móc, dùng cho công nghệ mỹ phẩm, xà phòng. 1.2.2. Về y học: 1.2.2.1. Theo y học cổ truyền [8] Chùm ngây là một trong những cây thuốc rất thông dụng tại Ấn Độ. Nhiều bộ phận trên cây được dùng làm thuốc chữa nhiều bệnh khác nhau. Trong hoa và rễ cây có pterygospermin (60) - chất này được nhóm các nhà nghiên cứu đại học Bombay, đại học Travancore và khoa hóa sinh Viện khoa học Ấn Độ phát hiện cuối thập niên 1940, đầu những năm 1950 và chứng minh là một trụ sinh (antibiotic) rất mạnh, ăn thường xuyên sẽ giảm được nhiễm trùng do tạp khuẩn của môi trường [25]. Ngoài ra, cây Chùm ngây còn cung cấp những hợp chất quý hiếm như Zeatin, Quercetin, α – sitosterol, Caffeoylquinic acid và Kaempferol. Lá dùng để chữa trị chứng hạ huyết áp và vò xát vào vùng thái dương để trị chứng nhức đầu. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy rằng lá Chùm ngây có tính chất như một kháng sinh chống các viêm nhiễm nhỏ. Lá còn được dùng để điều trị các vết cắt ở da, vết trầy sướt, sưng tấy, nổi mẩn ngứa hay các dấu hiệu lão hóa ở da. Dịch chiết từ lá có tác dụng duy trì ổn định huyết áp, trị chứng bần thần, chống nhiễm trùng da, điều khiển lượng đường máu trong trường hợp bị bệnh tiểu đường. Dịch chiết từ lá có thêm nước cà rốt là một thức uống lợi tiểu. Lá cũng được dùng chữa sốt, viêm phế quản, viêm nhiễm mắt và tai, viêm màng cơ, diệt giun sán và làm thuốc tẩy xổ. Ở Philippines, lá được chỉ định dùng chống thiếu máu, do chứa sắt cao. Còn tại Pakistan, lá giã nát đắp lên vết thương, trị sưng và nhọt, đắp và bọng dịch hoàn để trị sưng và sa; trộn với mật ong đắp lên mắt để trị mắt sưng đỏ. Hoa Chùm ngây như một chất kích thích, kích dục, tác nhân gây sẩy thai; dùng để chữa viêm, trị những bệnh về cơ, hội chứng rối loạn phân ly, khối u, sự phình to của lách, làm giảm cholesterol huyết thanh, phospholipid, tricgliceride trong máu, tỉ lệ VLDL, LDL cholesterol thành phospholipid và làm giảm chỉ số xơ vữa động mạch, giảm thành phẩn lipid trong gan, tim và động mạch chủ và giảm sự thải ra các cặn cholesterol. Vỏ thân được dùng trị nóng sốt, đau dạ dày, đau bụng khi có kinh, sâu răng, làm thuốc thoa trị hói tóc; trị đau trong cổ họng (dùng chung với hoa của cây nghệ, hạt tiêu đen, rễ củ); trị kinh phong; trị đau quanh cổ; trị tiểu ra máu; trị bệnh tả hoa, dùng làm thuốc bổ, lợi tiểu. Hạt dùng trị bệnh viêm dạ dày, trị trướng bụng. Hạt Chùm ngây có hoạt tính kháng sinh, có khả năng ức chế sự phát triển của nhiều loài vi khuẩn và nấm. Có thể dùng hạt Chùm ngây để lọc nước. Dùng hạt Chùm ngây làm chất tạo trầm lắng và kết tụ, đưa đến kết quả rất tốt. Phương pháp lọc này rất có ích tại các vùng nông thôn của các nước nghèo. Dầu hạt được dùng ngoài để trị nấm da. Trường Đại học San Carlos ở Guatemala đã tìm ra một loại kháng sinh có tác dụng như neomycin có khả năng bảo vệ da khỏi sự viêm nhiễm do Staphylococcus aureus. Tại Trung Mỹ hạt Chùm ngây được dùng trị táo bón, mụn cóc và giun sán. Dầu từ hạt để trị phong thấp. Hạt có tác dụng làm giảm đau. Nhựa từ thân cũng có tác dụng làm dịu đau. Tuy nhiên dùng liều quá cao có thể gây ra buồn nôn, chóng mặt và ói mửa. Liều cho uống: 5gram/kg trọng lượng cơ thể. Hoạt tính của rễ Chùm ngây trên sỏi thận loại oxalate đã được chứng minh tại Ấn Độ. Chùm ngây làm giảm rõ rệt nồng độ oxalate trong nước tiểu bằng cách can thiệp vào sự tổng hợp oxalate trong cơ thể. Sự kết đọng tạo sạn trong thận cũng giảm rất rõ. Rễ có vị đắng, được xem là vị thuốc bổ cho cơ thể và phổi, điều kinh, long đàm, lợi tiểu nhẹ, gây trung tiện, ức chế sự sinh sản, kháng viêm, chất kích thích trong các trường hợp liệt, thuốc kích thích tim và tuần hoàn. Ở Nicaragua, nước sắc rễ được dùng chữa bệnh phù thủng. Dịch rễ được dùng ngoài để trị chứng mẩn ngứa do dị ứng. Trong rễ và hạt cũng có chất kháng sinh pterygospermin. Nghiên cứu tại Ấn Độ cho thấy rễ Chùm ngây có tác dụng ngừa thai. Tại Việt Nam, rễ Chùm ngây được dùng để giúp lưu thông máu huyết, giúp dễ tiêu hóa, có tác dụng trên hệ thần kinh, làm dịu đau. Vỏ rễ dùng sắc lấy nước trị đau răng, đau tai... Rễ tươi của cây non dùng trị nóng sốt, phong thấp, thống phong (gout), sưng gan và lá lách. Không nên dùng rễ Chùm ngây cho phụ nữ có thai, vì có khả năng gây trụy thai. 1.2.2.2. Theo y học hiện đại: Ngoài nước: Tác dụng của quả Chùm Ngây trên cholesterol và lipid trong máu[11]: Nghiên cứu tại ĐH Baroda, Kalabhavan, Gujarat (Ấn Độ) về hoạt tính trên các thông số lipid của quả Chùm Ngây, thử trên thỏ, ghi nhận: Thỏ cho ăn Chùm Ngây (200mg/kg mỗi ngày) hay uống lovastatin (6mg/kg/ ngày) trộn trong một hỗn hợp thực phẩm có tính cách tạo cholesterol cao, thử nghiệm kéo dài 120 ngày. Kết quả cho thấy Chùm Ngây và Lovastatin có tác dụng gây hạ cholesterol, phospholipid, triglyceride, VLDL, LDL hạ tỷ số cholesterol/ phospholipid trong máu so với thỏ trong nhóm đối chứng. Khi cho thỏ bình thường dùng Chùm Ngây hay Lovastatin: mức HDL lại giảm hạ nhưng nếu thỏ bị cao cholesterol thì mức HDL lại gia tăng. Riêng Chùm Ngây còn có thêm tác dụng làm tăng sự thải loại cholesterol qua phân (Journal of Ethnopharmacology Số 86-2003). Dịch chiết từ lá Chùm ngây có tác dụng ổn định áp suất trong máu. Các hợp chất nitrile, glycoside thiocarbamate được phân lập từ lá Chùm ngây có tác dụng hạ huyết áp (Faizi và cộng sự, 1995) và hầu hết các hợp chất này rất hiếm trong tự nhiên. Năm 1994, Gilani và cộng sự đã tiến hành thử nghiệm sinh học trên chuột 4 hợp chất ly trích từ lá Chùm ngây là Niazinin A (37), Niazinin B (37), Niazimicin (48), và Niazinin A + B (37) cho thấy chúng có tác dụng hạ huyết áp. Hoạt tính kháng nấm gây bệnh[11, 31]: Nghiên cứu tại Institute of Bioagricultural Sciences, Academia Sinica, Đài Bắc (Taiwan) ghi nhận dịch chiết từ lá và hạt Chùm Ngây bằng ethanol có các hoạt tính diệt được nấm gây bệnh loại Trichophyton rubrum, Trichophyton mentagrophytes, Epidermophyton floccosum và Microsporum canis. Các phân tích hóa học đã tìm được trong dầu trích từ lá Chùm Ngây đến 44 hóa chất, hàm lượng tinh dầu thu được khoảng 0,24%. (Bioresource Technology Số 98-2007). Ruckmani và cộng sự (1998) cho biết trong rễ Chùm ngây có chất kháng sinh Pterygospermin (60), nếu ở nồng độ 0,5 – 3kg/cc sẽ kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn gram âm và gram dương còn nồng độ cao hơn (7 – 10kg/cc) có hoạt tính kháng nấm mạnh[17] Ping – Hsien Chuang đã thử nghiệm hoạt tính kháng nấm trên dịch chiết EtOH và tinh dầu của lá và hạt Chùm ngây. Kết quả cho thấy chúng có hoạt tính trên các chủng Trichophyton rubrum, Trichophyton mentagophytes, Epidermophyton floccosum và Microsporum canis. Bảng 2. Hoạt tính kháng khuẩn của lá cây Chùm ngây tươi và cao của nó đối với vi khuẩn gây bệnh ở người.[29] Vi khuẩn Lá tươi Cao Ethanol2 Dạng lỏng1 Bột tan trong DMSO2 Lá tươi Lá khô G ra m (- ) Shigella shinga 20.2±0.04 36.2±0.08 17.5±0.34 + Pseudomonas aeruginosa 17.00±0.66 39.6±0.49 21.21±0.05 + Shigella sonnei 25.1±0.12 33.5±0.12 21.50±0.08 + Pseudomonas spp. 25.2±0.04 42.3±0.16 21.25±0.13 + G ra m (+ ) Staphyloccocus aureus 15.23±0.05 36.4±0.08 + + Bacillus cereus 22.4±0.28 29.25±0.2 16.25±0.04 + Streptococcus-B-haemolytica 18.0±0.04 35.15±0.12 + + Bacillus subtilis 21.6±0.04 35.75±0.2 20.23±0.56 + Sarcina lutea 18.1±0.04 34.4±0.44 19.50±0.21 + Bacillus megaterium (Entero) 19.0±0.04 39.25±0.2 20.50±0.04 + Các hoạt tính chống co giật, chống sưng và gây lợi tiểu[11] : Dịch trích bằng nước nóng của hoa, lá, rễ, hạt..vỏ thân Chùm Ngây đã được nghiên cứu tại Trung Tâm Nghiên cứu Kỹ Thuật (CEMAT) năm 1992 tại Guatamala City về các hoạt tính dược học, thử nơi chuột. Hoạt tính chống co giật được chứng minh bằng thử nghiệm trên chuột đã cô lập, hoạt tính chống sưng thử trên chân chuột bị gây phù bằng carrageenan và tác dụng lợi tiểu bằng lượng nước tiểu thu được khi chuột được nuôi nhốt trong lồng. Nước trích từ hạt cho thấy tác động ức chế khá rõ sự (1) Được thử nghiệm tại thể tích 10μl/đĩa thạch đường kính 6mm ở nồng độ 1175μg/đĩa. (2) Được thử nghiệm tại thể tích 10μl/đĩa đường kính 6mm. co giật gây ra bởi acetylcholine ở liều ED50= 65.6 mg/ml môi trường ; tác động ức chế phụ gây ra do carrageenan được định ở 1000mg/kg và hoạt tính lợi tiểu cũng ở 1000 mg/kg. Morton (1991) và Caceres cùng cộng sự (1992) nghiên cứ dịch chiết từ các bộ phận rễ, lá, hoa, nhựa và hạt của cây Chùm ngây cũng chứng minh tác dụng gây lợi tiểu. Khả năng ngừa thai của Rễ Chùm Ngây[11] : Nghiên cứu tại ĐH Jiwaji, Gwalior (Ấn độ) về các hoạt tính estrogenic, kháng estrogenic, ngừa thai của nước chiết từ Rễ Chùm Ngây ghi nhận chuột đã bị cắt buồng trứng, cho uống nước chiết, có sự gia tăng trọng lượng của tử cung. Hoạt tính estrogenic được chứng minh bằng sự kích thích hoạt động mô tế bào tử cung. Khi cho chuột uống nước chiết này chung với estradiol dipropionate (EDP) thì có sự tiếp nối tụt giảm trọng lượng của tử cung so sánh với sự gia tăng trọng lượng khi chỉ cho chuột uống riêng EDP. Trong thử nghiệm deciduoma liều cao nhất 600mg/kg có tác động gây rối loạn sự tạo deciduoma nơi 50 % số chuột thử . Hoạt tính kháng sinh của Hạt Chùm Ngây[11] : 4 (α-L-rhamnosyloxy)benzyl isothiocyanate được xác định là có hoạt tính kháng sinh mạnh nhất trong các hoạt chất trích từ hạt Chùm Ngây ( trong hạt Chùm Ngây còn có benzyl isothiocyanate). Hợp chất trên ức chế sự tăng trưởng của nhiều vi khuẩn và nấm gây bệnh. Nồng độ tối thiểu để ức chế Bacillus subtilis là 56 micromol/l và để ức chế Mycobacterium phlei là 40 micromol/l. Hoạt tính của Rễ Chùm ngây trên Sạn thận loại Oxalate[11] : Thử nghiệm tại ĐH Dược K.L.E.S, Nehru Nagar, Karnakata (Ấn Độ) trên chuột bị gây sạn thận, oxalate bằng ethylen glycol ghi nhận dịch chiết bằng nước và alcohol rễ cùng lõi gỗ Chùm Ngây làm giảm rõ rệt nồng độ oxalate trong nước tiểu bằng cách can thiệp vào sự tổng hợp oxalate trong cơ thể. Sự kết đọng tạo sạn trong thận cũng giảm rất rõ khi cho chuột dùng dịch chiết này như một biện pháp phòng ngừa bệnh sạn thận. Nghiên cứu trị khối u và chống ung thư[11] Makonnen cùng cộng sự (1997) đã công bố lá Chùm ngây chứa nhiều thành phần có khả năng trị khối u. Đó là các hợp chất O-ethyl -4-(α-L-rhamnosyloxy)benzyl carbamate (35), 4-(α-L-rhamnosyloxy)benzylisothiocyanate (38), Niazimicin (48), 3- O-(6'-O-oleoyl-β-D-glucopyranosyl)-β-sitosterol (30) đã được thử nghiệm in vitro cho kết quả là chúng có khả năng ức chế đáng kể virus kháng nguyên sớm Epstein Barr. Song song đó Guevara cùng cộng sự (1999) đề xuất Niazimicin (48) là một chất có khả năng ngừa ung thư hiệu quả. Bharali cùng cộng sự (2003) đã nghiên cứu dịch chiết hạt Chùm ngây cho thấy khả năng chuyển hóa enzyme chống ung thư gan, chống oxy hóa và chống ung thư da ở chuột. Caceres và Lopez (1991) đã nghiên cứu trên cao chiết hạt Chùm ngây cho thấy chúng có khả năng kháng vi khuẩn Gram (+) ở chuột. Nghiên cứu về những công dụng trị bệnh khác[11, 24, 26] Pal và cộng sự (1995), Tahiliani và Kar (2000) đã công bố dịch nước lá Chùm ngây có tác dụng điều hòa hormone tuyến giáp, từ đó làm tăng khả năng hoạt động của tuyến giáp. Ngoài ra dịch nước lá Chùm ngây có tác dụng chống oxy hóa. Rao và cộng sự (2001) đã công bố cao EtOH của lá Chùm ngây có tác dụng bảo vệ các nhiễm sắc thể tủy sống ở chuột. Lipipun và cộng sự (2003) nghiên cứu cho thấy lá Chùm ngây có thể được sử dụng như một loại thuốc dự phòng đặc trị HSV (Herpes simplex virus type 1) hoặc làm thuốc chống lại biến thể virus do ngăn cản sự tổng hợp AND của chúng. Năm 1982, Bhattacharya và cộng sự đã đưa ra kết luận rằng lá và hoa Chùm ngây rất có hiệu quả trong điều trị giun sán. Hạt Chùm ngây có chứa protein chuyên dụng cho da và tóc. Dầu của hạt còn được ứng dụng trong công nghiệp mỹ phẩm. Hạt Chùm ngây chứa các peptide có khả năng của người và chống lại sự lão hóa. Dịch chiết từ hạt Chùm ngây còn có tác dụng tốt đối với tóc và được ứng dụng rộng rãi để sản xuất dầu gội đầu (Stussi và cộng sự, 2002). Trapti Rastogi, Vijay Bhutda đã thử nghiệm hoạt tính tẩy giun trên dịch chiết lá Chùm ngây ở nồng độ 25mg/ml thời gian 63 phút giun chết tương đương với chất đối chứng là Piperazine citrate. Trong nước Trung tâm Sâm và dược liệu Tp.HCM (2010) đã khảo sát được trong lá Chùm ngây có những hợp chất: tinh dầu, chất béo, carotenoid, triterpenoid, coumarin, flavonoid, tannin, acid hữu cơ. Công trình này đã định lượng được flavonoid toàn phần có trong lá cây Chùm ngây mọc tại Tp.HCM và Đồng Nai, giữa lá non và lá già. Từ đó rút ra được mối tương quan giữa hàm lượng flavonoid trong lá với nơi cây mọc, cụ thể hàm lượng flavonoid sẽ gia tăng khi cường độ chiếu sáng cây (cường độ tia UV) tăng và hàm lượng flavonoid trong cây non sẽ cao hơn trong cây già. 1.3. THÀNH PHẦN HÓA HỌC: Chùm ngây chứa rất nhiều đường đơn, rhamnose, hợp chất glycoside, flavonoid và nhóm các chất glucosinolate và isothiocyanate. Toàn cây có chất Pterygospermin có tính kháng các vi khuẩn Gram (-), Gram (+) và vi khuẩn ưa acid. 1.3.1. Các hợp chất Phenolic: COOH H3CO OH OCH3 COOH OH OH OH OH H3CO O O H3CO OH OH Syringic acid (1) Gallic acid (2) 4 - Hydroxymellin (3) OH N OH CHO O NH2 (4-hydroxyphenyl)acetonitrile (4) Vanilin (5) 1-phenylmethanamine (6) OH NH2 O N=C=S 2-(4-hydroxyphenyl)acetamide (7) (isothiocyanatomethyl)benzene (8) OH COOH OH O OH O (4-hydroxyphenyl)acetic acid (9) 7-(4-hydroxyphenoxy)heptanoic acid (10) OH O OH O OH O O (4-hydroxyphenoxy)acetic acid (11) Ethyl 4-(p-hydroxy)phenylbutanoate (12) OH O O O OOH OHH OH O O Propyl p-hydroxybenzoate (13) 4-Hydroxymellein (14) Methyl-p-hydroxybenzoate (15) 1.3.2. Các hợp chất Flavonoid đã được phân lập từ cây Chùm ngây: OOCH3 O OH OH O HAcO H H H H O OAc OH OH OH OH OH O O O OH OH OO CH3 OH OH O Kaempferide 3-O-(2'',3''-diacetylglucoside) (16) Kaempferide 3-O-(2''-O-galloylrhamnoside) (17) OCH3 OH OH OH OCH3 OH OH OH O OCH3 O O OH O O OH OH O O O OH OH OH Kaempferide 3-O-(2''-O-galloylrutinoside)-7-O-α-rhamnoside (18) OCH3 OH OH OH O OH O O OH O O H O OH O OH OOH OH OH OH OOH OH OH CH3 Kaempferol 3-O-[α-rhamnosyl-(1→2)]-[α-rahamnosyl-(1→4)]- β-glucoside-7-O-α- rhamnoside (19) O OH OH OH OH OCH3 OH OH OH O OH O O OH O O H O OH OH O OOH OH OH CH3 Kaempferol 3-O-[β-glucosyl-(1→2)]-[α-rahamnosyl-(1→6)]- β-glucoside-7-O- α-rhamnoside (20) OCH3 OH OH OH O OH O O OH O O CH3 OH OH OH O OH OH CH3 OH O OH O OH OH O O OH OH OH O OH Kaempferitrin (21) Kaempferol (22) O OH O OH OH O O OHOH OH CH3 O OH O OH OH O O OH OH OH OH OH Kaempferol 3-O-α-rhamnoside (23) Isoquercetin (24) ‘ O OH O OH OH O O OHOH OH CH3 O OH OH CH3 OH O OH O OH OH O O OH OH OH O OH Kaempferol 3-O-α-rhamnoside (25) Rutin (26) 1.3.3. Các hợp chất Terpenoid – Steroid được phân lập từ cây Chùm ngây: OH OH Vitamin A (27) Stigmasterol (28) RO Β – sitosterol (R=H) (29) 3-O-(6'-O-oleoyl-β-D-glucopyranosyl)- β- sitosterol (R=6'-O-oleoyl-β-D-glucopyranosyl) (30) β- sitosterol-3-O- β-D-glucopyranoside (R=3-O- β-D-glucopyranosyl) (31) β-Carotene (32) 1.3.4. Các hợp chất Glycoside được phân lập từ cây Chùm ngây: COOH O HOH HH H H OOH OH OH HOOC O H O H H H H O OH OH OH O OH HH H H OH OH OH Benzoic acid 4-O-β-glucoside (33) Benzoic acid 4-O-α-rhamnosyl-(1→2)-β-glucoside (34) NH COOC2H5O O OH OH OH CH3 CNO O OH OH OH CH3 OH O-ethyl-4-(α-L-rhamnosyloxy)benzylcarbamate (35) Niaziridin (36) O O OH OH OH CH3 NH OCH3 S O O OH OH OH CH3 N=C=S Niazinin (37) 4-(α-L-rhamnopyranosyloxy)benzylisothiocyanate (38) N OSO3 - S O CH2OH OH OH OH N OSO3 - S O CH2OH OH OH OH O O OH OH OH Benzylglucosinolate (39) 4-(α-L-rhamnopyranosyloxy)benzylglucosinolate (40) O H3CCOO H3CCOO OOCCH3 O CN O H3CCOO OH OH O N O C2H5 SH 4-(2',3',4'-tri-O-acetyl-α-L-rhamnosyloxy)benzylnitrile (41) Niaziminin A (42) O H3CCOO OH OH O N O C2H5 S H O H3CCOO OH OH O N O CH3 SH Niaziminin B (43) Niazicin A (44) O H3CCOO OH OH O N O CH3 S H O H3CCOO OH OH O N O C2H5 O H Niazicin B (45) Niazimin B (46) O H3CCOO OH OH O N O C2H5 OH Niazimin A (47) O OH OH OH O NH OC2H5 S O OH OH OH O CN Niazimicin (48) Niazirin (49) O H3CCOO H3CCOO OOCCH3 O N O CH3 O H Methyl-4-(2',3',4'-tri-O-acetyl-α-L-rhamnosyloxy)benzylcarbamate (E) (50) O H3CCOO H3CCOO OOCCH3 O N O CH3 OH Methyl-4-(2',3',4'-tri-O-acetyl-α-L-rhamnosyloxy)benzylcarbamate (Z) (51) O H3CCOO H3CCOO OOCCH3 O N + O S - H O H3CCOO H3CCOO OOCCH3 O N O S H O-methyl-4-(2',3',4'-tri-O-acetyl-α-L-rhamnosyloxy)benzylthiocarbamate (E) (52) O H3CCOO H3CCOO OOCCH3 O N + O S -H O H3CCOO H3CCOO OOCCH3 O N O SH O-methyl-4-(2',3',4'-tri-O-acetyl-α-L-rhamnosyloxy)benzylthiocarbamate (Z) (53) O H3CCOO H3CCOO OOCCH3 O N O C2H5 O H Ethyl-4-(2',3',4'-tri-O-acetyl-α-L-rhamnosyloxy)benzylcarbamate (E) (54) O H3CCOO H3CCOO OOCCH3 O N + O C2H5 S - H O H3CCOO H3CCOO OOCCH3 O N O C2H5 S H O-Ethyl-4-(2',3',4'-tri-O-acetyl-α-L-rhamnosyloxy)benzylthiocarbamate (Z) (55) O H3CCOO OH OH O CN O H3CCOO OH OH O N O O H O H3CCOO OH OH O N O OH Niazirinin (56) Niazicinin A (57) Niazicinin B (58) 1.3.5. Các hợp chất khác được phân lập từ cây Chùm ngây: N O S N O S NH S O N-benzyl-S-ethylthioformate (59) Pterygospermin (60) N OH O N=C=S CH3(CH2)26COOH Acid nicotinic (61) 2-Propylisothiocyanate (62) Acid octacosanoic (63) N=C=S O O OHOH OH OH H N=C=S Vitamin C (64) 2-Butylisothiocyanate (65) 2-Methylpropylisothiocyanate (66) ON H S N OHOH OH 5,5-Dimethyloxazolidine-2-thione (67) Pyridoxin (68) N N NH N O O OH OH OHOH OOH OH O NH N N N N NH O OH NH2 Riboflavin (69) Acid folic (70) O OH H H Α-tocopherol (71) N H OH O N H CN Indole acetic acid (72) Indole acetonitrile (73) Chương 2 THỰC NGHIỆM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. HÓA CHẤT, THẾT BỊ, PHƯƠNG PHÁP 2.1.1. Hóa chất Hạt silicagel, cỡ hạt 40 – 60 μm dùng cho pha thường. SKLM thực hiện trên bản mỏng tráng sẵn DC – Alufolien F254 (Merck) dùng cho pha thường và Rp18 F254s (Merck) cho pha đảo. Dung môi cho quá trình thí nghiệm gồm: EA, CHCl3, MeOH, nước cất. Thuốc thử hiện hình các vết chất hữu cơ trên bản mỏng: dùng H2SO4/EtOH, FeCl3/EtOH. 2.1.2. Thiết bị Đèn UV tử ngoại cầm tay, bước sóng 254 và 365 nm hiệu UVITEC. Máy cô quay chân không Buchi – 11, EYELA OIL BATH OSB – 2000. Bếp cách thủy Julabo 461 Water Bath. Thiết bị gia nhiệt hồng ngọa, hiệu SCHOTT. Cột sắc ký đường kính từ 2 – 5,5 cm. Cân phân tích AND HR – 200. 2.1.3. Phương pháp tiến hành 2.1.3.1. Phương pháp phân lập các hợp chất Sử dụng kỹ thuật SKC silicagel pha thường, sephadex LH – 20 kết hợp SKLM. Phát hiện chất bằng đèn tử ngoại ở hai bước sóng 254 và 365 nm hoặc dùng thuốc thử là H2SO4/EtOH, FeCl3/EtOH. 2.1.3.2. Phương pháp xác định cấu trúc hóa học các hợp chất Phổ cộng hưởng từ hạt nhân (NMR): 1H – NMR (500MHz) và 13C – NMR (125MHz) đo trên máy Bruker AM500 FT –NMR Spectrometer, phổ DEPT, phổ HMBC, phổ HSQC, phổ ESI-MS. 2.2. NGUYÊN LIỆU 2.2.1. Thu hái nguyên liệu Mẫu lá cây Chùm ngây được thu hái tại huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai do công ty TNHH SX TM Hạnh Thông cung cấp. Xác định tên khoa học tại Trung tâm Sâm và Dược liệu TP.HCM. 2.2.2. Xử lý mẫu nguyên liệu Mẫu nguyên liệu được rửa sạch, loại bỏ phần sâu bệnh, phơi khô trong bóng râm, sấy lại ở nhiệt độ thấp rồi xay thành bột mịn. Sau đó tiến hành ngâm chiết và phân lập các hợp chất. 2.3. PHÂN LẬP CÁC HỢP CHẤT TỪ CAO THÔ 2.3.1. Điều chế các cao thô Lá Chùm ngây sau khi phơi khô cân được 7 kg, tiến hành ngâm với cồn 960 trong 2 ngày, lọc dịch chiết, quà trình này được lặp lại 4 lần, gom các dịch chiết cô loại dung môi dưới áp suất thấp thu được cao EtOH dạng sệt có khối lượng mẫu 1,5 kg. Phần cao thô được hòa tan vào một lượng ethanol rồi tẩm silicagel vào, đuổi khô dung môi trong tủ sấy ở nhiệt độ khoảng 400C đến khi được bột tơi. Sau đó tiến hành trích ly pha rắn cao ethanol lần lượt với các dung môi có độ phân cực tăng dần: Hexan, CHCl3, EA, MeOH thu được các cao tương ứng. Trong luận văn này ta tiến hành khảo sát phân đoạn cao MeOH. Quá trình điều chế các loại cao được trình bày như sau Sơ đồ 2. Sơ đồ tổng quan phân lập MO17, MO18 từ bột lá cây Chùm ngây. Bột lá cây Chùm ngây m = 7 kg CAO EtOH 1,5 kg CAO HEXANE 105 g CAO CHCl3 150 g CAO EA 360 g CAO MeOH 800 g M1 22,906 M2 16,563 M3 14,099 M4 62,031 M5 412,401 M4.1 2,927 M4.2 13,886 M4.3 1,720 M4.4 4,202 M4.5 8,473 M4.6 10,214 MO18 39 mg Tận trích với EtOH 96% Lọc, cô quay thu hồi dung Trích pha rắn Hexane CHCl3 EA MeO MO17 6 mg 2.3.2. Khảo sát cao MeOH Thực hiện SKC cao MeOH (m=800g) trên silicagel với hệ dung môi giải ly là EA :MeOH lần lượt từ EA 100%, 10:1, 5:1, 1:1, 100%. Các phân đoạn giống nhau trên SKLM (thuốc thử hiện bản mỏng là H2SO4 10% trong EtOH) gom chung lại thành 5 phân đoạn, mã hóa thành M1 – M5. Quá trình thực hiện SKC được tóm tắt trong sơ đồ 3. Sơ đồ 3. Qui trình điều chế các phân đoạn từ cao MeOH 2.3.2.1. Phân lập hợp chất MO17 từ phân đoạn M4 (62,031g) Phân đoạn M4 (m=62,031g) được SKC silicagel, hệ dung môi rửa giải là EA:MeOH:H2O với độ phân cực tăng dần 20:1:1, 15:1:1, 10:1:1, 7:1:1, 5:1:1 và 100% MeOH; các đoạn giống nhau trên SKLM được gom chung thu được 6 phân đoạn (M4.1 – M4.6). Phân đoạn M4.4 (4,202g) được SKC silicagel, hệ dung môi rửa giải EA:MeOH:H2O với độ phân cực tăng dần 20:1:0,1, 15:1:0,1, 10:1:0,1, 5:1:0,1 thu được 4 phân đoạn (M4.4.1 – M4.4.4). SKLM thấy phân đoạn M4.4.4 (m=49mg) có vết chính màu vàng. Tiếp tục SKC silicagel đoạn M4.4.4 với hệ dung môi giải ly CHCl3:MeOH:H2O (7:1:0,1) thu được hợp chất MO17 (6mg). Quá trình phân lập MO17 được tóm tắt trong Sơ đồ 4 sau: CAO MeOH 800 g M1 22,906 M2 16,563 M3 14,099 M4 62,031 M5 412,401 SKC silicagel EA EA:MeOH EA:MeOH EA:MeO MeO Sơ đồ 4. Sơ đồ phân lập hợp chất MO17 từ phân đoạn M4. 2.3.2.2. Phân lập hợp chất MO18 từ phân đoạn M4 (62,031g) Phân đoạn M4 (m=62,031g) được SKC silicagel, hệ dung môi rửa giải là EA:MeOH:H2O với độ phân cực tăng dần 20:1:1, 15:1:1, 10:1:1, 7:1:1, 5:1:1 và 100% MeOH; các đoạn giống nhau trên SKLM được gom chung thu được 6 phân đoạn (M4.1 – M4.6). Phân đoạn M4.5 (m=8,473g) được SKC silicagel, hệ dung môi rửa giải EA:MeOH: H2O với độ phân cực tăng dần 20:1:1, 15:1:1, 9:2:0,5, 8:4:1 và 100% MeOH thu được 5 phân đoạn (M4.5.1 – M4.5.5). SKLM cho thấy đoạn M4.5.4 (m=515mg) có 2 vết chính màu vàng và màu đen, sau đó tiếp tục SKC silicagel đoạn M4.5.4 với hệ dung môi giải ly EA:MeOH:H2O tỉ lệ 9:2:1 thu được hợp chất MO18 (39mg). Quá trình phân lập MO18 được tóm tắt trong Sơ đồ 5 sau: M4 m=62,031g M4.4 m=4,202g M4.4.4 m=49 mg MO17 m=6 mg SKC silicagel hệ EA:MeOH:H2O thu được 6 phân đoạn (M4.1-6) SKC silicagel hệ EA:MeOH:H2O SKC silicagel hệ CHCl3: MeOH:H2O (7:1:0,1) Sơ đồ 5. Sơ đồ phân lập hợp chất MO18 từ phân đoạn M4. M4 m=62,031g M4.5 m=8,473g M4.5.4 m=515 mg MO18 m=39 mg SKC silicagel hệ EA:MeOH:H2O thu được 6 phân đoạn (M4.1-6) SKC silicagel hệ EA:MeOH:H2O thu được 5 phân đoạn (M4.5.1-5) SKC silicagel hệ EA:MeOH:H2O (9:2:1) 2.4. SỐ LIỆU PHỔ CÁC HỢP CHẤT PHÂN LẬP 2.4.1. Hợp chất MO17: Hợp chất MO17 thu được dạng bột màu trắng, phổ khối lượng phun mù điện tử cho pic ion phân tử giả ở m/z 302,1046 [M+Na]+ (positive), 269,2 [M+H]+ ứng với CTPT là C14H17NO5 và C13H16O6. 1H-NMR (DMSO-d6, 500 MHz), δH (ppm): 9,87 (1H, s, H-7), 7,88 (2H, d, 8,5 Hz, H-2/H-6); 7,27 (2H, d, 9 Hz, H-2’’/H-6’’); 7,22 (2H, d, 8,5 Hz, H-3/H-5); 7,05 (2H, d, 9 Hz, H-3’’/H-5’’)], 3,94 (2H, s, H2-7’’), 5,54 (1H, d, 1 Hz, H-1’); 5,35 (1H, s, H-1’’’), 1,09 (6H, d, 6 Hz, H3-6’/H3-6’’’)]. 13C-NMR (DMSO-d6, 125 MHz), δC (ppm): 191,4 (C-7), 119,3 (C-8’’), 21,5 (C- 7’’), 131,6 (C-2/C-6); 129,2 (C-2’’/C-6’’); 116,8 (C-3’’/C-5’’), 116,5 (C-3/C-5)], δC 160,8 (C-4); 155,4 (C-4’’) 130,4 (C-1); 124,3 (C-1’’). 2.4.2. Hợp chất MO18: Hợp chất MO18 thu được dạng tinh thể hình kim màu trắng. 1H-NMR (DMSO-d6, 500 MHz) δH (ppm): 8,54 (br s); 7,44 (2H, d, 8,5 Hz, H- 3/H-5); 7,03 (2H, d, 8,5 Hz, H-2/H-6); 5,39 (1H, d, 2,0 Hz, H-1’); 3,91 (2H, s, H2-7); 3,82 (1H, dd, 3,5 và 2,0 Hz, H-2’); 3,64 (1H, dd, 9,5 và 3,5 Hz, H-3’); 3,48 (1H, m, H-5’); 3,29 (1H, t, 9,5 Hz, H-4’); 1,07 (3H, d, 6,0 Hz, H3-6’). 13C-NMR (DMSO-d6, 125 MHz), δC (ppm): 156,1 (C-1); 130,6 (C-3/C-5); 127,3 (C-4); 116,4 (C-2/C-6); 98,3 (C-1’); 71,8 (C-4’); 70,4 (C-3’); 70,0 (C-2’); 69,5 (C-5’); 41,6 (C-7); 17,9 (C-6’). Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. XÁC ĐỊNH CẤU TRÚC HỢP CHẤT MO17: Hợp chất MO17 phân lập dưới dạng bột màu trắng, hiện màu vàng với thuốc thử EtOH/H2SO4. Phổ khối lượng phun mù điện tử của hợp chất MO17 (phụ lục 1.6), cho pic ion phân tử giả ở m/z 302,1046 [M+Na]+ (positive), 269,2 [M+H]+ cho phép xác định công thức phân tử là C14H17NO5 và C13H16O6. Phổ 1H-NMR (phụ lục 1.1) của MO17 cho tín hiệu proton của một nhóm aldehyde [δH 9,87 (1H, s, H-7)], bốn tín hiệu proton đặc trưng của hai vòng benzen 1,4 thế [δH 7,88 (2H, d, 8,5 Hz, H-2/H-6); 7,27 (2H, d, 9 Hz, H-2’’/H-6’’); 7,22 (2H, d, 8,5 Hz, H-3/H-5); 7,05 (2H, d, 9 Hz, H-3’’/H-5’’)], một nhóm metylen [δH 3,94 (2H, s, H2-7’’)], và các tín hiệu proton của hai phân tử đường α-L-rhamnose gồm hai proton anomer [δH 5,54 (1H, d, 1 Hz, H-1’); 5,35 (1H, s, H-1’’’)], tám proton >CHOH trong vùng 3,26-3,84, hai nhóm metyl [δH 1,09 (6H, d, 6 Hz, H3-6’/H3-6’’’)]. Phổ 13C-NMR kết hợp với kĩ thuật DEPT (phụ lục 1.2, 1.3), cho thấy MO17 có 27 carbon, trừ 12 carbon của hai phân tử đường α-L-rhamnose, phần aglycon của MO17 còn lại 15 carbon gồm một carbon aldehyde [δC 191,4 (C-7)], 12 carbon của hai vòng thơm 1,4 thế, một carbon sp2 tứ cấp [δC 119,3 (C-8’’)] và một carbon metylen [δC 21,5 (C-7’’)]. Trong 12 carbon vòng thơm có tám carbon mang hydrogen [δC 131,6 (C-2/C-6); 129,2 (C-2’’/C-6’’); 116,8 (C-3’’/C-5’’), 116,5 (C-3/C-5)], hai carbon mang oxygen [δC 160,8 (C-4); 155,4 (C-4’’)] và hai carbon tứ cấp [δC 130,4 (C-1); 124,3 (C-1’’)]. Phân tích phổ cộng hưởng từ hạt nhân hai chiều tương tác trực tiếp HSQC (phụ lục 1.5), các tín hiệu carbon được gán chính xác với các tín hiệu proton của chúng. Phổ HMBC (phụ lục 1.4), các tín hiệu proton mỗi phân tử đường α-L-rhamnose gắn vào hai vòng thơm, proton anomer δH 5,54 (1H, d, 1 Hz, H-1’) cho tương quan với carbon δC 160,8 (C-4) và proton anomer δH 5,35 (1H, s, H-1’’’) cho tương quan với carbon δC 155,4 (C-4’’) của vòng 2 vòng benzen. Các tương quan của dây nhánh được thể hiện rõ trên phổ HMBC, nhóm metylen gắn vào vòng thơm do proton metylen [δH 3,94 (2H, s, H2-7’’)] cho tương quan lần lượt với ba carbon của vòng thơm gồm hai carbon mang hydrogen δC 129,2 (C-2’’/C-6’’) và một carbon tứ cấp δC 124,3 (C-1’’)], đồng thời cho tương quan với cacbon δC 119,3 (C-8’’), nhóm –CHO được nối vào vòng thơm do có sự tương quan proton aldehyde [δH 9,87 (1H, s, H-1)] với carbon tứ cấp δC 130,4 (C-1). Từ các dữ liệu phổ kết hợp với tài liệu [27,33], hợp chất MO17 được xác định là hỗn hợp của 2 hợp chất 4-(α-L-Rhamnopyranosyloxy)-benzaldehyde và niazirin. Bảng 3. Dữ liệu phổ của hợp chất MO17 C δC *[38, 47] δC a,b(ppm) MO17 δH a,c (ppm), (J, Hz) MO17 HMBC (H→ C) 4-(α-L-Rhamnopyranosyloxy)-benzaldehyde 1 130,44 130,4 2,6 131,57 131,6 7,88 (2H, d, 8,5) C-1, C-3, C-5 3,5 116,53 116,5 7,22 (2H, d, 9,0) C-1, C-6 4 160,84 160,8 7 191,26 191,4 9,87 (1H, s) C-1 1’ 98,16 98,1 5,54 (1H, d, 1,0) C-4 2’ 71,63 70,3 3,60-3,65 (1H, m) 3’ 70,33 69,9 3,84 (1H, m) 4’ 69,89 71,6 3,26-3,21 (1H, m) 5’ 69,81 69,4 3,43 (1H, m) 6’ 17,75 17,8 1,09 (d, 6,0) niazirin 1’’ 132,64 124,3 2’’, 6’’ 129,23 129,2 7,27 (2H, d, 8,5) C-3’’, C-4’’, C-5’’, C-7’’ 3’’, 5’’ 116,65 116,8 7,05 (2H, d, 9,0) C-4’’, C-1’’ 4’’ 156,03 155,4 7’’ 22,90 21,5 3,94 (2H, s) C-1’’, C-2’’, C-6’’,C-8’’ 8’’ 123,72 119,3 1’’’ 97,96 98,3 5,35 (1H, br s) C-4’’, C-5’’’ 2’’’ 70,97 70,4 3,60-3,65 (1H, m) 3’’’ 71,70 70,1 3,81 (1H, m) 4’’’ 73,48 71,7 3,26-3,21 (1H, m) 5’’’ 68,83 69,8 3,43 (1H, m) 6’’’ 17.49 17,8 1,09 (d, 6,0) C-5’’’ a Đo trong DMSO, b125 MHz, c500 MHz *δC của 4-(α-L-Rhamnopyranosyloxy)-benzaldehyde đo trong DMSO, niazirin đo trong CDCl3 O O HO HO HO H3C CHO 1 2 3 4 2 5 6 7 1' 6' 2'3'4' 5' O O HO HO HO H3C CH2-CN 1'' 2'' 3'' 4'' 2 5'' 6'' 7'' 1''' 6''' 2'''3'''4''' 5''' 8'' Hình 5. Cấu trúc hóa học của hợp chất MO17 3.2. XÁC ĐỊNH CẤU TRÚC HỢP CHẤT MO18 Hợp chất MO18 thu được dạng tinh thể hình kim màu trắng, hiện màu vàng với thuốc thử H2SO4/EtOH. Phổ 1H-NMR của MO18 (phụ lục 2.1) cho tín hiệu proton của một nhóm amin bậc nhất –NH2 [δH 8,54 (br s)], hai tín hiệu proton đặc trưng của vòng benzen thế 1,4 [δH 7,44 (2H, d, J = 8,5 Hz, H-3/H-5); 7,03 (2H, d, J = 8,5 Hz, H-2/H-6)], một nhóm methylen [δH 3,91 (2H, s, H2-7)], và các tín hiệu proton của phân tử đường α- rhamnose gồm một proton anome [δH 5,39 (1H, d, J = 1,5 Hz, H-1’)], bốn proton >CHOH [δH 3,82 (1H, dd, J = 3,5 và 2,0 Hz, H-2’); 3,64 (1H, dd, J = 9,5 và 3,5 Hz, H- 3’); 3,48 (1H, m, H-5’); 3,29 (1H, t, J = 9,5 Hz, H-4’)], và ba proton nhóm methyl [δH 1,07 (3H, d, J = 6,0 Hz, H3-6’)]. Phổ 13C-NMR (phụ lục 2.2) kết hợp với kĩ thuật DEPT (phụ lục 2.3) cho thấy MO18 có 13 carbon, trừ 6 carbon của phân tử đường α-rhamnose, MO18 còn lại 7 carbon gồm sáu carbon của vòng benzen thế 1,4, và một carbon methylen [δC 41,6 (C- 7)]. Trong 6 carbon vòng thơm có bốn carbon mang hydrogen [δC 130,6 (C-3/C-5); 116,4 (C-2/C-6)], một carbon mang oxygen [δC 156,1 (C-1)] và một carbon tứ cấp [δC 127,3 (C-4)]. Trong 6 carbon của đường α-rhamnose gồm một carbon anome [δC 98,3 (C-1’)], bốn carbon >CHOH [δC 71,8 (C-4’); 70,4 (C-3’); 70,0 (C-2’); 69,5 (C-5’)], và một carbon methyl [δC 17,9 (C-6’)]. Phổ HMBC của MO18 (phụ lục 2.4) cho thấy proton anome của đường α- rhamnose [δH 5,39 (1H, d, J = 1,5 Hz)] tương quan với carbon vòng thơm mang oxygen (δC 156,1), chứng tỏ đường α-rhamnose gắn vào vòng benzen thế 1,4 tại vị trí C-1 (δC 156,1). Mặt khác, proton của nhóm methylen [δH 3,91 (2H, s)] cho tương quan với hai carbon vòng thơm mang hydrogen [δC 130,6 (2C)] và một carbon vòng thơm tứ cấp (δC 127,3), chứng tỏ nhóm methylen gắn vào vòng benzen tại vị trí C-4 (δC 127,3), hai carbon mang hydrogen là C-3/C-5. Như vậy, nhóm amin chỉ có thể gắn vào nhóm mehtylen. Hai carbon mang hydrogen còn lại [δC 116,4 (2C)] là C-2/C-6. Từ các biện luận trên kết hợp với tài liệu tham khảo [32], hợp chất MO18 được xác định là 4-(α-rhamnosyloxy)benzylamine. Hình 6. Cấu trúc hóa học hợp chất MO18 và tương quan HMBC trên MO18. Bảng 4. Dữ liệu phổ 1H-NMR và 13C-NMR của MO18 Vị trí DEPT MO18 (DMSO-d6) δH ppm (J, Hz) 500 MHz δC ppm 125 MHz HMBC (H → C) 1 =C< 156,1 2 =CH- 7,03 (d, 8,5 Hz) 116,4 C-1; C-4; C-6 3 =CH- 7,44 (d, 8,5 Hz) 130,6 C-1; C-2; C-5; C-7 4 =C< 127,3 5 =CH- 7,44 (d, 8,5 Hz) 130,6 C-1; C-6; C-3; C-7 6 =CH- 7,03 (d, 8,5 Hz) 116,4 C-1; C-2; C-4; 7 -CH2- 3,91 (s) 41,6 C-3; C-4; C-5 -NH2 8,54 (br s) Đường Rhamnose 1’ >CH- 5,39 (d, 2,0 Hz) 98,3 C-1; C-2’, C-3’, C-5’ 2’ >CH- 3,82 (dd, 3,5 và 2,0 Hz) 70,0 C-3’; C-4’ 3’ >CH- 3,64 (dd, 9,5 và 3,5 Hz) 70,4 C-4’ 4’ >CH- 3,29 (t, 9,5 Hz) 71,8 C-2’, C-3’, C- 5’, C-6’ 5’ >CH- 3,48 (m) 69,5 C-4’ 6’ -CH3 1,07 (d, 6,0 Hz) 17,9 C-4’; C-5’ Chương 4 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 4.1. KẾT LUẬN Trong khóa luận này, chúng tôi đã khảo sát thành phần hóa học cao MeOH ly trích từ lá cây Chùm ngây. Sau một thời gian tìm hiểu và tiến hành thực hiện đề tài, bằng cách sử dụng phương pháp SKC trên silicagel pha thường kết hợp với SKLM, chúng tôi đã cô lập được các hợp chất trên. Dựa vào kết quả các phổ 1H – NMR, 13C – NMR, HMBC, HSQC, HR-ESI-MS, ESI-MS cấu trúc hóa học các hợp chất được xác định là: MO17 (hỗn hợp của 2 hợp chất là 4-(α-L-Rhamnopyranosyloxy)-benzaldehyde và Niazirin), MO18 (4-(α- rhamnosyloxy)benzylamine). 4.2. KIẾN NGHỊ Tiếp tục phân lập và xác định cấu trúc hóa học các hợp chất trong cao MeOH. Thử nghiệm hoạt tính sinh học các hợp chất cô lập được và nghiên cứu tiếp thành phần hóa học ở các bộ phận khác của cây Chùm ngây (thân, rễ, hoa, quả,). TÀI LIỆU THAM KHẢO TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT [1] GS.TS. Đỗ Tất Lợi (2004), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nhà xuất bản Y học. [2] Lâm Quốc Trung (2011), Nghiên cứu thành phần hóa học lá Chùm ngây Moringa oleifera L. Họ Moringaceae, Luận văn thạc sĩ hóa học, Đại học Cần Thơ. [3] Nguyễn Bảo Quyên (2008), Tổng hợp và thử tác dụng chống oxy hóa in vitro của một số dẫn chất Rutin, Khóa luận tốt nghiệp Dược sĩ Đại học, Đại học y dược Tp.HCM. [4] PGS.TS. Nguyễn Kim Phi Phụng (2007), Phương pháp cô lập hợp chất hữu cơ, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP.HCM. [5] Phạm Hoàng Hộ (1999), Cây cỏ Việt Nam, tập 1, 2, 3, Nhà xuất bản Trẻ. [6] Viện dược liệu (2003), Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. [7] Võ Văn Chi (2005), 250 cây thuốc thông dụng, Nhà xuất bản Hải Phòng [8] (2010), Một số loại thảo dược quý sử dụng trong y học cổ truyền. TÀI LIỆU TIẾNG ANH [9] Anjum Perveen and Muhammad Qaiser (2009), “Pollen flora of Pakistan – LXIII. Mringaceae”, Pak. J. Bot., 41(3), 987 – 989. [10] A.Oluduro, B.I.Aderiye, J.D.Connolly, E.T. Akintayo O.Famurewa (2010), “Characterization and Antimicrobial Activity of 4-(β-D-Glucopyranosyl-1→4-α-L- rhamnopyranosyloxy)benzyl thiocarboxamide; a Novel Bioactive Compound from Moringa oleifera Seed Extract”, Folia Microbiol, 55(5), 422 – 426. [11] Anwar F, Latif S, Ashraf M, Gilani AH., (2007), “Moringa oleifera: afood plant with multiple medicinal uses”, Phytother Res. Jan, 21(1), 17 – 25. [12] B.A.Anhwangel, V.O. Ajibola. (2004), “Amino acid composition of the seeds of Moringa oleifera (Lam), Detarium microcarpum (Guill & Sperr) and Bauhinia monandra (Linn.)”, Chem Class Journal, 9 - 13. [13] Bennett RN, Mellon FA, Foidl N, Pratt JH, Dupont MS, Perkins L, Kroon PA. (2003), “Profiling glucosinolates and phenolics in vegetative and reproductive tissues of the multi – purposetrees Moringa oleifera L. (Horseadish tree) and Moringa stenopetala L”., J Agic Food Chem, 51(12), 3546 – 53. [14] Bhatnagar SS, Santapau H, Desai JDH, Yellore S, Rao TNS (1961), “Biological activity of Indian medicinal plants, Part 1, Antibacterial, antitubercular and antifungal action”, Indian J Med Res, 49, 799 – 805. [15] Bhattacharya SB, Das AK, Banerji N (1982), “Chemical investigations on the gum exudates from Sonja (Moringa oleifera)”, Carbohydr Res, 102, 253 – 262. [16] Brett C. Johnson, B.Pharm., MBA (2005), Clinical Perspectives on the Health Effects of Moringa oleifera: A promising Adjunct for Balanced Nutrition and Better Health, KOS Health Publications, La Canada, California, 1 – 5. [17] Bukar, A., Uba, A. and Oyeyi, T.I. (2010), “Antimicrobial profile of Moringa oleifera Lam. Extracts a gainst some food – borne microorganism”, Bayero Journal of Pure and Applied Sciences, 3(1), 43 – 48. [18] Catherine Y. Rowland, Adrian J. Blackman, Bruce R. D`Arcy, and Gavin B. Rintoul (1995), “Comparison of Organic Extractives Found in Leatherwood (Eucryphia lucida) Honey and Leatherwood Flowers and Leaves” , J. Agric. Food Chem., 43(3), 753 – 763. [19] C. W. Paul and B. C. Didia (2012), “The Effects of Methanolic Extract of Moringa oleifera Lam Roots on The Histology of Kidney and Liver of Guinea Pigs”, Asian Journal of Medical Sciences, 4(1), 55 – 60. [20] D. Gutzeit, V. Wray, P. Winterhalter, G. Jers (2007), “Preparative isolation and purification of flavonoids and protocatechuic acid from sea buckthorn juice concentrate (Hippophao rhamnoides L. ssp, rhamnoides L. ssp. Rhamnoides) by high speed counter curent chromatography”, Chromatographia, 65 (1 – 2), 1 -7. [21] Dahot MU (1998), “Vitamin contents of flowers and seeds of Moringa oleifera”, Pak J Biochem, 21, 1 – 24. [22] Faizi S, Siddiqui BS, Saleem R, Aftab K, Shaheen F, Gilani AH (1998), “Hypotensive constituents from the pods of Moringa oleifera”, Planta Med, 64, 225 – 228. [23] Farooq Anwar, Umer rashid (2007), “Physico – chemical characteristics of Moringa oleiferal seeds and seed oil from a wild provenance of Pakistan”, Pak. J. Bot., 39(5), 1443 – 1453. [24] Francis Kweku Amagloh and Amos Benang (2009), “Effectiveness of Moringa oleifera seed as coagulant for water purification”, Africa Journal of Agricultural Research, 4(1), 119 – 123. [25] Jed W. Fahey, Sc.D. (2005), “Moringa oleifera: A Review of the Medical Evidence for Its Nutrition, Theraputic, and Prophylactic Properties”, Trees for Life Journal, 1 – 15. [26] K.A. Yongabi, D.M. Lewis and P.L. Harris (2011), “A Moringa oleifera Disinfectant-Sand Filter Integration: A Review of an Alternative Sustainable Technology for Household Water Treatment”, Journal of Environmental Sciene and Engineering, 5(2011), 1100 – 1108. [27] M. E. Abalaka, S.Y.Daniyan, S.B. Oyeleke, S.O. Adeyemo (2012), “The antibacterial Evaluation of Moringa oleifera Leaf Extracts on Selected Bacterial Pathogens”, Journal of Microbiology Research, 2(2), 1 – 4. [28] Michael Leuck, Horst Kunz (1998), Synthesis of active principles from the leaves of Moringa oleifera using S-pent-4-enyl Thioglycosides, Carbohydrate Research, 312, 33- 34 [29] M. Mashiar Rahman, M. Mominul Islam Sheikh, Shamima Akhtar Sharmin, M. Soriful Islam, M. Atikur Rahman, M. Mizanur Rahman and M. F. Alam (2009), “Antibacterial Activity of Leaf Juice and Extracts of Moringa oleifera Lam. against Some Human Pathogenic Bacteria”, CMU. J. Nat. Sci., 8(2), 219 – 227. [30] Nurul Huda Md. Masum, Kaiser Hamid, Abu Hasanat Md. Zulkifer, Md. Kamal Hossain, Kniz Fatima Urmi (2012), “In vitro Antioxidant Activities of Different parts of the Plant Moringa oleifera Lam.”, Research Journal of Pharmacy and Technology, 5(12), 1532 – 1537. [31] P. Nepolean, J. Anitha and R. Emilin Renitta (2009), “Isolation, analysis and identification of phytochemicals of antimicrobial activity of Moringa oleifera Lam”, Current biotica, 3(1). [32] Ping-Hsien Chuang, Chi-Wei Lee, Jia-Ying Chou, M. Murugan, Bor-Jinn Shieh, Hueih-Min Chen(2005), “Anti-fungal activity of crude extracts and essential oil of Moringa oleifera Lam”, Bioresource Technology, 98(2007), 232 – 236. [33] Rubeena Saleem and Jerrold Meinwald (2000), “Synthesis of novel hypotensive aromatic thiocarbamate glycosides”, J. Chem. Soc., Perkin Trans 1, 391- 394. [34] Shaheen Faizi, Bina Shaheen Siddiqui, Rubeena Saleem (1994), “Isolation and structure elucidation of new nitrile and mustard oil glycosides from Moringa oleifera and their effect on blood pressure”, Journal of Natural Pmakts, 57( 9), 1256- 1261. PHỤ LỤC Phụ lục 1.1. Phổ 1H – NMR của MO17. Phụ lục 1.2. Phổ 13C – NMR của MO17. Phụ lục 1.3. Phổ DEPT 90 và 135 của MO17. Phụ lục 1.4. Phổ HMBC của MO17. Phụ lục 1.5. Phổ HSQC của MO17. Phụ lục 1.6. Phổ ESI-MS của MO17. Phụ lục 1.7. Phổ HR-ESI-MS của MO17. Phụ lục 2.1. Phổ 1H – NMR của MO18 Phụ lục 2.2. Phổ 13C – NMR của MO18. Phụ lục 2.3. Phổ DEPT 90 và 135 của MO18 Phụ lục 2.4. Phổ HMBC của MO18 Phụ lục 2.5. Phổ HSQC của MO18 Ý kiến của Chủ tịch Hội đồng: ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... Ý kiến của giáo viên phản biện: ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... Ý kiến của giáo viên hướng dẫn: ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... ........................................................................................................................................... ...................................................................................................................................................... Chủ tịch hội đồng Thư ký Ủy viên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftvefile_2013_09_16_1677816615_0392.pdf
Luận văn liên quan