Sáng tác của Tương Phố - Đông Hồ giai đoạn giao thời đã góp vào dàn đồng ca
lãng mạn của thi đàn những viên gạch đầu tiên làm cầu nối giữa hai thời đại văn học.
Có thể nói, thơ của họ đã đi đến điểm tận cùng của thơ ca truyền thống, và cũng chính
họ đồng thời dợm những bước đầu tiên “vượt đường biên” sang hiện đại. Trong bối
cảnh lịch sử của giai đoạn văn học giao thời những năm đầu thế kỉ XX, ý nghĩa hiện
đại hóa mà “Hai giọt lệ” đã mang lại, dù không thật nhiều và không thật bề thế, song
cũng đã là đóng góp cần thiết và đáng quý; nói được thế này chăng: hai tác giả -
Tương Phố, Đông Hồ - thuộc số không nhiều những thi sĩ được lịch sử văn học dân tộc
trao cho sứ mệnh làm hiện thân của qui luật? Dẫu sao thì đó cũng là điều đáng trân
trọng biết bao!
119 trang |
Chia sẻ: toanphat99 | Lượt xem: 3260 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX trong “Hai giọt lệ” của Tương Phố - Đông Hồ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xúc khi “Trông cánh hạc bay”, một quan niệm về “Cảnh vui của nhà
nghèo”, một suy nghĩ trong khi “Nói chuyện với ảnh” hay một lời trách móc trong
những bức “Thư gửi người tình không quen biết”,...đều được Tản Đà diễn tả bằng
song thất lục bát. Song, có lẽ do chỗ song thất lục bát đã được tạo sức hấp dẫn quá lớn
ở những tác phẩm chứa đựng loại cảm xúc buồn thảm hoặc thống thiết triền miên nên
khi được đưa về những cảm xúc không mang các tính chất đó, nó dường như khó bề
gây được ấn tượng sâu sắc. Tuy vậy, phải thấy là Tản Đà đã bổ sung một hướng đi
đúng cho thể thơ. Bởi vì nếu không nó sẽ bị “mắc kẹt” vào cái khả năng chuyên biệt
của mình, một khi đời sống thơ ca không tạo ra cho nó những cơ hội để thi thố khả
năng ấy nữa. Thế nhưng rồi ta sẽ thấy sức mạnh của truyền thống đối với thể thơ này
dường như là cái khó có thể vượt qua, và điều đó sẽ ảnh hưởng (“tai hại”) rất nhiều
đến tương lai của song thất lục bát.
Quay trở lại với Tương Phố và “Giọt lệ thu”, ta có thấy bà đã góp phần làm mới
và chuyển đổi ý nghĩa nội dung của thể lục bát truyền thống. Chính sự nhẹ nhàng, dễ
dãi như những câu ca dao cẩm tú đã tạo nên sức cảm cho người đọc về âm điệu trước
rồi mới đến ý tứ. Những vần thơ của Tương Phố như:
“Trời thu ảm đạm một màu
Gió thu hiu hắt thêm rầu lòng em
Trăng thu bóng ngả bên thuyền
Tình thu ai để duyên em bẽ bàng!”
phảng phất âm điệu của bài ca dao:
“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
Em vịn cành trúc, em tựa cành mai,
Đông đào tây liễu biết ai bạn cùng!”
Tuy giống nhau về âm điệu nhưng bài thơ của Tương Phố lại không thể coi là
ca dao vì khác nhau về ý. Ý bài thơ không phải là ý chung mang tính cộng đồng cho
tất cả mọi người. Nó là một bài bày tỏ tâm sự của một người sầu não vì những đau đớn
trong ngày thu qua.
Như vậy, không giống với những nhà thơ dùng thơ Đường luật để sáng tác,
Tương Phố thành công trong việc dùng hình thức thơ thuần Việt là lục bát để tạo ra
những bài thơ nổi tiếng nhất của mình. Đánh giá thành công của Tương Phố, Vũ Ngọc
Phan đã viết rằng: “Tương Phố chỉ sở trường là thơ lục bát hay song thất lục bát. Dùng
hai thể thơ đặc biệt Việt Nam để diễn tả những tính tình đặc biệt Việt Nam thật là rất
hợp, vì lẽ ấy mà hai thể thơ đó, bà đã có những tuyệt tác”. [30, 146]
Một điểm đáng lưu ý và cũng là điểm mới của “Giọt lệ thu” và “Linh Phượng lệ
ký” là sự hòa trộn và xuất hiện “thơ văn xuôi”. “Thơ văn xuôi” ở nhiều nước trên thế
giới từ lâu vốn đã không xa lạ hiếm hoi gì. Nhiều tác giả nổi tiếng đã gặt hái thành
công sự nghiệp thơ ca của mình trên mảnh đất thể loại “thơ văn xuôi” này, chẳng hạn
Uýt-man, nhà thơ người Mỹ. Những văn vần, văn biền ngẫu, và cả văn xuôi cổ, đều
gần gũi dáng dấp với “thơ văn xuôi” phương Tây. Xuân Diệu cho rằng trong văn học
Việt Nam (và cả trong văn học Trung Quốc) thơ văn xuôi có nguồn gốc ở thể phú.
Nhận định này có cơ sở, vì thực chất phú cũng là sự giãn ra của các thể cổ thi để mở
rộng dung lượng phản ánh. Nhưng nói đúng hơn, trong thơ ca cổ của ta, những bài phú
và văn tế viết theo thể văn vần, cạnh các bài biền văn như hịch, cáo đều có dáng dấp
của thơ văn xuôi. Hịch, cáo (như “Hịch tướng sĩ văn” của Trần Hưng Đạo, “Bình Ngô
Đại Cáo” của Nguyễn Trãi...), phú (như “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán
Siêu, “Tài tử đa cùng phú” của Cao Bá Quát, “Hàn nho phong vị phú” của Nguyễn
Công Trứ, “Tụng Tây Hồ phú” của Nguyễn Huy Lượng...) và văn tế (như “Văn tế chị”
của Nguyễn Hữu Chỉnh, “Văn tế Phan Châu Trinh” của Phan Bội Châu)... đều có
dáng dấp thơ văn xuôi, và làm cơ sở cho “thơ văn xuôi” chính thức bắt rễ nảy nở.
Trong số đó, văn xuôi cổ là cận kề hơn cả về thể loại với “thơ văn xuôi” sau này.
Giữa chúng có những giống nhau: câu thơ và mạch thơ (hoặc có vần hoặc
không có vần, hoặc có đối hoặc không có đối) phóng khoáng, mở rộng và kéo dài như
là câu văn xuôi. Dung lượng của toàn bài khá phong phú, do đó, lối diễn đạt và lối
bình luận không bị hạn chế như trong khuôn khổ thơ cách luật, mà nhà thơ có thể đi
được vào nhiều khía cạnh của cảm xúc và tư duy.
Nhưng khác nhau ở chỗ phú, văn tế cũng như hịch và cáo trong sáng tác có
những quy tắc về vần, đối, bố cục, mà thơ văn xuôi không có. Sau văn xuôi cổ, thì
phú lưu thủy, văn tế tự do (tứ lục)... cũng gần gũi với thơ văn xuôi hơn.
Sau cùng, thơ văn xuôi cũng không bị ràng buộc về đề tài và chủ đề như một số
“tiểu loại” văn tế, hịch, cáo.
Sang đầu thế kỷ XX, một số sáng tác của Tản Đà, Đông Hồ, Tương Phố có tính
chất thơ văn xuôi như:
“... Xuân qua; hạ lại, cảnh tình đà chẳng khác chi đông thu sang tâm sự lại dạt
dào, thương tâm gió đuổi mấy chiều; lòng em lai láng biết bao sầu tình! Anh ơi phòng
thu vò võ một mình, mỗi khi nhớ anh em lại ngừng tay kim chỉ, cuốn bức châu liêm,
xa trông non nước và hồi tưởng những đường xưa lối trước đi về có nhau, thì muôn
nghìn tâm sự bây giờ lại như xô lùi em về cảnh đời dĩ vãng, mà ngọn chiều trong dạ
cũng mênh mang cơn sóng lệ... ! Em nhiều khi nghĩ cũng thương, nước mắt muốn thôi
đi không khóc nữa, nhưng hai hàng châu lệ vẫn cứ chan hòa như mưa.
Nước non ngao ngán tình xưa
Trăm năm bạn cũ bây giờ xa đâu?
Để riêng ai
Bức khăn hồng tầm tã giọt châu
Gối chăn còn ngấn lệ sầu tới nay.
Anh ơi, nước non còn đó mà anh vội đi đâu? Ngày sanh sao chẳng ở cùng nhau,
duyên thắm nỡ nào chia rẽ lứa?
Ngoài nội uyên kia cùng chắp cánh, trên lương yến nọ chẳng lìa đôi, từng mây
kết bạn ngang trời, nghĩ chim ríu rít, tủi người lẻ loi. Ôi chim có đôi người sao lẻ bạn,
chăn đơn gối chiếc, em biết cùng ai than thở chuyện trăm năm?” (Tương Phố - Viết ở
sông Thương mùa thu năm Quý hợi 1923)
“Thôi từ đây cải rụng kim rơi, mây chìm bèo nổi, từ đây rồi lúc nào tôi cũng
thấy chung quanh mình tôi đầy những cảnh tiêu điều buồn bã, âu sầu hiu quạnh lạ
thường; gặp những khi đêm khuya canh vắng, gió xế mưa chiều, hồi tưởng đến cảnh
cũ niềm xưa, mới ngày nào đây cùng ai chung cơn may rủi, chung nỗi khóc cười, khi
chăn êm khi nệm ấm, khi gió gác khi trăng sân, cùng ai vui thú mà chạnh lòng. Mỗi
lân hồi tưởng đến như thế thì thấy mình bang khuâng như người làm nát ngọc chìm
châu. Hòn ngọc đang cầm trên tay mà bỗng rơi xuống vỡ tan tành, hay hạt châu bỗng
chìm hút dưới đáy nước sâu, cái nhớ tiếc ngơ ngẩn vẩn vơ ngậm ngùi than thở mà
không biết đâu tìm... “ (Linh Phượng lệ ký - Đông Hồ)
Nếu ở một nền văn học nào khác, thì những thi phẩm hay, từng gây chấn động
như “Hai giọt lệ” hẳn đã tạo nên một phong trào mới cho thơ văn. Tuy nhiên, do cái
“học phong” của nước ta xưa nay vốn lặng lẽ nên những điệu thơ réo rắt của Tương
Phố hay những dòng thơ đẽo gọt, trau chuốt của Đông Hồ chỉ được ngâm ngợi trong
một thời gian ngắn rồi cũng tàn tạ trôi dần vào dĩ vãng. Nhà văn Vũ Ngọc Phan đã viết
về Tương Phố bằng những lời lẽ ca ngợi, tán thưởng: “Người ta thấy Đông Hồ là ta
thợ thơ, còn Tương Phố mới thật có tâm hồn thi sĩ. Cái tâm này lại là một tâm hồn đặc
biệt Việt Nam, không chịu ảnh hưởng một cái học ngoại lai nào cả!” [30, 138]
Điều đó còn được cắt nghĩa bằng những lẽ khác nữa, mà lẽ chính (chủ yếu) là:
mặt bằng “trình độ” của văn học ta quá lạc hậu, quá cũ, hay là cũ kỹ lạc hậu quá lâu
(giam mình trong Trung đại quá lâu), nay gặp cái thế giới, mới ngộ ra điều đó. Cho
nên phải thật nhanh lên. Nhưng không dễ gì “đốt cháy giai đoạn”, và lại không phải
mọi đoạn đề khả dĩ đốt. Thế tất chỉ còn cách bước gấp. “Một năm ở ta bằng mươi
mười lăm năm ở nước người” (nói về nhịp độ hiện đại hóa văn học đầu XX) là vậy. Cả
loạt hiện tượng như “Hai giọt lệ”, vừa là mới đó, đã cũ đó; vừa được hoan nghênh đã
bị thờ ơ ghẻ lạnh, bởi đã bị vượt qua.
Quá khứ là bài học cho hiện tại để hướng tới tương lai. Những gì mà Tương
Phố và Đông Hồ đóng góp cho văn học Việt Nam bấy giờ quả thực rất đáng ghi nhận.
Bước đầu ra đời trong buổi giao thời, thơ của Tương Phố hay Đông Hồ đều có những
tìm tòi, sáng tác làm mới thể loại, “Giọt lệ thu” và “Linh Phượng lệ ký” đã thể hiện rõ
tính chất giao thời của thời đại ở cả hai phương diện nội dung và hình thức.
Về mặt nội dung, hai tác phẩm là sự thể hiện “cái tôi” chân thành, cá thể rất thật
của mình dưới dạng nhật kí riêng tư. Đồng thời, chúng cũng mang nỗi buồn thời đại,
mở đầu cho lối thơ thê lương, ảo não của văn học lãng mạn sau này.
Phương diện hình thức ghi nhận sự đóng góp của những đoạn văn réo rắt biền
ngẫu nhưng ý nghĩa, lời thơ không kém phần tiến bộ, hiện đại. Không những thế, bên
cạnh việc “làm mới”, tính giao thời còn thể hiện mạnh mẽ ở việc kế thừa và sử dụng
những từ ngữ cổ, hình ảnh cổ để diễn tả “cái mới” mà không gây nhàm chán. Sự xuất
hiện của thể thơ lục bát mang đậm chất dân gian truyền thống trong “Giọt lệ thu” của
Tương Phố dễ gợi ta nghĩ đến “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn và “Ai tư vãn”
của Ngọc Hân công chúa ở giọng điệu bi thảm, sầu não. Không những chọn lọc tinh
hoa của cái cũ, “Hai giọt lệ” cũng có những đoạn thơ văn xuôi rất gần với đặc trưng
của giai đoạn hiên đại sau này. Mặc dù chưa đủ sức tạo ra cuộc cách mạng trong thi ca
nhưng sự ra đời của hai tác phẩm đã thổi một luồng gió mới vào bầu khí chung của
văn học đương thời. Ngọn gió thu mang cả “nỗi sầu thế hệ” và tiếng khóc ai oán, xót
xa của sự chia lìa lứa đôi đã mở màn cho dòng văn học lãng mạn và từng bước đi vào
lòng độc giả. Chúng đã tạo tiền đề để xây những viên gạch đầu tiên cho chiếc cầu nối
giữa thơ trung đại và thơ hiện đại. Đây là điều chúng ta cần ghi nhận khi đánh giá về
vai trò và vị trí của Tương Phố - Đông Hồ trong giai đoạn này – giai đoạn đầu thế kỷ
XX nhiều biến động.
CHƯƠNG III
VỊ TRÍ CỦA ĐÔNG HỒ VÀ TƯƠNG PHỐ TRONG TỔNG THỂ
BỐI CẢNH GIAO THỜI CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ
KỈ XX
I. Tương Phố
I.1. Đôi nét về tác giả Tương Phố
Nữ sĩ Tương Phố tên thật là Đỗ Thị Đàm sinh ngày 14/7/1900, nguyên quán ở
xã Bối Khê, tổng Cẩm Khê, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên và mất ngày 8/11/1973
tại Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
Về năm sinh của bà có vài sách ghi khác nhau như trong “Từ điển Văn học”
(tập 2 - NXB KHXH, 1984, tr.491) đã ghi năm sinh của bà là năm 1896; Sách “Từ
điển nhân vật lịch sử Việt Nam” (NXB KHXH, 1992, tr.203) thì ghi bà sinh năm Mậu
Tuất 1898. Trên lăng mộ bà tại đồi Tương Sơn, Đà Lạt đã ghi trên tấm bia mộ bà năm
sinh là 1900 và năm mất là 1973.
Đỗ Thị Đàm là một nữ sĩ hiện đại, bút danh Tương Phố. Vì bà chào đời tại Đồn
Đầm, tỉnh Bắc Giang, nơi thân sinh của bà làm việc, nên đặt tên bà là Đàm để ghi dấu
tích làm kỷ niệm (Đàm chữ Hán có nghĩa là Đầm). Bà sinh ra trong một gia đình nho
học, thân sinh của bà là cụ ông Đỗ Duy Phiên và cụ bà Nguyễn Thị Yêm. Thân mẫu bà
hiếm hoi, chỉ sinh được hai người con gái là Tương Phố và Song Khê. Song Khê - Đỗ
Thị Quế cũng là một nữ sĩ có tiếng lúc bấy giờ (chính là “Đỗ Tang Nữ” đã “bái tặng”
Tản Đà bó rau sắng cùng bốn dòng thơ họa lục bát dễ thương, làm nên giai thoại “Rau
sắng chùa Hương” quen thuộc). Hai chị em lúc nhỏ học chữ Hán với thân phụ, và học
tiếng Pháp tại trường công lập ở tỉnh nhà Hưng Yên. Sau đó, bà Đỗ Thị Đàm lên học
tại trường nữ Sư phạm Hà Nội. Thời kỳ đó, bà gặp anh chàng sinh viên trường thuốc
Thái Văn Du (em ruột cụ Thái Văn Toản - Thượng thư Bộ Lại, triều Nguyễn thời Bảo
Đại), người làng Quy Thiện, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị rồi thành vợ chồng và
sống tại Hà Nội.
Một năm sau (1916), Tương Phố sinh con trai là Thái Văn Châu, thì chồng bà
(khi ấy đã là Y sĩ Đông Dương) phải qua Pháp tham chiến trong cuộc chiến tranh Pháp
- Đức (1914-1918). Khoảng cuối năm 1919, chồng bà bị bệnh phổi phải trở về Huế,
rồi mất vào mùa thu năm 1920 (ngày 25 tháng 7) khi bà còn đang học ở trường Nữ Sư
phạm Hà Nội.
Tương Phố thuộc hàng nữ lưu tân tiến những năm 20 của thế kỷ XX. Bà bắt đầu
làm thơ vào khoảng những năm ông Du phải đi xa, và số thơ này đều có chủ đề chung
là nỗi nhớ mong chồng.
Sau khi chồng mất, năm 1923 (hoặc 1922), bà viết một bài văn xuôi có xen tám
đoạn thơ lục bát và song thất lục bát, mang tên là “Giọt lệ thu”, được đăng báo năm
1928. Đây là tác phẩm gây được tiếng vang trên văn đàn thời bấy giờ và cũng đã khơi
dòng văn chương lãng mạn sầu não trong văn học Việt Nam hiện đại. Nội dung bài là
tiếng khóc thê thiết của một người vợ trẻ (Tương Phố) chờ chồng suốt ba năm, nhưng
khi chồng (Thái Văn Du) về tới Huế, chẳng bao lâu thì mất. Đầu những năm 30, bài
văn này đã được một nữ dịch giả người Pháp dịch ra tiếng Pháp, được một số nhà phê
bình Pháp chú ý và không ngớt tán dương.
Sau đó bà tiếp tục viết những bài văn thơ cùng loại, đăng báo Nam Phong, về
sau được tập hợp thành các tập: “Giọt lệ thu”, “Mưa gió sông Tương”, “Trúc mai”...
Năm Ất Sửu (1925), bà tái giá với Tuần phủ Phạm Khắc Chánh ở Phúc Yên
(nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc).
Sau năm 1945, Tương Phố vào sống ở Nha Trang rồi mất ở Đà Lạt vào ngày 8
tháng 11 năm 1973, được an táng tại đồi Tương Sơn, thành phố Đà Lạt.
I.2. Sự nghiệp thơ văn và đóng góp của Tương Phố
Tương Phố bước vào Nam Phong và nổi danh với bài “Giọt lệ thu” (số 131,
tháng 7, 1928). Từ đó, bà trở thành một cây bút phụ nữ rất được chú ý.
Tương Phố đã đóng góp cho văn chương thời đại một tiếng khóc ảo não, trong
đó có âm hưởng khúc ngâm chinh phụ và nỗi buồn sinh li tử biệt của văn chương
truyền thống, đồng thời cũng nhuốm màu sắc thời đại – đó là nỗi buồn và cả một “bể
thảm trời sầu” của lớp thanh niên thời ấy. Có thể coi Tương Phố là nhịp cầu nối của
văn thơ truyền thống với thời hiện đại: người ta vẫn thấy những cảm xúc và nét luân lí
cũ được thể hiện bằng bút pháp ước lệ, lời văn biền ngẫu nhưng đã có được sự say
đắm, tha thiết và những cảm xúc lãng mạn báo hiệu cho sự hình thành dòng văn học
lãng mạn vài năm sau.
Nói đến Tương Phố, người ta nghĩ ngay đến tác phẩm “Giọt lệ thu” nổi tiếng.
Tuy nhiên, ta cũng không thể không nhắc đến những sáng tác khác rất đáng chú ý của
bà như: “Trúc Mai” (truyện dài bằng thơ); “Một giấc mộng” (truyện, 1928); “Mối
thương tâm của người bạn gái” (văn xuôi, 1928); “Bức thư rơi” (văn xuôi, 1929);
“Tặng bạn chán đời” (thơ 1929), “Tái tiếu sầu ngâm” (thơ lục bát, 1930), “Khúc thu
hận” (thơ song thất lục bát, 1931), “Đời đáng chán” (thơ song thất lục bát, 1932),...
Trong các bài kí sự sau “Giọt lệ thu”, Tương Phố có vẻ muốn tiến tới thể đoản
thiên. Tác giả tự thuật lại mình, lại đem một vài nhân vật ở ngoài vào, tạo ra một chút
động tác. Tuy nhiên, cách kết cấu rất sơ sài và câu chuyện có khi rất giả tạo. Bởi tác
giả viết để giảng luân lí, để giãi bày những tư tưởng về nhân sinh, về thời thế nên câu
chuyện có phần khiên cưỡng.
“Một giấc mộng” thuật lại dưới hình thức bức thư gửi cho người bạn gái kể về
cuộc phiếm du trong mộng của tác giả. Trong đó, tác giả gặp các cô bạn gái và cùng
nhau bàn luận về địa vị nữ giới, hạnh phúc gia đình, văn minh Âu Á và “đời đáng chán
hay không đáng chán”...
“Mối thương tâm của người bạn gái” lại là những trang văn miêu tả lời người
bạn gái của tác giả giãi bày những lẽ vì sao mình khóc. “Bức thư rơi” viện cớ lượm
được một bức thư rơi nên đưa đăng lên báo – trình bày những ý kiến của tác giả về
thời thế...“Tặng bạn chán đời” là lời tự thuật của một bạn gái kể chuyện một nữ sinh
thi hỏng về nhà lại gặp cảnh dì ghẻ con chồng nên muốn tự mình kết liễu cuộc sống.
Thế nhưng sau khi nghe người ở ngăn cản, thuyết lí tại sao không nên chán đời và
nghe tin tự sát của cậu công tử đàng điếm chán đời nhà hàng xóm, cô đã nghĩ lại và
tìm ra lẽ sống ở đời.
Ta thấy rằng những thiên kí sự trên của Tương Phố đều mang chủ ý cảnh thế,
trong cái chủ trương chung làm văn nghệ để phục vụ luân lí của Nam Phong. Về kĩ
thuật thì động tác bị hi sinh cho thuyết lí. Tác giả đặt ra một khung cảnh cho có
chuyện, cốt để giãi bày những ý kiến xây dựng của mình về nhân sinh về thời thế. Đến
câu văn thì tuy ở các bài về sau không quá cầu kì đẽo gọt như ở “Giọt lệ thu”, song
vẫn săn sóc, trau chuốt ở từ ngữ, ở nhịp điệu cho đẹp và êm. Văn xuôi có nhịp có vần
không khác gì thơ. Tuy vậy nhưng ở buổi đầu đăng lên Nam Phong vẫn được nhiều
độc giả thưởng thức và tán thưởng.
Thơ của Tương Phố được đánh giá cao hơn văn xuôi do tính réo rắt và cảm
động lòng người cách chân thật. Quả thực, văn xuôi không phải thứ văn đẽo gọt mà
hay, đẽo gọt quá nhiều sẽ làm cho lời văn mất tự nhiên. Hơn nữa, thường thì cái hay
của văn xuôi trước hết ở nghĩa của lời. Do đó, nếu lời quá rườm sẽ làm cho văn trở nên
sáo rỗng, không thật. Vì vướng phải những khuyết điểm trên nên văn xuôi của Tương
Phố không được đánh giá cao. Ngược lại, ở mảng thơ ca, những lời và ý được viết ra
từ chính tâm can của bà lại mang đến hiệu quả cao.
Ngoài “Giọt lệ thu”, Tương Phố còn có bài “Khúc thu hận” và “Tái tiếu sầu
ngâm” cũng rất được chú ý.
Bài “Khúc thu hận”( Nam Phong, số 164 – 7/1931) làm thể song thất lục bát
khá điêu luyện về ý tứ và hình thức. Nhiều câu rất giống với “Chinh phụ ngâm” của
dịch giả Đoàn Thị Điểm.
“Chàng đi, đi chẳng trở về
Thu về, thiếp những tê mê dạ sầu!
Làng mây nước biết đâu nhắn gửi?
Khoảng đất trời để mãi nhớ thương... ”
Đem so với “Chinh phụ ngâm” sẽ thấy rất giống những câu như:
“Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
Thiếp thì về buồng cũ gối chăn.
Đoái trông theo đã cách ngăn,
Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh”.
Đến những câu tình ý đậm đà, thiết tha, thể hiện rõ lời than của người thiếu
phụ:
“Nỗi li hận mây chiều gió sớm,
Tình tương tư khoảng vắng canh trường
Gió mưa tâm sự thê lương
Chỉ kim ai vá đoạn trường nhau đây!”
Bài “Tái tiếu sầu ngâm” làm khi bà tục huyền chứa tình ý đậm đà và thiết tha
của một người nuốt lệ ngậm cười mà ôm cầm thuyền khác vì nghĩ đến đứa con côi
không nơi nương tựa:
“E dè buổi gió chiều mưa
Con côi mẹ góa dễ nhờ nương đâu?
Bước đi âu cũng thương nhau
Dừng chân đứng lại cơ mầu dở dang
Dây loan chắp mối đoạn tràng
Ngâm câu “tái tiếu” hai hàng lệ sa... ”
Tương Phố có những bài thơ nhắc người ta tình cảm cố hương sâu đậm1:
“... Nhớ ngày đông, giá cóng tay,
Nhớ thu sang, ngọn gió may lạnh lùng
1 Thơ Tương Phố dẫn trong phần này lấy từ Văn học Việt Nam (1900 – 1945), NXB Giáo dục, tái bản lần thứ
13, 2010, Hà Nội, trang 237 – 238.
Nhớ xuân, muôn tía ngàn hồng
Nhớ sen mùa hạ nở tung mặt hồ
Đồng quê, nghĩ nhớ con cua
Lũy tre gió lộng vi vu sáo diều
Quê nhà đầm ấm bao nhiêu
Mẹ cha, em nhớ bao chiều yên vui”.
Bài thơ khiến người ta liên tưởng đến câu ca dao về người con gái đi lấy chồng
xa, nhớ nhà: “Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”, mà vẫn mang nỗi buồn da diết
của thời đại tác giả:
“Bắc Nam duyên phận xa xôi
Hương quan nghìn dặm mấy hồi chiêm bao!”
Trong thơ Tương Phố, người ta gặp những motif mới về quan hệ vợ chồng. Từ
cái ghen của người vợ:
“Nhớ ngày xưa anh cảm chị Hằng
Đa tình đến nỗi thương trăng lạnh lùng
Rẽ mây ước tới Thiềm cung
Nguyện đem chăn gối bạn cùng Thường Nga.
Vợ gần, cảm bóng trăng xa
Ghen trăng, vợ bẳn: “Hằng Nga... Nga gì!”
(Nụ cười dưới trăng – Mưa gió sông Tương)
đến tình cảm vợ chồng:
“... Cùng nhau hú hí sớm trưa
Bữa cơm giấc ngủ cùng chờ đợi nhau
... Yêu có phút lặng nhìn chẳng chớp
Trông nhau cùng muốn nuốt nhau đi”.
(Tự tình – Mưa gió sông Tương)
Đặc biệt, có những câu thơ của Tương Phố đi xa hơn trong tình cảm lãng mạn
mà thơ xưa không hề có:
“Thân này, đôi dẫu đủ đôi
Lòng này, riêng vẫn lẻ loi tấm lòng!
Theo duyên ân ái đeo bòng
Trăm năm vẫn một khúc lòng bi thương!”
(Tái tiếu sầu ngâm)
Quả thực, Tương Phố đã đóng góp cho văn học Việt Nam tinh thần bản sắc khi
sử dụng những thể thơ thuần Việt để sáng tác. Không những thế, bà còn mạnh dạn viết
ra những chuyện tình cảm vợ chồng đời thường rất chân thật, không ước lệ, sáo rỗng.
Trong khi phần lớn phụ nữ đương thời còn chưa dứt ra khỏi những trói buộc phong
kiến thì đã có những người như Tương Phố đã biết thương kim, tích cổ, than nước, lo
đời, biết băn khoăn tư lự tới những vấn đề quan trọng sâu xa thì thực đáng quý trọng.
Tương Phố là một nữ sĩ có tài và là một trong những người tiêu biểu có ảnh hưởng đến
lịch sử văn học và lịch sử phát triển của phụ nữ Việt.
II. Đông Hồ
II.1. Đôi nét về tác giả Đông Hồ
Đông Hồ sinh năm Bính Ngọ (1906) tại làng Mỹ Đức, tỉnh Hà Tiên. Họ Lâm,
nhũ danh là Kỳ Phác (bộ ngọc), hộ tịch chép là Tấn Phác (Biện Hoà Tấn Phác), ông
bác đặc tiểu tự là Quốc Tỉ (truyền quốc ngọc tỉ) sau đổi là Trác Chi (Hữu phác ngọc,
nghi sử ngọc nhân điêu trác chi).
Vì tổ tiên mấy đời đều ở ven Đông Hồ ấn nguyệt, một thắng cảnh trong Hà Tiên
thập cảnh, nên khi bắt đầu biết làm thơ đã lấy hiệu Đông Hồ. Rồi “dĩ hiệu hành”, nghĩa
là đời biết tên hiệu đó hơn, không cần biết tên thật nữa.
Sau năm quốc biến 1945, ông dời nhà lên ở Sài Gòn, lại có biệt hiệu là Thủy Cổ
Nguyệt (chiết tự chữ “hồ”), là Đại Ẩn Am (Đại ẩn ẩn thành thị). Vì sinh trưởng ở nơi
cùng tịch, nên chữ Pháp, chữ Hán đều được học rất ít. Chỉ chuyên tự học tiếng Việt mà
thành một văn tài, thi tài.
Có tiếng từ năm 1923 đến năm 1933, ông là một cây bút miền Nam chịu ảnh
hưởng mạnh của Nam Phong. Ban đầu, ông chuyên sao lục thi văn của Nho gia miền
Nam và gửi đăng trên Nam Phong. Sau đó gửi đăng chính thơ của ông. Từ năm 1926,
ông thường có bài trên Nam Phong, trở thành một cộng tác viên và đại biểu cho phái
Nam Phong ở Nam Kì. Ông chủ yếu biên soạn, khảo cứu, kí sự, tùy bút, trong đó, làm
văn nhiều hơn làm thơ.
Năm 1935, báo Nam Phong đình bản, ông nghỉ viết, tự ra chủ trương tuần báo
“Sống”, tự lực xuất bản ở Sài Gòn. Được ít lâu vì không tự túc nổi nên tuần báo của
ông cũng đình bản.
Từ năm 1936 đến năm 1945, ông về Hà Tiên ẩn cư.
Năm 1953, Đông Hồ làm giám đốc “Nhân Loại tập san”, xuất bản ở Sài Gòn để
làm cơ quan cho nhà xuất bản Bốn Phương và nhà Sách Yiểm Yểm thư trang sáng lập
từ năm 1950.
Thành tích đáng ghi nhận hơn hết là từ năm 1926 đến năm 1934, ông mở nhà
nghĩa học trên bờ Đông hồ, lấy tên là “Trí Đức Học Xá”, tự mình làm trưởng giáo, chủ
trương chuyên dạy toàn tiếng Việt, luôn luôn cổ động khuyến khích cho học trò và bạn
bè tin vào tương lai Việt Ngữ. Trường này dụng ý theo lối giáo dục đạo học, sống gần
thiên nhiên như nhà tịnh xá Santiniketan của thi hào R.Tagore ở Ấn Độ.
Trường mở cả lớp hàm thụ để cho học trò ở xa Hà Tiên cũng có thể tập luyện
tiếng Việt, cho nên, trong mấy năm liền, đã gây được ảnh hưởng tốt ở miền Nam.
Ngày 25 tháng 3 năm 1969 (tức ngày mồng 8 tháng 2 năm Kỷ Dậu), trên một
giảng đường ở Đại học Văn Khoa (bây giờ là Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
thành phố Hồ Chí Minh), Đông Hồ đã bất ngờ ngã xuống lúc đang bình bài thơ “Trưng
nữ vương” của Ngân Giang. Bài thơ nói về nỗi cô đơn, lạnh lẽo của người nữ anh hùng
chạnh nhớ tới chồng sau chiến thắng, một tứ thơ rất độc đáo, rất nữ tính mà Đông Hồ
đã tinh tế chỉ ra. Được các học trò đưa vào bệnh viện, ông mất ngay ngày hôm đó.
II.2. Sự nghiệp thơ văn và đóng góp của Đông Hồ
Tác phẩm đã xuất bản thành sách:
- “Úc Viên Thi Thoại” (1909)
- “Hà Tiên Mạc thị sử” (1929),
- “Thơ Đông Hồ” gồm các bài từ khi mới làm thơ năm 1922 đến năm 1932
(Nam ký thư quán Hà Nội xuất bản năm 1932).
- “Lời hoa”, nhuận sắc các bài tập Việt văn của học trò Trí Đức Học Xá. Hợp
thái trong ba tập: “Bông hoa đầu mùa”, “Bông hoa đua nở”, “Bông hoa cuối mùa” (Trí
Đức Học Xá Hà Tiên xuất bản, năm 1934).
- “Linh Phượng”, đã đăng ở Nam Phong tạp chí năm 1928 (Nam ký thư quán
Hà Nội xuất bản năm 1934).
- “Cô gái xuân”, thơ mới, làm trong khoảng 1932-1935 (Vị Giang văn khố Nam
Định xuất bản năm 1935).
- “Những lỗi thường lầm trong sự học quốc văn”, biên soạn chung với Trúc Hà
(Trí Đức Học Xá xuất bản, năm 1936).
- “Hà Tiên thập cảnh”, in chung với “Đường vào Hà Tiên” của Mộng Tuyết
thất tiểu muội (Xuất bản Bốn Phương, Sài Gòn, năm 1960).
- “Trinh trắng”, thi tuyển (Xuất bản Bốn Phương, Sài Gòn, năm 1961).
- “Truyện Song Tinh”, khảo cứu và sao lục “Song Tinh bất dạ truyện”, diễn ca
của Nguyễn Hữu Hào đầu thế kỷ XVIII (Xuất bản Bốn Phương, Sài Gòn, năm 1962).
- “Chi lan đào lý, tùy bút tâm tình” (trích in, tạp chí Bách khoa thời đại, tháng 7
năm 1965).
- “Năm ba điều nghĩ về Truyện Kiều”, thuyết trình nhân dịp kỷ niệm 200 năm
sinh Nguyễn Du (trích in,Văn hóa nguyệt san, tháng 10-11, năm 1965).
- Biên khảo: “Văn Học Miền Nam: Văn Học Hà Tiên” (1970).
Mặc dù có viết nhiều bài văn xuôi loại kí sự, biên khảo nhưng văn nghiệp của
Đông Hồ cốt yếu là về thi ca. Những bài thơ đầu tiên của ông đăng trên Nam Phong số
15 (“Trác Chi thi văn tập”, 12 bài). Từ đó thỉnh thoảng ông vẫn có bài trong Nam
Phong. Số Nam Phong 151 đăng rất nhiều bài của ông nhân dịp ông tục huyền. Năm
1932, ông thu góp những bài đã đăng, thêm vào nhiều bài mới và xuất bản tập “Thơ
Đông Hồ”.
Đông Hồ sinh trưởng ở miền Nam song tự đào tạo theo thẩm thức văn chương
miền Bắc. Đọc thơ ông người ta thấy ở giọng câu mặt chữ rất ít dấu vết thổ ngơi miền
Nam. Ông ít làm đoản ca lục bát, không hề làm hát nói, càng không biết đến những thể
bình dân miền Bắc như xẩm chợ, đò đưa, mà thường chỉ xu hướng về lối ngũ ngôn thất
ngôn hay đôi khi là song thất lục bát.
Thơ Đông Hồ nói chung có tính phong độ cổ kính và trang nhã. Nhất là những
bài họa cảnh thác tình phảng phất khí vị Đường nhân, tuy lời thơ kém hàm súc cô
đọng. Ví như bài “Chơi Bạch tháp động”:
“Bạch vân thăm dấu cũ
Người Bạch vân đã vắng
Người Bạch vân chẳng thấy
Hỏi đá đá không nói
Nhìn đá lòng ngơ ngẩn
Kim cổ mầu rêu phủ
Ngàn cây cơn gió thoảng
Nghe kinh lòng tục sạch
Trần gian hay cực lạc
Người này tình cảnh ấy
Bạch tháp nhớ người xưa
Động Bạch tháp còn trơ
Chòm Bạch vân phất phơ
Hỏi mây mây làm ngơ
Trông mây dạ thẫn thờ
Tang thương bóng nhạt mờ
Cửa động tiếng chuông đưa
Lắng kệ giấc tiên mơ
Bây giờ là bao giờ
Lai láng mảnh hồn thơ”.
Người ta thường thấy ở ông một tâm hồn bình thản xa với cái rung động thiết
tha, não nề của Hải Nam, Á Nam. Nhà thơ Đông Hồ sống bình lặng trong cái thế giới
Hà Tiên của ông và ưu diễn tả những tình cảm nghệ sĩ đôi khi hời hợt bằng những câu
thơ trang sức một cách dễ dàng. Tuy nhiên, khi bị tác động bởi tang tóc chia li, ngòi
bút thơ của ông cũng thốt ra những lời bi thiết như trong bài “Linh Phượng lệ ký”.
Nếu Tương Phố có “Tái tiếu sầu ngâm” thì Đông Hồ cũng có “Tục huyền cảm
tác”:
“Chim linh phượng một bay chẳng lại
Nhà độc thê mưa vẩy lệ sầu
Gió mưa hai độ xuân thu
Khắp trong non nước toàn màu thê lương”.
Những bài thơ nước mắt như trên đã đi vào lòng độc giả đương thời và gây xúc
động sâu sắc. Nhưng đối với thế hệ sau thì sức hấp dẫn của chúng đã không còn mạnh
mẽ. Tuy nhiên, con đường thi nghiệp của Đông Hồ còn dài. Ra khỏi giai đoạn 1932,
ông tiếp tục thích nghi với giai đoạn mới. Và về sau, tuy không vươn hẳn lên tỏa sáng
song thơ ông vẫn tiếp tục ra đời và ngả dần sang màu sắc thơ mới. Ngay 1935, tập “Cô
gái xuân” của ông ra đời với những bài như “Bốn cái hôn” hay “Mua áo” đã đưa tác
giả lên một vị thế khác.
Có thể nói rằng, từ tập “Thơ Đông Hồ” cũ kỹ đến tập “Cô gái xuân” mới mẻ,
người ta nhận thấy một sự biến đổi, thay hình mới mẻ. Từ chất lãng mạn trong khuôn
khổ cổ điển, Đông Hồ nhanh chóng chuyển theo dòng thơ mới lãng mạn qua tập “Cô
gái xuân” (in trong Vị giang văn khố, Nam Định) gồm những bài thơ sáng tác từ năm
1932 đến năm 1942.
Nhà phê bình Trần Thanh Mại khi viết truyện ký Hàn Mặc Tử (Huế, 1941)
cũng có ý nhắc nhớ tới hiện tượng Đông Hồ đã mau chóng từ bỏ lối cảm lối nghĩ xưa
cũ, hóa thân và đam mê nhập cuộc làng Thơ mới: “Ở tận góc trời Nam, ông Đông Hồ
Lâm Tấn Phác, không cưỡng nổi với phong trào mới, cũng đành bỏ hồ, bỏ động của
mình mà về nhập ngũ vào đạo binh cách mệnh”2
2 Dẫn theo PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn, Người đương thời thơ mới bàn về thơ Đông Hồ,
Hà Nội, 2010, trang 2.
Trong bài mở đầu “Một thời đại trong thi ca” ở bộ sách tổng thành “Thi nhân
Việt Nam” (Nguyễn Đức Phiên xuất bản, Huế, 1942), Hoài Thanh - Hoài Chân nhận
diện Đông Hồ trong toàn cảnh nền thơ đương thời:
“Chung quanh ngôi sao Thế Lữ châu tuần bao nhiêu hành tinh có tên và không
tên, hầu hết các thi sĩ lớn nhỏ hồi bấy giờ (...). Cả những vì sao vốn ở một trời khác:
Vân Đài, Đông Hồ, Mộng Tuyết, cũng ghé về châu tuần một lúc...
[]Ngoài Lưu Trọng Lư, Phan Văn Dật, Nguyễn Nhược Pháp, Nguyễn Bính,
Nguyễn Đình Thư, Vũ Hoàng Chương, trong dòng Việt cơ hồ không còn ai. Hoặc
cũng có thể tìm thấy ở đây: Đông Hồ, Nguyễn Xuân Huy, Thúc Tề, Nguyễn Vỹ (trong
bài “Gửi Nguyễn Vỹ”), T.T.Kh, Hằng Phương, Mộng Huyền, Trần Huyền Trân.
Nhưng không lấy gì làm rõ lắm”
Thế rồi hai tác giả tuyển bốn bài đều từ tập “Cô gái xuân” vào “Thi nhân Việt
Nam” (tương đương với số bài của Tế Hanh, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, J. Leiba, Vũ
Hoàng Chương) và đi sâu phân tích đặc điểm thơ Đông Hồ:
“Hoàn cầu dễ ít có thứ tiếng được âu yếm, nâng niu như tiếng Nam. Âu cũng vì
tiếng Nam đương ở trong cảnh khốn cùng, đương bị nhiều người rẻ rúng. Thói thường
con nhà nghèo vẫn thương yêu cha mẹ hơn con nhà sang trọng.
[]Khốn nỗi, người ra đời vào lúc văn học nước nhà đương hồi tàn tạ. Vốn
tính hiền lành, không đủ táo bạo để gây nên giữa làng văn một cuộc biến động cần
phải có, lúc đầu người chỉ cam tâm hiến mình cho những lề lối xưa ràng buộc. Và
người cũng không hề lấy thế làm bứt rứt khó chịu, chưa bao giờ người có ý muốn thoát
ly.
Mặc dầu, sự tình cờ đã một đôi lần đưa người ra ngoài khuôn sáo. Trong tập
“Thơ Đông Hồ”, giữa bao nhiêu câu văn trơn tru mà tầm thường, trống rỗng, đột nhiên
ta gặp đôi lời dường như trong ấy ẩn náu một linh hồn. Như những lời thuật hoài sau
khi nàng Linh Phượng đã thành người thiên cổ:
“Mối sầu khôn dãi cùng trời đất;
Chén rượu đành khuây với nước non.
Cùng những lời nhớ bạn, hoặc thật thà:
“Khi biệt dễ dàng, khi gặp khó;
Chốn vui ai nhớ chốn sầu chi”.
hoặc kín đáo:
“Cái oanh đâu bỗng ngoài hiên gọi
Đã hai lần rồi xuân vắng mai”.
Với nỗi thắc mắc ấy, với nỗi buồn man mác ấy, Đông Hồ đã đi xa trường thơ
Nam Phong nhiều lắm.
Nhưng trong tập Thơ Đông Hồ, lạ nhất là bài “Tuổi xuân”, người ta có thể
tưởng nó đã ở đâu lạc tới. Đến khi tác giả đưa in lại vào tập “Cô gái xuân” ta mới thấy
nó tìm được hoàn cảnh tự nhiên của nó. Bởi vì trong bài “Tuổi xuân” có cái bồng bột,
cái trịnh trọng trước tình yêu mà cả thế hệ trước đây không từng biết: họ quen xem
người đàn bà như một thứ đồ chơi.
Đông Hồ vẫn là người của thế hệ bây giờ vậy. Cho nên phong trào thơ mới vừa
nổi lên là người nhận ngay được con đường của mình. Với phong trào thơ mới tưởng
không có sự đắc thắng nào vẻ vang hơn.
Từ nay, Đông Hồ sẽ chỉ ca tình yêu và tuổi trẻ. Ngòi bút của thi nhân riêng âu
yếm những nỗi lòng của người thiếu nữ, khi bình yên lặng lẽ, khi phơi phới yêu
đương. “Cô gái xuân” của Đông Hồ thỏ thẻ những lời đến dễ thương, những lời tuồng
như lả lơi mà vẫn trong sạch. Ta thấy trong lời nàng cái êm dịu, cái mơn trớn, vuốt ve
của tình ái. Nghe nàng nói lòng nào không xiêu? Nhất là khi nàng kể cảnh ái ân trên
bãi biển ta khó có thể không cùng nàng tơ tưởng đến những cảnh ấy. Đông Hồ là
người thứ nhất đã đưa vào thi ca Việt Nam cái vị bát ngát của tình yêu dưới trăng
thanh, trong tiếng sóng.”[38, 350 - 351]
Vào đúng năm 1942 này, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đã có bài phác thảo chân
dung Lâm Tân Phác (Hiệu Đông Hồ, tự Trác Chi) trong sách “Nhà văn hiện đại”
(Quyển nhất, NXB Tân dân, H,. 1942), trong đó dẫn giải và phân tích chi tiết sắc thái
thơ Đông Hồ:
...“Gần đây, trong Nam, số thi nhân mỗi ngày một ít, nên khi nói đến thơ Nam
Kỳ, ai cũng phải nhớ ngay đến thi sĩ Đông Hồ, người đã viết mấy bài có giá trị trong
tạp chí Nam Phong. Cách đây hai mươi năm, Đông Hồ có đăng nhiều bài thơ trong tạp
chí này, mà bài xuất sắc hơn cả, làm cho ông nổi tiếng. Là bài lệ ký: Linh Phượng
(Nam Phong, số 128 - Avril 1928), bài Khóc vợ, mà Thượng Chi đã viết mấy lời giới
thiệu rất màu mè (...).
...Đông Hồ vốn là một thi sĩ giàu tình cảm nên văn bài Linh Phượng của ông là
một thứ văn đẽo gọt, lời nhiều hơn ý, lời tràn lan mà ý quanh co, như không bao giờ
hết...”[30, 124 - 125]
Sau đó, Vũ Ngọc Phan đã nhận xét rẳng: “Phần nhiều thơ của Đông Hồ kém
phần đặc sắc nếu đem so với thơ của những thi gia Nam Kỳ như Phan Văn Trị, Tôn
Thọ Tường. Giọng thơ Đông Hồ chẳng khác nào giọng những thơ của người Bắc đăng
trong mục “Văn uyển” của tạp chí Nam Phong hồi xưa, nghĩa là không có cái gì hỏng
mà cũng không có cái gì hay ho lắm.” Tác giả đã dẫn ra những dẫn chứng cho thấy thơ
Đông Hồ có nhiều bài “ngoài cái nhẹ nhàng, thanh nhã ra, không có cái gì làm cho
người đọc cảm động”.[30, 127]
Trái lại, Vũ Ngọc Phan đánh giá cao Đông Hồ trong việc dịch thơ. Ông viết
rằng: “Đông Hồ dịch thơ lại khéo lắm. Bài “Cái bình vỡ” dịch theo bài “La vese brisé”
của Sully Prudhomme, vừa sát nghĩa, vừa có nhiều câu tài tình.
Như mấy câu chữ Pháp:
“Souvent aussi la main qu’on aime,
Effleurant le cour, le meurtrit;
Puis le coeur sefend de lui même,
La fleur de son amour périt;
Toujors intact aux yeux du monde,
Il sent croitre et pleurer tout bas;
Sa blessure fine et profonde:
Il est brise, n’y touchez pas”.
Đông Hồ dịch là:
“Thường tình người ta có khác chi,
Phải tay người yêu chạm đến khi.
Chạm đến quả tim tê tái vỡ,
Hoa ái tình kia cũng héo đi.
Trông vẫn còn nguyên ai biết đâu,
Vết thương kia nhỏ nhưng mà sâu.
Lệ lòng mấy giọt âm thầm rỏ,
Bình vỡ, ai ơi, chớ động vào!”
Dịch như vậy không phải cái lối gò từng chữ, bó từng câu mà rất thoát nghĩa.
Đọc riêng bản dịch không ai biết là thơ dịch.”[30, 129 - 130]
Quả thật, trong tập “Cô gái xuân” (xuất bản năm 1935), giọng thơ ông đã đổi
mới ít nhiều. Tuy thể thơ vẫn còn là ngũ ngôn hay thất ngôn, nhưng ý trong nhiều bài
thật có khác những bài trong tập “Thơ Đông Hồ”. Đọc bài “Bốn cái hôn” trong tập
“Cô gái xuân”, người ta thấy ông đã chịu ảnh hưởng ít nhiều thơ mới.
Vốn xuất thân từ nho học nhưng ông là người đầu tiên ca ngợi cái hôn giữa trai
gái. Trong bài “Bốn cái hôn”, tuy phải xếp cái hôn của người yêu ở đằng sau cái hôn
của mẹ, của cha, của cô giáo nhưng so với thời ấy thì đã là táo bạo:
“Một hơi thở mát qua, dịu dàng
Như cơn gió biển thoảng bay ngang
Rồi luồng điện ấm chạm trên má,
Ân ái môi anh kề nhẹ nhàng”.
Ông đã diễn tả sự khao khát tình thương yêu của một thiếu nữ ngây thơ bằng
những lời thơ rất khéo. Đồng thời, tình yêu của đôi trai gái qua ngòi bút của Đông Hồ
diễn ra một cách nồng nàn mà không lẩn vào những ý trai lơ, dâm đãng:
“...Nay em đang giữa cảnh đêm xuân,
Gió trăng tình tứ đêm thanh tân.
Trước vùng trời biển cảnh lồng lộng,
Cùng anh trao đổi tình ái ân.
Khoác tay anh đi trên bãi cát,
Cát bãi, trăng soi màu trắng mát.
Nghiêng đầu lơi lả tựa vai anh,
Lặng nghe sóng bãi đưa rào rạt.
Nước mây êm ái bóng trăng sao,
Say sưa em nhìn lên trời cao,
Buông khúc đàn lòng theo nhịp gió,
Giờ phút thần tiên, hồn phiêu dao”.
(Bốn cái hôn)
Lời thơ nhẹ nhàng, êm ái như để ru cái tình yêu của đôi trai gái giữa một đêm
trăng trên bãi cát, theo với nhịp gió thoang thoảng, tiếng sóng ào ào, dường như tình
yêu của loài người cũng hoà cùng cảnh êm đềm và bát ngát của vũ trụ.
Bài “Mua áo” có những câu tả tình yêu một cách bóng bẩy mà táo bạo:
“Ô hay! Nghe hỏi mà yêu nhỉ!
Thước tấc anh còn lựa hỏi ai.
Rộng hẹp, tay anh bồng ẵm đó,
Ngắn dài, người mới tựa bên vai!”
Ngoài ra, Đông Hồ có một bài thơ vịnh Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích, làm thể
trường thiên cổ thi, lời cứng cáp, khác hẳn những bài tứ tuyệt uỷ mị trong tập “Thơ
Đông Hồ”.
“Chẳng đội trời Thanh Mãn
Tìm qua đất Việt bang;
Triều đình riêng một góc,
Trung hiếu ven đôi đường;
Trúc thành xây vũ lược,
Anh các dựng văn chương;
Tuy chửa là cô quả,
Mà cũng đã bá vương;
Bắc phương khi vỡ lở,
Nam Hải lúc kinh hoàng;
Giang hồ lòng lang miếu,
Hãn mặc thân chiến tràng;
Đất trời đương gió bụi,
Sự nghiệp đã tang thương;
Anh hùng lo thành bại,
Tuẫn tiết còn hiển vang;
Non bình mây khói giận,
Hồ Đông trăng nước gương;
Tâm sự sau xưa đất,
Nghìn thu một tấc vàng”.
(Nam Phong, số 143 - trang 343)
Những bài thơ hay của Đông Hồ, đều có cái đặc tính là trang nhã và nghiêm.
Tuy ông cũng hưởng ứng phong trào mà xuất bản tập “Cô gái xuân” nhưng người ta
chỉ còn nhớ ông là tác giả tập lệ ký “Linh Phượng” đăng trong Nam Phong cùng một
năm với bài “Giọt lệ thu” của Tương Phố, người khóc vợ, người khóc chồng, mỗi bên
riêng có một giọng ngậm ngùi, thảm thiết...
Khẳng định về tấm lòng yêu nước của Đông Hồ, trong “Chân dung văn học”
Hoài Anh đã dẫn chứng những cứ liệu rất quan trọng: “Lòng yêu nước của Đông Hồ
được gửi gắm vào cảnh sắc và lịch sử. Đông Hồ rất yêu Hà Nội và đã có quan hệ thư
từ trao đổi sách báo với Nguyễn Tuân từ năm 1942; năm 1926-1927, ông đã ra Bắc và
gặp Tản Đà; năm 1944, Nguyễn Bính khi ghé Hà Tiên, Đông Hồ đã nhường gian Nam
Phong tiểu các cho Nguyễn Bính để thi sĩ nằm đó mà làm thơ, Nguyễn Bính dừng gót
giang hồ ở đó một thời gian mới về Rạch Giá”.[1, 398]
Đông Hồ chưa phải là một hiện tượng đột xuất trong làng Thơ mới nhưng
người đương thời khắp trong Nam ngoài Bắc đã tỏ lòng tri ân, trân trọng ghi nhận một
tiếng thơ bình dị, chan chứa nghĩa tình. Con đường đi từ “Thơ Đông Hồ” đến “Cô gái
xuân” đã được giới phê bình đương thời đón nhận, khẳng định như một bước tiến,
chứng tỏ khả năng tự vận động, đổi mới và hòa nhập của Đông Hồ với phong trào Thơ
mới 1932-1945, góp phần xây dựng và nối kết vùng văn học cực Tây Nam Bộ với nền
văn học Việt Nam dân tộc và hiện đại.
Phần thứ ba
KẾT LUẬN
Xét chung trong chuyển động của tiến trình xã hội và văn học, thơ Việt Nam từ
đầu thế kỉ XX đến những năm 30 đã có những nhịp đi và bước nhảy ngoạn mục tạo đà
cho một cuộc cách mạng trong thơ ca thực thụ bắt đầu liền sau đó (1932-1945). Cuộc
cách mạng nằm trong dòng chảy của quá trình hiện đại hóa đất nước, hiện đại hóa đời
sống, tư tưởng, văn hóa, văn học. Lẽ đương nhiên, văn học dần dần vượt ra khỏi ảnh
hưởng của tư tưởng Trung Hoa cổ tiếp xúc với các trào lưu tư tưởng, văn hóa, văn học
hiện đại của thế giới trên một cơ sở, một cái gốc chung là yêu nước, dân tộc hoặc sôi
nổi, mạnh mẽ, hoặc âm thầm kín đáo và được thể hiện bằng nhiều dạng thức khác
nhau. Từ Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền đến Tản Đà, Tương Phố, Đông Hồ,
Trần Tuấn Khải... và các nhà thơ mới sau này luôn có những đột biến bất ngờ với sự
phân nhánh, chia dòng, đứt gãy,... về mặt nội dung hay hình thức của thơ ca.
Ngày mà thơ Tương Phố và Đông Hồ ra đời, họ đã mang đến cho thi đàn công
khai một “ngọn gió thu” hiu hắt sầu thảm với những giọt lệ sầu bi của kẻ khóc chồng,
người khóc vợ. “Giọt lệ thu” của Tương Phố và “Linh Phượng lệ ký” của Đông Hồ
thường được ghép liền với nhau như hai áng văn dẫn đường cho bầu không khí sầu
thảm đi vào văn chương thời đó. Từ đó trở đi, trong thơ của người sau 1932 được xếp
vào hàng các nhà thơ mới cũng toàn một màu buồn, một sự đổ vỡ mang tính thời đại.
Có thể nói rằng, đóng góp của Tương Phố và Đông Hồ chủ yếu ở địa hạt văn
chương, trong đó “Giọt lệ thu” và “Linh Phượng lệ ký” là một trong những dấu ấn khó
phai mờ trong lịch sử văn chương dân tộc ở thập niên thứ ba của thế kỷ XX. “Hai giọt
lệ” như tiếng kêu réo rắt, bi thiết của cá nhân con người hòa trong không khí buồn đau
chung của thời đại, góp phần báo hiệu “một thời đại mới trong thi ca” dân tộc – thời
đại của Thơ mới lãng mạn với những tên tuổi sáng chói như: Thế Lữ, Lưu Trọng Lư,
Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử...
Về mặt nội dung, “Hai giọt lệ” đã đóng góp một số điều mới mẻ có ý nghĩa
hiện đại hóa. Đó là sự thể hiện ở dạng trực tiếp con người cá nhân, cá thể với khát
vọng thổ lộ, chia sẻ của cái “tôi” ở buổi sơ khai, chân tình nhưng còn nhiều ấu trĩ, và
hợp với quy luật phát triển của văn học. Đồng thời, “Hai giọt lệ” cũng mới ở cảm xúc,
ở tư tưởng. Vắng một người thế gian thành hoang lạnh. Trước nỗi cô đơn, mất mát,
cộng đồng trở thành bóng mờ: giữa lúc bơ vơ ấy, thì ngay đại gia đình cũng chỉ có thể
làm nơi tạm trú cho thân xác thuộc phần đời thường phàm tục, chứ không còn thể là
nơi trú ngụ cho cả tâm hồn của người nữ sĩ Không những thế, tình yêu lứa đôi dưới
góc độ tình cảm chồng vợ cũng được thể hiện khá chân thực.
Về phương diện hình thức, tuy văn của hai bài còn mang dấu ấn khá sâu nặng
của văn biền ngẫu nhưng đã khá uyển chuyển và mới mẻ. Chúng mới ở hình thức phu
diễn chen “văn xuôi” với thơ để phục vụ nhu cầu diễn đạt. Ngoài ra, “văn xuôi” lại réo
rắt biền ngẫu trong sáng tác của Tương Phố và trái lại, với Đông Hồ, nhiều đoạn lại
như là “thơ văn xuôi”... Tất thảy chúng đều thể hiện tính chất giao thời đặc trưng của
giai đoạn.
Trong thơ mới, cái “tôi” cá nhân như điểm tựa nhìn ra thế giới, trở thành một
nguyên tắc cắt nghĩa và lí giải thế giới. Chính cái “tôi” cá nhân ấy đã mang lại cho thơ
mới một nhãn quan ngôn ngữ mới, phù hợp với tâm lí và công chúng của thời đại mới,
góp phần để sẽ cùng làm nên một “cuộc cách mạng cho thi ca”.
Tất cả những điều trên cho thấy trong thế giới nghệ thuật thơ Tương Phố -
Đông Hồ, về cơ bản những chất liệu vẫn lấy từ chất liệu cũ của thơ trung đại nhưng
được mở rộng, cách tân. Tư duy thơ của Tương Phố - Đông Hồ cơ bản vẫn là lối tư
duy truyền thống, và điều đó ảnh hưởng chi phối đến quá trình lựa chọn ngôn từ cũng
như hình thức biểu hiện. Mặc dù cố gắng rất nhiều và đã thành công phải nói vang dội,
lúc mới ra, nhưng chỉ ít lâu, cả hai đã thành cũ kĩ, công chúng thờ ơ, vì họ đã bị vượt
qua. Mặc dù Đông Hồ có bước tiếp thành một nhà Thơ mới, song người ta nhớ ông
trước hết và chủ yếu vì ông có “Linh Phượng lệ ký”. Tương Phố - Đông Hồ đã góp
phần khuấy nên bầu không khí mới mẻ buổi đầu khi thi đàn hầu như vẫn im lìm trong
phạm trù trung đại. Ý nghĩa hiện đại hóa mà họ mang lại vẫn là sự cách tân trên cái
nền cơ bản của thi ca truyền thống. Về sau khi thơ mới nở rộ thì Tương Phố và Đông
Hồ bị nhanh chóng vượt qua.
Sáng tác của Tương Phố - Đông Hồ giai đoạn giao thời đã góp vào dàn đồng ca
lãng mạn của thi đàn những viên gạch đầu tiên làm cầu nối giữa hai thời đại văn học.
Có thể nói, thơ của họ đã đi đến điểm tận cùng của thơ ca truyền thống, và cũng chính
họ đồng thời dợm những bước đầu tiên “vượt đường biên” sang hiện đại. Trong bối
cảnh lịch sử của giai đoạn văn học giao thời những năm đầu thế kỉ XX, ý nghĩa hiện
đại hóa mà “Hai giọt lệ” đã mang lại, dù không thật nhiều và không thật bề thế, song
cũng đã là đóng góp cần thiết và đáng quý; nói được thế này chăng: hai tác giả -
Tương Phố, Đông Hồ - thuộc số không nhiều những thi sĩ được lịch sử văn học dân tộc
trao cho sứ mệnh làm hiện thân của qui luật? Dẫu sao thì đó cũng là điều đáng trân
trọng biết bao!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoài Anh (2001), Chân dung văn học, NXB Hội nhà văn.
2. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại – nhận thức và thẩm định, NXB
Khoa học xã hội.
3. Vũ Tuấn Anh (2012), Những sự kiện văn học Việt Nam (từ 1865 đến 1945), NXB
Khoa học xã hội.
4. Nguyễn Đình Chú (1999), “Vấn đề “ngã” và “phi ngã” trong văn học Việt Nam
trung đại”, Tạp chí Văn học, số 5, trang 38 – 43.
5. Chinh phụ ngâm (2012), NXB Văn hóa thông tin.
6. Các nhà thơ nữ Việt Nam - sáng tác và phê bình (2001), NXB Giáo dục.
7. Phan Cự Đệ chủ biên (2004), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, NXB Giáo dục.
8. Tản Đà (2001), “Tản Đà về tác gia và tác phẩm”, NXB Giáo dục.
9. Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ hiện đại Việt Nam, NXB Giáo
dục.
10. Hà Minh Đức (2012), Một thế kỉ thơ Việt Nam (1900 – 2000), NXB Khoa học xã
hội.
11. Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền (2006), Nữ sĩ Việt Nam – tiểu sử và giai thoại cổ -
cận – hiện đại, NXB Văn học.
12. Trần Đình Hượu tuyển tập – tập 2 (2007), NXB Giáo dục.
13. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Văn học Việt Nam (từ thế kỉ X đến thế kỉ XX), NXB
Đại học quốc gia Hà Nội,.
14. Lê Quang Hưng (sưu tầm và chỉnh lí) (2000), Nghệ thuật và nhân sinh tuyển tập,
NXB Văn hóa thông tin Hà Nội.
15. Trịnh Đình Khôi (2001), “Nghĩ về văn học Việt Nam thế kỉ XX”, Tạp chí Văn học,
số 10, trang 13 – 20.
16. Thanh Lãng (1997), Bảng lược đồ văn học Việt Nam (quyển hạ), NXB Trình Bày.
17. Mã Giang Lân (1998), “Chữ quốc ngữ và sự phát triển thơ ca đầu thế kỉ XX”, Tạp
chí Văn học, số 8, trang 45 – 50.
18. Mã Giang Lân (2000), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, NXB Giáo dục.
19. Phong Lê (1983), “Đóng góp của văn thơ Hà Bắc hiện đại và vấn đề phát triển
văn nghệ địa phương”, Tạp chí Văn học, số 2, trang 84 – 96.
20. Phong Lê (1994), Văn học trong hành trình tinh thần của con người – tập tiểu
luận, NXB Lao động.
21. Phong Lê (2001), “Trên quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam vào nửa đầu thế
kỉ XX”, Tạp chí Văn học, số 1, trang 11 – 16.
22. Phong Lê (2002), “Thời kì văn học Việt Nam và cuộc chuyển giao từ văn học trung
đại sang văn học hiện đại”, Tạp chí Văn học, số 8, trang 3 – 6.
23. Phong Lê (2009), Hiện đại hóa và đổi mới văn học Việt Nam thế kỉ XX, NXB Đại
học quốc gia Hà Nội.
24. Nguyễn Tấn Long (2000), Việt Nam thi nhân tiền chiến toàn tập, NXB Văn học.
25. GS Nguyễn Đăng Mạnh (2004), Tinh tuyển văn học Việt Nam – tập 7, quyển 1
(Văn học giai đoạn 1900 – 1945), Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc
gia, NXB Khoa học xã hội.
26. Hương Nguyên (2002), “Các nhà văn nữ Việt Nam thời Pháp thuộc”, Tạp chí Văn
học, số 3, trang 63 – 70.
27. Bùi Văn Nguyên - Hà Minh Đức (1999), Thơ ca Việt Nam – hình thức và thể loại,
NXB thành phố Hồ Chí Minh.
28. Phạm Thế Ngũ (1998), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập III), NXB
Đồng Tháp.
29. Vương Trí Nhàn (2002), “Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hoá trong văn
học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX cho tới 1945”, Tạp chí Văn học, số 1.
30. Vũ Ngọc Phan toàn tập (2010), NXB Văn học.
31. Phê bình – bình luận văn học (1992), NXB Tổng hợp Khánh Hòa.
32. Hoàng Phê (chủ biên) (2009), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
33. Phan Diễm Phương (1995), “Thể thơ dân tộc và sự lựa chọn của nền văn học
mới”, Tạp chí Văn học, số 11, trang 22 – 24.
34. Phan Diễm Phương (2000), Lời giãi bày của văn chương – Phê bình tiểu luận,
NXB Khoa học xã hội.
35. Nguyễn Hữu Sơn (1993), “Vấn đề cá nhân trong văn học cổ nhìn từ góc độ lí
thuyết”, Tạp chí Văn học, số 3, trang 7 – 11.
36. Trần Đình Sử (1995), “Thời trung đại – cái tôi trong các học thuyết, trong đời
sống và trong văn học”, Tạp chí Văn học, số 7, trang 1 – 4.
37. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học Trung đại Việt Nam, NXB Đại học quốc
gia Hà Nội.
38. Hoài Thanh - Hoài Chân (2006), Thi nhân Việt Nam, NXB Kim Đồng.
39. Nguyễn Bá Thành (2012), Giáo trình tư duy thơ hiện đại Việt Nam, NXB Đại học
quốc gia Hà Nội.
40. Tác gia văn học Thăng Long – Hà Nội (từ thế kỉ XI – XX) (1999), NXB Hội nhà
văn.
41. Tổng tập văn học Việt Nam (2000), Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc
gia, NXB Khoa học xã hội.
42. Từ điển Văn học (bộ mới) (2004), NXB Thế giới.
43. Nguyễn Vỹ (2007), “Văn thi sĩ tiền chiến”, NXB Văn học (in lại).
44. Văn học Việt Nam (1900 – 1945) (2010), NXB Giáo dục Việt Nam.
45. Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam (1997), NXB Giáo dục.
46.
47.
48.
49. www.thivien.net
50.
51. www.tienphong.vn
52.
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... .
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tvefile_2013_09_11_5268128422_2676.pdf