Đối với đẩy mạnh xuất nhập khẩu, trước mắt cũng như lâu dài cần thực hiện
các công cụ sau: đánh giá lại lợi thế so sánh của Việt Nam so với thị trường thế
giới để thấy hết được tiềm năng và thế mạnh của Việt Nam so với các nước khác
nhằm từng bước xây dựng danh mục mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn và có triển
vọng lâu dài. Hiện nay, những mặt hàng có lợi thế so sánh của Việt Nam là
những mặt hàng sử dụng nhiều lao động, nhiều nguyên nhiên liệu tại chỗ. Đó là
những mặt hàng nông sản như gạo, cà phê, hồ tiêu, may mặc và một số sản phẩm
giày dép. Loại dịch vụ thu nhiều ngoại tệ là dịch vụ du lịch quốc tế. Trong tương
lai các sản phẩm của ngành công nghiệp phần mềm là những sản phẩm điện tử có
thể là những mặt hàng mũi nhọn của Việt Nam. Cần kết hợp khéo léo giữa lợi thế
so sánh quốc gia, nỗ lực của chính phủ và những cố gắng của doanh nghiệp để
thúc đẩy xuất khẩu.
140 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 7519 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kinh doanh ngoại hối tại các ngân hàng thương mại Việt Nam -Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t động kinh
doanh ngoại hối của các NHTMVN cần đạt được. Định hướng này đòi hỏi các
ngân hàng phải xác định rõ các thị trường, lĩnh vực mà các doanh nghiệp trong
nước sẽ vươn tới. Cụ thể là ngân hàng cần trả lời được các vấn đề như thị trường
địa lý nào, hoạt động kinh doanh gì và ở quy mô nào sẽ được các doanh nghiệp
triển khai. Từ đó đa dạng hoá các nghiệp vụ tài trợ, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp
vụ kinh doanh ngoại hối cho khách hàng.
Bốn là tìm kiếm cơ hội đầu tư an toàn trong và ngoài nước, thực tế trong
thời gian qua cho thấy nguồn vốn ngoại hối của ngân hàng không phải khi nào
cũng được tận dụng triệt để. Trong khi đó, các NHTMVN có trình độ hạn chế,
chưa đủ sức tham gia vào các hoạt động kinh doanh đòi hỏi kỹ năng và trình độ
quản lý rủi ro cao. Do đó, NHTMVN chỉ nên dừng ở định hướng là tìm kiếm các
Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p
§ç ThÞ Nh Quúnh- A7- K38BKTNT 118
cơ hội đầu tư an toàn ở nước ngoài nếu nguồn ngoại hối trong nước chưa được
các doanh nghiệp tận dụng. Đầu tư ra nước ngoài để nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn nhưng đầu tư phải an toàn, phù hợp với trình độ quản lý của các NHTMVN.
Vấn đề quan trọng nhất là ngân hàng phải lựa chọn được sản phẩm mà họ có lợi
thế, hình thức đầu tư và kèm theo đó là phương thức quản lý rủi ro cần thiết.
Năm là các NHTMVN cần phải duy trì trạng thái ngoại hối ở mức có thể
kiểm soát được bởi vì hoạt động kinh doanh ngoại hối luôn chứa đựng rủi ro.
Các định hướng phát triển nói trên cùng với thực trạng, những kết quả đạt
được và hạn chế, những cơ hội và thách thức trên thị trường ngoại hối trong và
ngoài nước sẽ quyết định các giải pháp để thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại
hối của các NHTMVN nhằm đạt được các mục tiêu đã đặt ra đến năm 2010.
II- MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
NGOẠI HỐI TẠI CÁC NHTMVN
1- Giải pháp mang tầm vi mô (đối với các NHTMVN)
1.1- Hoàn thiện các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối
Nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối của ngân hàng thường có tính chất phức tạp
và nhiều rủi ro. Vì vậy thường xuyên cải tiến và đa dạng hoá giao dịch ngoại hối
là một nhu cầu thường xuyên của các NHTMVN để nâng cao trình độ phát triển,
tăng cường khả năng cạnh tranh và tối đa hoá lợi nhuận.
Sau một thời gian hoạt động kinh doanh ngoại hối, nhiều nghiệp vụ và giao
dịch của các NHTMVN bộc lộ những yếu kém như quy mô nhỏ và nguy cơ rủi ro
rất cao, vì vậy các NHTMVN cần chú trọng hoàn thiện các nghiệp vụ kinh doanh
ngoại hối theo các nội dung sau:
Đối với huy động và cho vay ngoại hối, đây là một hoạt động tạo nguồn
ngoại hối quan trọng để đảm bảo cung ứng vốn cho các doanh nghiệp hoạt động
xuất nhập khẩu, vì vậy cần có chiến lược huy động vốn trong nước và nước ngoài
sao cho có hiệu quả. Muốn vậy, các NHTMVN cần phải phân loại khách hàng để
có chính sách cho từng loại:
Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p
§ç ThÞ Nh Quúnh- A7- K38BKTNT 119
Thứ nhất, khách hàng là doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu, các
NHTMVN phải có chính sách ưu tiên để thu hút được cả khách hàng xuất khẩu
và nhập khẩu như:
- Tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng để các doanh nghiệp xuất nhập khẩu sử
dụng vốn trên tài khoản ngoại tệ một cách linh hoạt, đáp ứng kịp thời nhu cầu
ngoại tệ để thanh toán, chi trả nhanh chóng tiền mặt vật tư hàng hoá phục vụ cho
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Tư vấn kịp thời cho khách hàng trong việc chọn hình thức vay, mượn
thanh toán để hạn chế rủi ro về lãi suất, tỷ giá, nghiệp vụ kinh doanh trong
thương mại quốc tế.
Thứ hai, đối với khách hàng là tầng lớp dân cư, đây là loại khách hàng
không thể thực hiện trực tiếp đầu tư vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh,
thông thường họ phải chọn giải pháp đem gửi vào ngân hàng vì sự an toàn, kín
đáo, bảo toàn vốn và có lãi. Để thu hút loại khách hàng này, các NHTMQD cần
chú trọng một số vấn đề sau:
- Đảm bảo dịch vụ hoàn hảo, tạo sự yên tâm của khách hàng
- Đảm bảo tính linh hoạt đối với các công cụ huy động như có chính sách lãi
suất tiền gửi hợp lý và hấp dẫn cho từng loại để khách hàng, có cơ hội lựa chọn,
cho phép khách hàng rút vốn thuận lợi, nhanh chóng. Đối với các công cụ huy
động trung và dài hạn như trái phiếu ngoại tệ, ngân hàng cần nghiên cứu để đưa
thêm những đặc tính có thể chuyển nhượng được giữa các cá nhân để tạo cho
khách hàng dần có thói quen mua bán, cất trữ, chuyển đổi các tài sản của mình
bằng ngoại tệ thông qua ngân hàng và thị trường chứng khoán.
- Tạo ra công cụ quản lý mới, như bên cạnh sổ tiết kiệm ngoại tệ của khách
hàng đưa vào hình thức tài khoản tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ để đảm bảo thu nhận,
chi trả tiền gửi một cách nhanh chóng, thuận tiện và an toàn hơn.
Thứ ba, tăng cường các dịch vụ thu đổi ngoại tệ, kiều hối đối với người
nước ngoài tại Việt Nam và Việt Kiều ở nước ngoài, do tâm lý của người nước
ngoài và Việt Kiều chưa tin tưởng và quen thuộc với các hoạt động của các
Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p
§ç ThÞ Nh Quúnh- A7- K38BKTNT 120
NHTMVN trong nước, mặt khác chất lượng các dịch vụ của các NHTMVN còn
kém so với các dịch vụ của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, vì
vậy các đối tượng khách hàng này còn chưa quan tâm nhiều đến việc chuyển đổi
ngoại tệ hoặc gửi ngoại tệ vào ngân hàng. Để tăng cường thu hút nguồn ngoại tệ
từ các đối tượng này, các NHTMVN cần có giải pháp hợp lý hơn như:
- Tăng cường tiếp thị về uy tín và công nghệ của ngân hàng mình, hướng
dẫn khách hàng trong nước lựa chọn những hình thức chuyển tiền, những ngân
hàng đại lý phù hợp để thông tin cho người thân ở nước ngoài chuyển tiền về
nước.
- Đối với hoạt động kiều hối, các NHTMVN cần tổ chức chi trả nhanh
chóng, thuận tiện. Tính phí chuyển tiền hợp lý và áp dụng một tỷ giá hối đoái
theo nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất, tính cạnh tranh, linh hoạt trong hệ
thống nhằm thu hút khối lượng kiều hối gửi vào hay bán cho ngân hàng, đồng
thời hạn chế việc người dân khi nhận kiều hối qua ngân hàng sau đó lại bán ra thị
trường tự do.
- Xây dựng một hệ thống đại lý thu đổi ngoại tệ ở mỗi ngân hàng một cách
rộng khắp, đặc biệt ở khu vực thành phố và những khu du lịch quan trọng nhằm
thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của Việt Kiều và người nước ngoài. Các NHTMVN
phải tăng cường kiểm tra đối với nghiệp vụ của đại lý trong việc thu đổi ngoại tệ
một cách bất hợp pháp.
Thứ tư, đối với khách hàng vay vốn, đây thường là các doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế khác trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu. Họ sử dụng vốn vay
có mục đích và tuân thủ nguyên tắc vay mượn của ngân hàng nhưng cũng có
khách hàng lại cần tiền với chủ ý sử dụng không đúng mục đích và họ tìm mọi
cách để vay tiền. Vì vậy, để mở rộng hoạt động vì lợi nhuận, các ngân hàng phải
vượt qua sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro về đạo đức của khách hàng bằng cách:
Mở rộng cho vay đối với khách hàng truyền thống về quy mô, mục đích cho
vay theo khả năng. Tuy nhiên NHTMVN phải thường xuyên đánh giá lại năng
lực tài chính, tổ chức quản lý, kinh doanh, người lãnh đạo, điều kiện hoạt động
Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p
§ç ThÞ Nh Quúnh- A7- K38BKTNT 121
của mỗi khách hàng để phân loại thành các nhóm khách hàng với độ tin cậy cao,
thấp khác nhau để quyết định mở rộng hay hạn chế cho vay và áp dụng mức lãi
suất khuyến khích. Ngược lại những khách hàng có độ tin cậy thấp như thường
xuyên chậm trả nợ quá hạn nhiều lần thì ngân hàng cần xem xét cụ thể trước khi
quyết định cho vay. Đối với khách hàng có khoản nợ tồn đọng kéo dài, thiếu
hoặc không có khả năng thanh toán phải có biện pháp kiên quyết, dứt điểm trong
việc xử lý nợ và đình chỉ việc cho vay. Bên cạnh đó các NHTMVN cần coi trọng
đa dạng hoá các hình thức cho vay theo thời gian, trong đó đảm bảo cơ cấu
nguồn vốn cho vay hợp lý, đồng thời đa dạng hoá các nghiệp vụ cho vay để tạo
cơ hội cho khách hàng chọn các công cụ vay phù hợp với mục đích sử dụng và
hạn chế thấp nhất những rủi ro như rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá hối đoái…
Mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, các
NHTMVN cần bám sát chính sách của chính phủ về phát triển các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh như chương trình cải cách các doanh nghiệp, chính sách hỗ trợ
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các văn bản pháp luật của NHNN quy định về tín
dụng… để cụ thể hoá và vận dụng khi cho vay đối với đối tượng khách hàng trên.
Về nghiệp vụ giao ngay, các NHTMVN cần mua bán nhiều loại ngoại tệ
khác chứ không nên tập trung vào USD như hiện nay để phân tán rủi ro khi thị
trường ngoại hối có những biến động bất thường, đồng thời đáp ứng cho nhu cầu
đa dạng hoá thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam, hạn chế tình trạng đô la
hoá tài sản.
Về nghiệp vụ kỳ hạn, thông thường các hợp đồng kỳ hạn không buộc phải
điều chỉnh theo biến động thị trường (Marking- to- Market). Nói cách khác, trong
suốt quá trình giao dịch, giá trị hợp đồng không được đánh giá lại; do đó, ngân
hàng thường không yêu cầu khách hàng ký quỹ. Lợi điểm của cách làm này là
giảm chi phí giao dịch cho khách hàng, song thực tế, nó làm gia tăng rủi ro cho
ngân hàng. Thật vậy, thứ nhất, bản chất hợp đồng kỳ hạn là một giao dịch song
phương giữa người mua và người bán kỳ hạn. Giao dịch này được thiết lập dựa
vào nhu cầu của hai bên đối tác mà chưa được tổ chức, chuẩn hoá như các giao
dịch tương lai và quyền chọn. Việc thực hiện hợp đồng phụ thuộc rất nhiều vào
Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p
§ç ThÞ Nh Quúnh- A7- K38BKTNT 122
thiện chí và tình hình tài chính của hai bên đối tác. Trong trường hợp tỷ giá biến
động theo chiều hướng bất lợi, gây khoản lỗ lớn, vượt quá khả năng tài chính của
một bên tham gia dẫn đến tình trạng đối tác này không thể thực hiện các điều
khoản đã thoả thuận, gây thiệt hại cho thành viên còn lại. Thứ hai, các giao dịch
kỳ hạn không thể chuyển nhượng và thanh lý trước hạn để hạn chế rủi ro như hợp
đồng tương lai. Trong môi trường kinh doanh tiền tệ còn nhiều bất ổn hiện nay
của Việt Nam, để hạn chế rủi ro này, ngân hàng nên xây dựng một tỷ lệ ký quỹ
nhất định đối với các khách hàng tham gia hợp đồng kỳ hạn. Về vấn đề ký quỹ,
để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng của đối tác, ngân hàng có thể yêu cầu mức
ký quỹ từ 1- 2% giá trị hợp đồng. Tài khoản ký quỹ được trả lãi theo lãi suất tiền
gửi không kỳ hạn. Nếu tỷ giá trong quá trình thực hiện hợp đồng biến động có lợi
cho khách hàng, khoản ký quỹ không thay đổi. Ngược lại, nếu tỷ giá thay đổi bất
lợi cho khách hàng; chẳng hạn tỷ giá (USD/VND) tăng lên đối với người bán kỳ
hạn USD hoặc tỷ giá (USD/VND) giảm đối với người mua kỳ hạn USD, khách
hàng có nguy cơ bị lỗ. Khi khoản lỗ đạt đến mức độ nhất định, ngân hàng có thể
yêu cầu khách hàng bổ sung tiền ký quỹ. Như vậy, số tiền ký quỹ sẽ tạo ra sự an
toàn giúp các bên thực hiện tốt hợp đồng kỳ hạn.
Ngoài ra, các NHTMVN cần chú ý mở rộng nghiệp vụ hoán đổi, dần tiếp
cận thí nghiệm nghiệp vụ quyền chọn, tăng cường nghiên cứu nghiệp vụ tương
lai để sẵn sàng áp dụng khi NHNN cho phép.
Về kinh doanh các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ, trước hết các NHTMVN
cần tăng cường huy động vốn bằng ngoại tệ thông qua phát hành trái phiếu,
chứng chỉ tiền gửi bằng ngoại tệ. Tiếp đó, NHTMVN có thể tuyên truyền, hướng
dẫn khách hàng sử dụng thương phiếu trong kinh doanh, và sẵn sàng chấp nhận
chiết khấu, thế chấp các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ như hối phiếu, kỳ phiếu,
lệnh phiếu. Hoặc ngân hàng cũng có thể cung cấp dịch vụ tư vấn miễn phí nên
dùng giấy tờ có giá bằng ngoại tệ gì để phù hợp với nhu cầu của khách hàng.
Ngoài ra, các NHTMVN cần mạnh dạn đầu tư vào chứng khoán ghi bằng ngoại
tệ. Đây là một hoạt động vừa đa dạng hoá việc sử dụng nguồn vốn ngoại tệ, tăng
Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p
§ç ThÞ Nh Quúnh- A7- K38BKTNT 123
thu lợi nhuận lại vừa có khả năng truyền bá thương hiệu và hấp dẫn khách hàng
nước ngoài vì khi NHTMVN trở thành cổ đông của các công ty nước ngoài thì
thường dễ thu hút chính công ty này trở thành khách hàng của mình.
Về kinh doanh vàng tiêu chuẩn quốc tế, các NHTMVN cần đa dạng hoá
các hình thức huy động và cho vay vàng tiêu chuẩn quốc tế, với mức lãi suất hợp
lý để đảm bảo khả năng cạnh tranh. Các NHTMVN nên mở nhiều cửa hàng kinh
doanh vàng về các địa phương trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu và lượng vàng dự
trữ trong dân ở khu vực đó. Đồng các ngân hàng cần kết hợp kinh doanh vàng
tiêu chuẩn quốc tế trong và ngoài nước để duy trì hoạt động kinh doanh này.
1.2- Tăng vốn chủ sở hữu của các NHTMVN
Quy mô về vốn tự có của một ngân hàng là một trong những tiêu chí đánh
giá về năng lực tài chính và khả năng đảm bảo tỷ lệ an toàn của ngân hàng. Quy
mô quá nhỏ bé về vốn là một trong những điểm yếu lớn, đang cản trở sự phát
triển và nâng cao khả năng cạnh tranh của các NHTMVN, điều này thể hiện qua
tỷ lệ an toàn vốn chỉ đạt trung bình từ 2% đến 3%28. Vì vậy, yêu cầu tất yếu đặt
ra đối với các NHTMVN là phải tăng vốn điều lệ với tốc độ nhanh hơn tốc độ
của tổng nguồn vốn.
Trong hệ thống các giải pháp, giải pháp tăng vốn điều lệ của các NHTM là
giải pháp quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh, tạo cơ sở cho việc điều chỉnh cơ
cấu huy động và sử dụng vốn. Do vậy điều cần làm đầu tiên là đánh giá lại tài sản
của toàn hệ thống NHTMVN vì từ lâu số tài sản này bị đánh giá thấp hơn nhiều
so với giá trị thực tế. Đồng thời đối với từng nhóm ngân hàng cần có biện pháp
sau:
Đối với NHTMQD, Nhà nước cần tiếp tục cấp đầy đủ vốn điều lệ bằng
nguồn vốn đầu tư phát triển, phát hành trái phiếu chính phủ, vốn ODA; hoặc tiến
hành cổ phần hóa NHTMQD để tăng vốn thông qua phát hành cổ phiếu huy động
vốn trong cán bộ, nhân viên của chính ngân hàng nhưng tỷ lệ không quá 15% vốn
điều lệ nhằm đảm bảo quyền kiểm soát của Nhà nước đối với các NHTMQD.
28
Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p
§ç ThÞ Nh Quúnh- A7- K38BKTNT 124
Đối với các NHTM cổ phần, tăng tỷ lệ cho phép (hiện nay là 15%) và tiếp
tục cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của các NHTM cổ phần;
tăng tỷ lệ trích lập quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ hàng năm từ lợi nhuận sau khi
nộp thuế thu nhập; cho phép các NHTM cổ phần niêm yết, phát hành cổ phiếu
trên thị trường chứng khoán; tiếp tục mua lại, sát nhập và hợp nhất các NHTM cổ
phần qui mô nhỏ vào các NHTM cổ phần mạnh hơn, qui mô lớn hơn để tăng
cường khả năng cạnh tranh trên thị trường.
1.3- Quản lý rủi ro ngoại hối
Quản lý rủi ro ngoại hối là giải pháp có tính lâu dài và bền vững của quá
trình phát triển các hoạt động kinh doanh tại các NHTMVN. Để đảm bảo tính
hiệu quả quản lý và phòng ngừa rủi ro, trong điều kiện hoạt động hiện nay, ở mỗi
NHTMVN cần phải chú trọng biện pháp quản lý phòng ngừa rủi ro theo 2 cơ chế
có tính vĩ mô và vi mô. Đó là xây dựng cơ chế quản lý rủi ro có tính hệ thống và
chú trọng phòng ngừa rủi ro bộ phận.
Thứ nhất, xây dựng cơ chế quản lý rủi ro có tính chất hệ thống
Sơ đồ 3.1- Quản lý rủi ro hoạt động ngân hàng theo hệ thống
Rủi ro từ khác hàng Rủi ro hoạt động Rủi ro huy động vốn
-khách hàng thua lỗ -rủi ro thông tin -lãi suất huy động vốn
-sản phẩm lỗi thời -rủi ro nhân sự tăng
-nợ quá hạn tăng -cấu trúc huy động vốn
-mất khả năng thanh toán biến đổi
Rủi ro tỷ giá Hội đồng quản lý Rủi ro tài chính
-tỷ giá biến động rủi ro -thuế thu nhập tăng
-lạm phát Phòng quản lý rủi ro -thuế vốn tăng
-chi phí vốn thay đổi
Rủi ro về nghiệp vụ Rủi ro pháp lý Rủi ro môi trường
-giới hạn các giao dịch -môi trường pháp lý -cạnh tranh tăng
& nghiệp vụ ngân hàng thiếu phù hợp -khủng hoảng kinh tế
-giao dịch không tương -chính sách Nhà nước
thích với mục tiêu kinh thay đổi
doanh -ngừng bảo hộ của NHNN
Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p
§ç ThÞ Nh Quúnh- A7- K38BKTNT 125
Cơ chế quản lý rủi ro này được hiểu là thay vì quản lý rủi ro một cách riêng
rẽ, các NHTMVN cần thực hiện quản lý rủi ro theo một hệ thống để có được
những biện pháp phòng ngừa tối ưu nhất. Thông thường có ba cách để tiến hành
quản lý rủi ro một cách hệ thống: thứ nhất, thay thế các hoạt động của ngân hàng;
thứ hai, điều chỉnh cấu trúc vốn một cách hệ thống; thứ ba, sử dụng các công cụ
tài chính để giảm thiểu rủi ro. Những cách thức này tương tác lẫn nhau để hình
thành lên chiến lược quản lý rủi ro của ngân hàng, được thể hiện ở Sơ đồ 3.1. Các
công nghệ quản lý rủi ro thích hợp đối với mỗi NHTMVN sẽ khác nhau. Bằng
cách giảm thiểu các khoản đầu tư dàn trải vốn điều lệ cho các khoản tài sản xiết
nợ hoặc góp vốn cổ phần các NHTMVN có được khả năng mềm dẻo hơn trong
việc phản ứng đối với các cú sốc về thị trường, công nghệ hoặc môi trường pháp
lý. Thực tế cho thấy, một số loại rủi ro vẫn không thể quản lý được hoặc là do
cách tổ chức quản lý của ngân hàng không phù hợp hoặc là chi phí giải quyết là
quá đắt hoặc xung đột với các mục tiêu khác của các NHTMVN. Vì vậy, việc xây
dựng cơ chế quản lý rủi ro này là một đòi hỏi cấp thiết đối với các NHTMVN.
Thứ hai, chú trọng với cơ chế phòng ngừa rủi ro bộ phận
Việc quản lý, phòng ngừa rủi ro này xuất phát từ rủi ro hoạt động ở từng
loại dịch vụ với đặc thù nhạy cảm, dễ bị chi phối bởi sự biến động của điều kiện,
môi trường hoạt động. Vì vậy các NHTMVN cần thực hiện một số biện pháp sau:
Quy định một số hạn mức và yêu cầu những người kinh doanh ngân hàng
phải tuyệt đối chấp hành nghiêm ngặt các hạn mức đó. Thông thường có một số
hạn mức sau:
- Quy định hạn mức được mở trạng thái trong ngày (Daylight Open Position
Limit) cho từng giao dịch viên. Hạn mức này tuỳ thuộc vào trình độ nghiệp vụ,
khả năng phán đoán thị trường, kinh nghiệm của từng giao dịch viên và theo từng
loại tiền giao dịch.
- Quy định điểm dừng lỗ (Cut- Lost Limit), mỗi giao dịch viên chỉ được
phép lỗ tối đa bao nhiêu điểm trong một giao dịch.
Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p
§ç ThÞ Nh Quúnh- A7- K38BKTNT 126
- Quy định một số hạn mức khác như hạn mức trạng thái qua đêm, mức lỗ
tối đa cho phép của toàn bộ Dealing Room trong khoảng thời gian nhất định …
Các hạn mức trên sẽ khống chế được mức độ rủi ro (nếu có) trong hạn mức
cho phép, nó là căn cứ cho cán bộ phụ trách phòng Dealing Room (Chief Dealer)
chỉ đạo hoạt động, giám sát và đánh giá được hiệu quả hoạt động trong quá trình
kinh doanh.
Tăng cường thực hiện chính sách bảo hiểm tiền gửi ngoại tệ tạo ra tâm lý
cho người gửi tiền về sự an toàn vốn gửi ở ngân hàng. Do đó, NHTMVN sẽ huy
động được vốn ổn định và không phá sản do người gửi đến rút tiền ồ ạt. Các
NHTMVN có thể bảo hiểm rủi ro khả năng thanh toán của chính ngân hàng và
bảo hiểm giá trị của tiền gửi do mất giá của đồng tiền.
Tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn sử dụng để cho vay trung hạn, thông
thường các NHTMVN dùng nguồn vốn vay để sử dụng theo nguyên tắc: nguồn
vốn cho sử dụng vốn có kỳ hạn tương đương. Tuy nhiên có một thực tế là do việc
khan hiếm nguồn vốn ngoại tệ có kỳ hạn dài trong khi nhu cầu đầu tư vốn dài hạn
cho phát triển và tăng trưởng nền kinh tế lại rất lớn nên các NHTMVN thường sử
dụng một phần nguồn vốn có kỳ hạn ngắn để đáp ứng cho sử dụng vốn có kỳ hạn
dài. Chính vì vậy, dễ xảy ra tình trạng mất cân đối về kỳ hạn, gặp rủi ro khi biến
động bất lợi về tỷ giá theo chiều hướng giảm. Do vậy, để bảo đảm an toàn trong
kinh doanh, các NHTMVN cần tính toán việc sử dụng nguồn vốn ngắn hạn cho
đầu tư dài hạn một cách hợp lý, không vượt quá quy định trong những điều kiện
đầu tư không thuận lợi.
Sử dụng các giao dịch giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi, tiến tới nghiệp vụ quyền
chọn tiền tệ và nghiệp vụ tương lai để bảo hiểm rủi ro cho chính mình và cho
khách hàng của mình.
Thực hiện kiểm toán thường xuyên, các NHTMVN nên thuê các công ty
kiểm toán có uy tín theo thông lệ quốc tế mang tính chất dài hạn chứ không phải
là thông qua đấu thầu như hiện nay. Việc đấu thầu có ưu điểm là chọn nhà kiểm
toán có phí thấp nhưng nếu phải tổ chức đầu thầu hàng năm, có thể mỗi năm sẽ
Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p
§ç ThÞ Nh Quúnh- A7- K38BKTNT 127
có một cơ quan kiểm toán khác nhau trúng thầu. Việc này lại không có lợi vì
thông thường một công ty kiểm toán thường xuyên sẽ nắm vững hơn về khách
hàng nên thuận lợi cho việc kiểm toán được chính xác và nhanh chóng. Đồng
thời các NHTMVN nên thường xuyên công bố kết quả đánh giá kiểm toán về
tình hình tài chính ngân hàng cho khách hàng để tạo ra lòng tin và trong sạch hoá
thông tin.
1.4- Đầu tư cho công nghệ
Ngày nay, để đánh giá khả năng cạnh tranh của một ngân hàng, người ta
không chỉ dựa vào quy mô vốn, số lượng các dịch vụ cung cấp mà còn ở trình độ
công nghệ và nguồn nhân lực của chính ngân hàng đó. Một thực tế cho thấy, một
ngân hàng lớn có nhiều vốn nhưng cơ sở hạ tầng lạc hậu, nhân viên không linh
hoạt trong cập nhật và ứng dụng các kiến thức mới về kinh doanh ngân hàng thì
ngân hàng đó sẽ rơi vào tình trạng trì trệ, và chính quy mô lớn nhiều khi lại gây
khó khăn cho việc quản trị và là lực cản của sự phát triển. Hơn nữa chính công
nghệ và nguồn nhân lực lại là hai nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của
sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Điều này có thể thấy rõ ở Việt Nam, Ngân hàng
VCB không phải là ngân hàng có vốn lớn nhất nhưng lại là ngân hàng hoạt động
hiệu quả nhất, và có khả năng cạnh tranh cao hơn so với các NHTMVN khác đó
là bởi vì VCB mạnh dạn đầu tư cho công nghệ và đào tạo phát triển nguồn nhân
lực. Tuy nhiên đó chỉ là một trong số ít các NHTMVN chú trọng đến phát triển
cơ sở hạ tầng công nghệ và nhân lực còn đa phần các NHTMVN vẫn chưa quan
tâm đúng mực đến vấn đề này. Vì vậy, yêu cầu đổi mới công nghệ, nâng cao
trình độ của cán bộ nhân viên ngân hàng đang là nhu cầu cấp bách hiện nay.
Trước hết, các NHTMVN có thuận lợi về môi trường và hành lang pháp lý
cho việc áp dụng các công nghệ mới đã được cải thiện đáng kể. Các quy chế, cơ
chế thực hiện giao dịch và cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử đã được ban hành
như quy chế về chữ ký điện tử, bảo mật…; thứ hai, về mặt kỹ thuật, hệ thống
thanh toán điện tử liên ngân hàng đã được vận hành từ tháng 5/2002 và đang
được tiếp tục mở rộng tới khoảng 50 ngân hàng thành viên và trên 200 chi nhánh
của các ngân hàng này. Từ 1/3/2003, hệ thống thanh toán bù trừ điện tử cũng đã
Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p
§ç ThÞ Nh Quúnh- A7- K38BKTNT 128
được đưa vào sử dụng, tạo điều kiện để mở rộng phục vụ nhanh chóng, thuận tiện
cho các doanh nghiệp và nền kinh tế. Tuy nhiên khó khăn của các NHTMVN là
việc lựa chọn và áp dụng công nghệ hiện đại nào để có thể sử dụng tối đa khả
năng của các công nghệ mới phục vụ cho việc phát triển các dịch vụ mới với chất
lượng cao và giá cả hợp lý. Vì vậy yêu cầu của phát triển công nghệ ở các
NHTMVN hiện nay là:
- Tránh đầu tư tràn lan, cần phải đảm bảo sử dụng hết công suất các công
nghệ đã được đầu tư.
- Hệ thống công nghệ thông tin phải đảm bảo tương thích đối với các hệ
thống công nghệ khác nhau, các đối tác giao dịch khác nhau (Interbank,
Intrabank, buy side- sell side). Hệ thống giao dịch này phải là hệ thống giao dịch
thông qua mạng Internet và thực hiện đầy đủ các chức năng giao dịch điện tử;
- Các mô thức giao dịch tự động, định giá tự động và niêm yết giá tự động;
- Có khả năng giao dịch và tương thích với hệ thống quản lý tài sản ở nước
ngoài của các nhà cung cấp lớn “off- the- shelf”;
- Tạo lập được hệ thống quản lý dữ liệu thị trường trực tuyến trong toàn hệ
thống, tức là phải cập nhật được dữ liệu thị trường, có khả năng tiếp cận trực tiếp
để tìm kiếm, quản lý, hạch toán các số liệu thị trường và của hệ thống, có thể
nhận biết được những chính sách khác nhau của các đối thủ cạnh tranh trên thị
trường dựa vào cơ sở nguồn thông tin thị trường tiếp cận được (Reuters DACS,
TIBCO, Entilements and Bridge Observer);
- Tiếp cận và ứng dụng các phầm mền quản lý dữ liệu thị trường tài chính
(Global Market Data Manager, Trading Room Magnet, InfoMatch, FITS,
FinOffice,…).
1.5- Phát triển nguồn nhân lực
Theo đánh giá chung, nguồn nhân lực của các NHTMVN còn nhiều hạn chế
và bất cập. Một mặt hiểu biết và kỹ năng thực hiện các công việc chuyên môn
của nhiều cán bộ chưa theo kịp và chưa đáp ứng đòi hỏi của hoạt động ngân hàng
trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập, nhất là trong việc triển khai các dịch vụ
Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p
§ç ThÞ Nh Quúnh- A7- K38BKTNT 129
mới và theo cách thức hoạt động của ngân hàng hiện đại. Mặt khác, có một số
cán bộ tuy được đào tạo cơ bản, có năng lực chuyên môn cao nhưng lại chưa
được bố trí, sử dụng hợp lý, gây lãng phí và hạn chế hiệu quả sử dụng cán bộ.
Tình hình này đòi hỏi phải tăng cường về đào tạo và sử dụng hợp lý hơn nguồn
nhân lực theo các giải pháp sau:
Thứ nhất, đổi mới mạnh mẽ về nhận thức và tổ chức thực hiện việc đào tạo
và sử dụng cán bộ theo đúng đường lối, chủ trường của Đảng và Nhà nước. Cần
xuất phát từ yêu cầu của mỗi vị trí công tác và lấy mức độ đáp ứng yêu cầu này
cũng như yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu qủa hoạt động chung của
ngân hàng làm căn cứ, tiêu chuẩn để xây dựng và đánh giá kết quả đào tạo và sử
dụng cán bộ.
Thứ hai, tập trung giải quyết tốt mâu thuẫn giữa việc phải dành nguồn cán
bộ để đáp ứng các yêu cầu trước mắt, nhưng đồng thời phải dành sự đầu tư thoả
đáng cho việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ nhằm đảm bảo tốt cho các bước phát
triển tiếp theo. Bên cạnh việc dứt khoát chọn một số cán bộ trẻ được đánh giá là
có năng lực và đạo đức tốt cử đi đào tạo dài hạn và chuyên sâu ở trong và ngoài
nước để có khả năng triển khai áp dụng các kiến thức, kinh nghiệm học được;
đồng thời coi trọng việc đào tạo thông qua công việc hàng ngày như cán bộ lãnh
đạo tạo điều kiện, dành thời gian chỉ dẫn và giao việc cụ thể, có đánh giá để cán
bộ tăng cường tự học, vươn lên.
Thứ ba, ưu tiên đề bạt sử dụng số cán bộ trẻ có năng lực và đạo đức tốt thay
thế một bộ phận cán bộ lãnh đạo không theo kịp yêu cầu do sự đổi mới nhanh
chóng trong công nghệ, khoa học tổ chức và quản lý hiện đại.
Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p
§ç ThÞ Nh Quúnh- A7- K38BKTNT 130
Thứ tư, cần nâng cao năng lực quản trị điều hành của ban lãnh đạo
NHTMVN. Đây là một trong những yếu tố quyết định năng lực và hiệu quả hoạt
động của mỗi ngân hàng. Năng lực này phụ thuộc vào khả năng dự báo và chủ
động xử lý kịp thời các tình huống phát sinh sử dụng có hiệu quả các cơ hội và
vượt qua các thách thức. Do vậy, đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý vừa phải có sự
khôn khéo, linh hoạt trong sách lược và áp dụng các biện pháp cụ thể theo hướng
sau:
- Xác định rõ và kiên trì thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược của
ngân hàng, tránh chạy theo thành tích trước mắt nhưng có thể gây thiệt hại cho
tương lai, ví dụ huy động vốn với lãi suất cao để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng tín
dụng quá mức, dẫn đến giảm chất lượng tín dụng, giảm tỷ suất lợi nhuận…
- Tạo dựng môi trường làm việc lành mạnh, minh bạch và dân chủ thực sự.
Trong quản trị điều hành, trách nhiệm và quyền lợi được phân định rõ ràng và
gắn liền với từng cương vị công tác và từng công việc, thực hiện nhất quán đối
với tất cả các cấp lãnh đạo, cán bộ quản lý và cán bộ nghiệp vụ.
- Áp dụng các phương pháp quản trị hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế như
ISO 9001.
Trên đây chỉ là những biện pháp cơ bản để giúp các NHTMVN đẩy mạnh
hoạt động kinh doanh ngoại hối, mỗi ngân hàng cần lập ra một chiến lược cụ thể
phân tích điểm mạnh và điểm yếu, cơ hội và hiểm hoạ của mình để từ đó đưa ra
những giải pháp khắc phục thoả đáng.
2- Giải pháp vĩ mô trong việc hỗ trợ các NHTMVN đẩy mạnh hoạt
động kinh doanh ngoại hối
2.1- Hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái và lãi suất
Giá cả hình thành theo quy luật cung cầu là một trong những nhân tố quan
trọng hàng đầu để thị trường hoạt động hiệu quả. Cũng như các thị trường khác,
thị trường ngoại hối nói chung và hoạt động kinh doanh ngoại hối của các
NHTMVN nói riêng muốn đạt được hiệu quả với doanh số cao, chi phí thấp, độ
thanh khoản trên thị trường cao thì tỷ giá, lãi suất phải được hình thành một cách
Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p
§ç ThÞ Nh Quúnh- A7- K38BKTNT 131
khách quan theo quy luật cung cầu. Nói cách khác tỷ giá, lãi suất được áp dụng
trong các nghiệp vụ, giao dịch ngoại hối phải là tỷ giá, lãi suất mà tại đó cung và
cầu cân bằng. Do đó Chính phủ và NHNN cần có cơ chế quản lý và công cụ thị
trường phù hợp, đồng thời hạn chế sự can thiệp từ NHNN cũng như các biện
pháp hành chính làm méo mó tín hiệu thị trường.
Về lâu dài, giải pháp để phát triển thị trường ngoại hối và các hoạt động
kinh doanh ngoại hối của các NHTMVN là hướng tới tỷ giá, lãi suất thị trường,
linh hoạt và phản ánh đúng quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối. Tuy
nhiên, trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, việc thả nổi tỷ giá, lãi suất ngay lập
tức sẽ gây ra những hiệu ứng tiêu cực cho nền kinh tế và có thể ảnh hưởng bất lợi
cho việc ổn định hệ thống chính trị và xã hội. Vì thế, vai trò của NHNN không
phải chủ yếu là can thiệp vào thị trường này mà là phối hợp với các bộ ngành hữu
quan chống đô la hoá, buôn lậu và gian lận thương mại, khơi thông lưu chuyển
ngoại hối trong nền kinh tế và cùng các biện pháp kinh tế khác để hỗ trợ thị
trường ngoại hối pháp triển.
Hiện nay, NHNN quản lý thị trường ngoại hối thông qua can thiệp mua bán,
công bố tỷ giá bình quân giao dịch liên ngân hàng, quy định trần tỷ giá giao ngay,
tỷ lệ phần trăm gia tăng của tỷ giá kỳ hạn, tỷ giá hoán đổi, quy định về tỷ lệ dự
trữ ngoại tệ bắt buộc, lãi suất chiết khấu và các biện pháp quản lý ngoại hối.
Trong giai đoạn trước mắt các biện pháp này còn cần thiết, nhưng cần phải nới
lỏng từng bước, vì các biện pháp này không phải lúc nào cũng hiệu quả, đôi khi
lại kìm hãm sự phát triển của thị trường ngoại hối và hoạt động kinh doanh ngoại
hối tại các NHTMVN.
Đối với tỷ giá, do có tính nhạy cảm cao nên việc điều hành tỷ giá phải
được diễn ra theo từng giai đoạn, chẳng hạn:
Thứ nhất, có thể nới ngay biên độ giao động từ mức 0,25% lên đến mức
0,35%. Điều này có hai tác dụng là: thứ nhất tạo điều kiện để các NHTM yết giá
cạnh tranh; thứ hai đây là biện pháp thăm dò mức độ khách quan của tỷ giá. Sau
khi nới rộng biên độ tỷ giá nếu thị trường không sử dụng hết biên độ cho phép,
Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p
§ç ThÞ Nh Quúnh- A7- K38BKTNT 132
điều này hàm ý tỷ giá hiện tại đã phản ánh tương đối khách quan quan hệ cung
cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối; trên cơ sở đó NHNN có thể tiếp tục nới
rộng biên độ giao động lên mức cao hơn (chẳng hạn 0,5%). Nếu thị trường
ngoại hối ngay lập tức sử dụng hết biên độ cho phép, điều này hàm ý tỷ giá hiện
tại đang ở mức quá thấp so với tỷ giá cân bằng; để rút ngắn khoảng cách, NHNN
cần tiến hành điều chỉnh tăng dần tỷ giá một cách hợp lý mà không gây ra xáo
trộn lớn. Trong tương lai, tỷ giá hối đoái do NHNN công bố sẽ phải theo thông lệ
quốc tế là xoá bỏ tỷ giá bình quân thay bằng tỷ giá hối đoái của phiên giao dịch
cuối cùng trước giờ đóng cửa.
Thứ hai, cần phải điều chỉnh cách công bố tỷ giá hiện nay bởi vì tỷ giá của
VND mới chỉ gắn định với USD mà chưa có sự gắn định với các ngoại tệ khác,
điều này được thể hiện trên hai phương diện:
Xét về phương diện tập quán thị trường, khối lượng giao dịch (bao gồm cả
giao dịch vãng lai và giao dịch vốn) được tính bằng USD chiếm một tỷ trọng rất
lớn, ước tính trên 70%. Đặc biệt, trong các giao dịch thương mại quốc tế, tỷ trọng
này lên tới 95%29.
Xét về phương pháp công bố tỷ giá, hiện nay tỷ giá VND/USD được xác
định và công bố dường như độc lập hoàn toàn với quan hệ tỷ giá giữa USD với
các ngoại tệ khác. Khi USD lên giá hoặc giảm giá so với các ngoại tệ khác hầu
như không ảnh hưởng gì đến tỷ giá VND/USD, điều này khiến cho thị trường có
thiên hướng chuộng sử dụng USD dẫn tới tình trạng đô la hoá ngày càng cao, còn
các ngoại tệ khác lại ít được sử dụng.
Với tập quán thị trường và phương pháp công bố tỷ giá như trên, rõ ràng
hoạt động kinh tế đối ngoại và hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam có
chứa đựng rủi ro tiềm ẩn khi mà giá trị của USD đột ngột thay đổi lớn so với giá
trị của các ngoại tệ khác. Nhằm hạn chế sự gắn định vào USD, một mặt, cần đa
dạng hoá ngoại tệ trong các giao dịch quốc tế, mặt khác, trong phương pháp công
29 T.S Nguyễn Văn Tiến, Chủ nhiệm đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành mã số KNH 99-15, Phát triển và hoàn
thiện thị trường ngoại hối Việt Nam, năm 2002
Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p
§ç ThÞ Nh Quúnh- A7- K38BKTNT 133
bố tỷ giá NHNN nên tham khảo phương pháp xác định tỷ giá của VND so với rổ
tiền tệ và tiến tới công bố tỷ giá trung bình của VND.
Thứ ba, điều chỉnh lại tỷ lệ (%) cộng vào mức trần tỷ giá giao ngay trong
giao dịch kỳ hạn, hoán đổi đối với các NHTMVN. Tiến tới bãi bỏ tỷ lệ này, áp
dụng lãi suất thị trường để xác định tỷ giá kỳ hạn, đảm bảo tính khách quan của
tỷ giá, nhằm thu hút đông đảo khách hàng tham gia vào thị trường kỳ hạn.
Đối với lãi suất, giải pháp hoàn thiện cơ chế lãi suất của NHNN hiện nay
và trong thời gian tới là tập trung nâng cấp và phát triển thị trường tiền tệ, sớm
khắc phục những vấn đề như NHNN vẫn quy định lãi suất tiền gửi thanh toán của
NHTMVN và việc tham gia có giới hạn của các tổ chức này vào thị trường ngoại
hối làm cho thị trường ngoại hối chưa phát triển, lãi suất chưa phản ánh đúng
quan hệ cung cầu. Bên cạnh đó còn nhiều loại lãi suất ưu đãi trong nền kinh tế,
các lãi suất này do các phạm vi khác nhau quyết định, không tạo thành một đầu
mối thống nhất trong điều hành chính sách lãi suất của NHNN, không chịu tác
động của biến động thị trường ngoại hối. Ngoài ra, một số lãi suất do NHNN
công bỗ mỗi lần điều chỉnh có khoảng cách quá hẹp nên không tác động nhiều
đến lãi suất trên thị trường ngoại hối, hàng hoá trên thị trường ngoại hối còn
nghèo nàn chỉ có ngoại tệ, chứng khoán bằng ngoại tệ. Do đó NHNN cần tạo
điều kiện cho các NHTMVN tham gia thị trường ngoại hối bằng cách điều chỉnh
tỷ lệ dự trữ ngoại tệ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu hợp lý. Mức độ điều chỉnh
các loại lãi suất của NHNN trong mỗi đợt cũng cần có khoảng cách đủ rộng để
nó thực sự có ảnh hưởng đến thị trường tiền tệ. Cuối cùng, thực trạng nói trên đòi
hỏi thống nhất chỉ nên có một loại lãi suất ưu đãi, có lẽ nên theo nguyên tắc tất cả
các loại lãi suất ưu đãi thấp hơn từ 10- 20% lãi suất cơ bản của NHNN công bố;
hoặc thấp hơn 10% lãi suất huy động vốn cao nhất của một NHTMQD nào đó.
2.2- Gia tăng quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia
Một điều kiện không thể thiếu trong việc xây dựng khả năng chuyển đổi cho
bản tệ và phát triển thị trường ngoại hối cũng như hoạt động kinh doanh ngoại
hối tại các NHTMVN là nguồn dự trữ ngoại hối của quốc gia phải dồi dào. Thực
vậy, quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia giúp bình ổn tỷ giá hối đoái, khắc phục tình
Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p
§ç ThÞ Nh Quúnh- A7- K38BKTNT 134
trạng thâm hụt cán cân thanh toán và sẵn sàng hỗ trợ các NHTMVN khi gặp khó
khăn về nguồn ngoại hối để kinh doanh, do vậy sẽ nâng cao vị thế của VND và
giúp cho thị trường ngoại hối diễn ra thông suốt.
Trong hai năm qua, tổng dự trữ ngoại hối quốc gia tăng nhanh. Quỹ dự trữ
ngoại hối năm 2001 là 3.601 triệu USD, tăng 18,84% so với năm 2000. Đây là
kết quả của chính sách nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng của NHNN. Tuy
nhiên, theo ước tính của IMF, để cân bằng cán cân thanh toán, đến năm 2006,
Việt Nam cần 6.341 triệu USD, gần gấp đôi so với tồn quỹ ngoại hối năm 2001
(xem Phụ lục, Bảng 6). Vì vậy, để gia tăng tồn quỹ ngoại hối, NHNN cần thực
hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, NHNN cần tiếp tục đưa thêm tiền ra lưu thông để thu gom ngoại
tệ làm dồi dào quỹ dự trữ ngoại hối; phối hợp với Bộ tài chính trong việc quản lý
và sử dụng hiệu quả nguồn ngoại tệ do bán dầu thô- mặt hàng xuất khẩu chiến
lược của quốc gia; tăng cường các biện pháp kinh tế khuyến khích các tổ chức, cá
nhân bán ngoại tệ cho NHTMVN.
Thứ hai, NHNN cần thay đổi phương pháp đánh giá tồn quỹ ngoại hối. Hiện
nay, quỹ dự trữ được xác định theo tuần nhập khẩu; nói cách khác, nguồn ngoại
hối dự trữ chỉ dừng lại ở mức sẵn sàng thoả mãn các nhu cầu ngoại tệ để cân
bằng cán cân thương mại. Điều này chỉ phù hợp khi Việt Nam ở tình trạng
thường xuyên thâm hụt cán cân thương mại và dịch vụ. Trong tương lai, cách
tính này không an toàn do nó không bao quát hết nhu cầu ngoại hối quốc gia, bên
cạnh cán cân vãng lai, cán cân vốn cũng tạo một áp lực lớn về ngoại hối. Trong
những năm đầu của thời kỳ đổi mới, nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam không
ngừng gia tăng, cán cân vốn luôn thặng dư và mức thặng dư gia tăng theo thời
gian. Đã hơn 10 năm mở cửa nền kinh tế, thời gian ân hạn của một số khoản vay
đã hết, thời gian trả nợ đến gần, khoản lãi và nợ gốc của các doanh nghiệp đầu tư
trực tiếp nước ngoài đã đến kỳ thanh toán, nhu cầu chu chuyển vốn ra nước ngoài
kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam đang có xu hướng ngày càng tăng…
Đây là những nhu cầu ngoại tệ chính đáng đang cần được thoả mãn. Nói cách
khác, để tránh tình trạng căng thẳng về ngoại tệ trong tương lai, NHNN cần thay
Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p
§ç ThÞ Nh Quúnh- A7- K38BKTNT 135
đổi cách tính nguồn ngoại tệ dự trữ bằng cách cộng thêm khoản dự phòng cho
các nhu cầu ngoại tệ phát sinh từ cán cân vốn, đồng thời gia tăng nguồn vốn
ngoại hối cho mục tiêu ổn định tỷ giá khi thị trường tài chính trong nước và quốc
tế biến động. Có như vậy NHNN mới có thể thực tốt vai trò người mua bán ngoại
tệ cuối cùng.
Thứ ba, quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia cần được đa dạng hoá ngoại tệ, đặc
biệt nên tăng dự trữ vàng tiêu chuẩn quốc tế bởi vì suy cho cùng vàng tiêu chuẩn
quốc tế luôn là nguồn tài sản thực có mà tiền giấy vẫn không thể thay thế được.
Trong việc thanh toán nợ giữa các quốc gia người ta vẫn coi trọng vàng tiêu
chuẩn quốc tế hơn là ngoại tệ. Vì thế ngay cả các nước phát triển như Mỹ hay
Trung Quốc một đất nước đang phát triển vẫn coi trọng việc tích luỹ dự trữ vàng
tiêu chuẩn quốc tế. Hơn nữa, NHNN quy định cho phép các NHTMVN kinh
doanh ngoại hối trong đó có kinh doanh vàng tiêu chuẩn quốc tế song trong thực
tế NHNN lại không tham gia tích cực vào thị trường vàng tiêu chuẩn quốc tế với
vai trò là người mua bán cuối cùng thì tất yếu các NHTMVN cũng không thể
phát triển được hoạt động này. Do vậy muốn phát triển hoạt động kinh doanh
ngoại hối đồng bộ và toàn diện của NHTMVN, NHNN cần tích cực hơn trong
hoạt động giao dịch vàng tiêu chuẩn quốc tế.
2.3- Phát triển thị trường ngoại hối
NHTMVN là một thành viên quan trọng của thị trường ngoại hối, do vậy
giữa hoạt động kinh doanh của NHTMVN và thị trường ngoại hối có một mối
liên hệ hai chiều. NHTMVN trực tiếp giúp cung và cầu trên thị trường ngoại hối
gặp nhau, ngược lại những biến động trên thị trường lại có tác động hoặc tích cực
hoặc tiêu cực đến kết quả hoạt động kinh doanh ngoại hối của NHTMVN. Nói
một cách khác, sự phát triển kinh doanh ngoại hối của các NHTMVN luôn gắn
liền với sự phát triển thị trường ngoại hối. Tuy nhiên, hiện nay thị trường ngoại
hối Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển, cho nên còn yếu
kém về nhiều mặt như: tổ chức thị trường, hàng hoá, các nghiệp vụ kinh doanh,
đây chính là những trở ngại cho việc phát triển kinh doanh ngoại hối của các
NHTMVN mà cần phải được khắc phục càng sớm càng tốt.
Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p
§ç ThÞ Nh Quúnh- A7- K38BKTNT 136
Đối với tổ chức thị trường, nước ta chưa có một thị trường ngoại hối
thống nhất điều này thể hiện ở sự khác biệt về tỷ giá giao ngay giữa các khu vực,
thậm chí giữa các trung tâm chính như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Hải
Phòng. Do vậy cần phải nhanh chóng cải tiến hệ thống thanh toán bù trừ và tạo ra
một sự giao dịch liên tục giữa các Trung tâm lớn để nhanh chóng loại bỏ sự
chênh lệch tỷ giá giao ngay theo vùng. Ngoài ra cần tiến hành thiết lập thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng theo mô hình tổ chức kép, bao gồm thị trường ngoại tệ
liên ngân hàng trực tiếp giữa các ngân hàng và thị trường gián tiếp qua môi giới
bởi vì các phương tiện giao dịch trên thị trường chưa hiện đại nên các công ty
môi giới ngoại hối sẽ góp phần hạn chế sự gián đoạn trên thị trường. Hiện tại, thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng trực tiếp đã có 60 thành viên được công nhận là
thành viên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, nhưng số thành viên tham gia tích
cực thì rất hạn chế khiến cho thị trường hoạt động trầm lắng. Ngoài ra, giao dịch
trên thị trường thường diễn ra một chiều, nghĩa là một số ngân hàng thì chuyên đi
bán, số khác thì chuyên đi mua do đó thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mất đi
tính đặc thù của nó. Để khắc phục hạn chế này, một mặt cần mở rộng số lượng
thành viên, mặt khác tạo ra môi trường và điều kiện để các thành viên tham gia
thị trường được tích cực hơn. Bên cạnh đó, một trong những giải pháp thiết thực
khuyến khích các NHTMVN kinh doanh trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
là NHNN cần đẩy nhanh tốc độ thanh toán bằng cách nối mạng thanh toán bù trừ
liên ngân hàng cho tất cả các định chế được phép kinh doanh ngoại tệ. Nếu thời
gian xử lý chứng từ được tiết giảm, các NHTMVN không chỉ tiết kiệm được thời
gian, chi phí giao dịch mà còn tận dụng nhiều cơ hội kinh doanh, góp phần nâng
cao hiệu quả hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Về thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng gián tiếp, trước mắt do hệ thống các công ty môi giới
chưa kịp hình thành, NHNN có thể cho phép một số NHTMVN hoạt động kinh
doanh ngoại hối lớn, có uy tín và có kinh nghiệm thành lập công ty con với chức
năng môi giới ngoại tệ. Song song với việc làm này, NHNN cần có giải pháp
khuyến khích, cấp phép cho một vài công ty môi giới ngoại hối hoạt động trong
thời gian tới.
Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p
§ç ThÞ Nh Quúnh- A7- K38BKTNT 137
Đối với hàng hoá của thị trường ngoại hối Việt Nam, NHNN cần tạo ra
nhiều chủng loại và số lượng lớn các công cụ ngoại hối như tăng cường phát
hành trái phiếu chính phủ, công trái bằng ngoại tệ, tích cực chiết khấu và tái chiết
khấu, mua bán ngắn hạn các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ. Một mặt, NHNN cần
tiếp tục nghiên cứu, nhanh chóng sửa đổi khung pháp lý để đẩy mạnh việc sử
dụng thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại tín phiếu, trái phiếu của
NHTM bằng ngoại tệ. Mặt khác, NHNN cần có chính sách khuyến khích các
NHTMVN huy động và cho vay vàng tiêu chuẩn quốc tế, mua và bán vàng tiêu
chuẩn quốc tế như hỗ trợ cơ sở vật chất kỹ thuật kiểm định, bảo quản, giảm thuế
nhập khẩu vàng tiêu chuẩn quốc tế, giảm thuế thu nhập từ hoạt động kinh doanh
vàng.
Đối với các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối, NHNN cần tiếp tục phát
triển nghiệp vụ giao ngay, kỳ hạn và hoán đổi như mở rộng kỳ hạn của các hợp
đồng kỳ hạn từ 1- 365 ngày chứ không nên chỉ giới hạn từ 30- 180 ngày như hiện
nay. NHNN cần phải đóng vai trò tích cực hơn trong việc mua hết và bán đủ các
ngoại tệ khi các NHTMVN có nhu cầu. Bên cạnh đó, NHNN cần phải cho phép
các NHTMVN tiến hành nghiệp vụ hoán đổi với các khách hàng khác không phải
là NHNN, tiếp đó có thể hoán đổi các ngoại tệ khác nhau chứ không chỉ dừng lại
ở USD, VND như hiện nay. Ngoài ra, cần khuyến khích nhiều ngân hàng tham
gia thí điểm nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ, để tiến hành triển khai đồng bộ trong
toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam dựa trên cơ sở hạn chế những nhược điểm đã
được phát hiện trong quá trình thử nghiệm. Trong tương lai, khi Việt Nam hội
nhập với nền kinh tế toàn cầu, NHNN nên cho phép các NHTMVN từng bước
tiếp cận với nghiệp vụ tương lai. Có như vậy thị trường ngoại hối mới có thể phát
triển theo kịp các nước phát triển.
Trên đây là ba giải pháp cơ bản để phát triển thị trường ngoại hối, bên cạnh
đó Chính phủ Việt Nam cũng có thể thay đổi một số nội dung quản lý ngoại hối
theo hướng tự do hoá như nới lỏng dần các quy định về quản lý ngoại hối cho
phù hợp với thông lệ quốc tế, nhất là phù hợp với các quốc gia trong khu vực,
như nới lỏng các quy định đối với quyền mua bán ngoại tệ của các tổ chức kinh
Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p
§ç ThÞ Nh Quúnh- A7- K38BKTNT 138
tế, mở rộng phạm vi được giao dịch vay ngoại tệ bao gồm cả vay ngoại tệ để thực
hiện dự án, vay để kinh doanh xuất khẩu, góp vốn liên doanh đầu tư ra nước
ngoài ... Đây cũng chính là yêu cầu khách quan trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế, nhưng cũng cần phải cân nhắc kỹ lưỡng để đảm bảo thị trường ngoại hối
Việt Nam phát triển bền vững.
2.4- Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế
Cán cân thanh toán là bảng đối chiếu giữa những khoản tiền mà nước ngoài
trả cho một nước và những khoản tiền mà nước đó phải trả cho nước ngoài trong
một thời gian nhất định. Theo truyền thống, cán cân thanh toán bao gồm có hai
bộ phận chính là cán cân vãng lai (current balance) và cán cân vốn (capital
balance). Tài khoản vãng lai ghi những khoản giao dịch về hàng hoá, dịch vụ và
các khoản chuyển dịch thanh toán giữa hai nước trong khi đó tài khoản vốn ghi
chú những di động tiền tệ trong đầu tư và tín dụng giữa hai nước. Điều này chứng
tỏ cán cân thanh toán phản ánh cung cầu ngoại hối của một nước cho hoạt động
thương mại và đầu tư quốc tế, vì vậy nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của
thị trường ngoại hối và kinh doanh ngoại hối tại các NHTMVN.
Trong suốt nhiều năm qua, cán cân thanh toán của Việt Nam luôn trong tình
trạng thiếu hụt. Mặc dù hoạt động xuất khẩu, và thu hút vốn đầu tư nước ngoài
trong mấy năm gần đây có tăng lên nhưng vẫn không đủ bù đắp được sự thâm hụt
trong cán cân thanh toán quốc tế. Vì vậy, cán cân thanh toán cần phải được cải
thiện theo hai hướng: đẩy mạnh xuất nhập khẩu và cải thiện, nâng cấp môi trường
đầu tư. Cả hai hướng này đều nhằm tăng cung ngoại hối hơn nữa, đáp ứng cho
cầu ngoại hối để nhập khẩu và trả nợ nước ngoài khi đến hạn do đó thúc đẩy sự
phát triển của thị trường ngoại hối ở nhiều khía cạnh khác nhau bao gồm về quy
mô và phạm vi, cường độ và xu hướng liên kết các thị trường ngoại hối trong
nước với thị trường ngoại hối khu vực và thế giới, liên kết các giao dịch ngoại
hối với nhiều đồng tiền khác nhau, tiếp nhận và phản ứng với nhiều loại chính
sách hối đoái khác nhau ở nhiều nước với các chế độ tỷ giá khác nhau.
Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p
§ç ThÞ Nh Quúnh- A7- K38BKTNT 139
Đối với đẩy mạnh xuất nhập khẩu, trước mắt cũng như lâu dài cần thực hiện
các công cụ sau: đánh giá lại lợi thế so sánh của Việt Nam so với thị trường thế
giới để thấy hết được tiềm năng và thế mạnh của Việt Nam so với các nước khác
nhằm từng bước xây dựng danh mục mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn và có triển
vọng lâu dài. Hiện nay, những mặt hàng có lợi thế so sánh của Việt Nam là
những mặt hàng sử dụng nhiều lao động, nhiều nguyên nhiên liệu tại chỗ. Đó là
những mặt hàng nông sản như gạo, cà phê, hồ tiêu, may mặc và một số sản phẩm
giày dép. Loại dịch vụ thu nhiều ngoại tệ là dịch vụ du lịch quốc tế. Trong tương
lai các sản phẩm của ngành công nghiệp phần mềm là những sản phẩm điện tử có
thể là những mặt hàng mũi nhọn của Việt Nam. Cần kết hợp khéo léo giữa lợi thế
so sánh quốc gia, nỗ lực của chính phủ và những cố gắng của doanh nghiệp để
thúc đẩy xuất khẩu. Nếu thiếu việc khai thác các mặt hàng có lợi thế so sánh quốc
gia thì doanh nghiệp khó có thể tồn tại lâu dài trên thị trường. Đồng thời nếu
thiếu các biện pháp hỗ trợ của Chính phủ thì doanh nghiệp khó có thể vượt qua
được những khó khăn và thách thức ở những thị trường mới. Ngoài ra, nếu xác
định được mặt hàng có lợi thế so sánh, Chính phủ có nhiều biện pháp hỗ trợ
mạnh nhưng doanh nghiệp không có những lỗ lực về cải tiến công nghệ hoàn
thiện bộ máy quản lý và đẩy mạnh hoạt động quảng cáo, chào hàng thì doanh
nghiệp khó có thể thành công trên thị trường. Vì vậy, sự kết hợp của cả ba yếu tố
này là cần thiết, cơ bản và có tính chiến lược.
Song song với đẩy mạnh xuất khẩu, các doanh nghiệp cần tính toán, xác
định những mặt hàng cần nhập khẩu để phục vụ cho sản xuất, tiêu dùng trong
nước và thúc đẩy xuất khẩu. Vấn đề là nhập khẩu của doanh nghiệp phải có lợi
nhuận cao để doanh nghiệp có thể tiếp tục duy trì hoạt động của mình nhưng
cũng phải đảm bảo việc sử dụng nguồn ngoại hối một cách hiệu quả.
Đối với việc cải thiện, nâng cấp môi trường đầu tư, để tăng cường thu hút
vốn đầu tư nước noài hơn nữa, Việt Nam cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng
cao chất lượng cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh công tác vận động đầu tư nước ngoài và
đa dạng hoá hình thức thu hút đầu tư nước ngoài kết hợp chặt chẽ với các hoạt
động kinh tế đối ngoại khác.
Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p
§ç ThÞ Nh Quúnh- A7- K38BKTNT 140
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quynh_4576.pdf