Kinh doanh ngoại hối tại các ngân hàng thương mại Việt Nam -Thực trạng và giải pháp

Đối với đẩy mạnh xuất nhập khẩu, trước mắt cũng như lâu dài cần thực hiện các công cụ sau: đánh giá lại lợi thế so sánh của Việt Nam so với thị trường thế giới để thấy hết được tiềm năng và thế mạnh của Việt Nam so với các nước khác nhằm từng bước xây dựng danh mục mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn và có triển vọng lâu dài. Hiện nay, những mặt hàng có lợi thế so sánh của Việt Nam là những mặt hàng sử dụng nhiều lao động, nhiều nguyên nhiên liệu tại chỗ. Đó là những mặt hàng nông sản như gạo, cà phê, hồ tiêu, may mặc và một số sản phẩm giày dép. Loại dịch vụ thu nhiều ngoại tệ là dịch vụ du lịch quốc tế. Trong tương lai các sản phẩm của ngành công nghiệp phần mềm là những sản phẩm điện tử có thể là những mặt hàng mũi nhọn của Việt Nam. Cần kết hợp khéo léo giữa lợi thế so sánh quốc gia, nỗ lực của chính phủ và những cố gắng của doanh nghiệp để thúc đẩy xuất khẩu.

pdf140 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 6390 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kinh doanh ngoại hối tại các ngân hàng thương mại Việt Nam -Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t động kinh doanh ngoại hối của các NHTMVN cần đạt được. Định hướng này đòi hỏi các ngân hàng phải xác định rõ các thị trường, lĩnh vực mà các doanh nghiệp trong nước sẽ vươn tới. Cụ thể là ngân hàng cần trả lời được các vấn đề như thị trường địa lý nào, hoạt động kinh doanh gì và ở quy mô nào sẽ được các doanh nghiệp triển khai. Từ đó đa dạng hoá các nghiệp vụ tài trợ, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối cho khách hàng. Bốn là tìm kiếm cơ hội đầu tư an toàn trong và ngoài nước, thực tế trong thời gian qua cho thấy nguồn vốn ngoại hối của ngân hàng không phải khi nào cũng được tận dụng triệt để. Trong khi đó, các NHTMVN có trình độ hạn chế, chưa đủ sức tham gia vào các hoạt động kinh doanh đòi hỏi kỹ năng và trình độ quản lý rủi ro cao. Do đó, NHTMVN chỉ nên dừng ở định hướng là tìm kiếm các Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th­¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p §ç ThÞ Nh­ Quúnh- A7- K38BKTNT 118 cơ hội đầu tư an toàn ở nước ngoài nếu nguồn ngoại hối trong nước chưa được các doanh nghiệp tận dụng. Đầu tư ra nước ngoài để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhưng đầu tư phải an toàn, phù hợp với trình độ quản lý của các NHTMVN. Vấn đề quan trọng nhất là ngân hàng phải lựa chọn được sản phẩm mà họ có lợi thế, hình thức đầu tư và kèm theo đó là phương thức quản lý rủi ro cần thiết. Năm là các NHTMVN cần phải duy trì trạng thái ngoại hối ở mức có thể kiểm soát được bởi vì hoạt động kinh doanh ngoại hối luôn chứa đựng rủi ro. Các định hướng phát triển nói trên cùng với thực trạng, những kết quả đạt được và hạn chế, những cơ hội và thách thức trên thị trường ngoại hối trong và ngoài nước sẽ quyết định các giải pháp để thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại hối của các NHTMVN nhằm đạt được các mục tiêu đã đặt ra đến năm 2010. II- MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI HỐI TẠI CÁC NHTMVN 1- Giải pháp mang tầm vi mô (đối với các NHTMVN) 1.1- Hoàn thiện các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối Nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối của ngân hàng thường có tính chất phức tạp và nhiều rủi ro. Vì vậy thường xuyên cải tiến và đa dạng hoá giao dịch ngoại hối là một nhu cầu thường xuyên của các NHTMVN để nâng cao trình độ phát triển, tăng cường khả năng cạnh tranh và tối đa hoá lợi nhuận. Sau một thời gian hoạt động kinh doanh ngoại hối, nhiều nghiệp vụ và giao dịch của các NHTMVN bộc lộ những yếu kém như quy mô nhỏ và nguy cơ rủi ro rất cao, vì vậy các NHTMVN cần chú trọng hoàn thiện các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối theo các nội dung sau:  Đối với huy động và cho vay ngoại hối, đây là một hoạt động tạo nguồn ngoại hối quan trọng để đảm bảo cung ứng vốn cho các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu, vì vậy cần có chiến lược huy động vốn trong nước và nước ngoài sao cho có hiệu quả. Muốn vậy, các NHTMVN cần phải phân loại khách hàng để có chính sách cho từng loại: Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th­¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p §ç ThÞ Nh­ Quúnh- A7- K38BKTNT 119 Thứ nhất, khách hàng là doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu, các NHTMVN phải có chính sách ưu tiên để thu hút được cả khách hàng xuất khẩu và nhập khẩu như: - Tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng để các doanh nghiệp xuất nhập khẩu sử dụng vốn trên tài khoản ngoại tệ một cách linh hoạt, đáp ứng kịp thời nhu cầu ngoại tệ để thanh toán, chi trả nhanh chóng tiền mặt vật tư hàng hoá phục vụ cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. - Tư vấn kịp thời cho khách hàng trong việc chọn hình thức vay, mượn thanh toán để hạn chế rủi ro về lãi suất, tỷ giá, nghiệp vụ kinh doanh trong thương mại quốc tế. Thứ hai, đối với khách hàng là tầng lớp dân cư, đây là loại khách hàng không thể thực hiện trực tiếp đầu tư vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh, thông thường họ phải chọn giải pháp đem gửi vào ngân hàng vì sự an toàn, kín đáo, bảo toàn vốn và có lãi. Để thu hút loại khách hàng này, các NHTMQD cần chú trọng một số vấn đề sau: - Đảm bảo dịch vụ hoàn hảo, tạo sự yên tâm của khách hàng - Đảm bảo tính linh hoạt đối với các công cụ huy động như có chính sách lãi suất tiền gửi hợp lý và hấp dẫn cho từng loại để khách hàng, có cơ hội lựa chọn, cho phép khách hàng rút vốn thuận lợi, nhanh chóng. Đối với các công cụ huy động trung và dài hạn như trái phiếu ngoại tệ, ngân hàng cần nghiên cứu để đưa thêm những đặc tính có thể chuyển nhượng được giữa các cá nhân để tạo cho khách hàng dần có thói quen mua bán, cất trữ, chuyển đổi các tài sản của mình bằng ngoại tệ thông qua ngân hàng và thị trường chứng khoán. - Tạo ra công cụ quản lý mới, như bên cạnh sổ tiết kiệm ngoại tệ của khách hàng đưa vào hình thức tài khoản tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ để đảm bảo thu nhận, chi trả tiền gửi một cách nhanh chóng, thuận tiện và an toàn hơn. Thứ ba, tăng cường các dịch vụ thu đổi ngoại tệ, kiều hối đối với người nước ngoài tại Việt Nam và Việt Kiều ở nước ngoài, do tâm lý của người nước ngoài và Việt Kiều chưa tin tưởng và quen thuộc với các hoạt động của các Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th­¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p §ç ThÞ Nh­ Quúnh- A7- K38BKTNT 120 NHTMVN trong nước, mặt khác chất lượng các dịch vụ của các NHTMVN còn kém so với các dịch vụ của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, vì vậy các đối tượng khách hàng này còn chưa quan tâm nhiều đến việc chuyển đổi ngoại tệ hoặc gửi ngoại tệ vào ngân hàng. Để tăng cường thu hút nguồn ngoại tệ từ các đối tượng này, các NHTMVN cần có giải pháp hợp lý hơn như: - Tăng cường tiếp thị về uy tín và công nghệ của ngân hàng mình, hướng dẫn khách hàng trong nước lựa chọn những hình thức chuyển tiền, những ngân hàng đại lý phù hợp để thông tin cho người thân ở nước ngoài chuyển tiền về nước. - Đối với hoạt động kiều hối, các NHTMVN cần tổ chức chi trả nhanh chóng, thuận tiện. Tính phí chuyển tiền hợp lý và áp dụng một tỷ giá hối đoái theo nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất, tính cạnh tranh, linh hoạt trong hệ thống nhằm thu hút khối lượng kiều hối gửi vào hay bán cho ngân hàng, đồng thời hạn chế việc người dân khi nhận kiều hối qua ngân hàng sau đó lại bán ra thị trường tự do. - Xây dựng một hệ thống đại lý thu đổi ngoại tệ ở mỗi ngân hàng một cách rộng khắp, đặc biệt ở khu vực thành phố và những khu du lịch quan trọng nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của Việt Kiều và người nước ngoài. Các NHTMVN phải tăng cường kiểm tra đối với nghiệp vụ của đại lý trong việc thu đổi ngoại tệ một cách bất hợp pháp. Thứ tư, đối với khách hàng vay vốn, đây thường là các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khác trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu. Họ sử dụng vốn vay có mục đích và tuân thủ nguyên tắc vay mượn của ngân hàng nhưng cũng có khách hàng lại cần tiền với chủ ý sử dụng không đúng mục đích và họ tìm mọi cách để vay tiền. Vì vậy, để mở rộng hoạt động vì lợi nhuận, các ngân hàng phải vượt qua sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro về đạo đức của khách hàng bằng cách: Mở rộng cho vay đối với khách hàng truyền thống về quy mô, mục đích cho vay theo khả năng. Tuy nhiên NHTMVN phải thường xuyên đánh giá lại năng lực tài chính, tổ chức quản lý, kinh doanh, người lãnh đạo, điều kiện hoạt động Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th­¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p §ç ThÞ Nh­ Quúnh- A7- K38BKTNT 121 của mỗi khách hàng để phân loại thành các nhóm khách hàng với độ tin cậy cao, thấp khác nhau để quyết định mở rộng hay hạn chế cho vay và áp dụng mức lãi suất khuyến khích. Ngược lại những khách hàng có độ tin cậy thấp như thường xuyên chậm trả nợ quá hạn nhiều lần thì ngân hàng cần xem xét cụ thể trước khi quyết định cho vay. Đối với khách hàng có khoản nợ tồn đọng kéo dài, thiếu hoặc không có khả năng thanh toán phải có biện pháp kiên quyết, dứt điểm trong việc xử lý nợ và đình chỉ việc cho vay. Bên cạnh đó các NHTMVN cần coi trọng đa dạng hoá các hình thức cho vay theo thời gian, trong đó đảm bảo cơ cấu nguồn vốn cho vay hợp lý, đồng thời đa dạng hoá các nghiệp vụ cho vay để tạo cơ hội cho khách hàng chọn các công cụ vay phù hợp với mục đích sử dụng và hạn chế thấp nhất những rủi ro như rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá hối đoái… Mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, các NHTMVN cần bám sát chính sách của chính phủ về phát triển các doanh nghiệp ngoài quốc doanh như chương trình cải cách các doanh nghiệp, chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các văn bản pháp luật của NHNN quy định về tín dụng… để cụ thể hoá và vận dụng khi cho vay đối với đối tượng khách hàng trên.  Về nghiệp vụ giao ngay, các NHTMVN cần mua bán nhiều loại ngoại tệ khác chứ không nên tập trung vào USD như hiện nay để phân tán rủi ro khi thị trường ngoại hối có những biến động bất thường, đồng thời đáp ứng cho nhu cầu đa dạng hoá thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam, hạn chế tình trạng đô la hoá tài sản.  Về nghiệp vụ kỳ hạn, thông thường các hợp đồng kỳ hạn không buộc phải điều chỉnh theo biến động thị trường (Marking- to- Market). Nói cách khác, trong suốt quá trình giao dịch, giá trị hợp đồng không được đánh giá lại; do đó, ngân hàng thường không yêu cầu khách hàng ký quỹ. Lợi điểm của cách làm này là giảm chi phí giao dịch cho khách hàng, song thực tế, nó làm gia tăng rủi ro cho ngân hàng. Thật vậy, thứ nhất, bản chất hợp đồng kỳ hạn là một giao dịch song phương giữa người mua và người bán kỳ hạn. Giao dịch này được thiết lập dựa vào nhu cầu của hai bên đối tác mà chưa được tổ chức, chuẩn hoá như các giao dịch tương lai và quyền chọn. Việc thực hiện hợp đồng phụ thuộc rất nhiều vào Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th­¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p §ç ThÞ Nh­ Quúnh- A7- K38BKTNT 122 thiện chí và tình hình tài chính của hai bên đối tác. Trong trường hợp tỷ giá biến động theo chiều hướng bất lợi, gây khoản lỗ lớn, vượt quá khả năng tài chính của một bên tham gia dẫn đến tình trạng đối tác này không thể thực hiện các điều khoản đã thoả thuận, gây thiệt hại cho thành viên còn lại. Thứ hai, các giao dịch kỳ hạn không thể chuyển nhượng và thanh lý trước hạn để hạn chế rủi ro như hợp đồng tương lai. Trong môi trường kinh doanh tiền tệ còn nhiều bất ổn hiện nay của Việt Nam, để hạn chế rủi ro này, ngân hàng nên xây dựng một tỷ lệ ký quỹ nhất định đối với các khách hàng tham gia hợp đồng kỳ hạn. Về vấn đề ký quỹ, để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng của đối tác, ngân hàng có thể yêu cầu mức ký quỹ từ 1- 2% giá trị hợp đồng. Tài khoản ký quỹ được trả lãi theo lãi suất tiền gửi không kỳ hạn. Nếu tỷ giá trong quá trình thực hiện hợp đồng biến động có lợi cho khách hàng, khoản ký quỹ không thay đổi. Ngược lại, nếu tỷ giá thay đổi bất lợi cho khách hàng; chẳng hạn tỷ giá (USD/VND) tăng lên đối với người bán kỳ hạn USD hoặc tỷ giá (USD/VND) giảm đối với người mua kỳ hạn USD, khách hàng có nguy cơ bị lỗ. Khi khoản lỗ đạt đến mức độ nhất định, ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng bổ sung tiền ký quỹ. Như vậy, số tiền ký quỹ sẽ tạo ra sự an toàn giúp các bên thực hiện tốt hợp đồng kỳ hạn. Ngoài ra, các NHTMVN cần chú ý mở rộng nghiệp vụ hoán đổi, dần tiếp cận thí nghiệm nghiệp vụ quyền chọn, tăng cường nghiên cứu nghiệp vụ tương lai để sẵn sàng áp dụng khi NHNN cho phép.  Về kinh doanh các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ, trước hết các NHTMVN cần tăng cường huy động vốn bằng ngoại tệ thông qua phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi bằng ngoại tệ. Tiếp đó, NHTMVN có thể tuyên truyền, hướng dẫn khách hàng sử dụng thương phiếu trong kinh doanh, và sẵn sàng chấp nhận chiết khấu, thế chấp các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ như hối phiếu, kỳ phiếu, lệnh phiếu. Hoặc ngân hàng cũng có thể cung cấp dịch vụ tư vấn miễn phí nên dùng giấy tờ có giá bằng ngoại tệ gì để phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Ngoài ra, các NHTMVN cần mạnh dạn đầu tư vào chứng khoán ghi bằng ngoại tệ. Đây là một hoạt động vừa đa dạng hoá việc sử dụng nguồn vốn ngoại tệ, tăng Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th­¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p §ç ThÞ Nh­ Quúnh- A7- K38BKTNT 123 thu lợi nhuận lại vừa có khả năng truyền bá thương hiệu và hấp dẫn khách hàng nước ngoài vì khi NHTMVN trở thành cổ đông của các công ty nước ngoài thì thường dễ thu hút chính công ty này trở thành khách hàng của mình.  Về kinh doanh vàng tiêu chuẩn quốc tế, các NHTMVN cần đa dạng hoá các hình thức huy động và cho vay vàng tiêu chuẩn quốc tế, với mức lãi suất hợp lý để đảm bảo khả năng cạnh tranh. Các NHTMVN nên mở nhiều cửa hàng kinh doanh vàng về các địa phương trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu và lượng vàng dự trữ trong dân ở khu vực đó. Đồng các ngân hàng cần kết hợp kinh doanh vàng tiêu chuẩn quốc tế trong và ngoài nước để duy trì hoạt động kinh doanh này. 1.2- Tăng vốn chủ sở hữu của các NHTMVN Quy mô về vốn tự có của một ngân hàng là một trong những tiêu chí đánh giá về năng lực tài chính và khả năng đảm bảo tỷ lệ an toàn của ngân hàng. Quy mô quá nhỏ bé về vốn là một trong những điểm yếu lớn, đang cản trở sự phát triển và nâng cao khả năng cạnh tranh của các NHTMVN, điều này thể hiện qua tỷ lệ an toàn vốn chỉ đạt trung bình từ 2% đến 3%28. Vì vậy, yêu cầu tất yếu đặt ra đối với các NHTMVN là phải tăng vốn điều lệ với tốc độ nhanh hơn tốc độ của tổng nguồn vốn. Trong hệ thống các giải pháp, giải pháp tăng vốn điều lệ của các NHTM là giải pháp quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh, tạo cơ sở cho việc điều chỉnh cơ cấu huy động và sử dụng vốn. Do vậy điều cần làm đầu tiên là đánh giá lại tài sản của toàn hệ thống NHTMVN vì từ lâu số tài sản này bị đánh giá thấp hơn nhiều so với giá trị thực tế. Đồng thời đối với từng nhóm ngân hàng cần có biện pháp sau: Đối với NHTMQD, Nhà nước cần tiếp tục cấp đầy đủ vốn điều lệ bằng nguồn vốn đầu tư phát triển, phát hành trái phiếu chính phủ, vốn ODA; hoặc tiến hành cổ phần hóa NHTMQD để tăng vốn thông qua phát hành cổ phiếu huy động vốn trong cán bộ, nhân viên của chính ngân hàng nhưng tỷ lệ không quá 15% vốn điều lệ nhằm đảm bảo quyền kiểm soát của Nhà nước đối với các NHTMQD. 28 Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th­¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p §ç ThÞ Nh­ Quúnh- A7- K38BKTNT 124 Đối với các NHTM cổ phần, tăng tỷ lệ cho phép (hiện nay là 15%) và tiếp tục cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của các NHTM cổ phần; tăng tỷ lệ trích lập quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ hàng năm từ lợi nhuận sau khi nộp thuế thu nhập; cho phép các NHTM cổ phần niêm yết, phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán; tiếp tục mua lại, sát nhập và hợp nhất các NHTM cổ phần qui mô nhỏ vào các NHTM cổ phần mạnh hơn, qui mô lớn hơn để tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường. 1.3- Quản lý rủi ro ngoại hối Quản lý rủi ro ngoại hối là giải pháp có tính lâu dài và bền vững của quá trình phát triển các hoạt động kinh doanh tại các NHTMVN. Để đảm bảo tính hiệu quả quản lý và phòng ngừa rủi ro, trong điều kiện hoạt động hiện nay, ở mỗi NHTMVN cần phải chú trọng biện pháp quản lý phòng ngừa rủi ro theo 2 cơ chế có tính vĩ mô và vi mô. Đó là xây dựng cơ chế quản lý rủi ro có tính hệ thống và chú trọng phòng ngừa rủi ro bộ phận.  Thứ nhất, xây dựng cơ chế quản lý rủi ro có tính chất hệ thống Sơ đồ 3.1- Quản lý rủi ro hoạt động ngân hàng theo hệ thống Rủi ro từ khác hàng Rủi ro hoạt động Rủi ro huy động vốn -khách hàng thua lỗ -rủi ro thông tin -lãi suất huy động vốn -sản phẩm lỗi thời -rủi ro nhân sự tăng -nợ quá hạn tăng -cấu trúc huy động vốn -mất khả năng thanh toán biến đổi Rủi ro tỷ giá Hội đồng quản lý Rủi ro tài chính -tỷ giá biến động rủi ro -thuế thu nhập tăng -lạm phát Phòng quản lý rủi ro -thuế vốn tăng -chi phí vốn thay đổi Rủi ro về nghiệp vụ Rủi ro pháp lý Rủi ro môi trường -giới hạn các giao dịch -môi trường pháp lý -cạnh tranh tăng & nghiệp vụ ngân hàng thiếu phù hợp -khủng hoảng kinh tế -giao dịch không tương -chính sách Nhà nước thích với mục tiêu kinh thay đổi doanh -ngừng bảo hộ của NHNN Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th­¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p §ç ThÞ Nh­ Quúnh- A7- K38BKTNT 125 Cơ chế quản lý rủi ro này được hiểu là thay vì quản lý rủi ro một cách riêng rẽ, các NHTMVN cần thực hiện quản lý rủi ro theo một hệ thống để có được những biện pháp phòng ngừa tối ưu nhất. Thông thường có ba cách để tiến hành quản lý rủi ro một cách hệ thống: thứ nhất, thay thế các hoạt động của ngân hàng; thứ hai, điều chỉnh cấu trúc vốn một cách hệ thống; thứ ba, sử dụng các công cụ tài chính để giảm thiểu rủi ro. Những cách thức này tương tác lẫn nhau để hình thành lên chiến lược quản lý rủi ro của ngân hàng, được thể hiện ở Sơ đồ 3.1. Các công nghệ quản lý rủi ro thích hợp đối với mỗi NHTMVN sẽ khác nhau. Bằng cách giảm thiểu các khoản đầu tư dàn trải vốn điều lệ cho các khoản tài sản xiết nợ hoặc góp vốn cổ phần các NHTMVN có được khả năng mềm dẻo hơn trong việc phản ứng đối với các cú sốc về thị trường, công nghệ hoặc môi trường pháp lý. Thực tế cho thấy, một số loại rủi ro vẫn không thể quản lý được hoặc là do cách tổ chức quản lý của ngân hàng không phù hợp hoặc là chi phí giải quyết là quá đắt hoặc xung đột với các mục tiêu khác của các NHTMVN. Vì vậy, việc xây dựng cơ chế quản lý rủi ro này là một đòi hỏi cấp thiết đối với các NHTMVN.  Thứ hai, chú trọng với cơ chế phòng ngừa rủi ro bộ phận Việc quản lý, phòng ngừa rủi ro này xuất phát từ rủi ro hoạt động ở từng loại dịch vụ với đặc thù nhạy cảm, dễ bị chi phối bởi sự biến động của điều kiện, môi trường hoạt động. Vì vậy các NHTMVN cần thực hiện một số biện pháp sau: Quy định một số hạn mức và yêu cầu những người kinh doanh ngân hàng phải tuyệt đối chấp hành nghiêm ngặt các hạn mức đó. Thông thường có một số hạn mức sau: - Quy định hạn mức được mở trạng thái trong ngày (Daylight Open Position Limit) cho từng giao dịch viên. Hạn mức này tuỳ thuộc vào trình độ nghiệp vụ, khả năng phán đoán thị trường, kinh nghiệm của từng giao dịch viên và theo từng loại tiền giao dịch. - Quy định điểm dừng lỗ (Cut- Lost Limit), mỗi giao dịch viên chỉ được phép lỗ tối đa bao nhiêu điểm trong một giao dịch. Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th­¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p §ç ThÞ Nh­ Quúnh- A7- K38BKTNT 126 - Quy định một số hạn mức khác như hạn mức trạng thái qua đêm, mức lỗ tối đa cho phép của toàn bộ Dealing Room trong khoảng thời gian nhất định … Các hạn mức trên sẽ khống chế được mức độ rủi ro (nếu có) trong hạn mức cho phép, nó là căn cứ cho cán bộ phụ trách phòng Dealing Room (Chief Dealer) chỉ đạo hoạt động, giám sát và đánh giá được hiệu quả hoạt động trong quá trình kinh doanh. Tăng cường thực hiện chính sách bảo hiểm tiền gửi ngoại tệ tạo ra tâm lý cho người gửi tiền về sự an toàn vốn gửi ở ngân hàng. Do đó, NHTMVN sẽ huy động được vốn ổn định và không phá sản do người gửi đến rút tiền ồ ạt. Các NHTMVN có thể bảo hiểm rủi ro khả năng thanh toán của chính ngân hàng và bảo hiểm giá trị của tiền gửi do mất giá của đồng tiền. Tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn sử dụng để cho vay trung hạn, thông thường các NHTMVN dùng nguồn vốn vay để sử dụng theo nguyên tắc: nguồn vốn cho sử dụng vốn có kỳ hạn tương đương. Tuy nhiên có một thực tế là do việc khan hiếm nguồn vốn ngoại tệ có kỳ hạn dài trong khi nhu cầu đầu tư vốn dài hạn cho phát triển và tăng trưởng nền kinh tế lại rất lớn nên các NHTMVN thường sử dụng một phần nguồn vốn có kỳ hạn ngắn để đáp ứng cho sử dụng vốn có kỳ hạn dài. Chính vì vậy, dễ xảy ra tình trạng mất cân đối về kỳ hạn, gặp rủi ro khi biến động bất lợi về tỷ giá theo chiều hướng giảm. Do vậy, để bảo đảm an toàn trong kinh doanh, các NHTMVN cần tính toán việc sử dụng nguồn vốn ngắn hạn cho đầu tư dài hạn một cách hợp lý, không vượt quá quy định trong những điều kiện đầu tư không thuận lợi. Sử dụng các giao dịch giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi, tiến tới nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ và nghiệp vụ tương lai để bảo hiểm rủi ro cho chính mình và cho khách hàng của mình. Thực hiện kiểm toán thường xuyên, các NHTMVN nên thuê các công ty kiểm toán có uy tín theo thông lệ quốc tế mang tính chất dài hạn chứ không phải là thông qua đấu thầu như hiện nay. Việc đấu thầu có ưu điểm là chọn nhà kiểm toán có phí thấp nhưng nếu phải tổ chức đầu thầu hàng năm, có thể mỗi năm sẽ Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th­¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p §ç ThÞ Nh­ Quúnh- A7- K38BKTNT 127 có một cơ quan kiểm toán khác nhau trúng thầu. Việc này lại không có lợi vì thông thường một công ty kiểm toán thường xuyên sẽ nắm vững hơn về khách hàng nên thuận lợi cho việc kiểm toán được chính xác và nhanh chóng. Đồng thời các NHTMVN nên thường xuyên công bố kết quả đánh giá kiểm toán về tình hình tài chính ngân hàng cho khách hàng để tạo ra lòng tin và trong sạch hoá thông tin. 1.4- Đầu tư cho công nghệ Ngày nay, để đánh giá khả năng cạnh tranh của một ngân hàng, người ta không chỉ dựa vào quy mô vốn, số lượng các dịch vụ cung cấp mà còn ở trình độ công nghệ và nguồn nhân lực của chính ngân hàng đó. Một thực tế cho thấy, một ngân hàng lớn có nhiều vốn nhưng cơ sở hạ tầng lạc hậu, nhân viên không linh hoạt trong cập nhật và ứng dụng các kiến thức mới về kinh doanh ngân hàng thì ngân hàng đó sẽ rơi vào tình trạng trì trệ, và chính quy mô lớn nhiều khi lại gây khó khăn cho việc quản trị và là lực cản của sự phát triển. Hơn nữa chính công nghệ và nguồn nhân lực lại là hai nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Điều này có thể thấy rõ ở Việt Nam, Ngân hàng VCB không phải là ngân hàng có vốn lớn nhất nhưng lại là ngân hàng hoạt động hiệu quả nhất, và có khả năng cạnh tranh cao hơn so với các NHTMVN khác đó là bởi vì VCB mạnh dạn đầu tư cho công nghệ và đào tạo phát triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên đó chỉ là một trong số ít các NHTMVN chú trọng đến phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ và nhân lực còn đa phần các NHTMVN vẫn chưa quan tâm đúng mực đến vấn đề này. Vì vậy, yêu cầu đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ của cán bộ nhân viên ngân hàng đang là nhu cầu cấp bách hiện nay. Trước hết, các NHTMVN có thuận lợi về môi trường và hành lang pháp lý cho việc áp dụng các công nghệ mới đã được cải thiện đáng kể. Các quy chế, cơ chế thực hiện giao dịch và cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử đã được ban hành như quy chế về chữ ký điện tử, bảo mật…; thứ hai, về mặt kỹ thuật, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng đã được vận hành từ tháng 5/2002 và đang được tiếp tục mở rộng tới khoảng 50 ngân hàng thành viên và trên 200 chi nhánh của các ngân hàng này. Từ 1/3/2003, hệ thống thanh toán bù trừ điện tử cũng đã Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th­¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p §ç ThÞ Nh­ Quúnh- A7- K38BKTNT 128 được đưa vào sử dụng, tạo điều kiện để mở rộng phục vụ nhanh chóng, thuận tiện cho các doanh nghiệp và nền kinh tế. Tuy nhiên khó khăn của các NHTMVN là việc lựa chọn và áp dụng công nghệ hiện đại nào để có thể sử dụng tối đa khả năng của các công nghệ mới phục vụ cho việc phát triển các dịch vụ mới với chất lượng cao và giá cả hợp lý. Vì vậy yêu cầu của phát triển công nghệ ở các NHTMVN hiện nay là: - Tránh đầu tư tràn lan, cần phải đảm bảo sử dụng hết công suất các công nghệ đã được đầu tư. - Hệ thống công nghệ thông tin phải đảm bảo tương thích đối với các hệ thống công nghệ khác nhau, các đối tác giao dịch khác nhau (Interbank, Intrabank, buy side- sell side). Hệ thống giao dịch này phải là hệ thống giao dịch thông qua mạng Internet và thực hiện đầy đủ các chức năng giao dịch điện tử; - Các mô thức giao dịch tự động, định giá tự động và niêm yết giá tự động; - Có khả năng giao dịch và tương thích với hệ thống quản lý tài sản ở nước ngoài của các nhà cung cấp lớn “off- the- shelf”; - Tạo lập được hệ thống quản lý dữ liệu thị trường trực tuyến trong toàn hệ thống, tức là phải cập nhật được dữ liệu thị trường, có khả năng tiếp cận trực tiếp để tìm kiếm, quản lý, hạch toán các số liệu thị trường và của hệ thống, có thể nhận biết được những chính sách khác nhau của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường dựa vào cơ sở nguồn thông tin thị trường tiếp cận được (Reuters DACS, TIBCO, Entilements and Bridge Observer); - Tiếp cận và ứng dụng các phầm mền quản lý dữ liệu thị trường tài chính (Global Market Data Manager, Trading Room Magnet, InfoMatch, FITS, FinOffice,…). 1.5- Phát triển nguồn nhân lực Theo đánh giá chung, nguồn nhân lực của các NHTMVN còn nhiều hạn chế và bất cập. Một mặt hiểu biết và kỹ năng thực hiện các công việc chuyên môn của nhiều cán bộ chưa theo kịp và chưa đáp ứng đòi hỏi của hoạt động ngân hàng trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập, nhất là trong việc triển khai các dịch vụ Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th­¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p §ç ThÞ Nh­ Quúnh- A7- K38BKTNT 129 mới và theo cách thức hoạt động của ngân hàng hiện đại. Mặt khác, có một số cán bộ tuy được đào tạo cơ bản, có năng lực chuyên môn cao nhưng lại chưa được bố trí, sử dụng hợp lý, gây lãng phí và hạn chế hiệu quả sử dụng cán bộ. Tình hình này đòi hỏi phải tăng cường về đào tạo và sử dụng hợp lý hơn nguồn nhân lực theo các giải pháp sau: Thứ nhất, đổi mới mạnh mẽ về nhận thức và tổ chức thực hiện việc đào tạo và sử dụng cán bộ theo đúng đường lối, chủ trường của Đảng và Nhà nước. Cần xuất phát từ yêu cầu của mỗi vị trí công tác và lấy mức độ đáp ứng yêu cầu này cũng như yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu qủa hoạt động chung của ngân hàng làm căn cứ, tiêu chuẩn để xây dựng và đánh giá kết quả đào tạo và sử dụng cán bộ. Thứ hai, tập trung giải quyết tốt mâu thuẫn giữa việc phải dành nguồn cán bộ để đáp ứng các yêu cầu trước mắt, nhưng đồng thời phải dành sự đầu tư thoả đáng cho việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ nhằm đảm bảo tốt cho các bước phát triển tiếp theo. Bên cạnh việc dứt khoát chọn một số cán bộ trẻ được đánh giá là có năng lực và đạo đức tốt cử đi đào tạo dài hạn và chuyên sâu ở trong và ngoài nước để có khả năng triển khai áp dụng các kiến thức, kinh nghiệm học được; đồng thời coi trọng việc đào tạo thông qua công việc hàng ngày như cán bộ lãnh đạo tạo điều kiện, dành thời gian chỉ dẫn và giao việc cụ thể, có đánh giá để cán bộ tăng cường tự học, vươn lên. Thứ ba, ưu tiên đề bạt sử dụng số cán bộ trẻ có năng lực và đạo đức tốt thay thế một bộ phận cán bộ lãnh đạo không theo kịp yêu cầu do sự đổi mới nhanh chóng trong công nghệ, khoa học tổ chức và quản lý hiện đại. Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th­¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p §ç ThÞ Nh­ Quúnh- A7- K38BKTNT 130 Thứ tư, cần nâng cao năng lực quản trị điều hành của ban lãnh đạo NHTMVN. Đây là một trong những yếu tố quyết định năng lực và hiệu quả hoạt động của mỗi ngân hàng. Năng lực này phụ thuộc vào khả năng dự báo và chủ động xử lý kịp thời các tình huống phát sinh sử dụng có hiệu quả các cơ hội và vượt qua các thách thức. Do vậy, đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý vừa phải có sự khôn khéo, linh hoạt trong sách lược và áp dụng các biện pháp cụ thể theo hướng sau: - Xác định rõ và kiên trì thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược của ngân hàng, tránh chạy theo thành tích trước mắt nhưng có thể gây thiệt hại cho tương lai, ví dụ huy động vốn với lãi suất cao để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng tín dụng quá mức, dẫn đến giảm chất lượng tín dụng, giảm tỷ suất lợi nhuận… - Tạo dựng môi trường làm việc lành mạnh, minh bạch và dân chủ thực sự. Trong quản trị điều hành, trách nhiệm và quyền lợi được phân định rõ ràng và gắn liền với từng cương vị công tác và từng công việc, thực hiện nhất quán đối với tất cả các cấp lãnh đạo, cán bộ quản lý và cán bộ nghiệp vụ. - Áp dụng các phương pháp quản trị hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế như ISO 9001. Trên đây chỉ là những biện pháp cơ bản để giúp các NHTMVN đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại hối, mỗi ngân hàng cần lập ra một chiến lược cụ thể phân tích điểm mạnh và điểm yếu, cơ hội và hiểm hoạ của mình để từ đó đưa ra những giải pháp khắc phục thoả đáng. 2- Giải pháp vĩ mô trong việc hỗ trợ các NHTMVN đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại hối 2.1- Hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái và lãi suất Giá cả hình thành theo quy luật cung cầu là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu để thị trường hoạt động hiệu quả. Cũng như các thị trường khác, thị trường ngoại hối nói chung và hoạt động kinh doanh ngoại hối của các NHTMVN nói riêng muốn đạt được hiệu quả với doanh số cao, chi phí thấp, độ thanh khoản trên thị trường cao thì tỷ giá, lãi suất phải được hình thành một cách Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th­¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p §ç ThÞ Nh­ Quúnh- A7- K38BKTNT 131 khách quan theo quy luật cung cầu. Nói cách khác tỷ giá, lãi suất được áp dụng trong các nghiệp vụ, giao dịch ngoại hối phải là tỷ giá, lãi suất mà tại đó cung và cầu cân bằng. Do đó Chính phủ và NHNN cần có cơ chế quản lý và công cụ thị trường phù hợp, đồng thời hạn chế sự can thiệp từ NHNN cũng như các biện pháp hành chính làm méo mó tín hiệu thị trường. Về lâu dài, giải pháp để phát triển thị trường ngoại hối và các hoạt động kinh doanh ngoại hối của các NHTMVN là hướng tới tỷ giá, lãi suất thị trường, linh hoạt và phản ánh đúng quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, việc thả nổi tỷ giá, lãi suất ngay lập tức sẽ gây ra những hiệu ứng tiêu cực cho nền kinh tế và có thể ảnh hưởng bất lợi cho việc ổn định hệ thống chính trị và xã hội. Vì thế, vai trò của NHNN không phải chủ yếu là can thiệp vào thị trường này mà là phối hợp với các bộ ngành hữu quan chống đô la hoá, buôn lậu và gian lận thương mại, khơi thông lưu chuyển ngoại hối trong nền kinh tế và cùng các biện pháp kinh tế khác để hỗ trợ thị trường ngoại hối pháp triển. Hiện nay, NHNN quản lý thị trường ngoại hối thông qua can thiệp mua bán, công bố tỷ giá bình quân giao dịch liên ngân hàng, quy định trần tỷ giá giao ngay, tỷ lệ phần trăm gia tăng của tỷ giá kỳ hạn, tỷ giá hoán đổi, quy định về tỷ lệ dự trữ ngoại tệ bắt buộc, lãi suất chiết khấu và các biện pháp quản lý ngoại hối. Trong giai đoạn trước mắt các biện pháp này còn cần thiết, nhưng cần phải nới lỏng từng bước, vì các biện pháp này không phải lúc nào cũng hiệu quả, đôi khi lại kìm hãm sự phát triển của thị trường ngoại hối và hoạt động kinh doanh ngoại hối tại các NHTMVN.  Đối với tỷ giá, do có tính nhạy cảm cao nên việc điều hành tỷ giá phải được diễn ra theo từng giai đoạn, chẳng hạn: Thứ nhất, có thể nới ngay biên độ giao động từ mức 0,25% lên đến mức 0,35%. Điều này có hai tác dụng là: thứ nhất tạo điều kiện để các NHTM yết giá cạnh tranh; thứ hai đây là biện pháp thăm dò mức độ khách quan của tỷ giá. Sau khi nới rộng biên độ tỷ giá nếu thị trường không sử dụng hết biên độ cho phép, Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th­¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p §ç ThÞ Nh­ Quúnh- A7- K38BKTNT 132 điều này hàm ý tỷ giá hiện tại đã phản ánh tương đối khách quan quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối; trên cơ sở đó NHNN có thể tiếp tục nới rộng biên độ giao động lên mức cao hơn (chẳng hạn 0,5%). Nếu thị trường ngoại hối ngay lập tức sử dụng hết biên độ cho phép, điều này hàm ý tỷ giá hiện tại đang ở mức quá thấp so với tỷ giá cân bằng; để rút ngắn khoảng cách, NHNN cần tiến hành điều chỉnh tăng dần tỷ giá một cách hợp lý mà không gây ra xáo trộn lớn. Trong tương lai, tỷ giá hối đoái do NHNN công bố sẽ phải theo thông lệ quốc tế là xoá bỏ tỷ giá bình quân thay bằng tỷ giá hối đoái của phiên giao dịch cuối cùng trước giờ đóng cửa. Thứ hai, cần phải điều chỉnh cách công bố tỷ giá hiện nay bởi vì tỷ giá của VND mới chỉ gắn định với USD mà chưa có sự gắn định với các ngoại tệ khác, điều này được thể hiện trên hai phương diện: Xét về phương diện tập quán thị trường, khối lượng giao dịch (bao gồm cả giao dịch vãng lai và giao dịch vốn) được tính bằng USD chiếm một tỷ trọng rất lớn, ước tính trên 70%. Đặc biệt, trong các giao dịch thương mại quốc tế, tỷ trọng này lên tới 95%29. Xét về phương pháp công bố tỷ giá, hiện nay tỷ giá VND/USD được xác định và công bố dường như độc lập hoàn toàn với quan hệ tỷ giá giữa USD với các ngoại tệ khác. Khi USD lên giá hoặc giảm giá so với các ngoại tệ khác hầu như không ảnh hưởng gì đến tỷ giá VND/USD, điều này khiến cho thị trường có thiên hướng chuộng sử dụng USD dẫn tới tình trạng đô la hoá ngày càng cao, còn các ngoại tệ khác lại ít được sử dụng. Với tập quán thị trường và phương pháp công bố tỷ giá như trên, rõ ràng hoạt động kinh tế đối ngoại và hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam có chứa đựng rủi ro tiềm ẩn khi mà giá trị của USD đột ngột thay đổi lớn so với giá trị của các ngoại tệ khác. Nhằm hạn chế sự gắn định vào USD, một mặt, cần đa dạng hoá ngoại tệ trong các giao dịch quốc tế, mặt khác, trong phương pháp công 29 T.S Nguyễn Văn Tiến, Chủ nhiệm đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành mã số KNH 99-15, Phát triển và hoàn thiện thị trường ngoại hối Việt Nam, năm 2002 Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th­¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p §ç ThÞ Nh­ Quúnh- A7- K38BKTNT 133 bố tỷ giá NHNN nên tham khảo phương pháp xác định tỷ giá của VND so với rổ tiền tệ và tiến tới công bố tỷ giá trung bình của VND. Thứ ba, điều chỉnh lại tỷ lệ (%) cộng vào mức trần tỷ giá giao ngay trong giao dịch kỳ hạn, hoán đổi đối với các NHTMVN. Tiến tới bãi bỏ tỷ lệ này, áp dụng lãi suất thị trường để xác định tỷ giá kỳ hạn, đảm bảo tính khách quan của tỷ giá, nhằm thu hút đông đảo khách hàng tham gia vào thị trường kỳ hạn.  Đối với lãi suất, giải pháp hoàn thiện cơ chế lãi suất của NHNN hiện nay và trong thời gian tới là tập trung nâng cấp và phát triển thị trường tiền tệ, sớm khắc phục những vấn đề như NHNN vẫn quy định lãi suất tiền gửi thanh toán của NHTMVN và việc tham gia có giới hạn của các tổ chức này vào thị trường ngoại hối làm cho thị trường ngoại hối chưa phát triển, lãi suất chưa phản ánh đúng quan hệ cung cầu. Bên cạnh đó còn nhiều loại lãi suất ưu đãi trong nền kinh tế, các lãi suất này do các phạm vi khác nhau quyết định, không tạo thành một đầu mối thống nhất trong điều hành chính sách lãi suất của NHNN, không chịu tác động của biến động thị trường ngoại hối. Ngoài ra, một số lãi suất do NHNN công bỗ mỗi lần điều chỉnh có khoảng cách quá hẹp nên không tác động nhiều đến lãi suất trên thị trường ngoại hối, hàng hoá trên thị trường ngoại hối còn nghèo nàn chỉ có ngoại tệ, chứng khoán bằng ngoại tệ. Do đó NHNN cần tạo điều kiện cho các NHTMVN tham gia thị trường ngoại hối bằng cách điều chỉnh tỷ lệ dự trữ ngoại tệ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu hợp lý. Mức độ điều chỉnh các loại lãi suất của NHNN trong mỗi đợt cũng cần có khoảng cách đủ rộng để nó thực sự có ảnh hưởng đến thị trường tiền tệ. Cuối cùng, thực trạng nói trên đòi hỏi thống nhất chỉ nên có một loại lãi suất ưu đãi, có lẽ nên theo nguyên tắc tất cả các loại lãi suất ưu đãi thấp hơn từ 10- 20% lãi suất cơ bản của NHNN công bố; hoặc thấp hơn 10% lãi suất huy động vốn cao nhất của một NHTMQD nào đó. 2.2- Gia tăng quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia Một điều kiện không thể thiếu trong việc xây dựng khả năng chuyển đổi cho bản tệ và phát triển thị trường ngoại hối cũng như hoạt động kinh doanh ngoại hối tại các NHTMVN là nguồn dự trữ ngoại hối của quốc gia phải dồi dào. Thực vậy, quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia giúp bình ổn tỷ giá hối đoái, khắc phục tình Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th­¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p §ç ThÞ Nh­ Quúnh- A7- K38BKTNT 134 trạng thâm hụt cán cân thanh toán và sẵn sàng hỗ trợ các NHTMVN khi gặp khó khăn về nguồn ngoại hối để kinh doanh, do vậy sẽ nâng cao vị thế của VND và giúp cho thị trường ngoại hối diễn ra thông suốt. Trong hai năm qua, tổng dự trữ ngoại hối quốc gia tăng nhanh. Quỹ dự trữ ngoại hối năm 2001 là 3.601 triệu USD, tăng 18,84% so với năm 2000. Đây là kết quả của chính sách nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng của NHNN. Tuy nhiên, theo ước tính của IMF, để cân bằng cán cân thanh toán, đến năm 2006, Việt Nam cần 6.341 triệu USD, gần gấp đôi so với tồn quỹ ngoại hối năm 2001 (xem Phụ lục, Bảng 6). Vì vậy, để gia tăng tồn quỹ ngoại hối, NHNN cần thực hiện các giải pháp sau: Thứ nhất, NHNN cần tiếp tục đưa thêm tiền ra lưu thông để thu gom ngoại tệ làm dồi dào quỹ dự trữ ngoại hối; phối hợp với Bộ tài chính trong việc quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn ngoại tệ do bán dầu thô- mặt hàng xuất khẩu chiến lược của quốc gia; tăng cường các biện pháp kinh tế khuyến khích các tổ chức, cá nhân bán ngoại tệ cho NHTMVN. Thứ hai, NHNN cần thay đổi phương pháp đánh giá tồn quỹ ngoại hối. Hiện nay, quỹ dự trữ được xác định theo tuần nhập khẩu; nói cách khác, nguồn ngoại hối dự trữ chỉ dừng lại ở mức sẵn sàng thoả mãn các nhu cầu ngoại tệ để cân bằng cán cân thương mại. Điều này chỉ phù hợp khi Việt Nam ở tình trạng thường xuyên thâm hụt cán cân thương mại và dịch vụ. Trong tương lai, cách tính này không an toàn do nó không bao quát hết nhu cầu ngoại hối quốc gia, bên cạnh cán cân vãng lai, cán cân vốn cũng tạo một áp lực lớn về ngoại hối. Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam không ngừng gia tăng, cán cân vốn luôn thặng dư và mức thặng dư gia tăng theo thời gian. Đã hơn 10 năm mở cửa nền kinh tế, thời gian ân hạn của một số khoản vay đã hết, thời gian trả nợ đến gần, khoản lãi và nợ gốc của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đến kỳ thanh toán, nhu cầu chu chuyển vốn ra nước ngoài kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam đang có xu hướng ngày càng tăng… Đây là những nhu cầu ngoại tệ chính đáng đang cần được thoả mãn. Nói cách khác, để tránh tình trạng căng thẳng về ngoại tệ trong tương lai, NHNN cần thay Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th­¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p §ç ThÞ Nh­ Quúnh- A7- K38BKTNT 135 đổi cách tính nguồn ngoại tệ dự trữ bằng cách cộng thêm khoản dự phòng cho các nhu cầu ngoại tệ phát sinh từ cán cân vốn, đồng thời gia tăng nguồn vốn ngoại hối cho mục tiêu ổn định tỷ giá khi thị trường tài chính trong nước và quốc tế biến động. Có như vậy NHNN mới có thể thực tốt vai trò người mua bán ngoại tệ cuối cùng. Thứ ba, quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia cần được đa dạng hoá ngoại tệ, đặc biệt nên tăng dự trữ vàng tiêu chuẩn quốc tế bởi vì suy cho cùng vàng tiêu chuẩn quốc tế luôn là nguồn tài sản thực có mà tiền giấy vẫn không thể thay thế được. Trong việc thanh toán nợ giữa các quốc gia người ta vẫn coi trọng vàng tiêu chuẩn quốc tế hơn là ngoại tệ. Vì thế ngay cả các nước phát triển như Mỹ hay Trung Quốc một đất nước đang phát triển vẫn coi trọng việc tích luỹ dự trữ vàng tiêu chuẩn quốc tế. Hơn nữa, NHNN quy định cho phép các NHTMVN kinh doanh ngoại hối trong đó có kinh doanh vàng tiêu chuẩn quốc tế song trong thực tế NHNN lại không tham gia tích cực vào thị trường vàng tiêu chuẩn quốc tế với vai trò là người mua bán cuối cùng thì tất yếu các NHTMVN cũng không thể phát triển được hoạt động này. Do vậy muốn phát triển hoạt động kinh doanh ngoại hối đồng bộ và toàn diện của NHTMVN, NHNN cần tích cực hơn trong hoạt động giao dịch vàng tiêu chuẩn quốc tế. 2.3- Phát triển thị trường ngoại hối NHTMVN là một thành viên quan trọng của thị trường ngoại hối, do vậy giữa hoạt động kinh doanh của NHTMVN và thị trường ngoại hối có một mối liên hệ hai chiều. NHTMVN trực tiếp giúp cung và cầu trên thị trường ngoại hối gặp nhau, ngược lại những biến động trên thị trường lại có tác động hoặc tích cực hoặc tiêu cực đến kết quả hoạt động kinh doanh ngoại hối của NHTMVN. Nói một cách khác, sự phát triển kinh doanh ngoại hối của các NHTMVN luôn gắn liền với sự phát triển thị trường ngoại hối. Tuy nhiên, hiện nay thị trường ngoại hối Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển, cho nên còn yếu kém về nhiều mặt như: tổ chức thị trường, hàng hoá, các nghiệp vụ kinh doanh, đây chính là những trở ngại cho việc phát triển kinh doanh ngoại hối của các NHTMVN mà cần phải được khắc phục càng sớm càng tốt. Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th­¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p §ç ThÞ Nh­ Quúnh- A7- K38BKTNT 136  Đối với tổ chức thị trường, nước ta chưa có một thị trường ngoại hối thống nhất điều này thể hiện ở sự khác biệt về tỷ giá giao ngay giữa các khu vực, thậm chí giữa các trung tâm chính như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Hải Phòng. Do vậy cần phải nhanh chóng cải tiến hệ thống thanh toán bù trừ và tạo ra một sự giao dịch liên tục giữa các Trung tâm lớn để nhanh chóng loại bỏ sự chênh lệch tỷ giá giao ngay theo vùng. Ngoài ra cần tiến hành thiết lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng theo mô hình tổ chức kép, bao gồm thị trường ngoại tệ liên ngân hàng trực tiếp giữa các ngân hàng và thị trường gián tiếp qua môi giới bởi vì các phương tiện giao dịch trên thị trường chưa hiện đại nên các công ty môi giới ngoại hối sẽ góp phần hạn chế sự gián đoạn trên thị trường. Hiện tại, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng trực tiếp đã có 60 thành viên được công nhận là thành viên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, nhưng số thành viên tham gia tích cực thì rất hạn chế khiến cho thị trường hoạt động trầm lắng. Ngoài ra, giao dịch trên thị trường thường diễn ra một chiều, nghĩa là một số ngân hàng thì chuyên đi bán, số khác thì chuyên đi mua do đó thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mất đi tính đặc thù của nó. Để khắc phục hạn chế này, một mặt cần mở rộng số lượng thành viên, mặt khác tạo ra môi trường và điều kiện để các thành viên tham gia thị trường được tích cực hơn. Bên cạnh đó, một trong những giải pháp thiết thực khuyến khích các NHTMVN kinh doanh trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là NHNN cần đẩy nhanh tốc độ thanh toán bằng cách nối mạng thanh toán bù trừ liên ngân hàng cho tất cả các định chế được phép kinh doanh ngoại tệ. Nếu thời gian xử lý chứng từ được tiết giảm, các NHTMVN không chỉ tiết kiệm được thời gian, chi phí giao dịch mà còn tận dụng nhiều cơ hội kinh doanh, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Về thị trường ngoại tệ liên ngân hàng gián tiếp, trước mắt do hệ thống các công ty môi giới chưa kịp hình thành, NHNN có thể cho phép một số NHTMVN hoạt động kinh doanh ngoại hối lớn, có uy tín và có kinh nghiệm thành lập công ty con với chức năng môi giới ngoại tệ. Song song với việc làm này, NHNN cần có giải pháp khuyến khích, cấp phép cho một vài công ty môi giới ngoại hối hoạt động trong thời gian tới. Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th­¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p §ç ThÞ Nh­ Quúnh- A7- K38BKTNT 137  Đối với hàng hoá của thị trường ngoại hối Việt Nam, NHNN cần tạo ra nhiều chủng loại và số lượng lớn các công cụ ngoại hối như tăng cường phát hành trái phiếu chính phủ, công trái bằng ngoại tệ, tích cực chiết khấu và tái chiết khấu, mua bán ngắn hạn các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ. Một mặt, NHNN cần tiếp tục nghiên cứu, nhanh chóng sửa đổi khung pháp lý để đẩy mạnh việc sử dụng thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại tín phiếu, trái phiếu của NHTM bằng ngoại tệ. Mặt khác, NHNN cần có chính sách khuyến khích các NHTMVN huy động và cho vay vàng tiêu chuẩn quốc tế, mua và bán vàng tiêu chuẩn quốc tế như hỗ trợ cơ sở vật chất kỹ thuật kiểm định, bảo quản, giảm thuế nhập khẩu vàng tiêu chuẩn quốc tế, giảm thuế thu nhập từ hoạt động kinh doanh vàng.  Đối với các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối, NHNN cần tiếp tục phát triển nghiệp vụ giao ngay, kỳ hạn và hoán đổi như mở rộng kỳ hạn của các hợp đồng kỳ hạn từ 1- 365 ngày chứ không nên chỉ giới hạn từ 30- 180 ngày như hiện nay. NHNN cần phải đóng vai trò tích cực hơn trong việc mua hết và bán đủ các ngoại tệ khi các NHTMVN có nhu cầu. Bên cạnh đó, NHNN cần phải cho phép các NHTMVN tiến hành nghiệp vụ hoán đổi với các khách hàng khác không phải là NHNN, tiếp đó có thể hoán đổi các ngoại tệ khác nhau chứ không chỉ dừng lại ở USD, VND như hiện nay. Ngoài ra, cần khuyến khích nhiều ngân hàng tham gia thí điểm nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ, để tiến hành triển khai đồng bộ trong toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam dựa trên cơ sở hạn chế những nhược điểm đã được phát hiện trong quá trình thử nghiệm. Trong tương lai, khi Việt Nam hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, NHNN nên cho phép các NHTMVN từng bước tiếp cận với nghiệp vụ tương lai. Có như vậy thị trường ngoại hối mới có thể phát triển theo kịp các nước phát triển. Trên đây là ba giải pháp cơ bản để phát triển thị trường ngoại hối, bên cạnh đó Chính phủ Việt Nam cũng có thể thay đổi một số nội dung quản lý ngoại hối theo hướng tự do hoá như nới lỏng dần các quy định về quản lý ngoại hối cho phù hợp với thông lệ quốc tế, nhất là phù hợp với các quốc gia trong khu vực, như nới lỏng các quy định đối với quyền mua bán ngoại tệ của các tổ chức kinh Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th­¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p §ç ThÞ Nh­ Quúnh- A7- K38BKTNT 138 tế, mở rộng phạm vi được giao dịch vay ngoại tệ bao gồm cả vay ngoại tệ để thực hiện dự án, vay để kinh doanh xuất khẩu, góp vốn liên doanh đầu tư ra nước ngoài ... Đây cũng chính là yêu cầu khách quan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhưng cũng cần phải cân nhắc kỹ lưỡng để đảm bảo thị trường ngoại hối Việt Nam phát triển bền vững. 2.4- Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế Cán cân thanh toán là bảng đối chiếu giữa những khoản tiền mà nước ngoài trả cho một nước và những khoản tiền mà nước đó phải trả cho nước ngoài trong một thời gian nhất định. Theo truyền thống, cán cân thanh toán bao gồm có hai bộ phận chính là cán cân vãng lai (current balance) và cán cân vốn (capital balance). Tài khoản vãng lai ghi những khoản giao dịch về hàng hoá, dịch vụ và các khoản chuyển dịch thanh toán giữa hai nước trong khi đó tài khoản vốn ghi chú những di động tiền tệ trong đầu tư và tín dụng giữa hai nước. Điều này chứng tỏ cán cân thanh toán phản ánh cung cầu ngoại hối của một nước cho hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế, vì vậy nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của thị trường ngoại hối và kinh doanh ngoại hối tại các NHTMVN. Trong suốt nhiều năm qua, cán cân thanh toán của Việt Nam luôn trong tình trạng thiếu hụt. Mặc dù hoạt động xuất khẩu, và thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong mấy năm gần đây có tăng lên nhưng vẫn không đủ bù đắp được sự thâm hụt trong cán cân thanh toán quốc tế. Vì vậy, cán cân thanh toán cần phải được cải thiện theo hai hướng: đẩy mạnh xuất nhập khẩu và cải thiện, nâng cấp môi trường đầu tư. Cả hai hướng này đều nhằm tăng cung ngoại hối hơn nữa, đáp ứng cho cầu ngoại hối để nhập khẩu và trả nợ nước ngoài khi đến hạn do đó thúc đẩy sự phát triển của thị trường ngoại hối ở nhiều khía cạnh khác nhau bao gồm về quy mô và phạm vi, cường độ và xu hướng liên kết các thị trường ngoại hối trong nước với thị trường ngoại hối khu vực và thế giới, liên kết các giao dịch ngoại hối với nhiều đồng tiền khác nhau, tiếp nhận và phản ứng với nhiều loại chính sách hối đoái khác nhau ở nhiều nước với các chế độ tỷ giá khác nhau. Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th­¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p §ç ThÞ Nh­ Quúnh- A7- K38BKTNT 139 Đối với đẩy mạnh xuất nhập khẩu, trước mắt cũng như lâu dài cần thực hiện các công cụ sau: đánh giá lại lợi thế so sánh của Việt Nam so với thị trường thế giới để thấy hết được tiềm năng và thế mạnh của Việt Nam so với các nước khác nhằm từng bước xây dựng danh mục mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn và có triển vọng lâu dài. Hiện nay, những mặt hàng có lợi thế so sánh của Việt Nam là những mặt hàng sử dụng nhiều lao động, nhiều nguyên nhiên liệu tại chỗ. Đó là những mặt hàng nông sản như gạo, cà phê, hồ tiêu, may mặc và một số sản phẩm giày dép. Loại dịch vụ thu nhiều ngoại tệ là dịch vụ du lịch quốc tế. Trong tương lai các sản phẩm của ngành công nghiệp phần mềm là những sản phẩm điện tử có thể là những mặt hàng mũi nhọn của Việt Nam. Cần kết hợp khéo léo giữa lợi thế so sánh quốc gia, nỗ lực của chính phủ và những cố gắng của doanh nghiệp để thúc đẩy xuất khẩu. Nếu thiếu việc khai thác các mặt hàng có lợi thế so sánh quốc gia thì doanh nghiệp khó có thể tồn tại lâu dài trên thị trường. Đồng thời nếu thiếu các biện pháp hỗ trợ của Chính phủ thì doanh nghiệp khó có thể vượt qua được những khó khăn và thách thức ở những thị trường mới. Ngoài ra, nếu xác định được mặt hàng có lợi thế so sánh, Chính phủ có nhiều biện pháp hỗ trợ mạnh nhưng doanh nghiệp không có những lỗ lực về cải tiến công nghệ hoàn thiện bộ máy quản lý và đẩy mạnh hoạt động quảng cáo, chào hàng thì doanh nghiệp khó có thể thành công trên thị trường. Vì vậy, sự kết hợp của cả ba yếu tố này là cần thiết, cơ bản và có tính chiến lược. Song song với đẩy mạnh xuất khẩu, các doanh nghiệp cần tính toán, xác định những mặt hàng cần nhập khẩu để phục vụ cho sản xuất, tiêu dùng trong nước và thúc đẩy xuất khẩu. Vấn đề là nhập khẩu của doanh nghiệp phải có lợi nhuận cao để doanh nghiệp có thể tiếp tục duy trì hoạt động của mình nhưng cũng phải đảm bảo việc sử dụng nguồn ngoại hối một cách hiệu quả. Đối với việc cải thiện, nâng cấp môi trường đầu tư, để tăng cường thu hút vốn đầu tư nước noài hơn nữa, Việt Nam cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh công tác vận động đầu tư nước ngoài và đa dạng hoá hình thức thu hút đầu tư nước ngoài kết hợp chặt chẽ với các hoạt động kinh tế đối ngoại khác. Kinh doanh ngo¹i hèi t¹i c¸c ng©n hµng th­¬ng m¹i ViÖt Nam- Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p §ç ThÞ Nh­ Quúnh- A7- K38BKTNT 140

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfquynh_4576.pdf
Luận văn liên quan