Kỹ năng làm văn nghị luận phân tích tác phẩm văn học

Nghị luận PTTPVH là kiểu bài làm văn có vai trò, vị trí quan trọng trong dạy và học làm văn ở trường THPT. Thực tế hiện nay không ý học sinh còn nhầm lần về thể loại phân tích và các thể loại khác một số giáo viên chưa cắt nghĩa rõ các khái niệm thể loại. Vì vậy, kết quả bài làm văn của học sinh về phân tích chưa được khả quan, nhiều đáp án chấm bài thi tốt nghiệp THPT, tuyển sinh đại học, cao đẳng cũng còn nhiều vấn đề chưa thống nhất về yêu cầu thể loại. Việc nắm chắc khái niệm, phân biệt kiểu bài nghị luận phân tích có ý nghĩa thiết thực giúp học sinh thuần thục kỹ năng, thao tác kiểu bài nghị luận này để vận dụng vào thực tế làm bài viết đạt kết quả tốt.

pdf11 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3755 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kỹ năng làm văn nghị luận phân tích tác phẩm văn học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
83 TẠP CHÍ KHOA HỌC, ðại học Huế, Số 66, 2011 KỸ NĂNG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC Nguyễn Minh Hoạt Trường ðại học Tây Nguyên TĨM TẮT Lý thuyết làm văn nghị luận nĩi chung, kiểu bài phân tích tác phẩm văn học (PTTPVH) nĩi riêng cịn cĩ nhiều vấn đề chưa thống nhất. Trên cơ sở những quan điểm của các nhà nghiên cứu về dạng bài làm văn này và thực tế dạy học ở trường phổ thơng, bài viết khái quát nội dung khái niệm, đặc điểm kiểu bài PTTPVH, đồng thời đưa ra các thao tác cơ bản và một số kỹ năng khi làm bài văn nghị luận PTTPVH. Nội dung của bài viết nhằm trao đổi, thảo luận với đồng nghiệp, bên cạnh đĩ giúp sinh viên ngành Ngữ văn và học sinh THPT cĩ thêm tư liệu tham khảo, vận dụng vào thực tế học tập và cơng tác này. 1. ðặt vấn đề Phân mơn Làm văn thuộc bộ mơn Ngữ văn cĩ vị trí đặc biệt quan trọng trong trường THPT. Phân mơn này được xem là tổng hợp tri thức văn học và đời sống, kết tinh sự sáng tạo, cảm thụ văn chương của học sinh qua bài viết làm văn. Nghị luận PTTPVH (trịn vẹn hay trích đoạn) là loại bài phổ biến của học sinh trong quá trình học và thi cử. Loại bài này nhằm kiểm tra năng lực hiểu và cảm thụ văn học của người viết. Thực chất ở đây là người viết chỉ ra cái hay, cái đẹp về nội dung, nghệ thuật của một tác phẩm văn học nào đĩ. Tuy vậy, do tính chất, đặc trưng riêng biệt độc đáo của văn học nên việc phân tích nĩi riêng và cách thức tiếp nhận tác phẩm văn học nĩi chung khơng đơn giản. Một mặt, đối với những kiệt tác văn học cĩ sức sống lâu bền bao giờ cũng là sự khái quát sâu sắc của nhà văn về cuộc sống và con người. Những khái quát nghệ thuật ấy tiềm ẩn những ý nghĩa, nhiều phương diện từ cái biểu hiện để suy ra cái được biểu hiện. Vì thế, bất cứ ai, ở đâu, và khi nào cũng cĩ thể tìm thấy hình bĩng của mình trong đĩ. Cho nên, cùng một hình tượng văn học nhưng mỗi cá nhân, mỗi thời đại cĩ một cách cảm nhận riêng. Mặt khác, lý thuyết làm văn, tiêu chí để đánh giá một bài văn lại càng phức tạp, cĩ nhiều ý kiến khác nhau. Thực tế giáo viên và học sinh đang gặp khơng ít khĩ khăn, trở ngại từ nội dung lý thuyết trừu tượng thiếu nhất quán cho đến phương pháp dạy và học tập làm văn. Nghị luận văn học gồm nhiều kiểu bài: giải thích, chứng minh, bình luận, phân tích,…Thế nhưng lý thuyết về các kiểu bài này cịn nhiều vấn đề chưa được thống nhất. Một số giáo viên cịn lúng túng khi hướng dẫn học sinh phân biệt các kiểu bài và vận dụng trong bài làm văn; Cịn phần lớn học sinh chưa phân biệt được ranh giới và mối 84 quan hệ biện chứng giữa các kiểu bài. ðặc biệt là kiểu bài phân tích và các kiểu khác, bài làm của học sinh cịn nhiều lẫn lộn, hình thức diễn đạt gần giống nhau. Các loại sách tham khảo, sách giáo khoa và kể cả đáp án các kỳ thi tốt nghiệp THPT, tuyển sinh cao đẳng - đại học cũng cịn nhiều vấn đề cần trao đổi xung quanh lý thuyết làm văn, xác định tiêu chí kiểu bài phân tích và tiêu chí để đánh giá chất lượng một bài làm văn. Từ những kinh nghiệm thực tiễn, tham khảo nhiều tài liệu và tiếp thu ý kiến của đồng nghiệp, bài viết về kĩ năng làm văn nghị luận phân tích tác phẩm văn học, gĩp phần trao đổi thảo luận với đồng nghiệp về dạy phân mơn làm văn cho học sinh, giúp học sinh học tốt kiểu bài nghị luận PTTPVH. Bài viết tập trung làm rõ khái niệm PTTPVH, đồng thời, đưa ra các thao tác cơ bản và một số kỹ năng làm văn nghị luận PTTPVH. 2. Các khái niệm phân tích tác phẩm văn học Từ trước đến nay, ở cấp THCS và cấp THPT đã đưa nghị luận PTTPVH vào giảng dạy. Tuy nhiên, ở mỗi cấp học và một số tài liệu nêu khái niệm phân tích nĩi chung và PTTPVH trong nhà trường nĩi riêng cịn cĩ nhiều cấp độ chưa thống nhất. Cụ thể: - Tài liệu [7, trang 177] đã nêu khái niệm: Phân tích văn học là khám phá các giá trị văn học và vấn đề văn học qua từng khía cạnh và từng biểu hiện cụ thể của tác phẩm văn học, sáng tác của một tác giả văn học, của một giai đoạn hay của một nhận định lý luận văn học. Khi làm bài phân tích cần thực hiện hai yêu cầu sau đây: + Chia đối tượng phân tích ra từng phần, từng khía cạnh theo một logic nhất định. + Phát hiện nội dung từng phần, từng khía cạnh ấy qua các biểu hiện cụ thể (phân tích chi tiết). - Tài liệu [8, trang 53] cĩ đưa ra khái niệm: Phân tích văn học là kiểu bài nghị luận đem một hiện tượng văn học (tác phẩm, vấn đề) chia nhỏ ra để xem xét từng phần rồi đem kết quả tổng hợp lại trong một kết luận chung. - Tài liệu [5, trang 746] cĩ viết: Phân tích là phân chia sự thật hay bằng tưởng tượng một đối tượng nhận thức ra các yếu tố trái với tổng hợp. - Tài liệu [6, trang 10] đã nêu khái niệm phân tích và tổng hợp: Phân tích là phép lập luận trình bày từng bộ phận, phương diện của một vấn đề nhằm chỉ ra nội dung của sự vật, hiện tượng. ðể phân tích nội dung của sự vật, hiện tượng người ta cĩ thể vận dụng các biện pháp nêu giả thiết, so sánh, đối chiếu…và cả phép lập luận giải thích, chứng minh. Tổng hợp là phép lập luận rút ra cái chung từ những điều đã phân tích. Khơng 85 cĩ phân tích thì khơng cĩ tổng hợp. Lập luận tổng hợp thường đặt ở cuối đoạn hay cuối bài, ở phần kết luận của một phần hoặc tồn bộ văn bản. - Tài liệu [2, trang 25] cĩ trình bày: Trong quá trình nhận thức, việc chia nhỏ đối tượng thành nhiều yếu tố để đi sâu xem xét một cách kĩ càng nội dung và mối quan hệ bên trong cũng như bên ngồi của chúng gọi là phân tích. - Tài liệu [9, trang 70] đã đưa ra khái niệm: Chia tách sự vật hiện tượng thành nhiều yếu tố nhỏ để đi sâu vào xem xét một cách kĩ lưỡng nội dung và mối quan hệ bên trong của hiện tượng và sự vật đĩ gọi là phân tích. - Tài liệu [3, trang 86] khi giới thiệu nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ phần ghi nhớ cĩ trình bày: Bài viết (Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ) thường cĩ các nội dung sau: + Giới thiệu khái quát về bài thơ. + Bàn về những giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ. + ðánh giá chung về bài thơ, đoạn thơ. - Tài liệu [4, trang 36] khi giới thiệu nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuơi phần ghi nhớ đã nêu: Bài nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuơi thường cĩ các nội dung: + Giới thiệu tác phẩm hoặc đoạn trích văn xuơi cần nghị luận. + Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật theo định hướng của đề hoặc một số khía cạnh đặc sắc nhất của tác phẩm, đoạn trích. + Nêu đánh giá chung về tác phẩm, đoạn trích. Từ các khái niệm trên chúng ta cĩ thể rút ra các nội dung cơ bản của khái niệm PTTPVH (trọn vẹn hay trích đoạn) như sau: - Chia tách đối tượng phân tích ra thành các khía cạnh. - Xem xét một cách kĩ lưỡng các giá trị nội dung và nghệ thuật qua từng khía cạnh, đồng thời khám phá, tìm hiểu mối quan hệ bên trong và bên ngồi của chúng. - Tổng hợp đánh giá các giá trị của đối tượng trong một kết luận chung. Yêu cầu của thao tác phân tích là: - Cĩ thái độ khách quan, khoa học. - Xem xét đối tượng một cách tồn diện, xác thực - Cần cĩ sự phán đốn tổng hợp liên tưởng chủ quan, nhưng phải dựa trên những căn cứ nhất định để tránh suy diễn tùy tiện. 86 3. Các thao tác cơ bản khi làm bài văn nghị luận PTTPVH 3.1. Chia đối tượng ra thành các khía cạnh Dựa vào tính độc lập tương đối của nội dung và hình thức để chia tác phẩm thành các khía cạnh cho phù hợp. * ðối với tác phẩm trữ tình: - Thơ tứ tuyệt: Chia theo kết cấu các câu thơ trong bài thơ: khai – thừa – chuyển – hợp, hoặc chia thành hai phần để phân tích: hai câu đầu và hai câu cuối. - Thơ thất ngơn bát cú ðường luật: cĩ thể chia theo cấu trúc: đề – thực – luận – kết, hoặc chia theo kết cấu hình tượng. Chẳng hạn: cĩ thể chia bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến thành hai vấn đề cảnh thu và tình thu để phân tích. - Thơ tự do, thơ mới: cĩ thể chia theo câu thơ, khổ thơ, đoạn thơ hay chia theo từng ý. * ðối với tác phẩm tự sự: - Chia theo từng khía cạnh của vấn đề được phân tích. Chẳng hạn: + Phân tích nhân vật: chia theo các khía cạnh như: ngoại hình – tính cách – nội tâm – hành động…hoặc theo kết cấu tính cách của nhân vật. + Phân tích giá trị của tác phẩm về nội dung hay nghệ thuật: dựa vào giá trị các nội dung của tác phẩm để chia thành các khía cạnh, những phần được chia này cũng là các luận điểm triển khai trong bài viết. 3.2. Xác định luận điểm Luận điểm là nội dung khái quát của từng phần được chia. Nĩ là các khía cạnh của nội dung trọng tâm. Các luận điểm chủ yếu nằm ở phần thân bài gĩp phần làm sáng tỏ nội dung trọng tâm. Luận điểm cĩ thể được diễn tả thành một câu văn (câu chủ đề) nằm trong đoạn văn. Nĩ cĩ thể đứng đầu hay đứng giữa, đứng cuối đoạn văn. Cĩ luận điểm lớn, luận điểm nhỏ hay luận điểm nhỏ hơn (tuỳ vào dung lượng của bài viết dài hay ngắn để triển khai luận điểm nhiều bậc hay ít bậc). Ví dụ: Phân tích vẻ đẹp hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chử người tử tù của Nguyễn Tuân. Chúng ta cĩ thể xác định các luận điểm chính: vẻ đẹp tài hoa – vẻ đẹp khí phách – vẻ đẹp thiên lương. Các luận điểm chính cĩ thể triển khai thành một đoạn văn, trong thân bài cĩ nhiều đoạn văn tạo thành. Mỗi đoạn văn cĩ: mở đoạn – thân đoạn – kết đoạn. (nếu cĩ đoạn tiếp theo thực hiện thao tác chuyển đoạn để gắn kết ý trong bài văn). 87 3.3. Sử dụng dẫn chứng Dẫn chứng là những câu thơ, đoạn thơ, khổ thơ, từ ngữ, hình ảnh, vần, nhịp, thanh, thể loại… và các biện pháp tu từ đối với tác phẩm trử tình; các tình tiết, chi tiết, cách kể, cách tả, cách xây dựng nhân vật, tình huống, sự kiện… đối với tác phẩm tự sự. Việc lựa chọn dẫn chứng phải chính xác, tiêu biểu, cĩ giá trị nội dung và nghệ thuật, phù hợp và làm sáng tỏ các luận điểm. Dẫn chứng phải cĩ chiều sâu (phân tích lý giải các dẫn chứng quan trọng), và cĩ chiều rộng (số lượng, phạm vi dẫn chứng phải phù hợp). Cách nêu dẫn chứng phải theo thời gian, hồn cảnh ra đời của dẫn chứng, theo diễn biến sự kiện, theo khơng gian. Nêu các dẫn chứng đơn giản đến các dẫn chứng phức tạp… Các dẫn chứng phải được trình bày ở các kiểu như: trích nguyên văn dẫn chứng (nội dung phải chính xác và được đặt trong ngoặc kép); trích một số từ ngữ tiêu biểu, các từ được trích cũng nằm trong ngoặc kép; khái quát nội dung dẫn chứng bằng lời văn của người viết. Khi trình bày dẫn chứng cần kết hợp các kiểu trên. Dẫn chứng phải được phân tích làm rõ luận điểm: Phân tích dẫn chứng là trình bày những giá trị nội dung, hình thức và ý nghĩa của dẫn chứng (dẫn chứng đĩ cĩ tác dụng như thế nào trong việc diễn tả tâm trạng hay thể hiện phong cách tác giả hay diễn đạt một vấn đề tư tưởng…). 3.4. Liên tưởng mở rộng vấn đề Bằng chất liệu ngơn từ, tác phẩm văn học bao giờ cũng được khái quát từ các chi tiết hiện thực đời sống. Cuộc sống sinh động được chắt lọc, lựa chọn và khúc xạ qua tư duy của nhà văn để tạo nên những hình tượng nghệ thuật độc đáo cĩ sức sống riêng. Tiếp xúc với một tác phẩm văn học là tiếp xúc với một thế giới nghệ thuật, cĩ mối quan hệ với hiện thực, phản ánh hiện thực, nhưng khơng trùng khít với hiện thực vì nĩ cĩ quy tắc sáng tạo riêng. Khám phá, tìm hiểu một tác phẩm văn học là chúng ta tìm hiểu những giá trị của nghệ thuật và cuộc sống mà nhà văn đem lại. Vì vậy, khi phân tích một tác phẩm văn học, trên cơ sở các giá trị mà tác phẩm thể hiện, người viết cần liên tưởng mở rộng các hình tượng nghệ thuật với đời sống thực tiễn để tạo tầm nhìn sâu sắc hơn, thấy được mối liên hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Từ một hình tượng khái quát trong tác phẩm, chúng ta cĩ thể liên tưởng đến những vấn đề cụ thể trong đời sống. Từ một nhân vật trong tác phẩm với những đặc điểm về ngoại hình, tính cách, số phận… chúng ta cĩ thể liên tưởng đến một tầng lớp người trong xã hội. Từ những yếu tố riêng của một con người được miêu tả trong tác phẩm cĩ tính điển hình quy luật, chúng ta cĩ thể liên tưởng đến những cái chung của cộng đồng, xã hội. 88 Liên tưởng mở rộng hình tượng trong tác phẩm văn học ra ngồi đời sống một cách phù hợp, thể hiện trình độ nhận thức khái quát vấn đề nghệ thuật của người viết. 3.5. Tổng kết, nhận định, đánh giá Mục đích phân tích văn học là để nhận định, đánh giá xác đáng một hiện tượng văn học. Vì vậy, sau khi tiến hành phân tích theo hướng đề ra, bài viết phải đề xuất nhận định đánh giá hiện tượng văn học như: - Tính độc đáo (câu tứ mới lạ, đổi mới so với truyền thống). - Giá trị nhận thức (mức độ nơng, sâu so với vấn đề nêu ra). - Giá trị tư tưởng (thái độ đối với nhân dân, đất nước, con người). - Giá trị nghệ thuật (mức độ tài nghệ, sức thuyết phục, gợi cảm, phong cách). Những lời tổng kết, nhận định, đánh giá nâng cao giá trị của sự phân tích, đem lại tính mục đích cho sự phân tích. Nĩ phải phù hợp với sự phân tích, tránh khập khiễng, phân tích một đằng kết luận một nẻo. 4. Một số kỹ năng làm văn nghị luận phân tích 4.1. Phân tích đề 4.1.1. Các dạng đề ra Nghị luận phân tích thuộc loại đề hiểu và cảm tác phẩm văn học. Loại đề này nhằm kiểm tra trình độ tiếp nhận tác phẩm văn học của học sinh với hình thức chính là phân tích. (trước đây cĩ khái niệm bình giảng – một kiểu riêng của phân tích). Thường cĩ các kiểu đề phân tích như: - Phân tích một bài thơ trịn vẹn. Ví dụ: phân tích bài Thơ duyên của Xuân Diệu. - Phân tích một nhân vật. Ví dụ: Phân tích nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao. Hoặc: phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân. - Phân tích một tác phẩm văn xuơi (thường là để làm sáng tỏ một phương diện nào đĩ về nội dung và nghệ thuật). Ví dụ: Phân tích tính sử thi của truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Hoặc: Một trong những sáng tác nghệ thuật đặc sắc của Kim Lân trong truyện là đã xây dựng một tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn hãy phân tích truyện Vợ nhặt để chứng minh cho ý kiến trên. - Phân tích một hình tượng. Ví dụ: Phân tích hình tượng “sĩng” trong bài thơ sĩng của Xuân Quỳnh. Anh (chị) cĩ cảm nhận gì về tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu qua bài thơ này. Hoặc: Phân tích hình tượng cây xà nu trong truyện Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. - Phân tích một hình ảnh. Ví dụ: Phân tích hình ảnh đầu súng trăng treo trong 89 bài thơ ðồng chí của Chính Hữu. - Phân tích một tâm trạng. Ví dụ: Phân tích tâm trạng nàng Kiều qua đoạn thơ Trao duyên trong Truyện kiều. Hoặc: Phân tích tâm trạng bà cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân. Như vậy, phạm vi nghị luận thể loại phân tích gồm: phân tích bài thơ; phân tích một vấn đề nào đĩ của tác phẩm văn xuơi; phân tích nhân vật; phân tích một hình tượng; phân tích một hình ảnh; phân tích một tâm trạng; so sánh hai tác phẩm văn học. 4.1.2. Phân tích đề ra - Xác định thể loại của đề ra ðề ra thường cĩ yêu cầu thể loại trực tiếp trên câu chữ như: anh (chị) hãy phân tích… đề ra cịn ở dạng gián tiếp về thể loại như: cảm nhận, cảm tưởng, nhận xét, suy nghĩ…của anh (chị). Thực ra, ở loại đề này người viết sử dụng thao tác chủ yếu là phân tích, khám phá, tìm hiểu các giá trị của tác phẩm. Việc xác định đúng thể loại bài viết sẽ cĩ cách làm phù hợp theo yêu cầu của đề ra. - Xác định luận đề (trọng tâm) của bài làm Trọng tâm của bài làm là nội dung khái quát, cơ đọng, được diễn đạt bằng một vài câu văn bao hàm được nội dung yêu cầu của đề ra. Nĩ cĩ mặt ở mở bài, được lý giải ở thân bài thơng qua các luận điểm và được nhắc lại ở kết bài. Cách xác định trọng tâm: + ðối với tác phẩm trử tình: phân tích một bài thơ, trọng tâm chính là chủ đề của bài thơ; phân tích một đoạn thơ, trọng tâm là khái quát nội dung của tồn bài thơ và vị trí, chủ đề của đoạn trích. + ðối với tác phẩm tự sự: phân tích nhân vật: trọng tâm là đặc điểm khái quát của nhân vật; phân tích một giá trị nào đĩ của tác phẩm như: nghệ thuật, nhân đạo, hiện thực, sử thi, lãng mạn, cổ điển, hiện đại… trọng tâm là khái niệm của giá trị được biểu hiện trong tác phẩm; phân tích tình huống, ý nghĩa biểu tượng, trọng tâm là nội dung khái quát của tình huống và nội dung cái được biểu hiện của biểu tượng; phân tích tác phẩm, một vấn đề của tác phẩm theo định hướng (cĩ nội dung nhận xét, ý kiến đánh giá về tác phẩm ở đề ra), trọng tâm là nội dung của lời nhận xét đánh giá đĩ. + Phân tích so sánh hai tác phẩm, hay hai nhân vật, hoặc hai đoạn thơ, trọng tâm là nội dung khái quát điểm giống và khác nhau của hai đối tượng so sánh. Xác định đúng trọng tâm để triển khai các ý xoay quanh trọng tâm và cùng làm sáng tỏ trọng tâm giúp cho bài viết logic, mạch lạc, chặt chẽ. - ðịnh hướng phạm vi tư liệu Tư liệu là yếu tố quan trọng trong bài văn nghị luận. ðĩ là các dẫn chứng, các chất liệu giúp người viết cĩ cơ sở khách quan để phân tích, đánh giá tổng hợp các giá trị 90 của tác phẩm. Tư liệu thường là các vấn đề liên quan đến trọng tâm của bài làm. Nĩ cĩ trong văn học và trong đời sống. Cĩ tư liệu bắt buộc (các dẫn chứng nằm trong phạm vi tác phẩm) và tư liệu mở rộng (các dẫn chứng nằm ngồi tác phẩm, cĩ chung đề tài, chủ đề, giai đoạn sáng tác hay phong cách của nhà văn với nội dung đang được lý giải). 4.2. Mở bài, kết bài trong nghị luận phân tích 4.2.1. Mở bài Mục đích của mở bài là giới thiệu vấn đề sẽ viết, sẽ trao đổi bàn bạc trong bài. Vì thế mở bài, thực chất là trả lời câu hỏi: Anh (chị) định viết, định bàn bạc vấn đề gì? - Nguyên tắc: Nêu đúng trọng tâm (luận đề) của bài làm, chỉ nêu những ý khái quát, kết cấu thành một đoạn văn (khoảng 5 đến 8 dịng) - Cách mở bài: + Giới thiệu dẫn dắt vấn đề. . Trực tiếp: đi thẳng vào vấn đề qua xuất xứ, hồn cảnh sáng tác. Giới thiệu theo hình thức này thường ít sai nhưng hành văn kém hấp dẫn. . Gián tiếp: nêu ra những ý liên quan đến vấn đề cần nghị luận để khêu gợi rồi mới bắt vào vấn đề ấy. Tùy vào mối liên hệ giữa nội dung phần giới thiệu và trọng tâm của bài viết cĩ thể xác định cách giới thiệu theo kiểu gián tiếp bằng hình thức diễn dịch, quy nạp, tương liên, đối lập… Giới thiệu theo kiểu này dễ phát huy được sở trường của hành văn hay nhưng dễ sa đà, vịng vèo xa trọng tâm, lời giới thiệu khơng khớp với trọng tâm. . Kết hợp gián tiếp và trực tiếp. + Nêu trọng tâm: đây là vấn đề chính sẽ bàn trong thân bài. + Phần chuyển ý xuống thân bài: Nêu phương thức nghị luận và phạm vi tư liệu sẽ trình bày hay trích dẫn đoạn trích. ðể cĩ một mở bài hay cần tránh: dẫn dắt vịng vo quá xa mãi mới gần được vào việc nêu vấn đề; ý dẫn dắt khơng liên quan gì đến vấn đề sẽ nêu; nêu vấn đề quá dài dịng, chi tiết, cĩ gì nĩi hết luơn rồi thân bài lại lặp lại những điều đã nĩi ở mở bài. ðể cĩ một mở bài hay cần phải: ngắn gọn: dẫn dắt thường vài ba câu, nêu vấn đề một vài câu và giới hạn vấn đề một câu; đầy đủ: đọc xong mở bài, người đọc biết được bài viết bàn về vấn đề gì? trong phạm vi nội dung tư liệu nào? thao tác chính vận dụng ở đây là gì? độc đáo: mở bài phải gây được sự chú ý của người đọc với vấn đề mình sẽ viết bằng cách nêu vấn đề khác lạ, giữa câu dẫn dắt và câu nêu vấn đề phải tạo được sự bất ngờ; tự nhiên: sử dụng từ ngữ cần độc đáo, mới lạ nhưng phải giản dị, tự nhiên gần gũi với văn hố đời sống và tâm lý tiếp nhận, tránh sự vụng về, gượng ép gây 91 cho người đọc cĩ cảm giác giả tạo. 4.2.2. Kết bài - Nguyên tắc: Thể hiện đúng quan điểm đã trình bày ở thân bài (miêu tả lại trọng tâm); chỉ nêu những ý khái quát, thiên về tổng kết, đánh giá vấn đề; kết cấu thành một đoạn văn (khoảng 5 đến 8 dịng). - Cách kết bài + Khái quát nội dung bài viết. + Miêu tả lại trọng tâm. + Liên hệ, tổng kết đánh giá vấn đề (ở phương diện đời sống và văn học nghệ thuật). - Một số kiểu kết bài tiêu biểu. + Tĩm lược (tĩm tắt quan điểm của người viết ở thân bài). + Phát triển (mở rộng thêm vấn đề đặt ra trong đề bài). + Vận dụng (nêu ra phương hướng áp dụng cái tốt, cái hay hoặc khắc phục cái xấu, cái dở của hiện tượng hay ý kiến nĩi trong bài văn vào cuộc sống). + Liên tưởng (mượn ý kiến tương tự của dân gian, của một người cĩ uy tín hay lời bình luận, đánh giá về tác phẩm, đối tượng phân tích ở SGK, tài liệu nghiên cứu cĩ giá trị để thay cho lời tĩm tắt của người làm bài). Ngồi ra người viết cĩ thể vận dụng một số kiểu kết bài như: Kết bài theo lối điểm nhãn (dừng lại ở những chi tiết đắt, cĩ giá trị nghệ thuật của đối tượng phân tích từ đĩ bình luận mở rộng gợi ra những rung cảm cho người đọc). Kết bài theo lối bình luận mở rộng và nâng cao luận đề của bài viết, từ tổng kết đến phát triển nâng lên, từ tĩm tắt đến rút ra bài học theo nhiều lớp, lớp này gối lớp kia cho tới kết thúc. Kết bài theo lối đầu cuối tương ứng – kết bài ứng với mở bài. Kết bài lấy lại mở bài mà khơng rơi vào tình trạng lặp lại nguyên văn lời lẽ ở mở bài, vì nĩ là sự luyến láy để nâng cao, khẳng định chắc chắn lần cuối cùng những gì đã nêu ở thân bài bằng một giọng đầy truyền cảm. Kết bài mà như khơng kết: đĩ là những kết bài khơng giống bất kỳ một cách kết bài nào mà lý thuyết cơ bản đã nêu. Nĩ là những câu văn tự nhiên được gợi ra từ sự logic của bài viết và phù hợp với tâm lý tiếp nhận của người đọc, tạo nhiều liên tưởng sâu xa. Một kết bài hay thật đa dạng và thú vị nhưng đều chung nhau những điểm nhất định: đúng, nhưng phải sáng tạo, gây được ấn tượng và để lại dư vị trong người đọc. Kết 92 bài hay vừa phải đĩng lại, chốt lại, vừa phải mở ra, nâng cao và cứ ngân nga mãi trong lịng người. Nghị luận PTTPVH là kiểu bài làm văn cĩ vai trị, vị trí quan trọng trong dạy và học làm văn ở trường THPT. Thực tế hiện nay khơng ý học sinh cịn nhầm lần về thể loại phân tích và các thể loại khác một số giáo viên chưa cắt nghĩa rõ các khái niệm thể loại. Vì vậy, kết quả bài làm văn của học sinh về phân tích chưa được khả quan, nhiều đáp án chấm bài thi tốt nghiệp THPT, tuyển sinh đại học, cao đẳng cũng cịn nhiều vấn đề chưa thống nhất về yêu cầu thể loại. Việc nắm chắc khái niệm, phân biệt kiểu bài nghị luận phân tích cĩ ý nghĩa thiết thực giúp học sinh thuần thục kỹ năng, thao tác kiểu bài nghị luận này để vận dụng vào thực tế làm bài viết đạt kết quả tốt. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Phan Trọng Luận, Làm văn 11, Làm văn 12, NXB Giáo dục, 2000, trang 71. [2]. Phan Trọng Luận, Lê A , Ngữ văn 11, tập 1, NXB Giáo dục, 2007, trang 25. [3]. Phan Trọng Luận, Lê A, Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo dục, 2009, trang 86. [4]. Phan Trọng Luận, Lê A, Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục, 2009, trang 36. [5]. Nguyễn ðăng Mạnh, Muốn viết được bài văn hay, NXB Giáo dục, 1995. [6]. Hồng Phê, Từ điển tiếng Việt, NXB ðà Nẵng, 1997, trang 746. [7]. Nguyễn Khắc Phi, Trần ðình Sử, Ngữ văn 9, tập 2, NXB Giáo dục, 2005, trang 10. [8]. Trần ðình Sử, Tài liệu chuẩn kiến thức Văn – Tiếng Việt 12, NXB Giáo dục, 1994, trang 177. [9]. Trần ðình Sử, Làm văn 12, NXB Giáo dục, 2000, trang 53. [10]. Trần ðình Sử, Ngữ văn nâng cao 11, tập 1, NXB Giáo dục, 2007, trang 70. [11]. Trần ðình Sử, Làm văn 12, NXB Giáo dục, 2000, trang 87. SKILL IN LITERARY CRITICAL ANALYSIS OF LITERATURE WORKS Nguyen Minh Hoat, Tay Nguyen University SUMMARY Critics have different viewpoints on the theory of literary critical analysis in general of literature works in particular. On the basic of researchs on literary critical analysis made by many critics and experiences accumulated by teachers of many high schools during the teaching 93 of literature, this article generalises some subject masters, definitions, features and types of literary work analysis and at the same time suggests some basic steps and approaching skills to do literary critical analysis. The author of this article also wants to discuss literary criticism and share the view with counterparts with the hope that this will be helpful reference materials for phiology learners not only to study in universities or schools now but also to work in the future.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfchuyen_san_khoc_xhoi_nhan_van_8__3898.pdf
Luận văn liên quan