KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ KHI THAM GIA TRANH TỤNG TRONG CÁC VỤ ÁN TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI.
PHẦN MỞ ĐẦU:
Ngày 29-12-1987, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII kỳ họp thứ hai đã thông qua Luật đất đai đầu tiên của nước ta. Điều 1 của Luật đất đai năm 1987 đã khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước giao đất cho tổ chức, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài và sử dụng đất được giao đúng mục đích, tiết kiệm, có hiệu quả. Nghiêm cấm việc mua, bán, lấn chiếm đất đai, phát canh thu tô dưới mọi hình thức, v.v
Trong quá trình thực hiện Luật đất đai năm 1987, thực tế đã cho thấy các quy định của Luật này quá gò bó, một số quy định không có tính thực thi. Vì vậy, ngày 14-7-1993, Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ ba đã thông qua Luật đất đai năm 1993. Mặc dù đất đai vẫn thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý, nhưng Luật đất đai năm 1993 đã bước đầu công nhận đất đai có giá và đặt quyền sử dụng đất đã giao cho người sử dụng trong trạng thái vận động, chứ không nằm ở trạng thái tĩnh như Luật đất đai năm 1987. Điều này thể hiện ở các quy định của Luật đất đai năm 1993, tại Điều 3 quy định: Nhà nước cho phép hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sự dụng đất Mặc dù vậy, các quy định trong Luật đất đai năm 1993 vẫn chưa thể hiện rõ nội dung, điều kiện, thủ tục thực hiện việc chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, cho thuê, thế chấp quyền sử dụng đất. Trên thực tế, khi chuyển quyền sử dụng đất, các bên chuyển quyền phải làm đầy đủ mọi thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất, yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hơn nữa, các hoạt động chuyển quyền sử dụng đất tuy được thực hiện theo một trình tự, thủ tục nhất định đặc biệt hơn các giao dịch dân sự thông thường khác. Nhưng bản chất của các hoạt động này là các giao dịch dân sự.
42 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5407 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kỹ năng tranh chấp đất đai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhà ở, công trình kiến trúc, trồng cây lâu năm, đầu tư sản xuất kinh doanh trên đất đó.
2.1.3. Thời điểm tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập sau ngày 15-10-1993:
Luật sư cần lưu ý xem xét các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Thực tiễn rất nhiều các vụ án khi các bên xác lập quan hệ hợp đồng, đối tượng chuyển nhượng chưa được phép chuyển nhượng (đất chưa được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) và hợp đồng chuyển nhượng không qua chứng nhận của công chứng Nhà nước và chứng nhận giao dịch khi vi phạm điều kiện này, ngoài việc thu thập chứng cứ về nguồn gốc đất, hợp đồng chuyển nhượng, Luật sư cần lưu ý xác định tại thời điểm chuyển nhượng đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chưa; xác định thời điểm phát sinh tranh chấp trước hay sau ngày 01-7-2004. Thời điểm này liên quan đến hướng dẫn của Tòa án nhân dân Tối cao tại Nghị quyết số 02/2004/NQ_HĐTP ngày 10-8-2004 quy định “Nếu từ ngày 01-7-2004 mới có yêu cầu Tòa án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều này”.
Các chứng cứ khác mà Luật sư cũng phải thu thập là: Sau khi thực hiện hợp đồng, bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu năm chưa, đã làm nhà kiên cố chưa… Khi trồng cây hay khi làm nhà kiên cố, bên chuyển nhượng có phản đối không, có quyết định xử lý vi phạm hành chính theo quy định của Nhà nước về xử lý vi phạm hành chứng trong lĩnh vực đất đai?
Như vậy, mục đích thu thập chứng cứ nhằm xác định tính hợp pháp của hợp đồng. Trường hợp xem xét các tình tiết vụ án, áp dụng các quy định của pháp luật có căn cứ nhận định giao dịch đó không hợp pháp (đặc biệt là giao dịch vô hiệu về nội dung do vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội), Luật sư cần hướng việc thu thập chứng cứ để chứng minh lối do hợp đồng vô hiệu, trên cơ sở lợi ích của khách hàng và vị trí tố tụng của thân chủ mình.
2.2. Hướng dẫn đương sự giao nộp chứng cứ cho Tòa án:
Khi đương sự có tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án, việc thu thập chứng cứ để cung cấp cho Tòa án nhằm chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp là trách nhiệm và nghĩa vụ của các đương sự.
Sau khi đã thu thập các chứng cứ cần thiết, Luật sư cần hướng dẫn các đương sự cung cấp các chứng cứ cho Tòa án. Về nguyên tắc tất cả các chứng cứ mà đương sự có phải được giao nộp cho Tòa án để làm cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự.
Pháp luật tố tụng dân sự xác định và ghi nhận trách nhiệm chứng minh thuộc về đương sự. “Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp” và “đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh” (Khoản 1, 2 Điều 79 Bộ Luật tố tụng dân sự).
Người vảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Luật sư hoặc người khác) là người được đương sự nhờ và được Tòa án chấp nhận để tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, trong đó bao gồm cả việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho Tòa án nhằm chứng minh các tình tiết liên quan đến vụ kiện, cũng như chứng minh các yêu cầu của thân chủ. Nguyên tắc chưng, việc thu thập chứng cứ của Luật sư phải dựa trên mụch đích cơ bản là nhằm chứng minh quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ.
Xuất phát từ nghĩa vụ chứng minh của đương sự, Bộ Luật tố tụng dân sự (BLTTDS) quy định việc giao nộp chứng cứ cho Tòa án trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự là quyền và nghĩa vụ của đương sự. Nếu đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ thì phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc nộp không đầy đủ đó. Việc hướng dẫn đương sự thu thập và cung cấp chứng cứ cho Tòa án ngay từ khi khởi kiện và trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án được xác định theo tính chất của yêu cầu khởi kiện và vị trí tố tụng của thân chủ là nguyên đơn, bị đơn hay người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan mà Luật sư tham gia bảo vệ. Do vậy, tính chất thu thập chứng cứ của Luật sư có thể xác định qua 4 nhóm cơ bản sau:
Luật sư hướng dẫn thân chủ thu thập và cung cấp chứng cứ liên quan đến yêu cầu khởi kiện. Tùy từng yêu cầu khởi kiện, quan hệ pháp luật tranh chấp mà những giấy tờ cần thiết kèm theo đơn khởi kiện để làm căn cứ Tòa án thụ lý vụ kiện và giải quyết tranh chấp.
Luật sư hướng dẫn thân chủ thu thập và cung cấp chứng cứ liên quan đến yêu cầu phản tố.
Luật sư hướng dẫn thân chủ thu thập và cung cấp chứng cứ liên quan đến yêu cầu của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Luật sư cần căn cứ vào yêu cầu cụ thể của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan để thu thập chứng cứ xác định sự thật khách quan của vụ án tranh chấp đất đai và chứng minh yêu cầu có cơ sở pháp lý.
Luật sư hướng dẫn thân chủ cung cấp chứng cứ liên quan đến các yêu cầu khác: trường hợp đương sự yêu cầu Tòa án thực hiện các biện pháp tố tụng nhằm thu thập chứng cứ thì phải có trách nhiệm đưa ra chứng cứ để chứng minh mình không thể tự thu thập chứng cứ, đương sự cũng phải chứng minh cho đề nghị của mình. Trường hợp đương sự yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, đương sự cũng phải đưa ra những căn cứ chứng minh cho tính cấp thiết phải tiến hành các biện pháp đó.
Theo khoản 2 Điều 84 Bộ Luật tố tụng dân sự, việc giao nộp chứng cứ được Tòa án lập biên bản về giao nộp chứng cứ. Trong biên bản phải ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của chứng cứ, số bản, số trang của chứng cứ và thời gian nhận; chữ ký của người giao nộp, chữ ký của người nhận và dấu của Tòa án. Biên bản được lập thành hai bản, một bản lưu trong hồ sơ, một bản giao cho đương. Biên bản được lập theo mẫu biên bản giao nhận chứng cứ số 01a ban hành kèm theo Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/9/2005 của Hội đồng thảm phán Tòa án nhân dân Tối cao, hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự về chứng minh và chứng cứ. Khi giao nộp chứng cứ, nếu Tòa án không lập biên bản thì Luật sư cần yêu cầu Tòa án thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đối với các vụ án, thông thường Tòa án đều có mời các đương sự lên để lấy lời khai, nên tận dụng những cơ hội này để khai báo đầy đủ cho Tòa án. Song song với việc khai báo ở Tòa án, Luật sư cần chuẩn bị cho đương sự các bạn tự khai theo yêu cầu của Tòa án. Bản tự khai cần trình bày ngắn gọn và đi vào trọng tâm của vấn đề, giúp Tòa án đánh giá vấn đề một cách chính xác. Nếu biết được lập luận của đối phương thì cũng cần thiết thể hiện lập luận phản bác trong bản tự khai. Các phản bác nên ngắn gọn, có tính thuyết phục và phải luôn luôn được phân tích và nhìn nhận từ góc độ pháp lý, từ các văn bản pháp luật được áp dụng.
2.3. Hướng dẫn đương sự đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ:
Trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ thì có quyền yêu cầu Thẩm phán tiến hành một hoặc một số biện pháp để thu thập chứng cứ theo quy định Khoản 2 -Điều 85 –BLTTDS.
Để có thể yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ, Luật sư cần hướng dẫn đương sự chứng minh việc tự mình thu thập chứng cứ nhưng không thể thu thập được. Ví dụ đã yêu cầu cơ quan có thẩm quyền cung cấp chứng cứ nhưng không được cơ quan chấp nhận và cơ quan đã có thông báo về việc không cung cấp chứng cứ theo yêu cầu của đương sự, vì vậy đương sự có yêu cầu Thẩm phán tiến hành biện pháp thu thập chứng cứ. Việc yêu cầu có thể bằng hình thức sau:
Làm đơn yêu cầu Thẩm phán tiến hành thu thập chứng cứ. Trong đơn phải nói rõ yêu cầu Tòa án tiến hành biện pháp thu thập nào theo quy định tại Khoản 2 -Điều 85 –BLTTDS. Đồng thời gửi kèm theo đơn phải có những tài liệu thể hiện việc đương sự đã tự mình tiến hành biện pháp đó nhưng không thể được.
Ngoài hình thức làm đơn, theo quy định trong Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17-9-2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, đương sự cũng có thể đề nghị Tòa án tiến hành biện pháp thu thập chứng cứ trong các bản khai, trong biên bản ghi lời khai hoặc trong biên bản đối chất.
Luật sư cần hướng dẫn đương sự thủ tục yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ theo đúng quy định của pháp luật.
Quá trình thu thập và giao nộp chứng cứ là một quá trình tố tụng quan trọng mà Luật sư cần hướng dẫn đương sự thực hiện đúng và đầy đủ theo quy định của pháp luật. Thu thập và giao nộp chứng cứ là nghĩa vụ của đương sự.
CHƯƠNG 3: KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN MỞ PHIÊN TÒA SƠ THẨM.
3.1. Trao đổi các văn thư với Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
Trong quá trình chuẩn bị cho phiên tòa sơ thẩm, nhiều khi Luật sư sẽ phải là người chủ động co những đề xuất đối với Tòa án. Khi đưa ra những đề xuất này, Luật sư phải xuất phát từ lợi ích của khách hàng mà mình bảo vệ. Tùy vào từng vụ án cụ thể, Luật sư sẽ có những đề xuất phù hợp với Tòa án.
Theo quy định của Bộ luật tố dân sự, trong giai đoạn này Luật sư có thể đề xuất những vấn đề sau:
Đề nghị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Đề nghị Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án.
Đề nghị Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.
Đề nghị Tòa án chuyển vụ án cho đúng thẩm quyền.
Đề nghị Tòa án điều tra xác minh thêm các chứng cứ.
Khi đưa ra những đề xuất đối với Tòa án, Luật sư phải căn cứ vào các quy định của pháp luật đối với từng loại đề xuất và phải viện dẫn, chứng minh hoặc đưa ra được các căn cứ cho phù hợp với quy định chung.
Trong quá trình tiếp xúc với hồ sơ, khi thấy có những nội dung cần có sự can thiệp kịp thời của Tòa án, Luật sư hoàn toàn có thể đề nghị Tòa án, cụ thể là đề nghị với Thẩm phán trực tiếp thụ lý vụ án ra các quyết định theo quy định chung. Việc đề xuất có thể trực tiếp với thẩm phán hoặc thông qua văn bản. Tuy nhiên, để thuận lợi cho quá trình bảo vệ lợi ích hợp pháp cho đương sự, đồng thời để những đề xuất của Luật sư mang tính chính thức, là tài liệu được lưu vào trong vụ án, khi đưa ra các đề xuất tốt nhất là nên thể hiện bằng văn bản. Các văn bản này sẽ được lưu trong hồ sơ của Tòa án, và đó sẽ là căn cứ cho các hoạt động về sau này của Luật sư khi cần thiết.
Trường hợp các đề xuất trên của Luật sư không được Tòa án chấp nhận, thì điều này không hề hạn chế việc Luật sư đưa ra các vấn đề này ra trình bày tại phiên tòa. Thậm chí Luật sư có thể tiếp tục khiếu nại việc Toà án không ra các quyết định cần thiết trong quá trình giải quyết vụ kiện trong đơn kháng cáo, trong các đề nghị khác theo thủ tụ tố tụng chung.
Ngoài ra, những trường hợp cần đề xuất với Tòa án bằng văn thư có thể là các giải trình của khách hang của mình gửi cho Tòa án trong trường hợp cần trả lời một yêu cầu của Tòa án hoặc cần giải trình một vấn đề nào đó liên quan đến một vấn đề mà đương sự khác nêu ra trái với quan điểm của mình. Các giải trình này còn có thể được thể hiện dưới dạng các sửa đổi, bổ sung các tài liệu đã cung cấp cho Tòa án trước đó nhưng bị hiểu nhầm, hiểu không đúng hoặc bị xuyên tạc.
Nhiều khi chỉ là một văn bản giải thích một văn bản pháp luật mà theo đó đang tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau. Mục đích của các giải trình này được trao đổi giữa khách hang với Tòa án là để thuyết phục Tòa án theo quan điểm của mình. Vì vậy, dù giải trình do khách hàng ký tên thì Luật sư cũng phải giúp khách hàng soạn thảo hoặc giúp khách hàng xem lại lần cuối cùng trước khi gửi cho Tòa án.
Các văn thư này trở thành các nguồn chứng cứ rất quan trọng mà Tòa án, Viện kiểm soát và các đương sự khác có thể sử dụng trong vụ án. Vì vậy, khi soạn văn thư cần hết sức thận trọng cả về hình thức và nội dung. Về hình thức, các văn thư cần viết ngắn gọn, dễ hiểu, trong sang và tuân theo quy định chung về soạn thảo văn bản hành chính-tố tụng.
Về nội dung phải là các văn thư bổ sung và khẳng định lại các quan điểm mà Luật sư hoặc khách hang đã trình bày trước đó. Tuyệt đối không đưa ra các quan điểm trái ngược với các quan điểm đã đưa ra trước đó trong cùng một vụ án.
3.2. Xây dựng phương án bảo vệ quyền lợi cho khách hàng
3.2.1. Xác định và trao đổi trước những vấn đề trọng tâm cần hỏi đương sự tại phiên tòa
Trước hết, qua việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, Luật sư phải rút ra được những vấn đề trọng tâm cần phải giải quyết trong vụ án. Tùy theo vị trí của khách hàng mà luật sư bảo vệ ( là nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan), luật sư cần xác định vấn đề trọng tâm phù hợp nhất với lợi ích của khách hàng. Từ vấn đề trọng tâm được xác định, Luật sư xác định những vấn đề cần phải làm rõ tại phiên tòa. Việc làm rõ được thể hiện thông qua thủ tục hỏi và thủ tục tranh luận tại phiên tòa.
Theo quy định về thủ tục hỏi tại phiên tòa ( từ Điều 217 dến 231), tranh luận tại phiên tòa ( từ Điều 232 đến 235) thì quyền hỏi và tranh luận tại phiên tòa đã được mở rộng hơn cho đương sự cũng như những người tham gia tố tụng khác. Điều đó có nghĩa là các nội dung của vụ kiện sẽ có điều kiện được làm rõ và kĩ hơn tại phiên tòa. Tuy nhiên, để làm tốt được việc này, Luật sư phải xác định rõ rang những nội dung nào cần phải làm rõ, từ đó mới có thể đưa ra những câu hỏi phù hợp.
Việc đặt câu hỏi cho đương sự tại phiên tòa là việc làm không đơn giản. Trên thực tế không hiếm những trường hợp câu hỏi của Luật sư đưa ra không góp phần làm sáng tỏ được điều gì. Điều này dễ dẫn đến tâm lí nhàm chán, sốt ruột cho người nghe.
Khi nêu câu hỏi cần tránh những điều sau:
Lặp lại những câu hỏi mà Hội đồng xét xử hoặc những người khác đã nêu.
Câu hỏi lan man, không cụ thể, không rõ rang.
Câu hỏi không sát với nội dung của vụ kiện.
Với trình tự hỏi như quy định của tố tụng dân sự hiện nay, Luật sư thường là người hỏi sau khi Hội đồng xét xử đã hỏi. Do đó khi nêu câu hỏi, Luật sư dễ bị rơi vào tình trạng lặp lại những vấn đề Hội đồng xét xử đã hỏi. Trong khi trên thực tế không phải lúc nào những nội dung mà Hội đồng xét xử đã hỏi đều được làm rõ. Luật sư vẫn muốn được làm rõ hơn và họ có quyền làm điều này. Để tránh tình trạng bị nhắc nhở về việc hỏi lại những nội dung Hội đồng xét xử đã hỏi, Luật sư nên cân nhắc về cách đặt vấn đề bởi chúng ta biết rằng, với cùng một nội dung nhưng người ta vẫn có thể có nhiều cách diễn đạt khác nhau và từ đó có thể thu được những câu trả lời khác nhau.
Đối với khách hàng của mình, Luật sư nên có sự chuẩn bị kỹ cho họ về những nội dung sẽ trình bày tại Tòa, đặc biệt là chuẩn bị tâm lý cho đương sự là khách hang của mình. Vì thông qua việc trả lời các câu hỏi trong phần hỏi, Luật sư có thể sẽ giúp cho khách hang có cơ hội trình bày kỹ và rõ hơn những vấn đề của họ. Những câu hỏi được đặt ra cho khách hàng của mình nên là những câu hỏi mở và nói chung đó nên là những nội dung đã được trao đổi trước với khách hàng. Điều này sẽ tránh cho khách hàng được sự lung túng, đồng thời dễ dàng hơn trong việc đưa ra những câu trả lời có lợi cho quyền lợi của họ.
3.2.2. Dự liệu về những vấn đề (nội dung) cần tranh luận
Trong một vụ kiện thường có nhiều vấn đề được đặt ra. Tuy nhiên không phải nội dung nào cũng cần phải phân tích kỹ hoặc cần phải tranh luận v.v.. Việc tập trung phân tích nội dung nào phụ thuộc vào yêu cầu cụ thể của từng vụ kiện. Luật sư chỉ nên tập trung đi sâu phân tích những nội dung mà các bên trong vụ kiện đang tranh chấp, vì đó chính là những nội dung cần tranh luận nhiều. Không dành quá nhiều công sức vào việc phân tích nội dung mà các bên đã thống nhất được với nhau về cách giải quyết.
Ví dụ: Trong một vụ kiện ly hôn, hai vợ chồng thuận tình ly hôn, họ chỉ tranh chấp về vấn đề tài sản, đất đai. Trong trường hợp này người Luật sư chỉ cần tập trung vào việc chuẩn bị cho những tranh luận để bảo vệ quyền lợi vật chất cho khách hàng của mình mà không cần phải phân tích nhiều về những mâu thuẫn vợ chồng nữa. Ngược lại, nếu đó là một vụ ly đơn phương xin ly hôn thì lại cần chuẩn bị nhiều vào việc phân tích tình trạng hôn nhân của đôi vợ chồng đó đến mức phải ly hôn hay chưa, tùy theo Luật sư đang bảo vệ quyền lợi cho ai trong vụ kiện v.v..
Khi đã xác định những nội dung cần tranh luận, Luật sư cần chuẩn bị những chứng cứ phục vụ cho nội dung đó, các lập luận của Luật sư cũng như những văn bản pháp luật dùng làm cơ sở cho đề xuất của Luật sư.
3.2.3. Xây dựng các phương án bảo vệ quyền lợi cho khách hàng
Vấn đề đặt ra ở đây là vì sao lại cần thiết phải có một vài phương án bảo vệ quyền lợi cho khách hàng?
Chúng ta biết rằng trong dân sự, nguyên tắc về quyền quyết định và tự định đoạt của các đương sự (Điều 5 BLTTDS) là một trong các nguyên tắc tối cao khi giải quyết các vụ việc dân sự. Điều 217 BLTTDS cho phép Các bên trong vụ kiện có quyền thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ các yêu cầu của mình. Điều này có nghĩa là tại phiên tòa có thể có những tình huống mới phát sinh, không hoàn toàn đúng như những gì đã được thể hiện trong hồ sơ. Mặt khác, ngay trong những phiên tòa đương sự không thay đổi gì về yêu cầu thì vẫn có thể có những tình tiết phát sinh ngoài hồ sơ đã nghiên cứu (Ví dụ như tại phiên tòa đương sự của bên đối lập xuất trình chứng cứ mới). Trong hoàn cảnh đó người Luật sư phải có những xử sự linh hoạt cho phù hợp với bối cảnh thật tế tại phiên toà chứ không máy móc theo sự chuẩn bị từ trước. Sẽ rất thuận lợi cho Luật sư trong những trường hợp đó nếu trước khi tham gia phiên toà, Luật sư đã có một vài phương án bảo vệ quyền lợi cho khách hàng.
Khi xây dựng các phương án bảo vệ quyền lợi cho khách hàng, trước hết Luật sư xây dựng bản Luận cứ dựa trên những thông tin Luật sư đã khai thác được trong quá trình Luật sư tiếp xúc với hồ sơ, với đương sự. Bản luận cứ có thể được coi là phương án chính để sử dụng tại phiên toà. Ngoài ra, Luật sư có thể tiên lượng những tình huống có thể sẽ phát sinh tại phiên toà để chuẩn bị trước về lí luận cũng như chứng cứ v..v .Điều này phụ thuộc nhiều rất nhiều vào sự mẫn cảm và kinh nghiệm của mỗi Luật sư khi tiếp xúc với từng vụ kiện cụ thể. Khi xây dựng các phương án "dự bị" không có nghĩa là phải xây dựng một bản luận cứ hoàn toàn mới, Luật sư hoàn toàn có thể sử dụng bản luận cứ đã có nhưng có sự điều chỉnh hoặc bổ sung những nội dung mà mình dư phòng trước.
3.2.4. Chuẩn bị các văn bản pháp luật, tài liệu cần thiết cho việc tham gia phiên toà
Ngoài khả năng biện luận, khả năng khai thác và phân tích chứng cứ thì việc đưa ra được các văn bản pháp luật phù hợ, đầy đủ nội dung không thể thiếu nếu muốn phần Luật sư trình bày thật sự thuyết phục. Việc viện dẫn các văn bản pháp luật sẽ củng cố lòng tin của người nghe về nội dung Luật sư đưa ra bởi họ thấy rằng quan điểm của luật sự được khẳng định trên cơ sở của pháp luật chứ không chỉ xuất phát từ cách nhìn cảm tính, chủ quan của cá nhân luật sư.
Khi giải quyết một vụ kiện dân sư thường phải áp dụng nhiều văn bản pháp luật khác nhau, thậm chí của nhiều ngành luật khác nhau. Do đó việc chuẩn bị sẵn các văn bản pháp luật sẽ giúp cho Luật sư chủ động khi cần viện dẫn văn bản.
Việc chuẩn bị văn bản không nên chỉ dừng lại ở việc nêu tên văn bản mà tuỳ theo yêu cầu của nội dung tranh luận, trong những trường hợp cần thiết nên trích dẫn hoặc nêu nội dung cụ thể.
3.2.5. Chuẩn bị bản luận cứ bảo vệ quyền lợi của khách hàng tại phiên toà .
Tại phiên toà , sau khi kết thúc phần Hỏi, Hội đồng xét xử sẽ chuyển sang phần Tranh luận (từ Điều 232 đến Điều 235 BLTTDS). Căn cứ vào những quy định của pháp luật tố tụng hiện nay, trên thực tế, khi bắt đầu vào tranh luận, các Luật sư thường trình bày quan điểm của mình trong việc bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của họ. Nội dung của quan điểm này được gọi là Luận cứ của Luật sư .
Trước khi đối đáp, Luật sư sẽ trình bày quan điểm của mình để khẳng định những lợi ích của khách hàng của mình, bác bỏ những yêu cầu đối lập khác, v.v.. trên cơ sở có sự phân tích, đánh giá chứng cứ và viện dẫn văn bản pháp luật để làm căn cứ cho những đề nghị của mình. Như vậy, bản luận cứ của Luật sư có thể coi là một văn bản pháp lí rất quan trọng của vụ kiện. Trước hết nó là cơ sở giúp cho Hội đồng xét xử xem xét, đánh giá để chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của đương sự. Mặt khác, nó phản ánh đầy đủ khả năng của Luật sư trong việc khai thác hồ sơ, khả năng phân tích, đánh giá chứng cứ cũng như khả năng biện luận của Luật sư. Vì vậy, để có thể tham gia tố tụng tại phiên toà được tốt thì sự chuẩn bị một bản luận cứ công phu và kỹ lưỡng là việc làm hoàn toàn cần thiết.
Thực ra pháp luật không có điều luật nào điều chỉnh một bản luận cứ của Luật sư phải thực hiện như thế nào. Nhưng từ thực tế trong hoạt động nghề nghiệp của mình, khi chuẩn bị một bản luận cứ, các Luật sư thường quan tâm đến những vấn đề sau:
a/ Cơ cấu bản luận cứ
Trước khi viết luận cứ, cần phải chuẩn bị:
Bước 1: Xây dựng đề cương chi tiết.
Thường có rất nhiều vấn đề trong một vụ kiện. Mỗi vấn đề đôi khi lại gồm nhiều nội dung khác nhau. Để có thể diễn đạt một cách mạc lạc, khúc triết nhằm giúp cho người nghe - trước hết là Hội đồng xét xử - nắm bắt được những nội dung Luật sư muốn trình bày thì Luật sư nên có một đề cương chi tiết về những nội dung cần trình bày tại phiên tòa.
Đề cương nên trình bày theo trình tự từng nội dung. Ở mỗi nội dung nên xác định có bao nhiêu vấn đề. Điều này giúp cho Luật sư sẽ không bỏ sót nội dung mình muốn trình bày.
Bước 2: Lắp đặt những phần đã được ghi chép vào đề cương.
Như phần trên đã nêu, sau khi có một dàn ý về những nội dung, những ý cần trình bày thì nên chuẩn bị những thông tin mà người Luật sư đã thu thập được qua quá trình nghiên cứu hồ sơ cho mỗi nội dung. Điều nay giúp cho Luật sư khi trình bày có đầy đủ thông tin để trình bày, viện dẫn. Tăng sức thuyết phục đối với người nghe.
Bước 3: Trình bày nhận định và các đề xuất dưới dạng đơn giản.
Ở mỗi ý, mỗi nội dung đưa ra, Luật sư nên có sự phân tích và kết luật ngắn gọn. Không nên chỉ dừng lại ở việc đưa ra các sự kiện mà khi đưa ra một sự kiện nào đó thì nên có sự phân tích, kết luận về ý nghĩa của nó đối với nội dung đang trình bày. Từ đó có thể nêu đề xuất đối với Hội đồng xét xử.
Bước 4: Chuẩn bị các luận cứ để phản bác lại ý kiến của đối phương.
Qua quá trình nghiên cứu hồ sơ, nói chung Luật sư đã có thể xác định được cơ bản những nội dung tranh chấp và hình dung được tương đối những lập luận của bên đối lập. Do đó nên có sự chuẩn bị về lý lẽ, về chứng cứ, văn bản pháp luật để có thể tranh chấp tại phiên tòa khi cần thiết.
Bước 5: Sử dụng các văn bản pháp luật.
Việc sử dụng các văn bản pháp luật trong Bản luận cứ của Luật sư khác với việc viện dẫn căn cứ pháp lý trong các Bản án. Vì Luật sư là người bảo vệ quyền lợi cho một bên đương sự trong vụ án, là người trình bày các vấn đề đang tranh chấp và mong muốn được Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của mình, do đó muốn cho người nghe cảm nhận các quan điểm của Luật sư là có căn cứ thì sau khi phân tích một nội dung nào đó, Luật sư nên viện dẫn văn bản pháp luật làm căn cứ pháp lý cho quan điểm của mình.
Trong trường hợp không có sự tranh chấp thì trong phần đề xuất, Luật sư vẫn nên viện dẫn căn cứ pháp lý cho mỗi nội dung đề xuất.
Bản luận cứ thường có ba phần cơ bản.
Phần mở đầu.
Phần này thường đơn giản. Nội dung chủ yếu thường là giới thiệu về bản thân Luật sư. Mặc dù trong phần thủ tục, về nguyên tắc thì Hội đồng xét xử đã xác định được Luật sư nào bảo vệ quyền lợi cho đương sự nào trong vụ kiện. Nhưng trước khi phát biểu quan điểm bảo vệ quyền lợi cho thân chủ của mình, Luật sư vẫn nên khẳng định lại điều này, đặc biệt là trong những vụ kiện có nhiều đương sự, có nhiều Luật sư tham gia.
Khi viết cần kiểm tra các tiêu chí về tiêu đề của Đoàn Luật sư, Văn phòng Luật sư, địa chỉ liên hệ như điện thoại, fax, email… Thông thường phần tiêu đề được đặt trên cùng, bên trái là logo Văn phòng Luật sư mà mình là thành viên, ở giữa là Văn phòng và địa chỉ liên hệ. Lưu ý là không ghi tên của Luật sư ở trên tiêu đề. Tiêu đề chỉ ghi tên Đoàn Luật sư hoặc Văn phòng Luật sư và địa chỉ liên hệ. Bản thân họ và tên của Luật sư được thể hiện ở Bản luận cứ.
Có thể viết sẵn những thông tin mà chắc chắn sẽ không thay đổi như họ và tên Luật sư, họ và tên khách hàng mà mình nhận bảo vệ, tên Tòa án…
Bản luận cứ thường bắt đầu bằng câu Kính thưa Hội đồng xét xử. Nhiều Luật sư mở đầu bài luận cứ của mình bằng cách thưa gửi rất khác nhau. Về nguyên tắc Luật sư chỉ cần Kính thưa Hội đồng xét xử là đủ. Cũng có thể Thưa Tòa hoặc Thưa quý Toà! Nếu Luật sư quá lạm dùng việc thưa gửi có thể không những không tác dụng tốt mà còn ngược lại, dù cho đến thời điểm này chưa có một quy định nào về việc này.
Sau đó Luật sư có thể tự giới thiệu mình và bối cảnh nhận tham gia tố tụng với tư cách là Luật sư trong vụ án (phần bối cảnh nếu có thì viết ngắn gọn)
Việc giới thiệu về Luật sư nên ngắn ngọn. Nội dung thường là giới thiệu tên của Luật sư, Luật sư đang hành nghề tại Văn phòng luật sư nào, thuộc Đoàn luật sư nào, tham gia phiên tòa bảo vệ quyền lợi cho ai trong vụ kiện.
Phần nội dung:
Đây là phần quan trọng nhất của bản luận cứ. Toàn bộ nội dung tranh chấp, quan điểm và các chứng cứ, cơ sở pháp lý cho quan điểm của Luật sư được thể hiện đầy đủ trong phần này.
Căn cứ vào tiến trình tố tụng trong một phiên tòa dân sự tại các Tòa án hiện nay, để quan điểm của Luật sư được người nghe nắm bắt đầy đủ, có logic, phần nội dung nên có những nội dung sau:
Nêu tóm tắt diễn biến vụ án.
Phân tích tính hợp lệ hoặc bất hợp lệ trong việc Tòa án đã thụ lý giải quyết việc này:
+ Thẩm quyền của vụ án (bao gồm cả thời hiệu khởi kiện)
+ Tư cách của đương sự trong vụ án.
+ Khẳng định yêu cầu Tòa án tiếp tục tiến hành xét xử hoặc cần thiết phải hoãn xử, tạm đình chỉ, đình chỉ nếu có căn cứ.
+ Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp.
+ Xác định những vấn đề cần làm sáng tỏ trong vụ án để bảo vệ quyền lợi cho thân chủ.
Cụ thể các phần viết:
Nêu tóm tắt diễn biến vụ việc.
Tuy xác định là nêu tóm tắt diễn biến vụ việc nhưng đối với việc tóm tắt trong bản luận cứ của luật sư thì không nên tóm tắt lại toàn bộ nội dung của vụ kiện như cách tóm tắt vụ kiện trong các bản án mà chúng ta thường gặp, vì tính chất của bản án và tính chất của bản luận cứ hoàn toàn khác nhau.
Trong bản luận cứ nên tóm tắt những nội dung tranh chấp. Vì đó là đối tượng để các bên trong vụ kiện đang hướng tới, đang muốn tranh luận, muốn nêu quan điểm của mình. Hội đồng xét xử cũng mong muốn được nghe ý kiến của các bên về những nội dung này. Việc tóm tắt những nội dung tranh chấp vừa giúp cho Luật sư dễ dàng đi thẳng vào việc phân tích, vừa tránh được sự dài dòng, lê thê khi trình bày.
-Phân tích tính hợp lệ hoặc bất hợp lệ (nếu có) đối với việc Tòa án thụ lí vụ án.
Trong trường hợp cần thiết Luật sư có thể phân tích việc thụ lí của Tòa án là đã hợp lệ hay không hợp lệ. Việc hợp lệ hay không trong vấn đề thụ lí có thể gồm nhiều nội dung: thẩm quyền của Tòa án, thời hiệu khởi kiện, tư cách khởi kiện v.v..
Nếu việc thụ lí đã chính xác, Luật sư có thể không cần đề cập đến hoặc có thể đưa ra một nhận định ngắn gọn. Trong trường hợp phát hiện thấy có những vấn đề không hợp lệ trong việc thụ lí thì Luật sư cần phải có sự phân tích chính xác và đưa ra những đề xuất thích hợp với lợi ích của khách hàng mà mình bảo vệ.
Nhận định về quan hệ pháp luật của vụ kiện.
Xác định những vấn đề cần giải quyết, đưa ra luận điểm của mình.
Trong phần chuẩn bị đề cương của Bản luận xứ, Luật sư đã xác định được những nội dung cần trình bày trong vụ kiện. Trong phần này, Luật sư đi sâu vào việc phân tích từng nội dung. Trong quá trình phân tích cần kết hợp giữa khả năng biện luận của Luật sư với việc khai thác các chứng cứ và viện dẫn văn bản pháp luật. Sau đó nên đưa ra kết luận về nội dung mà mình vừa phân tích. Điều này giúp cho người nghe thấy được ý nghĩa của nội dung mà Luật sư đưa ra có ảnh hưởng như thế nào đối với việc giải quyết tranh chấp.
Phần nội dung là phần chính của bản luận cứ. Một số nội dung như tóm tắt diễn biến của vụ án, phân tích tính hợp pháp, đúng đắn hoặc không đúng đắn, không hợp lệ của việc tòa án thụ lí giải quyết vụ án, phân tích tính thẩm quyền của vụ án, thời hiệu khởi kiện, những thủ tục được áp dụng từ khi khởi kiện và thụ lí vụ án cho đến thời điểm tòa án thụ lí xét xử vụ án, tư cách của đương sự trong vụ án, khẳng định việc yêu cầu toàn án tiếp tục tiến hành xét xử hoặc cần thiết phải hoãn xử, tạm đình chỉ, đình chỉ nếu có căn cứ, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định những vấn đề cần làm sáng tỏ trong vụ án để bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp cần thiết được viết trước. Đối với những nội dung khác, như nhận định về các tình tiết cần làm sáng tỏ trong vụ án để bảo vệ quyền lợi của thân chủ, trình bày các chứng cứ và đánh giá các chứng cứ đó, các kết luận được rút ra sau khi nhận định và đánh giá các chứng cứ…trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Luật sư cũng chưa cần phải viết một cách quá chi tiết mà chỉ cần viết nháp theo một đề cương đã được vạch sẵn để tiện cho việc bổ sung, sửa chữa. Đối với những nội dung này nhất thiết phải được bổ sung, sửa đổi lại cho phù hợp sau khi Luật sư đã trực tiếp tham gia vào quá trình xét hỏi và tranh luận công khai tại phiên tòa. Một số nội dung đã được chuẩn bị sẵn trong giai đoạn chuẩn bị xét xử cũng có thể bị thay đổi cho phù hợp với những diễn biến, tình tiết vừa mới được làm sáng tỏ tại phiên tòa.
Trong phần nội dung, những vấn đề như chứng minh được các yêu cầu hoặc phản yêu cầu của khách hàng của mình là rất quan trọng. Muốn làm được điều này đòi hỏi phải lần lượt nêu ra các yêu cầu, hoặc phản yêu cầu và dùng các chứng cứ để chứng minh, làm rõ. Khi nhận định, phân tích hoặc kết luận nhất thiết phải căn cứ vào các quy định của pháp luật. Khi sử dụng các quy định của pháp luật để làm căn cứ phải kiểm tra trước hiệu lực của các văn bản đó.
Phần kết luận và đề xuất.
Vì toàn bộ nội dung tranh luận của Luật sư trong Bản luận cứ đều nhằm mục đích là mong muốn Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của khách hàng mình bảo vệ, bác bỏ các yêu cầu của bên có quyền lợi đối lập. Do đó sau khi đã phân tích về những nội dung được đặt ra trong vụ kiện Luật sư nên nêu các đề xuất cụ thể. Hạn chế đưa ra những yêu cầu chung chung như « giải quyết theo quy định của pháp luật ». Điều này một lần nữa giúp cho Hội đồng xét xử khẳng định được rõ ràng các yêu cầu của đương sự.
Trong phần kết luận và đề xuất, các nội dung đưa ra nên rõ ràng, ngắn gọn. Tránh việc nói dài dòng, không rõ ràng.
- Ở mỗi phần nhận định đều viện dẫn văn bản pháp luật áp dụng và nêu rõ tại sao, căn cứ vào đâu để đưa ra các nhận định như vậy.
- Sau mỗi phần nhận định cần có kết luận. Kết luận chỉ được đưa ra sau khi có đầy đủ chứng cứ để khẳng định nó.
Phần kết luận và đề xuất cần thiết phải nhắc lại về kết luận của mình và yêu cầu cụ thể đối với Tòa án. Các yêu cầu cần rõ ràng, cụ thể. Trong phần kết luận cũng nêu rõ căn cứ vào văn bản pháp luật nào để yêu cầu Tòa xét xử như vậy.
Khi viết cần khẳng định lại các quan điểm (các kết luận) của mình thông qua quá trình phân tích chứng minh trong phần nội dung và đề xuất với tòa án phương án giải quyết nhằm thỏa mãn yêu cầu của đương sự. Phần kết luận phải được trình bày rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu, đủ ý, tránh hiểu nhầm và có căn cứ pháp luật. Khi trình bày kết luận không được viện dẫn bình luận khoa học, giáo trình, tài liệu tham khảo hay án lệ…mà phải căn cứ vào điều luật cụ thể. Đối với phần đề xuất lại càng phải cụ thể : ví dụ yêu cầu bồi thường 100.000.000 đồng hoặc 100 chỉ vàng 999 hoặc 999,9…Tránh viết chung
chung như đòi 100 lượng vàng ta, 100 nhẫn kim loại màu… Đối với các tranh chấp khác cũng cần nêu các yêu cầu cụ thể. Không đề xuất chung chung như “ đề nghị tòa án xử buộc bị đơn phải trả lại toàn bộ nợ gốc và lãi theo quy định của pháp luật hoặc đề nghị tòa án xét xử theo pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng cho khách hàng của tôi”…
Những yêu cầu của về án phí cũng cần thiết phải được đề cập đến trong phần đề xuất.
Các thời hạn, thời hiệu hoặc các liên đới về quyền và nghĩa vụ cũng cần được làm rõ.
Các quy định đổi ngoại tệ hoặc cách tính tương đương để quy định đổi từ tiền này sang tiền khác hoặc từ tài sản sang tiền hoặc ngược lại cũng cần phải được trình bày một cách rõ ràng.
Các khoản đã được một bên thanh toán trước đó cũng cần được giải quyết.
Để kết thúc phần tranh luận, Luật sư có thể gửi đến Hội đồng xét xử lời cảm ơn của mình đối với Hội đồng xét xử.
Văn phong pháp lý, ngoài việc phải tuân theo những quy tắc chung của kết cấu văn chương còn tuân theo vài quy tắc đặc biệt. Có thể viện dẫn một số lưu ý sau:
Phải coi trọng từ ngữ cụ thể hơn là từ trừu tượng. Việc chọn từ đã là một sự biện luận, vì cách chọn này chỉ đúng với tính chất của những sự việc và những con người này. Tiếng việt rất phong phú, một số từ có thể nhiều nghĩa, trong những ngữ cảnh khác nhau thì sự khác nhau về nghĩa của các từ càng rõ nét. Vì vậy tránh sử dụng các từ hai nghĩa hoặc nhiều nghĩa có thể gây hiểu lầm. Cũng nên tránh các từ hoặc thuật ngữ trừu tượng, những từ nước ngoài hoặc những từ chưa rõ nghĩa…
Những từ bình thường có thể được sử dụng trong đời sống hằng ngày nhưng lại không nên sử dụng trong ngôn ngữ pháp lý. Ví dụ không nên dùng “y, thị” để chỉ một ai đó cũng như không dùng “các cụ” để chỉ lãnh đạo và v.v… Chọn lựa từ ngữ rất tốt thì Bản luận cứ sẽ được tôn thêm giá trị.
Các đặt câu hỏi cũng không kém phần quan trọng. Câu phải ngắn gọn; mỗi câu chỉ chứa một ý. Câu khoa trương, câu thần chú, câu trống rỗng, câu kiêu, câu kêu, câu cảm thán… chỉ được dùng chủ yếu trong văn học.
Một điểm nữa nên lưu ý là các viện dẫn về tác giả hay nguồn của câu dẫn phải được xác định. Ngoài ra, những thành ngữ la-tinh và tiếng nước ngoài được sử dụng trong Bản luận cứ có thể nêu lên một dáng vẻ thông thái, nhưng phải tuyệt đối tránh những thành ngữ này. Bởi vì nếu bạn có sử dụng thì cũng rất ít người hiểu nó và điều đó chỉ gây thêm khó chịu mà thôi. Có một thuật ngữ của tiếng nước ngoài được sử dụng trong văn nói nhưng cũng nên tránh dùng trong Bản luận cứ ví dụ OK, bye…
Không sử dụng lối nói của các hội nghị, hội thảo khoa học hoặc trong giảng dạy tại trường, ngôn ngữ Tòa án có chuẩn mực riêng. Đó là lối nói khoa học, ngắn gọn, súc tích, gãy gọn, không cầu kỳ, không bay bướm và đặc biệt phải có cơ sở pháp lý.
Không dùng các lời lẽ có tính chất thóa mạ, bôi nhọ, mạt sát đối phương để khẳng định thân chủ của mình là đúng. Nếu muốn khẳng định thân chủ của mình là đúng thì phải dùng các lý lẽ, lập luận, chứng minh để làm rõ chứ không phải bằng các bôi nhọ đối thủ ngay tại phiên tòa.
Cũng không nên khen ngợi các Thẩm phán này hay kiểm sát viên một cách thái quá bằng những từ ngữ khó nghe như “Ông Thẩm phán thông thái, Vị kiểm sát viên công minh…”. Lập luận và nhận định: Bài luận cứ là một văn bản tố tụng mà Luật sư muốn làm cho Tòa án có căn cứ chấp nhận một hoặc nhiều quan điểm của mình. Bản luận cứ này đưa ra những yêu cầu đã được xem xét, đánh giá trên cơ sở lập luận và nhận định các sự kiện dựa vào các căn cứ pháp luật.
Tuy vậy, lập luận đúng đắn không bao gồm cả những kết luận bắt buộc, ví phần lớn các trường hợp, những tiên đề không chỉ có thể là có thực hoặc ngẫu nhiên.
Viết Bản luận cứ như thế nào phụ thuộc vào khả năng biện luận và thói quen làm việc của mỗi Luật sư. Có thể viết Bản luận cứ thành một bài viết hoàn chỉnh, cũng có thể là dưới dạng "đề cương" trên cơ sở một dàn ý đầy đủ, tỉ mỉ.
Mỗi cách viết đều có những ưu điểm và hạn chế. Nếu chuẩn bị Bản luận cứ dưới dạng một bài viết hoàn chỉnh thì Luật sư có thể đọc trong phần tranh luận. Điều này trong một chừng mực nào đó sẽ giúp Luật sư bớt sự căng thẳng khó chịu áp lực của việc phát biểu trước đông người, hoặc không bị bỏ sót những nội dung đã chuẩn bị. Nhưng hạn chế lớn nhất của cách làm này là Luật sư sẽ quá lệ thuộc vào bài viết từ trước. Trong một số trường hợp có thể xảy ra việc bài viết chuẩn bị trước không còn hoàn toàn phù hợp với diễn biến tại phiên tóa. Ngoài ra, cách làm này còn gặp một số hạn chế trong quá trình phát biểu của luật sư.
Việc chuẩn bị Bản luận cứ dưới dạng đề cương thường được nhiều Luật sư ưa thích hơn. Tuy nhiên bản đề cương phải hết sức tỷ mỷ, chi tiết. Điều này giúp cho Luật sư trình bày vấn đề một cách mạch lạc, logic, linh hoạt, không hề bị lệ thuộc vào một bài viết sẵn, phát huy được khả năng biện luận của Luật sư. Hơn nữa, việc trình bày vấn đề một cách tự do sẽ làm cho cách trình bày của Luật sư sinh động hơn, phù hợp với không khí tranh luận tại phiên tòa.
Nhưng dù đã chuẩn bị Bản luận cứ dưới dạng nào đi chăng nữa thì cũng nên lưu ý một số điểm sau:
Các vấn đề đưa ra phải mạch lạc, rõ ràng.
Trình bày dứt điểm từng vấn đề theo trình tự hợp logic.
Viện dẫn văn bản pháp luật vào từng nội dung đề xuất.
Ngôn ngữ sử dụng trong sáng, dễ hiểu.
Sử dụng văn phong pháp lí. Tránh việc diễn đạt dài dòng lặp lại.
Tóm lại, sự chuẩn bị trước cho việc tham gia một phiên tòa càng cẩn thận, tỷ mỷ và chính xác thì càng tạo điều kiện thuận lợi để Luật sư hoạt động có hiệu quả tại phiên tòa. Việc chuẩn bị trước phiên tòa là điều không thể thiếu trong hoạt động nghề nghiệp của Luật sư. Tùy theo đặc điểm, nội dung cụ thể của mỗi vụ kiện cũng như tùy theo yêu cầu của đương sự mà Luật sư mới có những sự chuẩn bị phù hợp.
3.3. Trình bày Bản luận cứ của luật sư:
Như đã nêu, Bản luận cứ của Luật sư đã được chuẩn bị trước đó. Luật sư đã có sự trao đổi với thân chủ của mình và thống nhất với nhau về các yêu cầu cũng như các phương án mà luật sư đề xuất với HĐXX. Bản luận cứ cũng đã được luật sư hoàn chỉnh, cập nhật những ý mới và bổ sung thông qua quá trình xét hỏi tại phiên tòa. Trong phần tranh luận luật sư trình bày bản luận cứ của mình công khai trước tòa để HĐXX và những người tham gia tố tụng khác nắm bắt được quan điểm của luật sư về nhận định và đánh giá chứng cứ cũng như những kết luận và các đề xuất của luật sư nhằm bảo vệ quyền lợi cho thân chủ của mình. Bản luận cứ luật sư là một tài liệu tố tụng rất quan trọng, không chỉ có ý nghĩa giúp HĐXX có thêm các dữ liệu quan trọng trong khi nghị án mà còn có giá trị trong các giai đoạn xét xử tiếp theo nếu bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Cần sử dụng phương pháp trình bày của Bản luận cứ thích hợp đối với từng vụ án riêng biệt. Có thể vừa kết hợp đọc, nói hoặc trình bày có giải thích trên cơ sở những tình tiết chính trong Bản luận cứ. Dù luật sư trình bày Bản luận cứ dưới dạng đọc hay dạng nói thì Bản luận cứ cũng phải được đánh máy rõ ràng, khúc chiết. Đối với những phần mà cần thiết phải bổ sung trong phần hỏi Luật sư nên dành những khoảng trống trong Bản luận cứ để cập nhật những tư liệu một cách rõ ràng mà HĐXX có thể chấp nhận được. Như trên đã nêu, ngoài việc viện dẫn các văn bản pháp luật khi nhận định và đánh giá chứng cứ cũng như là việc kết luận những tình tiết của vụ án, luật sư cần đính kèm theo Bản luận cứ của mình các phần trích dẫn của các tài liệu văn bản đó. Toàn bộ Bản luận cứ đã được bổ sung, sửa chữa kèm theo các tài liệu văn bản trích dẫn, luật sư phải gửi ngay cho HĐXX ngay sau khi trình bày xong. Bản đề cương luận cứ của luật sư trong những trường hợp cần thiết có thể được gửi trước cho các thành viên của HĐXX và đại diện của VKS để họ nghiên cứu trước.
Thực tiễn hành nghề cho thấy một Luật sư thu hút được sự quan tâm của HĐXX hoặc những người tham gia tố tụng và những người tham dự phiên tòa không phải bằng một bài phát biểu đánh máy sẵn, dài dòng mà là nội dung của bài phát biểu đó đề cập được đến những vấn đề gì, có thực sự bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng hay không? Có đề xuất được với Toà án những biện pháp có căn cứ, đúng pháp luật, giúp Toà án ra được một bản án có rất thuyết phục hay không?
Thông thường Luật sư nên tận dụng các cơ hội để nói hoặc trình bày hơn là đọc Bài luận cứ . Trong quá trình trình bày, luật sư nên viện dẫn các chứng cứ viết sẵn, đưa ra trước Toà án các tài liệu chứng minh cho những gì mình đang nói. Kết hợp so sánh, phân tích, đối chiếu với các tình tiết vừa được kiểm tra công khai tại phiên toà, không nên lệ thuộc quá nhiều vào bài luận cứ đã viết sẵn. Tốt nhất nên kết hợp giữa kết quả hỏi tại phiên toà với phần chuẩn bị trước trong bản luận cứ. Các lập luận phải chặt chẽ trên cơ sở quy định của pháp luật, các văn bản pháp luật phải được sử dụng và sử dụng chính xác. Tránh dùng những lời lẽ nặng về mô tả văn phong hoặc mang nặng tính ngôn ngữ, khó hiểu, trừu tượng. Không nói dài, vô nghĩa .
Cách tranh luận
- Dựa vào kết quả hỏi phiên toà, vậy nên luật sư phải ghi chép lại không chỉ những câu hỏi mà còn ghi lại những câu trả lời trong phiên toà;
- Dựa vào bản luận cứ và phương án bảo vệ đã được chuẩn bị trước;
- Các lập luận phải chặt chẽ trên cơ sở quy định của pháp luật, các văn bản pháp luật phải được sử dụng và sử dụng chính xác.
- Cần trình bày rõ ràng, lời lẽ từ tốn và đặc biệt phải chọn những thuật ngữ pháp lý chuẩn xác theo pháp luật hiện hành. Tránh dùng những lời lẽ nặng nề về mô tả văn phong hoặc mang nặng tính ngôn ngữ , khó hiểu hoặc trừu tượng;
- Tránh nói dài, nói vô nghĩa.
Cách đối đáp với phía bên kia
- Cũng giống như phần trình bày quan điểm của mình, khi đối đáp với phía đối phương , cần đưa ra những luận cứ để phản bác lại từng luận điểm của đối phương với một thái độ bình tĩnh.
- Tránh bị kích động, tránh dùng lời lẽ nặng nề mang tính nhục mạ đối phương.
Lưu ý:
- Khi trình bày Bản luận cứ của mình, luật sư đang gửi đến cho HĐXX và những người tham gia tố tụng một bản thông điệp. Như vậy, không phải nói những gì mà mình thích mà nói những gì Toà án có thể chấp nhận được.
- Bản luận cứ là cách thực tế để chuyển tải ý nghĩ, vì vậy, để việc chuyển tải thông tin có hiệu quả, Bản luận cứ cũng phải tuân theo những quy định nhất định.
- Việc truyền đạt thông tin không chỉ là trên giấy tờ và lời nói, mà còn thể hiện ở cử chỉ và điệu bộ.
- Cần phải tránh sự thái quá trong lời nói lẫn trong cử chỉ; điều này nhiều khi làm cho Thẩm phán khó chịu và có thể nội cáu.
- Không diễn thuyết một cách cao hứng, hơi khoa trương pha lẫn giọng kịch: giả vờ run lên xuống giọng quá điệu đà, trầm bổng không đúng chỗ.
Nhiều cử chỉ không được thiện cảm như khoa trương cánh tay, đi lại mất trật tự khi chưa được phép của chủ tọa phiên tòa, chỉ tay vào người này, người khác khi nói, kể cả chỉ tay vào thân chủ của Luật sư. Điều này chỉ làm trò cười cho phòng xử án và không có hiệu quả.
- Phải bình tĩnh và nhẹ nhàng. Giọng nói cũng phải ung dung: nói đủ to để có thể nghe được, không nên bắt chước theo giọng nói (thường là rắn rõ) của các Thẩm phán. Phải tạo điều kiện dễ dàng để mọi người có thể nghe được. Luật sư nên nhớ rằng nếu Bản luận cứ chỉ kéo dài trong ba mươi phút, nhưng các Thẩm phán phải lắng nghe không phải chỉ một Bản luận cứ mà họ còn phải lắng nghe những người tranh tụng nói và diễn thuyết trong suốt cả ngày.
- Tất nhiên Luật sư hoàn toàn có thể điều chỉnh giọng nói của mình để nhấn mạnh khi cần thiết, ngoài ra giọng nói còn có thể trở nên cương quyết, phẫn nộ, nghi ngờ, v.v.. nếu cần phải như vậy.
- Nhịp đọc hoặc nói phải được điều chỉnh cho phù hợp với ngữ cảnh, không nhanh quá nhưng cũng không được chậm quá.
- Trong khi trình bày, nếu Luật sư nhận thấy rằng Tòa án đã hiểu được vấn đề mình trình bày và lập luận đã được Tòa án chấp nhận thì không nên triển khai thêm nữa, lúc đó phải kịp thời chuyển sang vấn đề khác.
- Không nên quá thận trọng với Bản luận cứ của mình, nhất là không nên đọc từng chữ. Trong khi trình bày phải chú ý để việc trình bày không quá đơn điệu: như thỉnh thoảng ngắc ngứ, không nhận ra chữ gì, lúng túng vì một từ không rõ nghĩa, dừng lại để tìm câu thích hợp do việc chuyển từ đọc sang nói hoặc ngược lại…
- Một vài Luật sư nghĩ rằng việc công kích đối phương của mình bằng những lời bóng gió có ác ý làm cho đối phương phải bẽ mặt và điều đó làm cho vụ án tiến triển nhanh hơn. Điều này hoàn toàn không phải như vậy. Việc này không chỉ chọc tức các đối phương mà còn chọc tức cả các thẩm phán ghi nhận vào bản án. Điều đó có nghĩa là một Luật sư có nhân cách xấu thì không vì thế mà Luật sư kia thắng thế trong vụ án. Vì vậy, Luật sư không bao giờ công kích những phẩm chất và tính cách của đối phương khi trình bày Bản luận cứ.
- Khi các thẩm phán đặt những câu hỏi dựa trên những sự kiện liên quan đến vụ án mà Tòa án đang xem xét giải quyết cũng như dựa vào pháp luật, Luật sư luôn luôn thành kiến rằng thẩm phán lúc đó đang cố tình gây bất lợi cho mình. Hoàn toàn không phải như vậy. Thẩm phán đặt câu hỏi có thể bất lợi cho người có liên quan, nhưng trong bất kỳ trường hợp nào, Luật sư cũng phải bình tĩnh trả lời.
Để đạt được mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ, trước hết Luật sư phải tuân thủ những quy định, thủ tục của phiên tòa. Luật sư phải tôn trọng pháp luật cho phép để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.
Khi tham gia phiên tòa, Luật sư cần chứng tỏ mình là người có văn hóa pháp đình; phẩm chất đó được thể hiện một cách cụ thể trong tác phong đi, đứng, tư thế ngồi, trong lời ăn tiếng nói, thậm chí từ ánh mắt nhìn. Luật sư cần nhã nhặn, khiêm nhường nhưng không khúm núm, kiên định giữ nguyên tắc nhưng không kiêu căng, ngạo mạn; lập luận hùng hồn có sức thuyết phục, phủ định những ý kiến khác, nhưng không gây căng thẳng.
Tóm lại, khi ở phiên tòa, Luật sư trình bày Bản luận cứ của mình sẽ giúp Tòa án hiểu được các quan điểm của mình, do đó phải lựa chọn một hình thức phù hợp để đạt được kết quả. Sau khi trình bày xong nhất thiết phải cung cấp cho mỗi thẩm phán một bản sao và có thể gửi một bản cho đối phương của mình.
3.4. Các công việc cần tiến hành sau phiên Tòa sơ thẩm
Theo quy định của pháp luật sau khi Tòa tuyên án thì đương sự, người đại diện của đương sự hoặc người bảo vệ quyền lợi của đương sự… có quyền được xem Biên bản của phiên tòa hoặc có quyền yêu cầu sửa chữa, bổ sung biên bản. Đây là một quyền rất quan trọng trên cơ sở đó tạo điều kiện cho những người tham gia tố tụng phát hiện những sai lầm để kiến nghị sửa chữa bổ sung nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự. Đối với những vụ án phức tạp, phiên tòa xảy trong nhiều ngày, bút ký phiên tòa dài dòng thì Luật sư phải cùng với thân chủ của mình xin phép Tòa án được xem Biên bản phiên tòa và cùng nhau trao đổi, phát hiện những vấn đề cần sửa chữa, bổ sung.
Cũng theo quy định của pháp luật ngay sau khi phiên tòa, Tòa án phải cấp trích lục bản án hoặc quyết định cho các đương sự và chậm nhất trong thời hạn chống án Tòa án phải cấp bản sao bản án hoặc quyết định cho họ theo yêu cầu của đương sự. Luật sư cần chủ động đề nghị với HĐXX để HĐXX cấp ngay cho thân chủ của mình trích lục phần quyết định của bản án nhằm giúp thân chủ nắm bắt được một cách chính xác quyền và nghĩa vụ của họ trong bản án. Trong trường hợp Tòa án không thể cấp ngay trích lục bằng văn bản thì Luật sư có thể yêu cầu chủ tọa phiên tòa đọc lại phần quyết định để Luật sư ghi chép hoặc thân chủ của mình ghi chép. Toàn văn bản án cần phải được cấp trong thờihạn kháng cáo để những người có quyền kháng cáo thực hiện quyền kháng cáo của mình.
Luật sư nên giúp đương sự thực hiện quyền kháng cáo. Nếu thấy quyết định của bản án không phù hợp với yêu cầu của mình đã đề ra thì theo yêu cầu của thân chủ Luật sư cần hướng dẫn cho họ hoặc tự mình soạn thảo Đơn kháng cáo để yêu cầu Tòa án cấp xem xét lại theo trình tự phúc thẩm.
Đơn kháng cáo là một văn bản của đương sự khi họ không đồng ý với quyết định của Tòa án đã xét xử sơ thẩm và yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Thông thường Đơn kháng cáo phải thể hiện được các nội dung sau:
+ Phần mở đầu: Nêu rõ gửi cho Tòa án nào, các đương sự trong vụ án đã xử sơ thẩm, họ và tên người làm đơn kháng cáo, lý do kháng cáo.
+ Phần nội dung: Trình bày những nội dung mà Tòa án sơ thẩm đã xử trên cơ sở yêu cầu của nguyên đơn, phần yêu cầu của bị đơn (nếu có); nêu diễn biến của quá trình xem xét giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm những nội dung mà người kháng cáo không đồng ý với quyết định của Tòa án sơ thẩm; tại sao lại không đồng ý và các chứng cứ, lý lẽ để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình. Nếu người chống án cho rằng chứng cứ đã thể hiện trong hồ sơ và đã được kiểm tra, xác minh công khai tại phiên tòa nhưng Tòa án đã không căn cứ vào những chứng cứ đó khi quyết định bản án thì cũng phải chỉ rõ. Nếu đề xuất thêm các tình tiết, tài liệu mới thì cũng cần chỉ rõ. Phần này cũng cần đưa ra các văn bản pháp luật để áp dụng cho trường hợp mà mình đã nêu ra. Nếu có sự hiểu khác nhau trong việc áp dụng luật thì cũng cần phân tích, làm rõ.
+ Phần đề xuất: Đề nghị Tòa án phúc thẩm xem xét lại vụ án (toàn bộ hoặc một phần) để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người kháng cáo.
Trong trường hợp bản án không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì Luật sư cũng cần hướng dẫn cho khách hàng các thủ tục cần thiết để yêu cầu thi hành bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
PHẦN KẾT LUẬN:
Việc giải quyết các tranh chấp đất đai là hết sức khó khăn, phức tạp, vì nó vừa có tính chất của giao dịch dân sự, vừa bị chi phối bởi chính sách, pháp luật đất đai. Trong khi các chính sách, pháp luật đất đai mỗi thời kỳ lại có những thay đổi rất khác nhau, Nhà nước không có văn bản pháp luật nào quy định dướng xử lý các loại quan hệ đã hình thành trong mỗi giai đoạn đó. Vì vậy, có vụ Ủy ban nhân dân cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chủ đất cũ, có trường hợp lại cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người đang sử dụng đất và có trường hợp chưa cấp giấy chứng nhận cho bên nào v.v.. Nên khi có tranh chấp xảy ra, Luật sư gặp rất nhiều khó khăn về thu thập và đánh giá chứng cứ. Do đó, nghiên cứu hồ sơ vụ án là một công việc hết sức quan trọng và cần thiết. Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách toàn diện, có hệ thống, khách quan giúp Luật sư nắm bắt được những mặt mạnh, mặt yếu của khách hàng của mình, trên cơ sở đó hình thành các luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ.
Qua các nội dung đã nêu cho thấy, trong các kỹ năng giải quyết vụ án tranh chấp đất đai thì giai đoạn tranh tụng tại phiên Tòa có một ý nghĩa gần như quyết định đối với Luật sư tranh tụng. Trong giai đoạn này, Luật sư thể hiện hết tài thao lược của mình, bộc lộ hết các quan điểm và ý tưởng của mình. Một Luật sư được đánh giá cao hay không phần lớn thông qua việc tranh tụng. Vì vậy, chuẩn bị tốt cho giai đoạn này là điều sống còn đối với Luật sư và cả đối với thân chủ của mình nữa.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Kỹ năng tranh chấp đất đai.doc