Tranh dân gian Đông Hồ mang nhiều đặc trưng của ngôn ngữ tạo hình, được
xếp vào dòng nghệ thuật đồ họa, một loại hình ra đời sớm trong lịch sử mỹ thuật Việt
Nam. Về nội dung, tranh Đông Hồ đa dạng về thể loại, đề tài. Đó là tranh thờ, tranh
chúc tụng, tranh lịch sử, tranh sinh hoạt, tranh đả kích, châm biếm, tranh tuyên truyền
cổ động, . Mỗi loại tranh có nội dung và cách thức biểu đạt khác nhau, song nó là
tấm gương phản ánh một cách trung thực nhất, biểu hiện cốt cách tình cảm và con
người Việt Nam. Về hình thức nghệ thuật, nét nổi bật của dòng tranh Đông Hồ là
phương pháp in tranh bằng cả ván in nét và ván in màu. Tranh Đông Hồ in nét và in
màu đều in úp ván theo kiểu đóng dấu trên giấy dó quét nền điệp. Màu dùng để in
tranh là những sản vật và nguyên liệu lấy từ tự nhiên được chế biến bằng kỹ thuật thủ
công, nghệ nhân làng Hồ gọi là màu thuốc cái, như lấy từ than lá tre, lá chàm, hoa
hòe, hoa hiên, son, điệp .Màu tự nhiên in tranh mềm, xốp, không bị phai màu. Cùng
với chất điệp óng ánh làm cho màu trong và sâu, khiến những mảng màu nguyên chất
trở thành màu độc đáo. Đường nét trong tranh Đông Hồ cũng to, đậm, đơn giản
nhưng cô đọng, chắc khỏe. Tranh dân gian trải qua những thăng trầm, tuy có một số
thay đổi nhất định về hình thức nghệ thuật, hay về nội dung, sản xuất và tiêu thụ,
nhưng nhìn chung thì những thay đổi đó là tích cực và là sự thích ứng trước thời đại
mới. Thay đổi đó không làm mất đi đặc trưng cơ bản của tranh dân gian Đông Hồ,
hơn thế còn khẳng định được những bước đi riêng của một làng tranh đang đứng
trước nguy cơ bị mai một và thất truyền. Thách thức với làng tranh Đông Hồ hiện
nay là rất lớn, tuy chỉ còn hai gia đình nghệ nhân còn gắn bó với nghề và quyết tâm
bảo tồn, phát triển nghề tranh này, nhưng những việc họ làm thật ý nghĩa và thật đáng
trân trọng. Về mặt ý nghĩa, tranh Đông Hồ vẫn luôn là sản phẩm tinh thần độc đáo
của văn hóa và nghệ thuật Việt Nam, là đối tượng quan tâm tìm hiểu của nhiều người
ở trong và ngoài nước.
Nhà nước và chính quyền địa phương cùng với các ban ngành cần quan tâm
hơn nữa tới sự phát triển của làng tranh, coi đó là tiềm năng phát triển kinh tế, văn
hóa của đất nước. Nhà nước, chính quyền địa phương cần có chính sách đãi ngộ thỏa
đáng với những người nghệ nhân giỏi của Đông Hồ. Họ là những người còn lại giữ
vững tâm huyết, hết lòng yêu nghề và có ý thức giữ gìn nghề truyền thống trên quê
hương mình. Để khắc phục những khó khăn về thị trường tiêu thụ, trước hết các nghệ
nhân cần khôi phục nguyên gốc dòng tranh dân gian truyền thống. Đồng thời, các
nghệ nhân cũng cần phối hợp với các họa sĩ chuyên nghiệp nhằm tạo ra những mẫu
tranh mới, đáp ứng thị hiếu của người chơi tranh hiện nay.
33 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 7574 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Làng tranh dân gian Đông Hồ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh: hiện trạng và hướng phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
in tranh là nguyên nhân làm tranh dân gian Đông Hồ có nhiều
dị bản. Sự khác nhau của các tờ tranh có cùng tên gọi là do sự thêm bớt một vài tình
tiết như chữ đề trên tranh, thơ họa tranh, số lượng nhân vật, trang phục, tư thế,. hay
cũng có thể thay đổi một vài sắc độ, màu nền tranh, màu sắc các họa tiết trong
tranh,.
2.3 Quy trình kỹ thuật làm tranh
2.3.1 Chuẩn bị về nhà xưởng, thiết bị và nguyên liệu
Đây là bước đầu tiên quan trọng trong quy trình làm tranh dân gian. Các thiết bị
làm tranh phải có đủ, trong một không gian nhà xưởng nhất định, đồng thời nguyên
liệu cho làm tranh cũng phải được chuẩn bị từ trước.
2.3.1.1 Về nhà xưởng
Đặc trưng của nghề làm tranh tuy không đòi hỏi cơ sở vật chất, trang thiết bị nhà
xưởng quá quy mô và tốn kém, nhưng lại cần những khoảng không gian rộng. Bởi
trong quy trình chuẩn bị giấy điệp in tranh, hay phơi tranh thì cần khoảng sân rộng để
có thể trải giấy điệp hay tranh thành phẩm ra phơi cho được nắng thì giấy điệp mới
trắng, tranh mới tươi màu. Tuy vậy, mỗi hộ gia đình của làng Hồ cũng tận dụng
những không gian có được trong nhà mình như nhà ba gian, hay sân rộng, nhà ngang,
sân tầng thượng.để có thể phơi tranh, hay trưng bày tranh thành phẩm.
2.3.1.2 Về thiết bị
Trước khi bắt tay vào làm tranh, các nghệ nhân làng Hồ đều chuẩn bị những dụng
cụ thiết yếu, chúng được cất giữ như những bảo bối trong nhà. Thiết bị đó bao gồm:
Dụng cụ sáng tác mẫu tranh: đó là các bút lông, mực nho (hay mực tàu) và giấy
bản mỏng. Khi vẽ mẫu tranh, nghệ nhân sẽ dùng bút lông chấm vào mực tàu đã pha
và vẽ hình mẫu lên các bản giấy mỏng. Sau đó, giấy mẫu được dán vào mặt trước của
tấm gỗ, và nét vẽ sẽ thấm ra mặt sau tờ giấy, nhờ đó người thợ khắc mới khắc được
hình vẽ lên bản gỗ.
Dụng cụ khắc ván tranh: Dụng cụ được dùng để khắc ván in tranh là mũi đục, hay
gọi là ve bằng thép cứng, và dùi đục dùng để gõ đục (trong khi đó Hàng Trống dùng
dao khắc). Mỗi bộ ve khắc ván gồm khoảng 40 chiếc, chia ra 4 loại:
Móng: là lưỡi ve lòng máng, cong nhiều
Thoảng: là lưỡi ve hơi lòng máng, hơi cong
Thẳng: là lưỡi ve thẳng
Dẫy nền: là lưỡi ve lòng máng, thân ve uốn cong để dũi, đào sâu xuống gỗ. Mỗi
loại ve có khoảng trên dưới 10 cái với nhiều cỡ to nhỏ khác nhau.
Ngoài mũi đục và dùi đục, còn có dao khắc mũi mài một má (vát một bên má dao).
Dụng cụ in tranh: Gồm ván in tranh (ván màu), sơ mướp và các bìa màu.
17
Ván in tranh: là các khổ ván nhỏ, nhẹ, thuận tiện khi in. Các ván in tranh được
chuẩn bị trước và đồng thời với các hình mẫu được sáng tác. Sau khi hình mẫu được
tạo ra và khắc xong, đó là bản nét hoàn thiện. Sau đó, người thợ còn phải khắc bản
nét để in từng màu. Đây là các ván nhỏ hơn ván nét, người thợ khắc theo từng mảng
màu có trên từng tờ tranh (màu xanh, đỏ, vàng, hồng, mỗi màu có một bản khắc
nét mẫu này). Tranh có bao nhiêu màu thì có bấy nhiêu bản in màu. Ván in màu này
sẽ được trực tiếp dùng in lên giấy điệp, qua các công đoạn và thao tác in tranh sẽ
được các bức tranh hoàn chỉnh.
Sơ mướp có sẵn ở nhà nhiều, không có thì thay bằng các miếng giấy ráp hay bàn
chải to đều được.
2.3.1.3 Về nguyên liệu in tranh
Trước hết phải kể đến giấy in tranh, là giấy dó quét điệp. Xưa kia, nguyên liệu
dùng in tranh là những thứ có sẵn trong tự nhiên. Người thợ tự chế lấy theo lối thủ
công truyền thống, vừa rẻ, vừa độc đáo. Hiện nay, người Đông Hồ mua giấy dó ở
trên Đống Cao mà không tự sản xuất như xưa. Giấy làm tranh của Dương Ổ chủ yếu
cung cấp để phuc̣ vu ̣cho làng làm tranh Đông Hồ . Tuy nhiên , do tính chất của sư ̣
phân công lao đôṇg trong hê ̣thống các làng nghề truyền thống mà giấy dó ở đây
không đến ngay với thợ thủ công Đông Hồ . Giấy dó sau khi đươc̣ làm xong ở Dương
Ổ sẽ được bán cho người làng Đạo Tú (Thuâṇ Thành , Bắc Ninh) hoăc̣ làng Trưởng
Xá (Thuâṇ Thành , Bắc Ninh). Người thơ ̣thủ công của hai làng này sau khi phết lên
măṭ giấy môṭ lớp xà cừ , lại đem bán giấy cho thương nhân Hà Nội để người ta phủ
lên đó môṭ lớp dầu bóng , sau đó mới sẵn sàng cho người thơ ̣ thứ tư sử duṇg để in
tranh. Các nghệ nhân hiện nay thường đặt mua giấy dó để giảm công đoạn làm giấy
này. Sau đó, giấy dó được quét điệp bằng chổi lá thông khô, làm thành giấy điệp. Sau
này, người nghệ nhân còn sáng tạo ra là quét thêm trên nền giấy điệp lớp màu đỏ son,
màu vàng hòe thành nền đỏ cam hoặc vàng chanh. Và giấy điệp cũng là một đặc
trưng rất riêng của làng tranh Đông Hồ.
Màu in tranh Đông Hồ là thuốc cái, hoàn toàn được chế biến từ nguyên liệu và
thảo mộc tự nhiên như: Màu trắng điệp lấy từ con sò điệp. Màu vàng hòe được chế ra
từ hoa của cây hòe hay hạt dành dành. Màu đỏ được nấu từ gỗ vang trong rừng và
nước lã. Vang là loại cây thân gỗ có quả cứng, hoa vàng.
2.3.2 Kĩ thuật làm tranh
2.3.2.1 Khâu vẽ mẫu- hay sáng tác mẫu tranh
Đây là khâu đầu tiên, quan trọng và khó nhất trong quy trình kĩ thuật làm tranh.
Sau khi chuẩn bị nguyên liệu, thiết bị, nhà xưởng xong, thì đòi hỏi người nghệ sĩ phải
ra mẫu, hay sáng tác mẫu tranh. Cũng có thể nghệ nhân sẽ ra mẫu trước hay đồng
thời với quá trình chuẩn bị nguyên liệu, thiết bị. Nhưng dù trước hay sau, thì việc ra
mẫu cũng là một quy trình sáng tạo nghệ thuật đặc biệt của nghệ nhân. Quy trình này
đòi hỏi nghệ nhân phải có năng khiếu hội họa thực sự. Sau khi sáng tác được mẫu
nào thì đem ra khắc vào bản gỗ (ván khắc). Đó là những công đoạn khó nhất của
nghề làm tranh, ít người thông thạo cả hai. Số người có khả năng sáng tác mẫu không
nhiều. Họ thường là những nghệ nhân giỏi trong làng. Sau Cách mạng tháng Tám,
18
những nghệ nhân sáng tác giỏi trong làng phải kể đến: Nguyễn Thế Thức, Nguyễn
Thế Giác (Giác nhất), Nguyễn Thế Lãm (Giác nhì), Vương Chí Long, Vương Chí
Hồ..
2.3.2.2 Khắc ván
Nghệ nhân khắc ván phải là người có kỹ thuật chạm giỏi. Trước cách mạng
tháng Tám, những nghệ nhân khắc ván có tay nghề cao là Nguyễn Đăng Tụy,
Nguyễn Đăng Mưu, Nguyễn Thế Bân, Hà Văn TưVán in thường chia làm hai loại
là ván in nét và ván in màu. Ván in nét làm bằng gỗ thị, gỗ thừng mực. Gỗ thị thớ đa
chiều dùng để khắc ván in nét có thể tạo nét tinh vi, mảnh nhỏ, nét bền. Gỗ mực nhẹ,
nạc, mềm và rất dễ khắc nhưng độ bền không cao. Ván in màu bằng gỗ giổi hay gỗ
vàng tâm, là loại gỗ nhẹ, thớ mềm xốp, dễ hút màu, do đó in đượm màu thuốc cái.
2.3.2.3 In tranh
Dụng cụ và vật liệu để in tranh gồm giấy dó, ván in, thét thông, bìa màu và xơ
mướp (có nghệ nhân dùng miếng xốp mút). Sau khi chuẩn bị xong các nguyện liệu,
dụng cụ, người nghệ nhân tiến hành in tranh.
Tranh Đông Hồ được in theo phương thức xấp ván, bằng cách cầm ván in và
rập xuống bìa màu, sao cho màu thấm đều vào hình khắc trên ván. Xong bước tiếp
theo là ấn ván in lên tờ giấy in, như khi đóng dấu ấn. Sau đó, lật ngửa ván in có dính
tờ giấy in (giấy điệp), lấy miếng xơ mướp xoa đều lên mặt sau tờ giấy điệp để nét
hoặc màu in đều lên giấy. Thao tác cuối cùng là lấy tờ tranh ra khỏi ván in. Khi in
xong mỗi màu, vắt tranh vào sào nứa hoặc tre rồi phơi trong nhà, tranh khô mới in
tiếp màu sau. Tranh có bao nhiêu màu thì in bấy nhiêu lần cho hết các màu thì in nét,
in nét là công đoạn cuối cùng. Theo nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam: Bản khắc để in
tranh hết sức quan trọng, in đem trắng thì đơn giản, còn in tranh màu phải tạo màu,
sửa nét, tạo hồn cho tranh, tạo nên giá trị của tranh. Sử dụng bản khắc đòi hỏi về
trình độ, kỹ thuật của người in tranh, người làm phải có tình yêu và sự sáng tạo.
Trong một bức tranh có nhiều màu, người ta thường in màu đỏ trước, sau đến
màu xanh, các màu vàng, trắng và màu da có thể tùy theo. Nhiều người in trong dây
chuyền để hoàn thành một bức tranh, mỗi người in một màu. Để cho các mảng màu
in ăn khớp với nhau, mỗi tấm ván in đều có hai điểm cữ đánh dấu ở cạnh ván in. Khi
in, hai điểm này sẽ để lại dấu chấm tròn nhỏ trên tranh. Cách làm này sẽ đảm bảo cho
việc in các màu xen kẽ nhau, không chồng lên những mảng màu in trước. Sau khi in
xong các mảng màu, người nghệ nhân in ván nét đen để viền các mảng màu. Người
Đông Hồ gọi là cắt nét. Công việc này khó nhất, đòi hỏi sao cho các nét viền phải
đều tay, không được chỗ đậm- chỗ nhạt. Sau khi in nét xong cũng phơi tranh lên để
tránh ẩm mốc. In nét là công đoạn cuối cùng, quan trọng để tạo nên đường nét và giá
trị biểu đạt cho tranh Đông Hồ.
Tiểu kết chƣơng 2:
Tranh dân gian Đông Hồ có diện mạo rất riêng về nội dung và hình thức.
Không chỉ phong phú về đề tài mà còn đa dạng về nội dung và hình thức nghệ
thuật. Thể loại tranh Đông Hồ có nhiều loại theo cách đề ra tiêu chí khác nhau, nhìn
chung có sáu loại chính là, tranh thờ cúng, tranh lịch sử, tranh chúc tụng, tranh sinh
19
hoạt, tranh phong cảnh và tranh truyện. Các loại tranh Đông Hồ đều toát lên vẻ đẹp
dân dã, mộc mạc nhưng gần gũi, thân thuộc với người nông dân thuần hậu, chất
phác. Bộc lộ những nội dung độc đáo nhưng dễ hiểu, tranh Đông Hồ vừa mang nội
dung chúc tụng, bộc lộ ước mơ ngàn đời của người lao động, cầu mong sự che chở
của ông bà tổ tiên; đồng thời, tranh Đông Hồ còn là sự ca ngợi truyền thống “tôn sư
trọng đạo”, đề cao chủ nghĩa nhân đạo, ca ngợi chính nghĩa, ca ngợi những anh
hùng dân tộc Ngoài ra, tranh Đông Hồ còn mang nội dung đả kích, phê phán,
châm biếm thói hư, tật xấu của giai cấp thống trị thời phong kiến. Bên cạnh những
nội dung đặc trưng, tranh Đông Hồ còn có hình thức nghệ thuật độc đáo về cả bố
cục, chất liệu, đường nét, màu sắc dân gian hay tính dị bản của tranh. Quy trình làm
tranh Đông Hồ vẫn mang tính truyền thống và độc đáo rất riêng. Từ khâu chuẩn bị
nguyên liệu đến kỹ thuật làm tranh đều tuân thủ nghiêm ngặt quy trình truyền
thống. Thực trạng làm tranh dân gian hiện nay có nhiều thay đổi so với trước đây,
nhưng nhìn chung vẫn phát huy được yếu tố truyền thống trong thời hiện đại. Một
số thay đổi về nội dung và hình thức của tranh và quy trình làm tranh không làm
mất đi vẻ đẹp riêng của tranh Đông Hồ.
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI VÀ ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN
LÀNG TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ ĐẾN NĂM 2020
3.1 Thực trạng biến đổi của làng tranh dân gian Đông Hồ
3.1.1 Hoạt động sản xuất và tiêu thụ tranh dân gian Đông Hồ
3.1.1.1 Lao động và phân công lao động
*. Số lượng lao động
Trong các khâu đoạn của quá trình tạo ra sản phẩm tranh dân gian, có những
khâu có thể huy động được lao động của nhiều thành viên trong gia đình, cả nam cả
nữ, từ trẻ em 12, 13 tuổi đến những người tuổi cao. Đặc thù của nghề làm tranh dân
gian Đông Hồ là nghề thủ công truyền thống có yếu tố nghệ thuật cao, nên về tuổi lao
động không giới hạn, bởi sự đam mê với nghề và khả năng đặc biệt, nên có nghệ
nhân trên 70 hay đến 80 tuổi vẫn tham gia làm tranh. Mỗi người tùy vào sức khỏe và
khả năng chuyên môn của mình mà tham gia vào các khâu của quy trình sản xuất.
Nghề làm tranh dân gian ở Đông Hồ tỷ lệ lao động giữa nam và nữa khá cân bằng
nhau, không chênh lệch nhiều. Tuy nhiên, các nghệ nhân làng tranh dân gian Đông
Hồ chỉ có nam nghệ nhân, không có nữ nghệ nhân.
*. Chất lượng lao động
Làng tranh Đông Hồ có nhiều nghệ nhân giỏi, nổi tiếng từ xưa đến nay, dù hiện
nay một số không còn nữa, nhưng các nghệ nhân vẫn được nhiều người biết đến như:
nghệ nhân Nguyễn Đăng Khiêm, Nguyễn Đăng Sần, họa sĩ Nguyễn Đăng Dũng,
nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế, nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam, nghệ nhân Nguyễn Hữu
Quả, nghệ nhân Trần Nhật Tấn, nghệ nhân Vương Chí Long, Vương Chí Lượng,
nghệ nhân Nguyễn Thế Lãm, Nguyễn Thế Giác,..
Hiện nay, cả làng Đông Hồ chỉ còn hai gia đình nghệ nhân lâu đời vẫn duy trì
công nghệ khắc ván, in tranh. Trong đó có 2 nghệ nhân có tay nghề cao, là nghệ nhân
Nguyễn Đăng Chế- là đời thứ 7 của dòng học Nguyễn Đăng nổi tiếng của dòng tranh
20
Đông Hồ, và nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam, sinh ra và lớn lên trong gia đình có truyền
thống lâu đời làm tranh dân gian. Bằng tài năng và tâm huyết với nghề tranh truyền
thống, hai nghệ nhân đã vừa nghiên cứu, sưu tầm, phục chế, vừa sáng tác nhiều tranh
dân gian, góp phần vào công cuộc bảo tồn và giữ gìn nghề truyền thống của cha ông
ta.
*. Dạy nghề và đào tạo nghề
Hai gia đình Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế và nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam đều
truyền dạy trực tiếp cho các con cháu trong nhà học nghề, theo nghề. Nếu ai đi học, đi
làm công chức, không theo nghề truyền thống, thì các con cháu họ đều biết làm và tham
gia một khâu đoạn nào đó, tùy theo khả năng của mỗi người. Ngoài ra, nếu người nào
có nhu cầu học nghề, các nghệ nhân đều vui vẻ truyền dạy. Nghệ nhân Nguyễn Đăng
Chế cũng đã mở được hai khóa học cho những người yêu thích nghề tranh, chủ yếu là
các cháu thiếu niên, các bạn trẻ say mê.
*. Phân công lao động
Quá trình phân công lao động đi liền với quá trình đào tạo, dạy nghề và học
nghề, đó cũng chính là cách thức tổ chức nghề nghiệp của người làm chủ. Bởi, người
nghệ nhân là chủ doanh nghiệp hay chủ gia đình, vừa làm vừa phân công các việc
cần làm cho từng người ở từng khâu đoạn nhất định, đồng thời chỉ dạy cho người
mới học nghề đảm nhận vừa học vừa làm khâu đoạn đó. Đến khi người thợ có thể
thạo việc được thì cứ theo dây chuyền để sản xuất tranh.
3.1.1.2 Hình thức tổ chức sản xuất
Làng nghề tranh dân gian Đông Hồ hiện nay có 2 hình thức tổ chức sản xuất là:
doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình.
*. Doanh nghiệp tư nhân
*. Hộ gia đình
3.1.1.3 Sản phẩm và tiêu thụ sản phẩm
Theo nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam, trước đây tranh dân gian Đông Hồ có bốn
loại tranh chính gồm: tranh truyền thống vẽ bằng tay (tranh in nét và vẽ thủy mặc,
vờn màu), tranh vừa in vừa vẽ, tranh in bằng ván khắc gỗ, tranh khắc gỗ. Trong đó
thông dụng và phổ biến nhất là tranh đen trắng (tranh vẽ thủy mặc, vờn màu) và tranh
màu được in bằng bản khắc gỗ. Các loại sản phẩm tranh này hiện nay vẫn được duy
trì ở các gia đình làm tranh, đó là những đặc sản riêng của tranh dân gian Đông Hồ
đã nổi tiếng và hiện nay còn được phát huy. Đáng chú ý hiện nay là tranh dương bản,
tức tranh khắc gỗ được các du khách ưa chuộng và mua nhiều. Đồng thời, tranh in
màu, hay in đen trắng lồng trong khung kính cũng được đón nhận tích cực. Đó là sự
phát triển và tự thích nghi theo quy luật vận động tự nhiên trong quá trình phát triển
của làng tranh Đông Hồ.
3.1.2 Những biến đổi của tranh Đông Hồ
3.1.2.1 Thay đổi về hình thức nghệ thuật
Những biến đổi của tranh dân gian Đông Hồ ngày nay được các nhà nghiên cứu
và họa sĩ đánh giá là: “tranh Đông Hồ in ở thời điểm hiện tại thường không có màu
sắc thắm như tranh cổ, nguyên nhân là người ta trộn màu trắng vào điệp quét giấy để
21
bớt lượng điệp khiến giấy mất độ óng ánh và trở nên “thường”, màu sắc sử dụng
cũng chuyển sang loại màu công nghiệp, các bản khắc mởi có bản không được tinh tế
như bản cổ” [theo - Tranh Đông Hồ].
Theo nghệ nhân Nguyễn Hữu Quả (người con thứ hai của nghệ nhân Nguyễn
Hữu Sam ở Đông Hồ đã và đang kế thừa sự nghiệp làm tranh dân gian của cha ông),
về chất liệu giấy không có sự thay đổi nhiều. Màu tranh cũng thế, vẫn tôn trọng màu
sắc truyền thống. Độ tinh xảo của bản khắc gỗ cũng không thay đổi nhiều so với
trước. Gia đình nghệ nhân Quả hiện giờ vẫn giữ gìn và phát huy tất cả quy trình làm
tranh truyền thống. Chú coi trọng chất lượng tranh hơn là làm theo số lượng. Bản
thân chú cũng xác định là làm tranh cũng là làm nghề truyền thống của ông cha, mình
phải có trách nhiệm, có tâm với nghề.
3.1.2.2 Thay đổi về nội dung
Về nội dung tranh dân gian Đông Hồ, gần như có sự gần gũi nhất định giữa nội
dung tranh khắc gỗ màu của Việt Nam với của Trung Quốc. Có những tranh mà cả
hai nước đều có, song tranh Đông Hồ đã phát triển thành một xu hướng riêng, tồn tại
nhiều thế kỷ và được thừa nhận như dòng tranh dân gian được biết đến nhiều nhất ở
Việt Nam.
Trở lại về hiện trạng của tranh Đông Hồ hiện nay, với xu hướng thay đổi về nội
dung thì nghệ nhân Nguyễn Hữu Quả khẳng định là nội dung cũng không khác nhiều,
có biến đổi, nhưng không nhiều và tùy thuộc vào mỗi bức tranh. Như tranh Tứ bình,
Tứ quý về cơ bản các nghệ nhân vẫn tôn trọng các khuôn mẫu truyền thống, song có
thay đổi, cải biến một số họa tiết trang trí sao cho đỡ rườm rà, gợi cảm giác thanh
thoát. Tranh Tố nữ được cải biến về màu sắc, đường nét, kết hợp cả hai phong cách
tranh Đông Hồ và Hàng Trống. Nghệ nhân Trần Nhật Tấn trên cơ sở tranh Tố nữ
truyền thống đã sáng tác bộ tranh Tố nữ quan họ. Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế cải
biến tranh khắc gỗ dân gian (theo lối khắc in âm bản) thành tranh khắc gỗ (in khắc
dương bản) với hai màu đen, trắng. Nghệ nhân cho biết, có khá nhiều khách hàng
thích loại tranh này.
3.1.3 Thực trạng nghề làm hàng mã phát triển” phi mã”, nghề làm tranh tranh dân
gian Đông Hồ đang đứng trước nguy cơ bị mai một và thất truyền
Thực trạng của làng tranh bây giờ đang đứng trước nguy cơ mai một và thất
truyền. Nếu Nhà nước không đứng ra đầu tư và tiêu thụ thì cũng khó giúp làng nghề
phát triển trong tương lai. Có một thời Xuhasaba (Hà Nội) nhận đặt và xuất khẩu với
số lượng tranh lớn cũng làm nức lòng người dân nơi đây, mặc dù giá thành tranh
không đắt lắm. Nhu cầu vài năm gần đây thay đổi, cứ mạnh ai nấy làm. Người làng
tranh bây giờ nảy sinh tâm lý ai đặt thì làm, nhiều khi với số lượng tranh quá ít cũng
không muốn làm. Thi thoảng lắm cũng có nơi về làng tranh đặt vài nghìn tờ, không
sản xuất được thường xuyên nên cũng khó tổ chức sản xuất tranh được đều đặn trong
năm, ảnh hưởng đến thu nhập của người làm tranh.
Hiện nay ở Đông Hồ có hơn 240 hộ và hầu như tất cả các gia đình đều làm
hàng mã. Theo tác giả Nguyễn Văn Hậu [23; tr 23], ngoài hai gia đình làm tranh,
hiện làng Đông Hồ có tới hơn 220 hộ làm hàng mã quanh năm. Mỗi nhà chỉ làm một
22
vài mẫu nhất định nếu thấy làm tốt nhất. Cho nên, có nhà trải hình nhân thế mạng
khắp nơi, có gia đình lại giống như xưởng xe máy, xưởng ô tô địa phủ, Những ngày
giáp Tết, làng Đông Hồ rất đông khách đến, tuy nhiên phần lớn là để buôn bán hàng
mã. Trên khắp đường làng, ngõ xã nơi nào cũng bày la liệt đủ loại giấy màu dùng để
làm mã. Từng chuyến xe nối đuôi nhau, chở hình nhân, quần áo, giày dép, mũ mão,
nhà lầu, tủ lạnh, ti vi, xe hơi, xe máy. ùn ùn đổ về Hà Nội và các tỉnh xa. Quanh
làng khắp nơi xuất hiện những dòng chữ như: “Tại đây chuyên làm ô tô, xe máy
đẹp”, hoặc Nhận làm vàng mã,.Những tấm biển quảng cáo to đẹp treo khắp làng
tranh Đông Hồ đang khiến người ta quên dần đi một dòng tranh dân gian nổi tiếng
của vùng Kinh Bắc. Nó đang từng ngày, từng giờ thoi thóp chờ chết.
Về lý do tại sao hiện nay cả làng Đông Hồ chỉ còn có hai hộ gia đình tiếp tục
giữ nghề làm tranh, các hộ khác đều chuyển sang làm đồ hàng mã, ông Chế giải thích
là do yếu tố tâm linh phát triển, tập tục đốt vàng mã quay trở lại, khi xã hội có cầu thì
phải có cung. Việc cả làng Đông Hồ bỏ nghề làm tranh để chuyển qua nghề làm mã
là điều tất yếu. Nhiều gia đình đã giàu lên nhờ nghề làm vàng mã, khi có tiền họ lại
chuyển sang buôn đất lại càng giàu có. Từ khi có sự phát triển nghề vàng mã và nhờ
buôn bất động sản thì cả làng Đông Hồ không còn có hộ nghèo nữa, nhiều nhà có ô
tô, xe máy đắt tiền. Do đó, nghề làm tranh ngày càng bị mai một, ít người làm vì
không có ai muốn quay về nghề cũ [23; tr 22]. Ông bảo dân làng Đông Hồ hiện nay
mải lao vào làm kinh tế để làm giàu cho nhanh, phù hợp với thời buổi kinh tế thị
trường, nên nhà nhà làm mã, người người làm mã không còn ai thiết tha làm tranh
nữa [23; tr 23].
3.1.4 Thực trạng môi trường sống bị ảnh hưởng từ nghề nghiệp
Theo Báo cáo hiện trạng môi trường xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh, tháng 11/2010 của Ủy Ban nhân dân huyện Thuận Thành, Phòng Tài nguyên
và môi trường thì hiện nay, công nghiệp chưa phát triển tại xã Song Hồ, trên địa bàn
xã hiện không có các công ty, nhà máy sản xuất công nghiệp, toàn bộ quá trình sản
xuất hàng hóa của xã còn mang tính nhỏ lẻ, không tập trung. Do vậy, những tác động
ảnh hưởng do hoạt động công nghiệp tại xã Song Hồ là chưa xuất hiện. Tuy nhiên, do
là một làng nghề truyền thống nên hoạt động tiểu thủ công nghiệp của xã Song Hồ
phát triển khá đa dạng. Hiện nay số hộ gia đình trong xã còn duy trì nghề làm tranh
Đông Hồ truyền thống còn rất ít, hầu hết các hộ gia đình trong xã đã chuyển từ làm
tranh trên giấy dó sang làm hàng mã. Theo số liệu thống kê, trong xã hiện chỉ còn 2-
3 hộ gia đình duy trì nghề làm tranh.Việc chuyển đổi mặt hàng sản xuất để đáp ứng
nhu cầu thị trường đã diễn ra mạnh mẽ tại xã Song Hồ trong khoảng 2- 3 thập kỷ gần
đây. Trên cơ sở kỹ thuật của nghề truyền thống, bà con đã chuyển đổi sang làm các
mặt hàng được thị trường chấp nhận nhiều hơn [61; tr 15].
Với đặc điểm, tính chất của các sản phẩm hàng mã có sự khác biệt lớn so với
các sản phẩm tranh Đông Hồ nên các loại nguyên liệu, hóa chất đầu vào được sử
dụng trong sản xuất và các loại chất thải phát sinh cũng rất khác biệt. Sự thay đổi này
đã tạo ra những tác động, ảnh hưởng mới đến môi trường sinh thái của xã Song Hồ.
23
Nước thải từ quá trình sản xuất vàng mã, theo đánh giá của Phòng Tài nguyên
và Môi trường (huyện Thuận Thành), đây là loại nước thải sản xuất chính của xã
Song Hồ hiện nay. Nguồn thải này hiện nay được xác định có tải lượng không lớn,
tuy nhiên đây là loại nước thải có chứa các hóa chất được sử dụng để vẽ, tạo hình
vàng mã nên mặc dù tải lượng không lớn song hàm lượng hóa chất dư từ quá trình
sản xuất là rất lớn. Đây được xác định là nguồn có khả năng gây ô nhiễm kim loại và
kim loại nặng cho các thủy vực tiếp nhận tại xã Song Hồ hiện nay [61; tr 29].
3.1.5 Thực trạng khai thác du lịch tại làng nghề Đông Hồ
Song Hồ nói chung và Đông Hồ nói riêng nổi tiếng từ nhiều thế kỷ nay với
nghề làm tranh Đông Hồ. Mặc dù hiện nay số lượng gia đình làm nghề trong xã
không còn nhiều, song hàng năm lượng khách du lịch đến thăm làng vẫn khá đông,
trong đó có nhiều khách du lịch nước ngoài. Theo ước tính, trung bình mỗi năm có
khoảng 1200 lượt khách du lịch đến thăm quan, trong đó có khoảng 12,5% là khách
du lịch nước ngoài [61; tr 23].
Như vậy, Đông Hồ rất có tiềm năng để phát triển du lịch cộng đồng nhưng thực
trạng trên cho thấy nơi đây khai thác tiềm năng này rất yếu kém. Khai thác du lịch
yếu kém còn được thể hiện ở chỗ không thể huy động đa số người dân vào phát triển
du lịch làng nghề, không quy hoạch được làng Đông Hồ thành làng du lịch. Tuy làng
có truyền thống, có điều kiện phát triển du lịch cộng đồng nhưng 90% dân số trong
cộng đồng không khai thác du lịch, và tất nhiên rằng chỉ có 10% dân cư địa phương
được hưởng lợi do du lịch đem lại.
3.2 Một số giải pháp, kiến nghị để bảo tồn và phát triển làng tranh dân gian
Đông Hồ đến năm 2020
3.2.1 Phát triển mô hình du lịch cộng đồng tại làng tranh Đông Hồ
Từ những thực trạng phát triển du lịch làng nghề Đông Hồ đã nêu ở mục
3.1.5, tình hình khai thác du lịch làng nghề vẫn chưa khả quan. Vậy làm thế nào để
đẩy mạnh phát triển du lịch cộng đồng tại làng nghề? Sau đây, chúng tôi sẽ chỉ ra
một số nhóm giải pháp để góp phần cho sự phát triển du lịch cộng đồng làng nghề
Đông Hồ như sau :
* Về phía Nhà nước và chính quyền địa phương:
Thứ nhất, Nhà nước và chính quyền xã cần giúp đỡ về vật chất và tinh thần để
Câu lạc bộ làng nghề truyền thống tranh dân gian hoạt động tốt. Câu lạc bộ sẽ chú
trọng việc đào tạo nghề, trao truyền kỹ thuật, bí quyết nghề cho các thế hệ sau. Đồng
thời nghệ nhân cũng là những người giáo dục thế hệ trẻ lòng yêu quê hương và niềm
tự hào với nghề truyền thống.
Thứ hai, chính quyền xã Song Hồ và thôn Đông Khê cần hỗ trợ xây dựng một
ngôi nhà truyền thống trong đó trưng bày các sản phẩm độc đáo của làng. Đó là tranh
dân gian, đồ chơi trung thu, đồ hàng mã trong ngày lễ hội, hoa giấy, thảm, rèm
cửa,.... Chúng là những sản phẩm thực tế của làng. Nếu xây được một gian nhà
truyền thống đó, cũng thật đáng trân trọng để quảng bá, giới thiệu và tôn vinh những
giá trị văn hóa truyền thống của làng Đông Hồ.
24
Thứ ba, chính quyền thôn Đông Khê, chính quyền xã Song Hồ cùng với nhân
dân làng Đông Hồ cần khôi phục lại chợ tranh Tết như trước đây ở đình làng nhằm
khôi phục lại phong tục chơi tranh Tết của người Việt Nam. Đây cũng là mong mỏi
của những nghệ nhân làm tranh Đông Hồ hiện nay nói riêng và người dân làng Hồ
nói chung. Bởi hiện nay, khách mua tranh không chỉ có người Việt Nam mà còn có
nhiều khách nước ngoài đến tham quan và mua tranh.
Thứ tư, chính quyền từ tỉnh đến huyện, xã và thôn cần xem xét, quy hoạch lại
làng tranh Đông Hồ trở thành một điểm du lịch cộng đồng thực sự.
* Về phía nhân dân làng Đông Hồ:
Cộng đồng dân cư cùng tham gia vào làm du lịch. Hay nói cách khác, chính là
nông dân cần học cách làm du lịch một cách thực sự khoa học và có tri thức. Đây có
lẽ là một thách thức và là một khó khăn lớn nhất trong kế hoạch phát triển du lịch
cộng đồng tại Đông Hồ. Đa số người dân sẽ không dễ dàng từ bỏ nghề vàng mã - một
nghề mới, đã cứu sống họ khi gặp khó khăn và đang đem lại lợi nhuận cao cho họ
trong hiện tại, họ sẽ không dễ dàng tin tưởng rằng nghề làm tranh sẽ đảm bảo cho
cuộc sống của họ. Chính vì thế chúng ta cần phải có những giải pháp thức thời như
sau :
- Kêu gọi những người dân đang gặp khó khăn về kinh tế, khuyến khích họ
quay lại nghề làm tranh, tạo công ăn việc làm, đảm bảo lợi ích cho họ.
- Các nghệ nhân có tuổi, có địa vị trong làng (như nghệ nhân Nguyễn Đăng
Chế, nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam,....) kết hợp với chính quyền xã, các cán bộ cấp
tỉnh, huyện đến từng nhà để động viên người dân quay lại với nghề truyền thống. Đặc
biệt quan tâm đến những người già trong làng đã bỏ nghề tranh theo nghề vàng mã,
tạo ra môi trường nghề nghiệp truyền thống tốt để khôi phục và phát triển.
- Tổ chức nhiều buổi họp làng, trong đó mời thêm cả những chuyên gia về phát
triển du lịch cộng đồng, bảo tồn di sản văn hóa đến nói chuyện nhằm nâng cao nhận
thức của người dân, cho họ thấy rõ vai trò của du lịch cộng đồng, tầm quan trọng của
việc bảo tồn di sản văn hóa, lợi ích của người dân khi tham gia phát triển du lịch tại
địa phương.
- Để kêu gọi được người dân quay trở lại nghề truyền thống cần phải đặc biệt
chú trọng đến việc tìm kiếm đầu ra cho sản phẩm, đảm bảo lợi ích cho người dân.
* Gợi ý về xây dựng tour đến làng tranh Đông Hồ :
Đông Hồ chỉ là một điểm tham quan trong ngày, cho nên chúng ta có thể kết
hợp tham quan làng tranh Đông Hồ với các địa danh du lịch lân cận. Sau đây chúng
tôi sẽ xây dựng các tour trong một và nhiều ngày :
Tour thứ nhất : Hà Nội – Bát Tràng – Chùa Dâu – Đông Hồ - Đồng Kỵ (tour
du lịch trong ngày đi bằng ô tô) :
Tour thứ hai: Hà Nội – chùa Phật Tích – Làng tranh Đông Hồ - Vịnh Hạ
Long (tour đi nhiều ngày) :
25
3.2.2 Giải pháp tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức trong cộng đồng, nhất
là thế hệ trẻ về giá trị văn hóa làng nghề truyền thống của dân tộc
Để nâng cao trình độ quản lý và tăng nhanh số lượng, trình độ tay nghề cho
người lao động, đáp ứng yêu cầu mở rộng sản xuất ở làng nghề cần phải có giải pháp
mang tính hệ thống và đồng bộ theo các hướng sau :
- Nâng cao trình độ dân trí và học vấn cho người lao động trong làng nghề.
- Một trong những tác nhân để các sản phẩm thủ công trở thành món ăn tinh
thần độc đáo của người Việt Nam là công tác giáo dục thẩm mỹ trong nhà trường
phải được coi trọng.
- Kết hợp chặt chẽ với các địa phương thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng kiến
thức về quản lý, kiến thức kinh tế thị trường cho đội ngũ cán bộ trong làng nghề.
- Có kế hoạch tuyển chọn, bồi dưỡng đội ngũ thuyết minh viên du lịch từ những
nghệ nhân hay các thợ nghề tại làng tranh.
- Một cách khác để nâng cao nhận thức của người dân là tích cực tuyên truyền
về giá trị truyền thống tranh dân gian Đông Hồ như một di sản văn hóa phi vật thể
cần bảo vệ khẩn cấp. Nếu có điều kiện, xây dựng nhiều cuốn phim truyền hình giới
thiệu cho đông đảo quần chúng nhân dân.
Như vậy, việc tuyên truyền giới thiệu về làng tranh dân gian Đông Hồ ngày
càng phát triển với nhiều hình thức và chất lượng cao hơn, các hình thức tuyên truyền
sẽ phong phú hơn, đạt hiệu quả cao hơn nếu được các cấp lãnh đạo quan tâm và các
nhà khoa học quan tâm hơn, dành nhiều thời gian hơn cho làng nghề tranh và nghề
mã Đông Hồ.
3.2.3 Nhóm giải pháp cho nghệ nhân và đào tạo họa sĩ, chuyên gia trong lĩnh vực
vẽ tranh, thẩm định và quảng bá tranh Đông Hồ
3.2.3.1 Giải pháp cho nghệ nhân tranh dân gian Đông Hồ
Để bảo tồn và phát triển nghề và làng nghề truyền thống, một mặt phải phát
động phong trào phục hưng nghề truyền thống ở các địa phương, mặt khác, phải xem
xét, suy tôn những danh hiệu nghề nghiệp cho nghệ nhân và dòng họ, coi đây là niềm
vinh dự, tự hào về nghề nghiệp của gia đình, dòng họ.
Cần khẩn trương nghiên cứu và đưa ra tiêu chuẩn để phong tặng danh hiệu
cho các nghệ nhân, làm cho họ say mê với nghề nghiệp và đem hết nhiệt tình truyền
nghề cho lớp trẻ.
Các nghệ nhân Đông Hồ cần nghiên cứu, tìm tòi, thử nghiệm những chất liệu
làm tranh xưa kia để trả lại nguyên vẹn vẻ đẹp và giá trị của tranh dân gian truyền
thống, cần phải coi chất lượng tranh là vấn đề sống còn của một làng nghề.
Nghệ nhân là người nắm giữ kỹ thuật truyền thống và là hạt nhân của làng
nghề. Nhà nước và chính quyền địa phương cần thực sự quý trọng nghệ nhân, đồng
thời có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với họ, giúp các nghệ nhân có điều kiện làm
nghề và truyền nghề ngay trên làng quê mình.
Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng những nghệ nhân giỏi trong làng, khuyến khích
các nghệ nhân tìm tòi, sáng tạo nhằm đem lại luồng gió mới cho tranh. Hàng năm tổ
26
chức thi nghệ nhân giỏi để tôn vinh các nghệ nhân đồng thời tạo môi trường hấp dẫn
thu hút khách du lịch.
3.2.3.2 Giải pháp trong việc đào tạo họa sĩ, chuyên gia trong lĩnh vực vẽ tranh, thẩm
định và quảng bá tranh Đông Hồ
Song song với việc khôi phục và duy trì các bức tranh cổ “đích thực”, các
nghệ nhân cần phối hợp với các họa sĩ được đào tạo từ các trường mỹ thuật sáng tác
những mẫu mới, đáp ứng thị hiếu của người dân hiện nay. Một trong những điều
nghịch lý lâu nay chúng ta vẫn chưa khắc phục được là nghệ nhân có kinh nghiệm, có
tay nghề, có tài khéo thì ít có khả năng sáng tác mẫu, ngược lại, các họa sĩ có khả
năng sáng tác mẫu thì không có tay nghề. Như vậy, sẽ rất dễ dẫn đến tình trạng thất
truyền hoặc trì trệ của một số làng nghề do thiếu đổi mới trong sáng tạo và thay đổi
sản phẩm, mà cái khó của làng nghề ở đây là không thể kết hợp được giữa họa sĩ và
nghệ nhân trong việc cho ra sản phẩm chung.
Trước mắt, làng nghề Đông Hồ cũng cần duy trì hoạt động đào tạo tay nghề cho
người lao động. Để khuyến khích hơn nữa loại hình đào tạo này, phải có chính sách
không thu thuế trực tiếp đối với họ. Động viên các nghệ nhân dạy nghề và truyền bí
quyết nghề nghiệp cho thế hệ sau.
Xây dựng chương trình đào tạo lại những người dân không còn nhớ quy trình
và cách thức làm tranh.
- Cải tiến chương trình và tổ chức lại hệ thống các trường dạy nghề. Ngoài các
tổ chức, các trung tâm dạy nghề, cần có cơ sở đào tạo dành riêng cho làng tranh
Đông Hồ. Thông qua cơ sở này, Nhà nước có sự hỗ trợ về đội ngũ cán bộ giảng dạy
và nội dung chương trình. Kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành, giữa truyền
nghề trực tiếp với đào tạo cơ bản. Có kế hoạch cụ thể cùng với chính quyền địa
phương và ngành giáo dục các cấp, đưa chương trình hướng nghiệp vào các trường
phổ thông ở làng nghề. Đối với con em thuộc diện gia đình chính sách, nên có hình
thức dạy nghề miễn phí và hỗ trợ một phần học bổng để các em yên tâm học tập.
3.2.4 Nhóm giải pháp quảng bá tranh Đông Hồ ở trong và ngoài nước
3.2.4.1Tăng cường quảng bá hình ảnh tranh dân gian Đông Hồ và hình ảnh của làng
tranh đến với bạn bè trong và ngoài nước
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng bá, thu hút khách qua đó, giúp các làng
nghề tiêu thụ sản phẩm, duy trì sản xuất. Xây dựng và đưa các thông tin liên quan
đến làng nghề như quá trình sản xuất, lịch sử phát triển, các truyền thuyết (nếu có),
hình ảnh tranh Đông Hồ, ý nghĩa mỗi bức tranh lên website của ngành, địa phương
và Internet.
Xuất bản các ấn phẩm chuyên về làng tranh và phân phát trong các hội chợ, hội
thảo, phòng thông tin du lịch ở sân bay, nhà ga, khách sạnTổ chức đoàn khảo sát
giới thiệu sản phẩm cho các công ty lữ hành quốc tế và lữ hành nội địa. Tăng cường
quảng bá du lịch làng tranh Đông Hồ trên các báo, tạp chí, truyền hình trong và ngoài
tỉnh để thu hút khách du lịch trong nước.
Đẩy mạnh hợp tác với các tỉnh, thành phố lân cận để đa dạng hóa lịch trình
điểm đến của tour. Phối hợp những điểm du lịch làng nghề Bắc Ninh với những điểm
27
du lịch văn hóa, lịch sử, lễ hội của tỉnh và của Hà Nội, du lịch biển Hải Phòng,
Quảng Ninh để tạo ra những tour du lịch hấp dẫn, thu hút khách du lịch. Qua đó có
thể quảng bá hình ảnh của làng tranh Đông Hồ tới khách du lịch.
Tích cực đưa tranh Đông Hồ đến các điểm hội chợ hay các cuộc triển lãm trong
và ngoài nước, tại các điểm này cần phải có các nghệ nhân giới thiệu về công đoạn
làm tranh cũng như ý nghĩa mỗi bức tranh.
Một điểm quan trọng khi đến các làng nghề, khách tham quan thường có thói
quen mua các sản vật của địa phương làm kỷ niệm, chính điều đó đã góp phần quan
trọng trong việc quảng bá sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ, thu hút khách du
lịch cho các làng nghề.
3.2.4.2 Hợp tác quốc tế về nhiều mặt
Giải pháp này thể hiện đúng chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng và
Nhà nước ta trong thời kỳ mới. Hợp tác quốc tế cần được thực hiện ở hai mặt: Một
mặt, tăng cường hội nhập quốc tế, tiếp thu công nghệ tiên tiến, tranh thủ nguồn vốn
tài trợ cho các dự án bảo tồn, phát huy di sản tranh dân gian Đông Hồ; mặt khác,
nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tuyên truyền, giới thiệu giá trị của tranh
khắc gỗ dân gian Việt Nam qua các thời kỳ làm cho bạn bè quốc tế hiểu đúng về
truyền thống yêu nước, đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam, cùng với những
giá trị tư tưởng, thẩm mỹ trong sáng tạo nghệ thuật của Đông Hồ. Đó cũng là con
đường thích hợp nhất để thu hút khách du lịch đến thăm Đông Hồ, góp phần phát
triển kinh tế- xã hội toàn tỉnh Bắc Ninh nói chung và ngành du lịch nói riêng.
3.2.4.3 Mở rộng và phát triển đồng bộ các loại thị trường cho làng nghề Đông Hồ
Để tạo lập thị trường tốt cho làng nghề nói chung và Đông Hồ nói riêng, trước
hết, Nhà nước cần:
Một là, tạo điều kiện và giúp đỡ làng nghề tái chinh phục thị trường Đông Âu
và Nga, vì đây là thị trường xuất khẩu quen thuộc trước đây.
Hai là, cung cấp thông tin về thị trường, giá cả cho làng nghề; tạo mọi điều kiện
cho làng nghề nâng cao sức mạnh cạnh tranh để hòa nhập vào thị trường khu vực và
thị trường quốc tế nhằm mở rộng phạm vi trao đổi tiêu thụ sản phẩm.
Ba là, khuyến khích và tạo điều kiện cho làng nghề phát triển về mẫu mã, kiểu
cách của sản phẩm.
Bốn là, có kế hoạch bố trí sử dụng làng nghề làm gia công cho các doanh
nghiệp ở đô thị và khu công nghiệp tập trung.
Năm là, thực hiện một cách nghiêm túc việc kiểm tra, kiểm soát để hạn chế việc
kinh doanh hàng giả, hàng trốn lậu thuế. Tăng cường vai trò quản lý vĩ mô của Nhà
nước, kết hợp khéo léo giữa lý thuyết “bàn tay vô hình” và “bàn tay hữu hình” trong
sự điều tiết hoạt động của trị trường.
Sáu là, xây dựng và khuyến khích phát triển hệ thống chợ làng trong làng nghề
nhằm thúc đẩy lưu thông hàng hóa.
Những hạn chế lớn về thị trường, đặc biệt là thị trường tiêu thụ sản phẩm, đang
là nguyên nhân làm chậm tốc độ phát triển của làng nghề truyền thống. Do vậy, để
28
phát triển làng nghề, trước hết cần xây dựng một hệ thống thị trường đồng bộ và
thống nhất, tạo điều kiện phát huy sức mạnh tổng hợp của thị trường trong vùng và
cả nước; đó là thị trường sản phẩm, thị trường vốn, thị trường công nghệ, thị trường
xuất khẩu và thị trường du lịch.
3.2.5 Giải pháp tạo vốn và xuất khẩu tranh cho Trung tâm giao lưu văn hóa dân
gian tranh Đông Hồ và làng tranh Đông Hồ
Vốn là yếu tố cực kỳ quan trọng và không thể thiếu được trong quá trình sản
xuất ở làng nghề nói chung. Hiện nay, nguồn vốn đầu tư vào sản xuất ở làng nghề
Đông Hồ cũng như Trung tâm giao lưu văn hóa tranh dân gian Đông Hồ còn thấp,
chủ yếu là vốn tự có. Vậy, trước mắt cần đảm bảo cung cấp vốn cho làng nghề Đông
Hồ, tạo lập môi trường kinh tế ổn định và có chính sách tăng tích lũy để đầu tư phát
triển làng nghề. Mở rộng và phát triển hệ thống ngân hàng phục vụ làng nghề, cho
làng nghề vay vốn với lãi suất ưu đãi. Ngoài hệ thống ngân hàng, nên phát triển lành
mạnh quỹ tín dụng nhân dân, công ty tài chính tư nhân. Nhà nước phải có chính sách
bảo hộ quyền lợi của người cho vay và người đi vay. Khai thác triệt để các khoản vốn
hỗ trợ từ bên ngoài thông qua các chương trình, dự án doanh nghiệp vừa và nhỏ trong
làng nghề. Nghiên cứu sửa đổi quy định thế chấp khi vay vốn cho sát với từng loại
hình doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, hộ kinh doanh trong làng nghề.
Trong tất cả các giải pháp đưa ra thì điều quan trọng nhất, có khả năng quyết
định nhất vẫn là ở chính người dân Đông Hồ. Nội lực cũng như khả năng đứng vững
trên đôi chân của người Đông Hồ sẽ quyết định sự khởi sắc của làng tranh trong
tương lai không xa.
Tiểu kết chƣơng 3 :
Thực trạng tranh dân gian đang đứng trước nguy cơ mai một và thất truyền
là một tiếng kêu cứu của một làng nghề truyền thống. Nguyên nhân có nhiều,
nhưng thực tế đang diễn ra tình trạng nghề làm mã phát triển nhanh chóng những
năm gần đây, vì những lợi ích trước mắt mà người dân làng Đông Hồ đang quay
lưng với nghề tranh. Song một điều thấy rất rõ là nghề làm tranh dân gian là yếu tố
tạo nên thương hiệu cho làng nghề Đông Hồ từ trước tới nay. Vì vậy, để phát triển
bền vững làng nghề trong tương lai thì cần vực dậy thực trạng mai một của nghề
tranh, trước tiên là đi lên từ phát triển du lịch làng nghề. Du lịch làng nghề được
phục dựng thì đó là một bước đệm thành công cho những hoạt động tiếp theo của
nghề làm tranh dân gian.
KẾT LUẬN
Làng nghề tranh dân gian Đông Hồ nổi tiếng vùng Kinh Bắc, là một trong
những trung tâm sản xuất tranh dân gian và hàng mã lớn nhất của Việt Nam. Nằm
trên huyết mạch giao thông khá thuận lợi, vị trí của làng Đông Hồ là một lợi thế cho
giao lưu và phát triển kinh tế xã hội. Nghề làm tranh dân gian ở Đông Hồ đã trải qua
quá trình thăng trầm cùng với sự biến thiên lịch sử của làng. Những bức tranh dân
gian còn lại đến nay trở thành nguồn tài sản quý giá của dân tộc. Đó là hiện thực đời
sống sinh động được phản ảnh qua tranh dân gian, những sinh hoạt, quan niệm và
ước mơ của người Việt.
29
Tranh dân gian Đông Hồ mang nhiều đặc trưng của ngôn ngữ tạo hình, được
xếp vào dòng nghệ thuật đồ họa, một loại hình ra đời sớm trong lịch sử mỹ thuật Việt
Nam. Về nội dung, tranh Đông Hồ đa dạng về thể loại, đề tài. Đó là tranh thờ, tranh
chúc tụng, tranh lịch sử, tranh sinh hoạt, tranh đả kích, châm biếm, tranh tuyên truyền
cổ động,. Mỗi loại tranh có nội dung và cách thức biểu đạt khác nhau, song nó là
tấm gương phản ánh một cách trung thực nhất, biểu hiện cốt cách tình cảm và con
người Việt Nam. Về hình thức nghệ thuật, nét nổi bật của dòng tranh Đông Hồ là
phương pháp in tranh bằng cả ván in nét và ván in màu. Tranh Đông Hồ in nét và in
màu đều in úp ván theo kiểu đóng dấu trên giấy dó quét nền điệp. Màu dùng để in
tranh là những sản vật và nguyên liệu lấy từ tự nhiên được chế biến bằng kỹ thuật thủ
công, nghệ nhân làng Hồ gọi là màu thuốc cái, như lấy từ than lá tre, lá chàm, hoa
hòe, hoa hiên, son, điệp.Màu tự nhiên in tranh mềm, xốp, không bị phai màu. Cùng
với chất điệp óng ánh làm cho màu trong và sâu, khiến những mảng màu nguyên chất
trở thành màu độc đáo. Đường nét trong tranh Đông Hồ cũng to, đậm, đơn giản
nhưng cô đọng, chắc khỏe. Tranh dân gian trải qua những thăng trầm, tuy có một số
thay đổi nhất định về hình thức nghệ thuật, hay về nội dung, sản xuất và tiêu thụ,
nhưng nhìn chung thì những thay đổi đó là tích cực và là sự thích ứng trước thời đại
mới. Thay đổi đó không làm mất đi đặc trưng cơ bản của tranh dân gian Đông Hồ,
hơn thế còn khẳng định được những bước đi riêng của một làng tranh đang đứng
trước nguy cơ bị mai một và thất truyền. Thách thức với làng tranh Đông Hồ hiện
nay là rất lớn, tuy chỉ còn hai gia đình nghệ nhân còn gắn bó với nghề và quyết tâm
bảo tồn, phát triển nghề tranh này, nhưng những việc họ làm thật ý nghĩa và thật đáng
trân trọng. Về mặt ý nghĩa, tranh Đông Hồ vẫn luôn là sản phẩm tinh thần độc đáo
của văn hóa và nghệ thuật Việt Nam, là đối tượng quan tâm tìm hiểu của nhiều người
ở trong và ngoài nước.
Nhà nước và chính quyền địa phương cùng với các ban ngành cần quan tâm
hơn nữa tới sự phát triển của làng tranh, coi đó là tiềm năng phát triển kinh tế, văn
hóa của đất nước. Nhà nước, chính quyền địa phương cần có chính sách đãi ngộ thỏa
đáng với những người nghệ nhân giỏi của Đông Hồ. Họ là những người còn lại giữ
vững tâm huyết, hết lòng yêu nghề và có ý thức giữ gìn nghề truyền thống trên quê
hương mình. Để khắc phục những khó khăn về thị trường tiêu thụ, trước hết các nghệ
nhân cần khôi phục nguyên gốc dòng tranh dân gian truyền thống. Đồng thời, các
nghệ nhân cũng cần phối hợp với các họa sĩ chuyên nghiệp nhằm tạo ra những mẫu
tranh mới, đáp ứng thị hiếu của người chơi tranh hiện nay.
References.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A.A. Radugin (chủ biên) (2002), Từ điển bách khoa Văn hóa học, người dịch: Vũ
Đình Phòng, Viện nghiên cứu văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
2. Nguyễn Vũ Tuấn Anh (2002), Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam,
NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
30
3. Toan Ánh (2001), Tranh Tết, Xưa & nay, số 84- 85 tr 23-27
4. Huỳnh Công Bá (2007), Lịch sử văn hóa Việt Nam, NXB Thuận Hóa, Huế.
5. Bắc Ninh phong thổ tạp ký, Nguyên bản Hán- Nôm, Thư viện KHXH: A425, 2
tập
6. Ban Chấp hành Đảng bộ xã Song Hồ (2002)- Lịch sử truyền thống cách mạng xã
Song Hồ, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
7. Chương trình khoa học cấp Nhà nước KX.09, Nguyễn Chí Bền (chủ biên) (2010)
Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể Thăng Long- Hà Nội, NXB Hà
Nội.
8. Nguyễn Đăng Chế (2008), “Khai mạc hội thảo Bảo tồn và phát triển làng tranh
dân gian Đông Hồ”- Trích Hội thảo khoa học- Bảo tồn và phát triển làng tranh
dân gian Đông Hồ- Tài liệu lưu hành nội bộ.
9. Du Chi, Nguyễn Bá Vân (1978), “Làng Đông Hồ với nghề làm tranh dân gian”-
Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, tập II.
10. Nguyễn Đổng Chi (1971), “Một số cổ tục và trò chơi ngày Tết”, Tập san văn học
số xuân Tân Hợi- NXB Sài Gòn, tr 52-57
11. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội, tập 1.
12. Chu Quang Chứ (1974)- Tranh Đông Hồ- Hà Bắc ngàn năm văn hiến, tập 3, Kỷ
yếu Hội nghị truyền thống Đất nước con người, Ty Văn hoá xuất bản.
13. Tạ Doãn Cường (2010), Nghề chổi đót ở Phổ Phong, tạp chí Cẩm Thành, số
62.
14. Đỗ Quang Dũng (2005), Về xác định tiêu chí Làng nghề, Số 3. - Tr.46-49.- Tạp chí
Giáo dục lý luận.
15. Đại Việt sử ký toàn thư (2004), bản dịch, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, tập 1.
16. Bùi Xuân Đính (chủ biên), Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Dân tộc học
(2009), Làng nghề thủ công huyện Thanh Oai (Hà Nội)- truyền thống và biến đổi,
NXB Khoa học xã hội.
17. Đỗ Đức (2008), “Những đặc điểm làm nên vẻ đẹp của tranh Đông Hồ”- Trích Hội
thảo khoa học- Bảo tồn và phát triển làng tranh dân gian Đông Hồ- Tài liệu lưu
hành nội bộ.
18. Trần Văn Giáp (1971), Phong thổ Hà Bắc đời Lê (Kinh Bắc phong thổ kí diễn
quốc sự), Ty văn hóa Hà Bắc.
19. Henri Oger (tái bản 2009)- Technique du people annamite- Mechanics and Crafts
of the Annamites - Kỹ thuật của người An Nam, tập I, II, III, NXB Thế giới, Hà
Nội.
20. Vũ Thanh Hà (2006), Làng Nhị Khê với nghề tiện truyền thống, Luận văn Thạc sĩ
Văn hoá học, Đại học Văn hoá Hà Nội.
21. Lê Hải (2006), Môi trường làng nghề với việc phát triển du lịch bền vững / - Số 3.
- tr.51-52.- Du lịch Việt Nam
22. Đỗ Thị Hảo (1989), Quê gốm Bát Tràng, NXB Hà Nội.
31
23. Nguyễn Văn Hậu, Đời sống văn hóa ở làng tranh Đông Hồ qua góc nhìn nhân học
biểu tượng, Nghiên cứu văn hóa, số 5- tháng 6 – 201
24. Nguyễn Phi Hoanh (1984), Lịch sử mĩ thuật Việt Nam, NXB Tp. Hồ Chí Minh.
25. Lê Văn Hòe (1953), Lẽ sống của tranh gà, tranh lợn, Xuân Văn nghệ.
26. Mai Thế Hởn (chủ biên), GS.TS Hoàng Ngọc Hòa, PGS. TS Vũ Văn Phúc (2003),
Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa
(Sách tham khảo), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (1962), NXB Văn hóa, Hà Nội, tập
28. Nguyễn Lan Hương (2000), Làng nghề sơn quang Cát Đằng, Luận văn Thạc sĩ
Văn hoá dân gian, lưu tại Viện Nghiên cứu Văn hoá.
29. Vũ Ngọc Khánh (2010), Các ngành nghề Việt Nam.
30. Lam Khê, Khánh Minh (2010), 36 làng nghề Thăng Long - Hà Nội, NXB Thanh
Niên.
31. Nguyễn Thị Thái Lai (2001), Làng tranh Đông Hồ, Luận văn Thạc sĩ, chuyên
ngành văn hóa dân gian, Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian.
32. Huỳnh Phương Lan (2005), Làng Cự Đà, quá trình hình thành và phát triển, Luận
văn Thạc sĩ Sử học, lưu tại Thư viện khoa Lịch sử, Đại học KHXH- NV, Hà Nội.
33. Phan Ngọc Liên (ch.b) (2000), Từ điển phổ thông ngành nghề truyền thống Việt
Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
34. Trần Đình Luyện (2004), Bắc Ninh đất trăm nghề /. - Số 7. - Tr.78-81.- Di sản văn
hoá
35. Maurice Durand (1960), Tranh dân gian Việt Nam, Tư liệu Viện Mỹ thuật, D 145
CD.
36. Bùi Quang Nam (1960), Tranh khắc gỗ dân gian Trung Quốc, NXB Matxcova,
Người dịch: Nguyễn Quang Lan, Tư liệu Viện Mỹ Thuật, D9/cd79.
37. Lâm Bá Nam (1995), Nghề dệt cổ truyền ở đồng bằng Bắc Bộ, Luận án Phó
Tiến sĩ sử học, lưu tại Thư viện trường Đại học Khoa học xã hội- nhân văn, Hà
Nội.
38. Phạm Hoàng Ngân, Phát triển bền vững các làng nghề Đồng bằng Sông Hồng:
Thực trạng và Giải pháp, Hội thảo “Bảo tồn và Phát triển làng nghề”, tổ chức tại
Hà Nội, tháng 11/2006, www.saga.vn.
39. Nhiều tác giả (1982), Địa chí Hà Bắc, Ty văn hóa và thông tin Hà Bắc.
40. Đỗ Thị Tuyết Nhung (2004), Làng nghề chạm bạc Đồng Sâm ở Thái Bình, Luận
văn Thạc sĩ Văn hoá học, lưu tại khoa sau Đại học, trường Đại học Văn hoá Hà
Nội.
41. Philippe Le Failler (2001), Tranh dân gian Việt Nam, Tạp chí Xưa & Nay, 2001,
Số 84+85.
42. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cương mục,
NXB Giáo dục, Hà Nội, tập 1, tập 2.
43. Quốc sử quán triều Nguyễn (1992), Đại Nam nhất thống chí, bản dịch, NXB
Thuận Hoá, Huế, tập 3.
32
44. Rudolf Mayel, Hạnh phúc và thịnh vượng (Tranh tết ở làng Hồ), người dịch: Lê
Bạch Tuyết, Tư liệu Viện Mỹ thuật, D22/cd79.
45. Nguyễn Thị Sáu (2002), Làng thêu Quất Động, Luận văn Thạc sĩ Văn hoá học, lưu
tại khoa Sau Đại học, trường Đại học Văn hoá Hà Nội.
46. Sơ lược lịch sử dòng họ Nguyễn Đăng, thôn Đông Hồ, xã Song Hồ, huyện Thuận
Thành, tỉnh Hà Bắc, 1991.
47. Sở Khoa học công nghệ môi trường, Sở VHTT Hải Hưng, 1984, 1987, 1992, Nghề
cổ truyền, tập 1, 2, 3.
48. Nguyễn Thọ Sơn (2010), Nghệ nhân làng nghề Thăng Long Hà Nội.
49. Phạm Công Thành (1972), “Tinh thần khoa học trong tranh dân gian”, Mỹ thuật,
(13), tr 40.
50. Dương Thị The, Phạm Thị Thoa (1987), Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỉ XIX,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
51. Vũ Huy Thiều (1991), Những biến đổi của làng nghề truyền thống, Văn hóa dân
gian, (2), tr.59.
52. Thông tư số 116/2006/TT-BNN, ngày 18 tháng 12 năm 2006 “Hướng dẫn thực
hiện một số nội dung của Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 7/7/2006 của Chính
phủ về phát triển ngành nghề nông thôn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn”.
53. Nguyễn Thuần (2007), Ai về làng mái Đông Hồ- Nghiên cứu, tiểu luận, NXB Hội
Nhà văn, Hà Nội.
54. Phan Cẩm Thượng, Cung Khắc Lược, Lê Quốc Việt (2000), Đồ họa cổ Việt Nam,
NXB Mỹ thuật, Hà Nội.
55. Nguyễn Hữu Toàn (1995), Tranh Đông Hồ và đình “tranh”, Văn hóa nghệ thuật,
(số 7), tr 43-45.
56. Nguyễn Trãi (1976), Dư địa chí, Toàn tập, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
57. Nguyễn Trân (1968), “Bước đầu tìm hiểu ý nghĩa và nguồn gốc xuất hiện tranh
dân gian Việt Nam”, Mỹ thuật, (1).
58. Vũ Từ Trang (2007), Nghề cổ đất Việt, (khảo cứu), NXB Văn hóa - Thông tin.
59. Nguyễn Đăng Triện (2008), “Sơ lược lịch sử và quá trình phát triển dòng tranh
dân gian Đông Hồ và những đặc trưng cơ bản của dòng tranh này”- Trích Hội
thảo khoa học- Bảo tồn và phát triển làng tranh dân gian Đông Hồ- Tài liệu lưu
hành nội bộ.
60. Chu Quang Trứ (2000), Tìm hiểu các nghề thủ công điêu khắc cổ truyền, Nhà xuất
bản Mỹ thuật.
61. Ủy Ban nhân dân huyện Thuận Thành, Phòng Tài nguyên và môi trường- Báo cáo
hiện trạng môi trường xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, tháng
11/2010.
62. Quốc Văn tuyển chọn (2010), 36 nghệ nhân Hà Nội.
63. Nguyễn Bá Vân, Chu Quang Trứ (1984), Tranh dân gian Việt Nam, NXB Văn
hóa.
64. Đỗ Trọng Vĩ (1997), Bắc Ninh dư địa chí, NXB Văn hóa thông tin.
33
65. Viện Thông tin Khoa học xã hội (1995), Thần Tích- Thần Sắc làng Đông Hồ.
66. Bùi Văn Vượng (1998), Làng nghề thủ công truyền thống, NXB Văn hóa dân
tộc.
67. Bùi Văn Vượng (2000) Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam, NXB Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
68. Trần Quốc Vượng, Đỗ Thị Hảo (1996), Nghề thủ công truyền thống Việt Nam và
các vị tổ nghề, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
69. www.baobacninh.com.vn
70. www.google.com.vn
71. www.cinet.gov.vn
72. www.saga.vn
73. www.vca.org.vn
74. www. hiephoilangnghevietnam.apps.vn
75. www.tranhdongho.com.vn
76. www. vi.wikipedia.org
77. www.blogspot.com
78. www.36 phophuong.vn
79. www.tranhdongho.com.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lang_tranh_dan_gian_dong_ho_9702.pdf