Luận án Ảnh hưởng của internet với đời sống văn hóa của nhân dân Thủ đô Hà Nội

Hà Nội là địa bàn tập trung nhiều trí thức so với cả nước. Là trung tâm kinh tế -văn hóa - chính trị và sự tiếp cận các công nghệ tiên tiến thường đi trước các địa phương khác trong cả nước. Cũng chính do đặc điểm này mà việc xây dựng một môi trường văn hóa mạng điển hình ở Hà Nội để sau đó nhân rộng ra các địa phương khác có một ý nghĩa quan trọng. Ngành văn hóa cần kết hợp chặt chẽ với các ngành liên quan (Bưu điện, An ninh) để tổ chức, cung cấp, hướng dẫn và quản lý việc sử dụng và khai thác dịch vụ internet. Thường xuyên có sự kiểm tra, đánh giá để kịp thời định lượng, định tính những ảnh hưởng trực tiếp của internet đến đời sống văn hóa của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên. Các cấp các ngành có liên quan nên xây dựng những "Trung tâm internet cộng đồng" đảm bảo tiêu chuẩn để khuyến khích mọi người dân đều có cơ hội tiếp cận với internet. Những Trung tâm internet này có quy mô lớn, vừa và nhỏ tùy thuộc vào cấp quản lý trực tiếp.

pdf113 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4151 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Ảnh hưởng của internet với đời sống văn hóa của nhân dân Thủ đô Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
net đã có mặt trong từng ngõ nhỏ và đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu của đại bộ phận HSSV, các nhà quản lý, CBCNVC… internet đã và đang đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế đất nước. Bên cạnh những lợi ích kinh tế, internet đã ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống văn hóa của cư dân Thủ đô. Hàng loạt những thói quen dường như đang bị thay đổi. Sự thay đổi ấy biểu hiện ở cả hai mặt: Tích cực và tiêu cực. Tóm lại, con người của xã hội thông tin ngày nay ngày càng ít quan tâm đến những hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng ngoài trời, thời gian đến rạp chiếu bóng giảm hơn trước, việc thăm hỏi lẫn nhau, đọc sách, báo dường như cũng giảm đi từ khi có sự trợ giúp hữu hiệu của internet… Internet cho ta kho tàng kiến thức vô tận, cho ta cơ hội giao lưu với nhiều nền văn hóa ở các vùng miền khác nhau mà ở đó, không phải cái gì tốt với họ đã là tốt và phù hợp với ta, nghĩa là đòi hỏi một sự nhận thức đúng đắn, đứng trên quan điểm phát triển văn hóa của Đảng và nhà nước để có thể tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Cùng với cơ hội để hòa nhập thì đồng thời chúng ta đứng trước một thách thức mà internet mang lại đó là mặt trái, là mảng tối mà các cơ quan chức năng cần kiểm soát, hướng dẫn để mọi người có một bộ lọc tốt đối với internet. Họ trở thành những công dân tự do, tự giác, văn minh. Biết làm giàu mình một cách trí tuệ, thông minh, đồng thời cũng biết tự bảo vệ mình trước những ảnh hưởng của những thông tin độc hại trên mạng. Đó chính là biện chứng của cuộc sống, là sứ mệnh cao cả đầy vẻ vang và cũng đầy thách thức của chúng ta. Chương 3 dự báo xu hướng và một số giải pháp nhằm góp phần phát huy hiệu quả của việc sử dụng internet trong đời sống văn hóa của nhân dân Thủ đô Sau nghị định 55/2001/NĐ-CP của Chính phủ về việc "Quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ internet". Ngày 29/1/2004 Bộ Công an đã có quyết định số 71/2004/QĐ- BCA quy định về "Bảo đảm an toàn an ninh trong hoạt động quản lý cung cấp, sử dụng dịch vụ internet tại Việt Nam". Mới đây nhất, ngày 19/7/2004 Bộ Bưu chính - Viễn thông cũng vừa có chỉ thị về tăng cường công tác quản lý internet công cộng. Nhưng CNTT phát triển như vũ bão, bọn tin tặc ngày càng tinh vi, đã tạo điều kiện để cho hàng vạn biệt danh, trang web trong và ngoài nước hiện diện trên mạng, lôi kéo, kích động người sử dụng thực hiện những hành vi thiếu trung thực, ảnh hưởng đến đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị của xã hội. Chúng ta thừa nhận rằng: internet là sản phẩm văn minh của nhân loại, của nền kinh tế số hóa. Trên thực tế, mức sống thấp không cho phép đông đảo dân cư được tiếp xúc với internet, đồng nghĩa với việc dân trí thấp không đủ trình độ tiếp cận với nền văn minh nhân loại. Việt Nam - một nước đang phát triển (Developping countruy) lại đang được chính phủ đặc biệt quan tâm. Chủ trương "xã hội hóa internet đến từng người dân" là quyết định sáng suốt của chính phủ nhằm phát triển nhanh nền kinh tế đất nước, nhanh chóng thoát khỏi tình trạng tụt hậu do phải gánh quá nhiều hậu quả của chiến tranh. 3.1. Dự báo xu hướng và một số định hướng lớn về tình hình phát triển internet trong những năm tới 3.1.1. Trong những năm tới, internet nói riêng và CNTT nói chung sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ Được sự chỉ đạo và quyết tâm đưa internet tới tất cả các trường học và địa bàn trên cả nước, đến nay dự án "internet cộng đồng" đã hoàn thành về cơ bản. Internet đã có mặt tại hơn 800 trường ĐH, CĐ trường PTCS và các điểm Bưu điện văn hóa xã trên cả nước. Với tốc độ phát triển CNTT hiện nay cùng với sự đầu tư của Chính phủ, chắc chắn trong những năm tới sự đầu tư sẽ đầy đủ hơn, bài bản hơn. Internet sẽ đến với cộng đồng một cách hiệu quả hơn. Các thành phố lớn, đặc biệt là Thủ đô Hà Nội, tốc độ phát triển internet mạnh hơn, càng ngày càng có nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân thành lập trang web riêng. Các điểm truy cập internet công cộng phát triển mạnh và yếu tố cạnh tranh cũng tăng theo (xem ảnh phụ lục 4). Chắc chắn trong những năm tới tỷ lệ người sử dụng internet tại Việt Nam sẽ tăng ngang bằng một số nước trong khu vực. Chúng ta đang phấn đấu đến năm 2010 sẽ có 10% dân số Việt Nam được tiếp cận với internet. Hiện tại nếu chỉ tính riêng trên địa bàn thành phố Hà Nội, chúng ta đã đạt tỷ lệ này. Bằng với tỷ lệ trung bình của một số nước trong khu vực. Giáo sư Đặng Hữu nhận định: "Tôi cho rằng trong những năm tới, việc phổ cập CNTT sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn những năm trước rất nhiều. Đầu tư nước ngoài vào ngành này sẽ tăng vọt và chính phủ sẽ có những biện pháp về chính sách để CNTT chuyển biến một cách thực chất và mạnh mẽ hơn. Ngành công nghiệp phần mềm sẽ được quan tâm phát triển nhiều hơn nữa, một số doanh nghiệp phần mềm lớn đã tìm thấy hướng đi rõ ràng của mình chứ không còn "mò mẫm" như trước nữa. Do đó doanh thu gia công phần mềm sẽ tăng" [22]. 3.1.2. Internet sẽ ngày càng có vai trò to lớn hơn trong đời sống văn hóa của người dân Thủ đô Vừa qua, tập đoàn Viễn thông hàng đầu thế giới Intel đã cam kết hỗ trợ Việt Nam xây dựng nền công nghiệp máy tính thương hiệu Việt, hợp tác, phát triển công nghệ internet không dây, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực qua các chương trình giáo dục, hỗ trợ tối ưu hóa các ứng dụng phần mềm trên kiến trúc Intel và giúp Việt Nam sử dụng hiệu quả những công nghệ mới nhất. Ngoài ra, tập đoàn này sẽ nghiên cứu khả thi các dự án đầu tư trực tiếp có quy mô lớn tại Việt Nam. Hãng Microsoft đặc biệt chú trọng đến việc phát triển hệ thống đại lý, các nhà cung cấp giải pháp giá trị gia tăng trên nền tảng của Microsoft cho các doanh nghiệp lớn vừa và nhỏ ở Việt Nam. Ngoài ra, hãng này cũng đưa ra những chương trình hỗ trợ cho sinh viên, giáo viên CNTT và đưa CNTT vào các trường phổ thông hệ 12 năm … Chúng ta cũng biết rằng, trong những năm gần đây, đặc biệt là năm 2003 có thể nói là một năm hết sức quan trọng với những sự kiện đáng chú ý như: Hội nghị thượng đỉnh ASOCIO, tuần lễ tin học thứ 12, Hội chợ phần mềm Softmart… sẽ là cầu nối giúp thế giới có thể biết thêm về nền CNTT của Việt Nam. Đồng thời giúp Việt Nam tạo dựng mối quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới. Với tất cả những sự kiện về chính trị và hợp tác của Chính phủ cùng với một số nhận định của các nhà chuyên môn về CNTT. Chúng ta có cơ sở để tin tưởng rằng, trong những năm tới số người truy cập internet phục vụ cho mục đích học tập và nghiên cứu sẽ tăng do có sự chuẩn bị tốt hơn về kỹ năng khai thác và sử dụng các dịch vụ trên internet. Số người truy cập internet phục vụ nhu cầu giải trí cũng sẽ tăng, trong đó bao gồm cả việc khai thác các trang web sạch và "bẩn", song xu hướng chung là sự lựa chọn thông tin lành mạnh sẽ tăng hơn. 3.1.3. Một số định hướng lớn Trước xu thế toàn cầu hóa và đường lối phát triển kinh tế của Đảng ta là công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cùng với sự phát triển mạnh mẽ của CNTT và đặc biệt là dịch vụ internet, hơn bao giờ hết chúng ta cần nhận thức đúng đắn và thực hiện tốt các quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, tạo nhân tố tích cực làm tiền đề cho việc xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trước hết, trong giai đoạn mới này, biết xử lý một cách hài hòa giữa việc thu nhận nhiều luồng thông tin từ mạng internet, cải thiện đời sống văn hóa cho người Việt Nam với việc giữ gìn truyền thống văn hóa Việt Nam là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của thế hệ chúng ta. Chúng ta phải thừa nhận rằng, chính internet đã, đang và sẽ ngày càng có vai trò quan trọng trong việc nâng cao đời sống tinh thần của cộng đồng. Vì vậy, việc phát huy những mặt tích cực của internet để cải thiện đời sống văn hóa của cộng đồng là trách nhiệm chung của mọi ngành, đặc biệt là ngành văn hóa. Hội nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã nêu rõ phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa với những quan điểm chỉ đạo cơ bản như sau: 1. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội. 2. Nền văn hóa chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. 3. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. 4. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. 5. Văn hóa là một mặt trận: Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng. Quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong những năm qua càng khẳng định tính đúng đắn và tầm quan trọng của Nghị quyết Trung ương 5. Đây là cương lĩnh văn hóa chiến lược của Đảng ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bẳn sắc dân tộc, cũng chính là đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của quá trình phát triển đất nước. Nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh thế giới ngày nay. Thủ tướng Phan Văn Khải đã nhấn mạnh: "Phát triển văn hóa phải đồng bộ với tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, xóa bỏ các tệ nạn xã hội, phải chú ý xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa mở rộng giao lưu quốc tế với bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc. Phải quan tâm giáo dục, rèn luyện, xây dựng con người về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, nếp sống văn minh, tri thức khoa học, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa, thông tin, nhất là những tài năng trẻ, làm lực lượng nòng cốt của ngành văn hóa - thông tin" (trích trên trang web: dangcongsan.vn, trang chuyên đề văn hóa- tư tưởng, tháng 6-2004). Để thực hiện những quan điểm chỉ đạo trên, cần thực hiện những nhiệm vụ cụ thể mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã đề ra. Mười nhiệm vụ cụ thể đó có thể tóm tắt như sau: Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng với những đức tính: Yêu nước, tự hào dân tộc, đấu tranh vì độc lập dân tộc, có ý thức tập thể, có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, lao động chăm chỉ, thường xuyên học tập, nâng cao trình độ… Xây dựng môi trường văn hóa tạo ra ở các đơn vị cơ sở, khu tập thể, cơ quan, xí nghiệp, trường học, đơn vị bộ đội, ở các vùng dân cư… Phát triển sự nghiệp văn học nghệ thuật, phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo, phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng, bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số, mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa, có chính sách văn hóa với tôn giáo, củng cố, xây dụng và hoàn thiện thể chế văn hóa mà nhiệm vụ cấp bách, trọng tâm nhất là: Xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội. 3.2 Các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng của internet 3.2.1. Giải pháp về nâng cao nhận thức - Quán triệt những quan điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng về quyết tâm xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc - Thực hiện tốt 10 nhiệm vụ cụ thể do Nghị quyết Trung ương 5 khóa họp thứ VIII đã chỉ rõ. Đồng thời thường xuyên có kiểm tra, đánh giá từng mặt hoạt động cụ thể. - Nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và đông đảo tầng lớp nhân dân về tầm quan trọng và vai trò to lớn của văn hóa trong sự nghiệp đối mới và trong giai đoạn cách mạng mới. - Xây dựng nền tảng văn hóa vững chắc cho thời kỳ phát triển mới của đất nước: Định hình rõ nét nội dung: tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong lối sống, nếp sống văn hóa. - Phải tạo được những công trình văn hóa, văn học nghệ thuật có chất lượng cao để thỏa mãn nhu cầu thưởng thức của xã hội nhất là mảng hoạt động vui chơi giải trí cho thanh thiếu niên, cần phải đặc biệt quan tâm và đầu tư, đảm bảo tạo cho các em các sân chơi lành mạnh, bổ ích. Giáo dục cho các em nhận thức sâu sắc về truyền thống văn hóa Việt Nam với những nét thuần phong mỹ tục của người Việt và ý thức giữ gìn, phát huy những giá trị đó trong xu hướng giao lưu văn hóa quốc tế. - Hoàn thành chiến lược thông tin quốc gia để đáp ứng nhu cầu đất nước trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phù hợp với đặc điểm, thực tiễn của đất nước. Kiên quyết sắp xếp lại mạng lưới báo chí, hiện đại hóa các loại báo viết, truyền hình, phát thanh, internet… Khắc phục những biểu hiện lệch lạc so với các tôn chỉ, mục đích "thương mại hóa" và nhất là tình trạng tư nhân chi phối, thậm chí lấy danh nghĩa cơ quan để xuất bản, ban hành những sản phẩm văn hóa gây tác dụng xấu trong cộng đồng, nhất là những băng đĩa được tải từ mạng internet với những nội dung xấu. 3.2.2. Giải pháp về nâng cao kỹ năng và bản lĩnh sử dụng internet - Nâng cao trình độ tin học và ngoại ngữ, trau dồi kiến thức chuyên ngành Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, đời sống xã hội ngày càng được nâng cao. Những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại đều được áp dụng trong đời sống hàng ngày. Sự tác động của nền kinh tế tri thức, kinh tế số hóa và xã hội thông tin toàn cầu đã làm chuyển đổi mạnh nhu cầu văn hóa vừa theo hướng dân tộc hóa, vừa theo hướng quốc tế hóa. Sự ra đời và phát triển của internet tại Việt Nam nói chung và tại Thủ đô Hà Nội nói riêng đặt ra một bài toán cho những người quản lý văn hóa. Khi mà những địa điểm internet công cộng mọc lên như nấm sau mưa cùng với những sản phẩm văn hóa tràn ngập trên mạng mà không một Nhà văn hóa, hay một thư viện, bảo tàng nào có nhiều dữ liệu như vậy thì vai trò của các thiết chế văn hóa càng phải được đặc biệt quan tâm. Nên chăng ngoài việc đa dạng hóa các hình thức hoạt động văn hóa ngoài trời, các câu lạc bộ sở thích chúng ta đưa internet đến từng thiết chế văn hóa cấp cơ sở như mô hình "Điểm bưu điện hóa xã" đang tồn tại. Nếu các cán bộ văn hóa có đủ trình độ tin học và ngoại ngữ đáp ứng nhu cầu giáo dục và hướng dẫn cho người sử dụng internet ở những điểm công cộng này thì hiệu quả sẽ càng lớn hơn. Thực hiện tốt nội dung quản lý sự nghiệp văn hóa là: Quản lý nghiệp vụ và hướng dẫn nghiệp vụ Quản lý nghiệp vụ ở đây được hiểu theo từng chuyên ngành hoạt động. Việc quản lý nghiệp vụ thực chất là quản lý nội dung và chất lượng hoạt động chuyên môn, chuyên ngành đó. Từ quản lý, đề xuất xây dựng kế hoạch đến tổ chức hoạt động, kiểm tra đôn đốc quá trình thực hiện và hiệu quả hoạt động. Nắm chắc phương thức, phương pháp hoạt động của chuyên ngành. Muốn quản lý tốt nghiệp vụ phải am hiểu nghiệp vụ như vậy, mặc dù việc tổ chức, cung cấp, khai thác và quản lý internet là nhiệm vụ của liên ngành, liên bộ nhưng phải thừa nhận rằng ngành văn hóa không thể đứng ngoài cuộc. Như vậy, cán bộ văn hóa, ngoài những kiến thức chuyên ngành, một đạo đức chính trị, cách mạng còn phải là người có đủ trình độ về tin học, ngoại ngữ để đáp ứng công tác nghiệp vụ để có thể tham gia giáo dục, hướng dẫn cho mọi đối tượng tham gia sử dụng dịch vụ internet. Mỗi người khi truy cập mạng internet phải có một bản lĩnh vững vàng, để phân biệt những thông tin độc hại và thông tin có ích để tiếp cận có hiệu quả Bản thân mỗi người cán bộ văn hóa phải là một chiến sĩ hoạt động trên mặt trận văn hóa tư tưởng, dũng cảm xông pha trong trận chiến với những mặt trái của internet mang lại, tuyên truyền trong cộng đồng những giá trị đích thực mà internet mang đến cho con người. Khuyến khích mọi người sử dụng khai thác tài nguyên internet vào công tác chuyên môn, trong học tập, nghiên cứu để góp phần tạo ra những sản phẩm, công trình khoa học, những ứng dụng thiết thực trong đời sống hàng ngày, làm giàu kiến thức cho bản thân để mỗi người sẽ có ích hơn cho xã hội. Tránh tình trạng thừa thông tin mà thiếu tri thức. Kỹ năng tin học phải được xem là một trong những yêu cầu bắt buộc về chuyên môn nghiệp vụ. Đảm bảo đầu tư hạ tầng cơ sở về CNTT để phục vụ công tác quản lý nghiệp vụ. Dù đã có nhiều nỗ lực của các ngành liên quan như: ngành giáo dục, ngành Bưu điện nhưng những người dân được tiếp cận với máy tính và internet chủ yếu vẫn là người dân thành thị, tập trung chính ở thành phố lớn (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh). Chúng ta không thể phủ nhận được rằng Việt Nam vẫn bị xếp vào danh sách các nước có nền kinh tế lạc hậu, năng suất lao động thấp, trong khi chi phí dịch vụ cao. Hoạt động thương mại phát triển chậm, mức độ giao dịch cả trong và ngoài nước còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đảng và nhà nước chúng ta chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và rất nhiều nghị định, chính sách đã ra đời nhằm tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện chủ trương này. Chính sách mở cửa "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước", hòa nhập với xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa đặt nền văn hóa Việt Nam đứng trước những thách thức to lớn. Với vai trò là nền tảng và động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội thì việc quan tâm giáo dục, rèn luyện, xây dựng con người Việt Nam về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, nếp sống văn minh, tri thức khoa học là nhiệm vụ cần thiết mang tính cấp bách. Đảng và Chính phủ chủ trương đưa internet vào từng trường học thể hiện tính tất yếu và đặt ra cho ngành giáo dục nhiệm vụ phổ cập tin học, hướng dẫn khai thác internet cho HSSV. Trong thực tế, vì nhiều lý do khác nhau mà HSSV vẫn chưa được đáp ứng việc truy cập internet tại trường học, vì vậy họ phải đến với các điểm dịch vụ công cộng khi có nhu cầu và tại các điểm dịch vụ này, do tính chất kinh doanh đơn thuần, không có sự định hướng đúng đắn, kịp thời, nhiều hành vi phi văn hóa và các hoạt động phạm pháp đã nảy sinh. Đối với những đối tượng là CBCNVC, cán bộ quản lý là những người thường xuyên truy cập internet tại cơ quan cũng chưa tận dụng khai thác hiệu quả những tiện ích của dịch vụ toàn cầu này vào công tác chuyên môn nghiệp vụ. Như vậy vấn đề lại đặt ra cho ngành văn hóa là phải tuyên truyền, định hướng các giá trị thẩm mỹ cho các đối tượng có cơ hội được tiếp cận công nghệ này. Đảng và Nhà nước đã đánh giá ngành văn hóa với nhiệm vụ được coi là quan trọng nhất và đã đặt lên trước nhất việc phát triển những giá trị tốt đẹp của xã hội và con người Việt Nam, tức là phát huy những nét văn hóa tốt đẹp đang nảy nở ngày càng nhiều trên đất nước ta. Đó là điểm cơ bản hơn cả, quyết định hơn cả để đẩy lùi và khắc phục các biểu hiện của lối sống không lành mạnh và sự suy thoái đạo đức mà có thể nguyên nhân do tiếp cận với thông tin thiếu chọn lọc từ internet mang lại. 3.2.3. Giải pháp về công tác quản lý Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, các ngành Bưu chính - Viễn thông, Văn hóa thông tin, An ninh… phải thực sự đi vào cuộc và nhận thức sâu sắc nhiệm cụ thể của từng ngành, tránh chồng chéo, gây mất tập trung sự quản lý. Lợi ích về văn hóa, giáo dục và an ninh phải được đặt lên hàng đầu. Không vì lợi ích kinh tế trước mắt mà làm ngơ cho những hoạt động, hành vi tiếp tay cho thông tin xấu thâm nhập vào mạng internet quốc gia, đầu độc lớp trẻ. Sự phân cấp trong quản lý của mỗi ngành đều phải nghiên cứu khoa học, tỷ mỷ nhằm đạt hiệu quả tối đa. Cụ thể là: - Nhà cung cấp dịch vụ phải đảm bảo về chất lượng dịch vụ, gạn lọc một cách tối đa những thông tin ngoài luồng thâm nhập, không ngừng nâng cao chất lượng các trang web tiếng Việt để thỏa mãn nhu cầu người sử dụng. Từ các em học sinh ở vùng xa xôi đến những người nông dân đều có thể có cơ hội được tiếp cận với công nghệ này. Chất lượng về cả nội dung và hình thức phải đặc biệt đưa lên hàng đầu để thu hút và định hướng thẩm mỹ cho các đối tượng sử dụng. - Ngành giáo dục phải đặc biệt quan tâm đến những ảnh hưởng của internet đến lớp trẻ và có trách nhiệm kết hợp với gia đình giáo dục, hướng dẫn, định hướng cho HSSV khai thác thông tin trên mạng. Tăng cường các môn học về ngoại ngữ và tin học trong trường để giúp các em có kỹ năng khai thác thông tin trên mạng. - Ngành văn hóa phải coi nhiệm vụ quản lý nội dụng của những thông tin trên mạng là một trong các yếu tố quan trọng quyết định đến việc xây dựng con người mới với lối sống mới, nếp sống văn minh cho một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đề xuất những ý tưởng về nội dung của các trang web nội địa với mục đích thỏa mãn nhu cầu văn hóa và giáo dục thẩm mỹ, định hướng về các chuẩn mực đạo đức, lối sống cho người sử dụng. Để thực hiện tốt những nhiệm vụ cụ thể trên, các hình thức internet công cộng như cafenet, dịch vụ internet sinh viên phải được đặc biệt quan tâm quản lý bởi hiện tượng tiêu cực trong các dịch vụ trên đang tồn tại, các tệ nạn cũng có thể từ con đường này mà xâm nhập vào người Việt Nam nhất là tầng lớp HSSV- thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước. Đối với người sử dụng dịch vụ tại các điểm internet công cộng cũng phải tuân theo quy định của ngành văn hóa, an ninh về những thông tin truy cập... 3.2.4. Giải pháp về công tác giáo dục Mặc dù trong thực tế, Bộ Công an đã phối hợp cùng các Ban, ngành liên quan cố gắng ngăn chặn những thông tin độc hại thâm nhập vào mạng internet tại Việt Nam nhưng kết quả chưa được như mong muốn bởi CNTT phát triển với tốc độ chóng mặt, bọn tin tặc ngày càng nhiều thủ đoạn tinh vi. Thiết nghĩ không có một bức tường lửa (fire wall) nào tác dụng hiệu quả bằng bức tường trong chính mỗi người sử dụng. Muốn có được nhận thức đúng đắn trách nhiệm của ngành giáo dục, ngành văn hóa là rất quan trọng. Đưa internet phổ cập đến tận trường học song song với giáo dục cho lớp trẻ về những mặt tích cực và mặt trái của internet là điều cần làm ngay và là một công việc bền bỉ, lâu dài, đòi hỏi kiên trì và đầy bản lĩnh. Việc giáo dục cho thanh thiếu niên những hiểu biết và định hướng cho các em trong khai thác internet chính là bảo vệ các em trước những thông tin độc hại trên mạng. Việc giáo dục này phải được kết hợp tốt giữa gia đình, nhà trường, các nhà cung cấp dịch vụ và sự can thiệp của Chính phủ. Đứng trước tình hình phát triển mạnh mẽ của CNTT ở Việt nam, một lựa chọn đúng đắn của chính phủ là lấy CNTT làm ngành then chốt để phát triển nền kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong đó chiến lược lấy internet kích cầu CNTT lại được đặc biệt quan tâm. Chúng ta chắc chắn rằng số người sử dụng internet ở Việt Nam trong những năm tới đây sẽ còn tăng đáng kể đạt tới mức ngang hàng các nước trong khu vực và nhiều nước trên thế giới. Hiện nay có rất nhiều văn bản của các Bộ, ngành trực tiếp cung cấp và quản lý dịch vụ internet được ra đời. Nội dung chính mà các văn bản này đề cập đều xoay quanh việc tổ chức thực hiện tốt việc cung cấp và quản lý các dịch vụ internet. Ngoài một số quy định chung về các hành vi thương mại truyền thống có thể áp dụng được trong một số trường hợp, ngoài Bộ luật Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, Bộ luật dân sự, Bộ Tư pháp cũng đang gấp rút phối hợp với các chuyên gia về tin học, kinh tế xây dựng các định chế điều chỉnh các vấn đề phát sinh trong hoạt động thương mại điện tử. Chúng ta đang tích cực triển khai các chương trình phổ cập internet trong cộng đồng. Các cơ quan, công sở đã có hệ thống máy tính hòa mạng internet, các trường học, bệnh viện kể cả vùng sâu vùng xa đều được cung cấp hệ thống máy tính và triển khai kết nối internet. Nhưng trong thực tế chúng ta còn bị động trước những tác động của internet vào đời sống cộng đồng. Internet hàng ngày tác động cả tích cực và tiêu cực vào đời sống văn hóa của xã hội, muốn làm chủ được tình thế chúng ta buộc phải triển khai và thực hiện tốt các giải pháp thiết thực nhằm mục đích phát huy những mặt tích cực của internet, tận dụng tối đa nguồn tài nguyên trên mạng, biến thông tin trên mạng trở thành tri thức để góp phần nâng cao đời sống văn hóa cho cộng đồng. Muốn vậy, chúng ta phải không ngừng hoàn thiện kỹ năng, nghiệp vụ sử dụng internet mà chìa khóa vàng là trình độ ngoại ngữ và ý thức chính trị của mỗi người. Như vậy, việc thường xuyên trau dồi ý thức chính trị và trình độ ngoại ngữ là nhiệm vụ vô cùng quan trọng đối với những cán bộ làm công tác quản lý đặc biệt là quản lý văn hóa. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt và đường lối phát triển văn hóa đúng đắn của Đảng, chúng ta tin tưởng rằng: internet sẽ là phương tiện hỗ trợ cho Việt Nam giao lưu và hội nhập quốc tế một cách có hiệu quả. Những mặt trái của internet sẽ dần được khống chế và khắc phục bởi nỗ lực của các cấp các ngành. Chúng ta quyết tâm xây dựng con người Việt nam, con người mới với phẩm chất và đạo đức cách mạng đủ bản lĩnh để hội nhập quốc tế và đủ trình độ để khai thác nguồn tài nguyên quý giá trên mạng internet. Bằng những giải pháp về nhận thức, về công tác giáo dục, công tác quản lý và những chính sách kịp thời, hợp lý cùng với việc không ngừng nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa chắc chắn chúng ta sẽ xây dựng thành công một nền "văn hóa mạng" trong một xã hội thông tin tại Việt Nam mà trước hết là tại Thủ đô Hà Nội. Kết luận Internet nói riêng, CNTT nói chung đã thâm nhập ngày càng sâu vào đời sống văn hóa của người dân Hà Nội. Mặt tích cực của quá trình này là internet đã có ảnh hưởng rất mạnh đến cách thức tiếp cận, lựa chọn và xử lý thông tin phục vụ cho sản xuất, kinh doanh. Trong quản lý và tổ chức đời sống cá nhân, cộng đồng, internet đem lại cho người sử dụng những lợi ích lớn lao, nó mở ra cơ hội kinh doanh trên phạm vi toàn cầu. Nó cũng cho phép người sử dụng cơ hội giao lưu với nhiều nền văn hóa trên thế giới. Nhu cầu đào tạo có thể được đáp ứng với những dịch vụ của mạng đào tạo từ xa, hệ thống E-learning... Tóm lại, internet đã làm phong phú thêm đời sống tinh thần của người Hà Nội đồng thời cải thiện đáng kể năng suất công việc cũng như góp phần tích cực vào quá trình hội nhập và liên kết toàn cầu, giúp cho người dân Thủ đô ngày càng có một đời sống văn hóa hiện đại, văn minh hơn. Tuy nhiên, internet không đến với từng người dân và nhóm xã hội một cách đồng đều. Cho tới nay số người tham gia truy cập internet nhiều nhất vẫn là nhóm HSSV. Tuy nhiên, mục tiêu giải trí trong sử dụng internet của nhóm xã hội này là chủ yếu. Việc sử dụng, khai thác internet vào mục đích học tập, nghiên cứu, làm giàu tri thức còn khiêm tốn, nếu có thì chủ yếu rơi vào nhóm người là sinh viên Đại học. Nhóm các nhà khoa học, người làm công tác giảng dạy, cán bộ quản lý, CBCNVC… đến với internet thận trọng hơn tùy vào mục đích và khả năng khai thác internet, họ chủ yếu vào internet là để phục vụ công việc nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh… Nhìn chung, Hà Nội là một địa bàn sử dụng internet khá mạnh mẽ, song việc triển khai và tổ chức chưa thực sự chủ động, bài bản. còn nhiều biểu hiện tự phát, ví dụ: vẫn còn những lỏng lẻo trong việc kiểm soát, hướng dẫn sử dụng, khai thác internet. Cùng với một số nhân tố khác, sự yếu kém và hạn chế nói trên đã dẫn đến một số hiện tượng tiêu cực, đáng lo ngại, ảnh hưởng đến đời sống văn hóa của người dân Thủ đô qua dịch vụ chat tràn lan, khai thác các trang web "bẩn", tiêu phí thời gian và tiền bạc vào những trò chơi vô bổ mang tính bạo lực, khủng bố… Trong thời gian tới, CNTT nói chung và internet nói riêng ở Hà Nội sẽ phát triển mạnh mẽ hơn nữa, cả về quy mô, độ che phủ, tính chất đa dạng, những tiện ích do internet mang lại cũng như chiều sâu của các khả năng ứng dụng… theo đó là sự ảnh hưởng ngày càng sâu rộng của internet đến đời sống văn hóa của người dân Hà Nội. Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa mặt tích cực của internet, hạn chế đến mức tối thiểu những mặt trái của nó, chúng ta cần phải có những giải pháp sau: 1. Giải pháp về nâng cao nhận thức; 2. Giải pháp về nâng cao kỹ năng và bản lĩnh sử dụng internet; 3. Giải pháp về công tác quản lý; 4. giải pháp về công tác giáo dục. Cuối cùng, người viết xin đưa ra một số kiến nghị sau: * Về phía Chính phủ Ngoài việc đầu tư về vật chất, Chính phủ nên ban hành các chính sách cụ thể hơn, quy định rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành trong việc tổ chức khai thác, sử dụng và quản lý internet. Ban hành các luật về truy cập internet cho các trường học, thư viện, gia đình và các điểm truy cập internet. Cụ thể là: - Luật truy nhập internet gia đình: yêu cầu nhà cung cấp phải đưa ra một phần mềm gạn lọc ngay từ lúc truy nhập đầu tiên vào mạng. Hạn chế tối đa sự xâm nhập của thông tin phản động, độc hại trên mạng. - Luật bảo vệ trẻ em trên mạng: Theo luật này, công ty phải thẩm tra độ tuổi trưởng thành của người truy cập trước khi đưa các thông tin lên mạng. Luật này có thể áp dụng cho những điểm truy cập internet công cộng. - Luật gạn lọc thông tin trường học: Cố gắng hạn chế việc truy nhập vào các trang có thông tin không thích hợp, các trường học và thư viện phải cung cấp các phần mềm khóa nhằm kiểm soát các thông tin có hại. - Luật bảo vệ internet: Ban hành các điều khoản, giới hạn và quy định internet cũng như ngăn cấm các nhà cung cấp dịch vụ cung cấp các thông tin sex. Luật này bảo vệ người sử dụng trong cả trường hợp thông tin bị lộ hay đánh cắp… * Trách nhiệm của ngành văn hóa Phải thường xuyên theo dõi diễn biến của những ảnh hưởng của internet đến đời sống văn hóa của cộng đồng để kịp thời có các giải pháp đề xuất về công tác quản lý văn hóa mạng. Đề xuất những ý tưởng góp phần nâng cao chất lượng các trang web nội địa và giáo dục, định hướng thẩm mỹ cho cộng đồng trong việc tiếp cận các trang web nước ngoài. * Trách nhiệm của nhà cung cấp Nhà cung cấp dịch vụ cần đặt lợi ích của xã hội lên trên hết để nâng cao chất lượng dịch vụ bằng chính những hành động cụ thể là: kết hợp với các ngành có liên quan để ngăn chặn các trang web bẩn. Không ngừng nâng cao chất lượng các trang web trong nước để đáp ứng nhu cầu văn hóa của cộng đồng. * Đối với thành phố Hà Nội Cần tập trung xây dựng Thủ đô Hà Nội thành thành phố có môi trường văn hóa mạng điển hình, kiểu mẫu cho cả nước. Hà Nội là địa bàn tập trung nhiều trí thức so với cả nước. Là trung tâm kinh tế - văn hóa - chính trị và sự tiếp cận các công nghệ tiên tiến thường đi trước các địa phương khác trong cả nước. Cũng chính do đặc điểm này mà việc xây dựng một môi trường văn hóa mạng điển hình ở Hà Nội để sau đó nhân rộng ra các địa phương khác có một ý nghĩa quan trọng. Ngành văn hóa cần kết hợp chặt chẽ với các ngành liên quan (Bưu điện, An ninh) để tổ chức, cung cấp, hướng dẫn và quản lý việc sử dụng và khai thác dịch vụ internet. Thường xuyên có sự kiểm tra, đánh giá để kịp thời định lượng, định tính những ảnh hưởng trực tiếp của internet đến đời sống văn hóa của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên. Các cấp các ngành có liên quan nên xây dựng những "Trung tâm internet cộng đồng" đảm bảo tiêu chuẩn để khuyến khích mọi người dân đều có cơ hội tiếp cận với internet. Những Trung tâm internet này có quy mô lớn, vừa và nhỏ tùy thuộc vào cấp quản lý trực tiếp. Ví dụ trong trường Đại học, Trung tâm này sẽ có quy mô lên đến hàng trăm máy để có thể đáp ứng việc phục vụ đông đảo sinh viên trong trường, tại các thiết chế văn hóa cũng có những Trung tâm tùy theo mức độ đầu tư và từng cấp quản lý; ví dụ, tại Nhà văn hóa thành phố số lượng đầu máy có thể có nhiều hơn Nhà văn hóa quận. Tuy nhiên, muốn làm tốt, trước hết phải khảo sát nhu cầu của cộng đồng dân cư trên địa bàn tương đối chính xác để từ đó có kế hoạch cụ thể… Nếu làm tốt mô hình này, chắc chúng ta sẽ không phải khó khăn trong việc quản lý những điểm truy cập của tư nhân trong cộng đồng bung ra một cách tự phát trong thời gian qua. Sở dĩ thời gian qua ngay trên địa bàn thành phố Hà Nội đã có tới hàng ngàn điểm dịch vụ internet công cộng bởi phòng máy của các trường chưa đáp ứng đủ máy cho nhu cầu của sinh viên buộc họ phải tìm đến các điểm internet công cộng. Nếu đến các Trung tâm internet tư nhân, được tham gia trong một môi trường văn hóa với những thiết bị đảm bảo chất lượng do có sự đầu tư hỗ trợ và kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước, chắc chắn lớp trẻ của chúng ta sẽ có nhiều cơ hội để khai thác nguồn tài nguyên trên mạng một cách hiệu quả hơn. Luận văn được hình thành với sự hướng dẫn khoa học tận tình của thày hướng dẫn, các thày, cô trong và ngoài trường, các đồng nghiệp đàn anh đi trước cùng với những nỗ lực của bản thân... Từ đáy lòng, tác giả muốn bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với các thày, cô giáo, các đồng nghiệp và tự đặt ra cho mình những nghiên cứu xa hơn nữa, bao quát hơn nhằm đưa ra một bức tranh sâu rộng hơn về vai trò của internet trong đời sống văn hóa của nhân dân Thủ đô Hà Nội. Qua đó, góp phần xây dựng Thủ đô văn hóa mạng - năng động - văn minh - đậm đà bản sắc dân tộc, xứng đáng là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội, trái tim của cả nước. danh mục tài liệu tham khảo 1. Chung á - Nguyễn Đình Tấn (Chủ biên) (1995), Nghiên cứu xã hội học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. Almanach những nền văn minh thế giới (1996), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 3. Các văn bản quản lý nhà nước về internet (2002), Nxb Bưu điện, Hà Nội. 4. Đinh Thị Vân Chi (2003), Nhu cầu giải trí của thanh niên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5. Chính sách xã hội - Văn hóa - giáo dục (1982), Hà Nội. 6. Đoàn Văn Chúc (1997), Văn hóa học, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 7. Trần Quang Cường (Biên dịch) (2001), Quản lý mạng viễn thông thế kỷ 21, Nxb Bưu điện, Hà Nội. 8. Phạm Đức Dương (2002), Từ văn hóa đến văn hóa học, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 9. Đặc san báo Quốc tế, Số chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14. Trần Ngọc Định (2002), Văn hóa thị trường, Nxb Văn học, Hà Nội. 15. Phạm Duy Đức (Chủ nhiệm) (2004), Nghiên cứu phát triển các hoạt động văn hóa vui chơi giải trí ở Thủ đô Hà Nội - Thực trạng và giải pháp, Tổng quan đề tài nghiên cứu khoa học cấp thành phố. 16. Nguyễn Đình Hiến (Chủ biên) (2003), Internet, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông. 17. Lê Như Hoa (1996), Phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh công nghiệp hóa, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 18. Nguyễn Thế Hùng (Chủ biên) (2001), Đến với thế giới tin học, Nxb Thống kê, Hà Nội. 19. Nguyễn Văn Huyên (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 20. Nguyễn Văn Huyên (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 21. Internet and life (Biên dịch CADASA) (2000), Nxb Thống kê, Hà Nội. 22. Một số trang Web trong và ngoài nước. 23. Phạm Xuân Nam, Phương pháp luận về vai trò của văn hóa trong phát triển khoa học xã hội. 24. Phát triển internet - kinh nghiệm và chính sách của một số quốc gia trong khu vực (2003), Nxb Bưu điện, Hà Nội. 25. Sử dụng các dịch vụ internet cơ bản tại Việt Nam (2002), Nxb Bưu điện, Hà Nội. 26. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 27. Thương mại điện tử (2002), Nxb Bưu điện, Hà Nội. 28. Trung tâm thông tin Bưu điện, Tài liệu tham khảo phục vụ lãnh đạo và cán bộ nghiên cứu. 29. Huỳnh Khái Vinh, Văn hóa và văn nghệ vì sự phát triển xã hội. 30. Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa văn nghệ từ Đại hội VI đến đại hội IX. 31. Viện Thông tin Khoa học Xã hội (2001), Văn hóa học và văn hóa thế kỷ XX. tập 1, Hà Nội. 32. Xã hội thông tin, Tạp chí chuyên ngành của VNPT. phụ lục Phụ lục 1: Giải thích các thuật ngữ dùng trong luận văn Phụ lục 2: Phiếu trưng cầu Phụ lục 3: Một số hình ảnh về các hoạt động của Chính phủ và các ngành liên quan về việc xây dựng, khai thác và quản lý internet ở Việt Nam Phụ lục 4: Một số hình ảnh về thực trạng sử dụng internet của HSSV tại địa bàn Hà Nội Phụ lục 1 Giải thích các thuật ngữ dùng trong luận văn  Intranet: là một kiểu mạng mới xuất hiện do kết quả của sự phát triển mạnh mẽ internet. Intranet là cơ sở hạ tầng của mạng dựa trên những tiêu chuẩn của internet hiện có. Mục đích của interanet là làm cho những người lao động của Công ty gắn kết với mọi tin tức của Công ty đó, nhằm tăng năng suất qua nguồn thông tin hiệu quả được phổ biến trên intranet.  TCP/IP: Ngôn ngữ phổ quát của Internet: Internet hoạt động được vì mọi máy tính nối kết tới nó đều sử dụng một tập các quy tắc và thủ tục (được gọi là các giao thức) để kiểm soát việc định thời và định dạng dữ liệu. Các giao thức được Internet sử dụng được gọi là giao thức kiểm soát truyền tải/ Giao thức liên mạng, viết tắt là TCP/IP (Transmission Control Protocol).  World Wide Web (gọi tắt là Web hay WWW) được tạo ra vào năm 1989 tại phòng thí nghiệm vật lý hạt nhân Châu Âu tại Geneva, Thụy Sĩ như là một phương thức cho phép kết hợp các chú thích chân trang, các hình ảnh và các tham khảo chéo vào trong các tài liệu siêu văn bản trực tuyến. Một tài liệu siêu văn bản là một tập tin được mã hoá đặc biệt vốn sử dụng ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản (còn được gọi là các siêu liên kết hay chỉ gọi là các liên kết) vào trong tài liệu. Các liên kết siêu văn bản là nền móng của World Wide Web).  Hệ thống quản lý tên miền DNS (DOMAIN NAME SYSTEM)  ADSL: Viết tắt của Analog Digital Line), một biến thể của đường thoại số chuẩn (Standard Digital Telephone) hoạt động thông quakết nối đưoừng điện thoại thông thường. ADSL thiết lập một liên kết trên tốc độ dữ liệu thấp (Low data rate –up link) và một liên kết dưới tốc độ dữ liệu cao (High data rate down link), ADSL được phát triển để cung cấp một dịch vụ thay thế cho truyền hình, nhưng hứa hẹn một liên kết tốc độ cao và một chi phí thấp cho người dùng internet.  Mạng tích hợp dịch vụ số ISDN: (Intergrated services digital network). Là một mạng có khả năng đồng thời truyền được nhiều dạng thông tin khác nhau như tiếng nói, hình ảnh, fax, thông tin điều khiển từ xa, truyền hình... các dữ liệu dó được tập hợp và phân phát tới văn phòng hoặc nhà riêng người sử dụng.  Firewall (Bức tường lửa): Là công nghệ kết hợp giữa phần cứng và phần mềm cho phếp người dùng intranet truy cập dữ liệu trên internet nhưng điều ngược lại thì không thể, điều này cho phép hạn chế người dùng được phép, chống lại sự xâm nhập trái phép. Phụ lục 2 phiếu trưng cầu Câu 1: Anh (chị) bắt đầu truy cập internet từ khi nào? Năm... Câu 2: Anh (chị) sử dụng internet nhiều nhất cho mục đích nào sau đây? 1. Tìm kiếm thông tin phục vụ cho học tập, nghiên cứu 2. Giải trí với các trang văn học nghệ thuật, trò chơi... 1. Trao đổi thư điện tử với bạn bè, người thân 2. Quản lý 3. Chỉ để chát! Câu 3: Trước đây (khi chưa sử dụng internet) anh (chị) thường dành thời gian rỗi làm gì (đánh số từ 1 đến 7 theo mức độ từ nhiều nhất đến ít nhất) 1. Thăm hỏi người thân, bạn bè 2. Đi dã ngoại, picnic 3. Đến rạp chiếu bóng 4. Tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao ngoài trời 5. Đi mua sắm 6. Nghỉ ngơi tại nhà 7. Đọc báo, truyện, tạp chí Câu 4: Từ khi sử dụng internet, anh (chị) thường dành thời gian cho những việc này như thế nào so với trước khi dùng internet? (đánh dấu X vào ô bạn chọn). Hoạt động ít hơn Vẫn như thế Nhiều hơn Thăm hỏi người thân Đi dã ngoại, picnic Đến rạp , nhà hát Đi mua sắm Nghỉ ngơi tại nhà Câu 5: Trước kia (khi chưa sử dụng internet) anh (chị) thường thu nhận thông tin hàng ngày từ các nguồn nào dưới đây 1. Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam và các đài địa phương trong nước 2. Các Đài, Báo nước ngoài (ghi rõ tên Đài, Báo) ……………………………………………………………………........... 3. Tờ báo viết ra hàng ngày/tuần (ghi rõ tên báo ví dụ : báo Nhân dân, Lao động, Phụ nữ Việt Nam…) ……………………………………………………………………........... 4. Nghe qua dư luận 5. Các hình thức khác (nếu có ghi rõ) ……………………………………………………………………........... Câu 6: Anh (chị) thường thu nhận thông tin từ những nguồn tin nào? Nguồn thu nhận Thời sự Thể thao Văn hóa Kiến thức phục vụ học tập Tuyển sinh Internet Đài phát thanh Ti vi Báo, tạp chí Truyền thanh phường Dư luận Câu 7 : Khi muốn tìm hiểu một thông tin nào đó, Anh (chị) thường tìm ở đâu? 1. Hỏi những người quen xung quanh 2. Tìm mua báo và xem có thông tin liên quan hay không 3. Viết thư hỏi Đài phát thanh, truyền hình hoặc hỏi báo 4. Vào mạng và vào ngay trang tìm kiếm về từ khóa mình đã có Câu 8: Mức độ lên mạng của anh (chị/em) như thế nào? 1. Hàng ngày 2. 2,3 lần/tuần 3. Hàng tuần 4. ít hơn Câu 9: Trung bình thời gian mỗi lần anh (chị/em) vào mạng là bao lâu? 1. Khoảng dưới 1 tiếng/lần 2. Trên 1 tiếng/lần 3. Hai, ba tiếng/lần 4. Nửa ngày, có khi quên cả ăn! Câu 10: Anh (chị/em) hay sử dụng nhiều nhất kiểu trang web nào dưới đây (đánh dấu từ 1 đến 10 theo thứ tự từ nhiều nhất đến ít nhất) - Trang yahoo và các các giao dịch khác - Các trang tin, báo điện tử - Trang âm nhạc - Trang trò chơi - Trang thần tượng - Trang mua sắm, dịch vụ - Web site cơ quan, trường học - Các chuyên đề: tin học, du học, HSSV, thư giãn trang khác (ghi rõ trang nào) - Các trang web của nước ngoài để tải phần mềm - Khác (ghi rõ) Câu 11: Anh (chị/em) có hộp thư điện tử riêng không? 1. Có 2. Không (chuyển câu 10) 3. Nếu có thì mức độ xem thư của bạn thế nào? - Nhiều lần trong ngày - Hàng ngày - 2,3 lần/tuần - Hàng tuần - ít hơn Câu 12: Khi chưa sử dụng internet , trong trường hợp đối tác ở xa, anh (chị) giao dịch bằng những hình thức nào dưới đây? chỉ ghi rõ hình thức nào hay được dùng nhất. 1. Viết thư và gửi qua đường bưu điện 2. Trực tiếp đi bằng các phương tiện giao thông nếu có thể 3. Gọi điện thoại Câu 13: Từ khi sử dụng internet, trong trường hợp đối tác ở xa, anh (chị) giao dịch bằng những hình thức nào dưới đây? (chỉ chọn hình thức nào hay được dùng nhất). 1. Viết thư và gửi qua đường bưu điện 2. Trực tiếp đi bằng các phương tiện giao thông nếu có thể 4. Gọi điện thoại 5. Sử dụng internet để giao dịch Câu 14: Anh (chị/em) có thường mua sắm qua mạng không? Nếu có thì thường hay mua gì trong các liệt kê dưới đây? (Có thể đánh dấu 1 hoặc nhiều) 1. Không 2. Có 3. Nếu có thì những mặt hàng nào Anh (chị/em) hay mua nhất? - Mua sách - Mua quà tặng - Mua các mặt hàng nhu yếu phẩm khác - Gọi cơm trưa khi ở cơ quan - Mua vé xem nghệ thuật - Khác (ghi rõ) Câu 15: Khi muốn mua sắm một mặt hàng đắt tiền nào đó mà chưa có thông tin cụ thể, Anh (chị/em) thường bắt đầu từ đâu? 1. Hỏi những người quen biết 2. Tìm đọc trên các báo mục quảng cáo 3. Vào mạng tìm trên các trang quảng cáo Câu 16: Khi có nhu cầu quảng cáo (mua và bán, tìm việc, nhắn tin…) Anh (chị) thích sử dụng phương tiện nào nhất? 1. Quảng cáo trên đài 2. Quảng cáo trên báo 3. Nhờ người quen thông tin, quảng cáo hộ 4. Quảng cáo trên internet 5. Khác (ghi rõ) Câu 17: Anh (chị/em) có thích "chat" không? 1. Có 2. Không (chuyển câu 13) 3. Nếu có, anh (chị/em) thường chat với ai? - Bạn bè - Người thân - Người quen từ trên mạng Câu 18: Anh (chị/em) thường dùng tên thật hay tên khác khi chat? 1. Tên thật 2. Tên khác Câu 19: Anh (chị/em) có bao giờ gặp mặt những người quen từ trên mạng không? 1. Thường xuyên 2. Thỉnh thoảng 3. Hiếm khi 4. Chưa bao giờ Câu 20: Anh (chị/em) có quan tâm những người khác truy cập internet làm gì không? 1. Có 2. Không (chuyển câu 16) Nếu có bạn thấy loại thông tin nào dưới đây được mọi người quan tâm nhất: a. Thời sự, tin tức trên các trang báo điện tử b. Tham gia diễn đàn c. Giải trí d. Tìm kiếm tài liệu phục vụ học tập, nghiên cứu Câu 21: Anh (chị/em) có thấy những người xung quanh xem những trang sex không? 1. Có 2. Không 3. Không để ý Nếu có thì họ là những người nào dưới đây (có thể đánh dấu 1 hoặc nhiều ô) 1. Là học sinh lứa tuổi khoảng 13-17 2. Là người ở lứa tuổi khoảng 18-22 3. Là người lớn khoảng 22 tuổi trở lên Câu 22: Anh (chị/em) có thấy mặt nào là tiện ích nhất của internet? 1. Cập nhật thông tin hàng ngày thay thế hẳn việc đọc báo viết 2. Tìm kiếm tài liệu phục vụ học tập, nghiên cứu 3. Có thể vào các trang web nước ngoài , du lịch trên mạng để tìm hiểu về các quốc gia khác dễ dàng 4. Có thể có bất cứ thông tin gì ở mọi lĩnh vực của cuộc sống 5. Có thể giải trí với hình ảnh và âm thanh sống động 6. Có thể giao dịch thuận tiện nhanh chóng với bạn bè, đối tác ở bất cứ đâu Câu 23: Anh (chị/em) suy nghĩ gì về mặt trái của internet? (nếu có đánh dấu X) 1. Thanh thiếu niên dành quá nhiều thời gian lên mạng chỉ để giải trí, bỏ bê học tập 2. Quá nhiều thông tin ngoài luồng gây độc hại cho lớp trẻ 3. Có thể sẽ xảy ra tình trạng nghiện internet theo nghĩa tiêu cực 4. Thu hẹp dần khoảng cách địa lý, con người lười vận động, không thích tham gia các hoạt động văn hóa cộng đồng, các môn thể thao ngoài trời Câu 24: Anh (chị) có đề xuất biện pháp gì nhằm ngăn chặn, hạn chế những mặt trái của internet đồng thời phát huy mặt tích cực của dịch vụ này? 1. Bức tường lửa cho những trang web bẩn 2. Giáo dục, định hướng những giá trị đạo đức, thẩm mỹ cho thanh thiếu niên 3. Nâng cao nhận thức cho mọi đối tượng sử dụng 4. Dịch vụ "Cafe internet" phải được kiểm soát chặt chẽ 5. Nâng cao chất lượng các trang web lành mạnh 6. Có luật áp dụng cho từng đối tượng tham gia cung cấp và sử dụng internet 7. Kiểm soát các trang web độc hại, ngoài luồng 8. Hướng dẫn cách khai thác và sử dụng hiệu quả nhất với từng loại trang web 9. Các biện pháp khác (ghi rõ) ................................................................................................................... Câu 25: Anh (chị/em) đánh giá thế nào về chất lượng của các trang web của Việt Nam? 1. Quảng cáo nhiều quá 2. Thông tin còn nghèo nàn, số liệu chưa chính xác (nếu có ghi rõ trang nào) 3. Nói chung là tốt, trừ một số trang của cá nhân 4. Nhiều trang web nội dung thiếu tính giáo dục (nếu có ghi rõ trang nào) 5. ý kiến khác (xin ghi rõ, ngắn gọn) Câu 26: Hiện nay internet đang phát triển nhanh ở Việt Nam, theo anh (chị) đó là điều đáng mừng hay đáng lo ngại? 1. Đáng mừng vì Việt Nam đã thực sự hội nhập quốc tế 2. Đáng lo (nếu có) thì vì những lý do nào dưới đây: (Có thể đánh dấu 1 hoặc nhiều tùy ý kiến của mình) - Chính phủ không kiểm soát được nội dung các trang web - Thanh thiếu niên chưa được trang bị đủ kiến thức văn hóa, ngoại ngữ để tiếp cận với văn minh nhân loại - Sẽ xảy ra tình trạng thừa thông tin mà thiếu tri thức - Sẽ bị lai căng, mất đi bản sắc văn hóa Việt Nam do tiếp cận văn hóa nước ngoài không chọn lọc - Không đủ bản lĩnh trước những thông tin phản động tràn lan trên mạng do chưa được định hướng đầy đủ. Cuối cùng, xin Anh (chị/em) cho biết một vài thông tin về bản thân Giới tính: 1 Nam 2 Nữ Tuổi Học vấn, nghề nghiệp: 1. Học sinh phổ thông - Trung học cơ sở - Phổ thông trung học 2. Sinh viên các trường ĐH, CĐ, THCN (ghi rõ tên trường) - Năm thứ ............................................................................................... - Khoa ..................................................................................................... 3. Cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy 4. Cán bộ làm công tác quản lý (ghi rõ chức vụ. Ví dụ: Trưởng phòng, Viện trưởng, Giám đốc, Chủ tịch quận...) ................................................................................................................. 5. Cán bộ CNVC ................................................................................................................. Chân thành cảm ơn Anh (chị/ em) đã nhiệt tình cộng tác! Phụ lục 3 Một số hình ảnh về các hoạt động của Chính phủ và các ngành liên quan về việc xây dựng, khai thác và quản lý internet ở Việt Nam Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm tại lễ khai trương dịch vụ internet Việt Nam tại Tổng cục Bưu điện Các đồng chí lãnh đạo Tổng cục Bưu điện và Bộ Văn hóa Thông tin họp báo giới thiệu Nghị định của Chính phủ về internet Từ 1-12-1997 người dân Việt Nam trong cả nước có thể sử dụng các dịch vụ của internet Đoàn đại biểu Bưu điện Việt Nam tại Hội nghị phát triển Viễn thông thế giới lần thứ 2 (tại Malta từ 23-3 đến 1-4-1998) Các chuyên viên phòng đầu tư, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông khai thác thông tin trên internet Cán bộ, công nhân, viên chức ở Hà Nội dường như quen dần với việc thu nhận thông tin từ báo điện tử Phụ lục 4 Một số hình ảnh về thực trạng sử dụng internet của học sinh, sinh viên tại địa bàn Hà Nội Tại Hà Nội, internet đã có mặt trong từng góc phố, từng ngõ nhỏ (ảnh chụp trong ngõ 64 đường Vũ Trọng Phụng, Quận Thanh Xuân ) Với địa điểm và quy mô của địa điểm truy cập internet như thế này, chắc sẽ khó đảm bảo cung cấp dịch vụ tốt cho khách hàng (ảnh chụp trên đường Nguyễn Trãi, Quận Thanh Xuân) Lộn xộn cửa hàng "net" giờ cao điểm (ảnh chụp lúc 20h30 - trên phố Nghĩa Tân - Quận Cầu Giấy) Một cửa hàng "net cao cấp" với giá truy cập từ 6.000 - 7.000 đ/giờ (ảnh chụp trên đường Nguyễn Trãi, Quận Thanh Xuân) Cửa hàng cafenet trên địa bàn quận Thanh Xuân với những quảng cáo hấp dẫn HSSV bằng giá cả và những dịch vụ của internet Các "thượng đế" vừa hưởng thú "ẩm thực" vừa say sưa với dịch vụ "chat"

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf13a_9651.pdf
Luận văn liên quan