Nghiên cứu này đã tìm hiểu được bản chất khái niệm tinh thần doanh nhân
(Entrepreneurial orientation) trong bối cảnh của các DNNVV Việt Nam. Ba khía
cạnh nổi lên của tinh thần doanh nhân đó là tính đổi mới sáng tạo, tính chấp nhận rủi
ro và tính chủ động tiên phong đi trước đối thủ trong kinh doanh. Bên cạnh đó, luận
án đã xác định được các yếu tố thể chế chính thống đại diện cho chất lượng thể chế
chính thống là chất lượng điều hành và sự không phù hợp của hệ thống quy định,
chính sách của Nhà nước là có ảnh hưởng đến tinh thần doanh nhân. Thể chế không
chính thống được đại diện bởi hai yếu tố có ảnh hưởng đến tinh thần doanh nhân, đó
là lòng tin thể chế và tham nhũng cũng được phát hiện. Đặc biệt, luận án đã thực hiện
kiểm định mối quan hệ giữa thể chế chính thống, thể chế không chính thống với tinh
thần doanh nhân của các DNNVV trong bối cảnh Việt Nam, một trong các nền kinh
tế chuyển đổi và đang phát triển.
Tuy đạt được những kết quả nêu trên, nhưng luận án không tránh khỏi một số
hạn chế nhất định cần được các nghiên cứu tiếp theo bổ sung, hoàn thiện. Trước tiên,
liên quan đến các thang đo được sử dụng trong nghiên cứu, ngoài các thang đo gốc
được thừa kế trong các nghiên cứu trước đây, các biến quan sát mới được phát triển
đều dựa trên căn cứ cụ thể (từ các gợi ý của các nghiên cứu đã thực hiện và kết quả
nghiên cứu định tính); mặc dù đã được kiểm định đảm bảo về độ tin cậy và tính hiệu
lực trong luận án. Tuy nhiên, những thước đo này cần khẳng định lại trong những
nghiên cứu tiếp theo ở các bối cảnh khác nhau. Thứ hai, thời điểm thực hiện nghiên
cứu đúng vào thời điểm xuất hiện cú huých quan trọng của hệ thống chính trị có thể
làm thay đổi lòng tin đối với thể chế. Do vậy ảnh hưởng của lòng tin thể chế đến tinh
thần doanh nhân cần được tiếp tục nghiên cứu ở một thời điểm hợp lý để tìm hiểu
thêm về mối quan hệ này. Thứ ba, mối quan hệ cùng chiều giữa chất lượng điều hành
và tinh thần doanh nhân đã được luận giải phần nào. Dù vậy, nếu cả ba khía cạnh của
tinh thần doanh nhân đều tăng trước ảnh hưởng gia tăng của rào cản chất lượng điều
hành chỉ vì lý do tồn tại thì rất có thể không có mối quan hệ giữa các khía cạnh tinh
thần doanh nhân và kết quả kinh doanh. Để tìm hiểu rõ thêm về mối quan hệ này, các
nghiên cứu tiếp theo cần bổ sung thêm biến kết quả kinh doanh để kiểm định đồng
thời trong mô hình nghiên cứu. Tóm lại, nghiên cứu đã cung cấp những bằng chứng
thực nghiệm quan trọng về mối quan hệ giữa thể chế chính thống, thể chế không
chính thống và từng khía cạnh tinh thần doanh nhân của các DNNVV Việt Nam. Với
những đóng góp cụ thể về mặt lý luận và thực tiễn, kết quả của luận án không chỉ có
thể được tiếp tục tham khảo và sử dụng trong các nghiên cứu tiếp theo về nội dung
liên quan, mà còn cung cấp các cơ sở khoa học cho các nhà hoạch định chính sách,
các cơ quan quản lý Nhà nước hoàn thiện thể chế nhằm thúc đẩy tinh thần doanh
nhân của các DNNVV Việt Nam phát triển. Qua đó, tăng cường năng lực cạnh tranh
của các DNNVV trong thời kỳ hội nhập quốc tế đang ngày càng sâu, rộn
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 12 trang
12 trang | 
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 863 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận án Ảnh hưởng của thể chế tới tinh thần doanh nhân: Nghiên cứu tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 phí tài 
chính, việc tuân thủ sự quan liêu và cứng nhắc của các cơ quan Nhà nước. Rào cản 
này dẫn đến sự leo thang mức độ không chắc chắn và chi phí, ngăn cản khả năng tiếp 
cận của doanh nghiệp với các nguồn lực để hỗ trợ hoặc kích thích sự đổi mới. Bên 
cạnh đó, sự nhận thức về cơ hội và rủi ro của doanh nghiệp ảnh hưởng đến sự đổi mới 
sáng tạo và chủ động tiên phong của các doanh nghiệp (Haro và các công sự, 2011). 
Khi mà mức độ không chắc chắn và chi phí tăng cao thì khả năng quản trị rủi ro của 
doanh nghiệp bị hạn chế, đặc biệt là các DNNVV. Điều này sẽ làm cho các doanh 
nghiệp suy giảm mức độ chấp nhận rủi ro để có thể hướng tới các cơ hội kinh doanh. 
Sự tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục và các dịch vụ hỗ trợ của các cơ quan Nhà nước 
cho các DNNVV khi thác các cơ hội kinh doanh mới sẽ ảnh hưởng tích cực đến mức 
độ chấp nhận rủi ro của các doanh nghiệp (Haro và các công sự, 2011). Do đó, việc 
gia tăng chi phí tiền bạc và chi phí thời gian, cũng như các doanh nghiệp còn phải đối 
 7
mặt với sự phiền hà khi thực hiện các thủ tục kinh doanh sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến 
mức độ chấp nhận rủi ro của doanh nghiệp. Như vậy, chất lượng điều hành sẽ có thể 
ảnh hưởng tiêu cực đến cả ba khía cạnh của tinh thần doanh nhân. Các rào cản của 
chất lượng điều hành đối với hoạt động của các DNNVV cũng đã được các nghiên 
cứu trong nước đề cập tới (CIEM và các cộng sự, 2016; VCCI, 2016). Việc thanh tra, 
kiểm tra và quá nhiều các loại chi phí đã làm nản lòng các doanh nghiệp sản xuất và 
kinh doanh, ngại ngần đầu tư, giảm động lực đổi mới sáng tạo (Nguyễn Thị Luyến, 
2018; Lê Du Phong và Lê Huỳnh Mai, 2018). Căn cứ vào kết quả tổng quan, luận án 
đề xuất các giả thuyết nghiên cứu sau: 
H1a: Chất lượng điều hành có mối quan hệ ngược chiều với mức độ đổi mới sáng tạo. 
H1b: Chất lượng điều hành có mối quan hệ ngược chiều với mức độ chấp nhận rủi ro. 
H1c: Chất lượng điều hành có mối quan hệ ngược chiều với mức độ chủ động tiên phong. 
 Sự không phù hợp của hệ thống chính sách, quy định được định nghĩa là tính 
phức tạp/sự chồng chéo, thiếu rõ ràng và tính biến động/thiếu ổn định và thiếu nhất 
quán của hệ thống chính sách, quy định của Nhà nước. Các rào cản này được đề cập 
đến bởi Lajqi và Krasniqi (2017). Đây cũng là hai đặc trưng điển hình của thể chế 
chính thống tại Việt Nam. Các chính sách của Nhà nước đề cập đến việc ban hành và 
thực thi luật pháp, pháp lệnh, qui định với bất cứ hình thức pháp chế nào và/hoặc các 
quyết định của chính phủ, đặc biệt là những văn bản ảnh hưởng đến lĩnh vực kinh 
doanh (Forgel, 2001). Chính sách nhà nước có thể được xem như một ống dẫn qua đó 
các DNNVV có thể tham gia các hoạt động kinh doanh phù hợp với các qui tắc và 
qui định bên ngoài, vì thế, làm giảm mức độ không chắc chắn trong hoạt động kinh 
doanh (Roxas và các cộng sự, 2008). Các tài liệu về thể chế, cả lý thuyết và thực 
nghiệm đã chỉ ra rằng các quy định và chính sách của Nhà nước có ảnh hưởng trực 
tiếp đến tinh thần doanh nhân (Dickson và Weaver, 2008; Roxas và các cộng sự, 
2008; Alvarez và Urbano, 2012). Phần lớn các nghiên cứu đều thừa nhận, các quy 
định pháp luật theo hướng hoàn thiện và phát triển, đảm bảo tuân thủ đúng theo cơ 
chế thị trường thì có mối quan hệ tích cực với sự phát triển của các doanh nghiệp 
thông qua khả năng đổi mới và quyết định chiến lược (Roxas và các cộng sự, 2008). 
Mối quan hệ sẽ theo chiều ngược lại nếu các quy định pháp luật trở thành rào cản cho 
hoạt động của các doanh nghiệp (Chadee và Roxas, 2013; Liu, 2011; Zhu và các cộng 
sự, 2012). Các quy định và chính sách của Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc cản trở các 
cơ hội để để DNNVV theo đuổi các dự án sáng tạo nhiều rủi ro hơn nhưng đầy hứa 
hẹn (Zhu và các cộng sự, 2012). Sự thiếu ổn định và phức tạp của hệ thống quy định 
chính sách gây ra rủi ro chính sách, rủi ro kinh doanh, mất động lực đổi mới sáng tạo 
và ảnh hưởng đến quyết định đầu tư phát triển của các doanh nghiệp (Nguyễn Thị 
Luyến, 2018). Bởi vì các chính sách không phù hợp nên môi trường trở nên đối 
nghịch với tăng trưởng kinh doanh và các doanh nhân khó dự đoán triển vọng về kinh 
 8
tế trong tương lai để hình thành các mối quan hệ hợp đồng. Điều này có thể ngăn cản 
các DNNVV chấp nhận rủi ro để đầu tư (Lajqi và Krasniqi, 2017). Bên cạnh đó, sự 
phức tạp và hay thay đổi của các quy định và chính sách của Nhà nước sẽ làm cho 
các doanh nghiệp khó dự đoán cũng như làm thế nào để phù hợp với các quy định khi 
muốn tiên phong trên thị trường. Điều này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tính chủ 
động tiên phong của các doanh nghiệp. Căn cứ vào kết quả tổng quan, luận án đề xuất 
các giả thuyết nghiên cứu sau: 
H2a: Sự không phù hợp của hệ thống chính sách, quy định của Nhà nước có mối quan 
hệ ngược chiều với mức độ đổi mới sáng tạo. 
H2b: Sự không phù hợp của hệ thống chính sách, quy định của Nhà nước có mối quan 
hệ ngược chiều với mức độ chấp nhận rủi ro. 
H2c: Sự không phù hợp của hệ thống chính sách, quy định của Nhà nước có mối quan 
hệ ngược chiều với mức độ chủ động tiên phong. 
2.1.2.3 Cơ sở lý thuyết và các giả thuyết nghiên cứu về mối quan hệ giữa thể chế 
không chính thống và tinh thần doanh nhân 
 Mặc dù còn có các ý kiến khác nhau trong việc xác định các yếu tố thể chế 
không chính thống (Helke và Levisky, 2006; Sayoum, 2011), nhưng nói chung thể 
chế không chính thống có thể được xác định theo ba nhóm các yếu tố chủ yếu: nhóm 
thứ nhất bao gồm các yếu tố văn hóa quốc gia, các chuẩn mực trong xã hội (Busenitz 
và các cộng sự, 2000); nhóm thứ hai là các yếu tố xã hội như lòng tin, danh tiếng 
(Wicks và Berman, 2004; Seyoum, 2011); nhóm thứ ba là các yếu tố được sinh ra do 
kết quả của sự thiếu hụt và yếu kém của thể chế chính thống như mạng lưới quan hệ 
(Aslanion, 2006), tham nhũng và kết nối chính trị (Li, 2009). Tất cả ba nhóm yếu tố 
này của thể chế không chính thống đều hướng tới việc đạt được “sự chấp nhận” khi 
phải tuân thủ “luật chơi” trong một xã hội. Covin và Miller (2014) và Miller (2011), 
các học giả chuyên nghiên cứu về lĩnh vực tinh thần doanh nhân đã đưa ra gợi ý rằng: 
tinh thần doanh nhân có thể được định hình bởi sức mạnh xã hội, các bên liên quan 
hoặc áp lực của chính phủ để bắt chước hoặc nổi bật so với đối thủ cạnh tranh hoặc 
thúc đẩy tổ chức của nó được chấp nhận. Trong bối cảnh các nền kinh tế chuyển đổi 
và đang phát triển, các nghiên cứu đã đưa ra một số yếu tố thể chế không chính 
thống, điển hình như tham nhũng (Li, 2009, Zhghenti, 2017), lòng tin (Nguyen và các 
cộng sự, 2005; Seyoum, 2011), và mạng lưới quan hệ (Aslanion, 2006; Steer và Sen, 
2010). Tuy nhiên, các nghiên cứu đều có sự thống nhất cao về vai trò điều tiết của 
mạng lưới quan hệ với mối quan hệ giữa tinh thần doanh nhân và kết quả kinh doanh 
của các doanh nghiệp (Chin và các cộng sự, 2016; Zhang và Zhang, 2012; Walter và 
các cộng sự, 2006). Bởi vậy, luận án này chỉ nghiên cứu mối quan hệ giữa thể chế 
không chính thống và tinh thần doanh nhân thông qua tìm hiểu ảnh hưởng của hai 
yếu tố thể chế không chính thống là tham nhũng và lòng tin thể chế. 
 9
 Tham nhũng là lạm dụng quyền hạn được giao phó cho lợi ích cá nhân 
(Bardhan, 1997, Transparency International, 2010). Tham nhũng được định nghĩa là 
các cách tự làm giàu, tự thưởng tiền của các quan chức Nhà nước từ cao nhất xuống 
thấp nhất, để lấy được tiền và quà cho cá nhân từ mọi giao dịch của Nhà nước bất cứ 
khi nào có thể. Khái niệm tham nhũng này đã được sử dụng trong nhiều nghiên cứu 
trước đó, bao gồm cả những nghiên cứu trong bối cảnh các nền kinh tế chuyển đổi và 
đang phát triển (Avnimelech và cộng sự, 2014, Chadee và Roxas, 2013) và cũng 
được sử dụng trong nghiên cứu này. Trong thực tế, tham nhũng tồn tại ở tất cả các 
nước. Tuy nhiên, ở các nền kinh tế chuyển đổi, nó đã được coi là một hiện tượng phổ 
biến và mức độ của nó là cao hơn đáng kể so với ở các nền kinh tế phát triển 
(Tonoyan và cộng sự, 2010). Mặc dù nỗ lực chống tham nhũng của chính phủ và các 
chiến dịch chống tham nhũng khác nhau ở các nước đang phát triển, nhưng tham 
nhũng vẫn là một thách thức lớn đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp 
và nó đã được gợi ý như một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hành vi của các 
doanh nghiệp (Chadee và Roxas, 2013; Le, 2017). 
 Liên quan đến những ảnh hưởng của tham nhũng đối với các hành vi của công 
ty, các tài liệu đã cho thấy tham nhũng có ảnh hưởng đến việc phân bổ nguồn lực 
ngay lập tức hoặc trong tương lai (Macrae, 1982) và có thể có một số tác động tích 
cực trong ngắn hạn nhưng nó sẽ cản trở sự đổi mới và phát triển bền vững của các 
doanh nghiệp (Avnimelech và cộng sự, 2014; Nguyen và các cộng sự, 2016). Ở cấp 
quốc gia, tác động tiêu cực của tham nhũng đã được ghi nhận rộng rãi trong các 
nghiên cứu trước đây như tạo ra những động lực tiêu cực cho các doanh nhân tham 
gia vào các cơ hội tạo ra giá trị trong hoạt động sản xuất kinh doanh và do đó dẫn đến 
giảm các hoạt động của tinh thần doanh nhân (Avnimelech và các cộng sự, 2014). Ở 
cấp độ công ty, một số nghiên cứu trước đây đã cho thấy tác động tiêu cực của tham 
nhũng đối với sự đổi mới của công ty (Chadee và Roxas, 2013, Nguyen và các cộng 
sự, 2016). Tham nhũng đã góp phần vào việc định hình hành vi tinh thần doanh nhân 
của các doanh nghiệp nhỏ trong bối cảnh của các nền kinh tế chuyển đổi (Tonoyan và 
các cộng sự, 2010). Tham nhũng được xác là một trở ngại rất lớn đối với hoạt động 
của các DNNVV (Aidis, 2005; Hashi & Krasniqi, 2011). Khi tham nhũng ở mức độ 
cao, các doanh nghiệp sẽ có xu hướng kinh doanh ngắn hạn, ít đầu tư và chộp giật 
(Nguyễn Văn Thắng, 2015). Như vậy, mức độ chấp nhận rủi ro và chủ động tiên 
phong của các doanh nghiệp có thể sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực bởi họ không có ý định 
đầu tư lâu dài, không chú trọng vào phát minh và sáng tạo. Tuy nhiên, ảnh hưởng của 
tham nhũng đến tất cả các khía cạnh của tinh thần doanh nhân (đổi mới sáng tạo, 
chấp nhận rủi ro và chủ động tiên phong,) dường như ít được quan tâm nghiên cứu. 
Căn cứ vào cơ sở tổng quan, luận án đề xuất các giả thuyết nghiên cứu sau: 
H3a: Tham nhũng có mối quan hệ ngược chiều với mức độ đổi mới sáng tạo. 
 10
H3b: Tham nhũng có mối quan hệ ngược chiều với mức độ chấp nhận rủi ro. 
H3c: Tham nhũng có mối quan hệ ngược chiều với mức độ chủ động tiên phong. 
 Lòng tin là một thể chế không chính thống quan trọng và thường được sử dụng 
(Williamson, 1993; Dixit, 2009; Seyoum, 2011) đã trở thành một nguyên tắc quan 
trọng của tổ chức khi thiếu hụt một thể chế thị trường mạnh (Nguyen và các cộng sự, 
2005) và phát triển lòng tin sẽ có một kết quả hoạt động tốt hơn (Wicks và Berman, 
2004; Nguyen và Rose, 2009). Lòng tin thường được nhìn nhận là có thể thay thế cho 
một thể chế thị trường phát triển (Redding, 1990; Peng & Heath, 1996). Có rất nhiều 
các nghiên cứu về các loại lòng tin khác nhau và cũng có rất nhiều khái niệm về lòng 
tin. Nói chung, lòng tin được coi là một thể chế không chính thống đề cập đến các hệ 
thống tín ngưỡng đã được thiết lập về hành vi của người khác. Cần thiết phải xác 
định các loại lòng tin cụ thể trong nghiên cứu để so sánh thích hợp. Rus và Iglic 
(2005) đã kiểm tra lòng tin của các DNNVV bao gồm lòng tin thể chế và lòng tin 
giữa các cá nhân. Lòng tin thể chế trong nghiên cứu này được định nghĩa là các kỳ 
vọng được chia sẻ có nguồn gốc từ các cấu trúc xã hội chính thức thông qua các tín 
hiệu như là thành viên của các hiệp hội nghề nghiệp hoặc các cơ chế trung gian như 
quy định pháp luật, ngân hàng, sự quan liêu của chính phủ (Fuglsang và Jagd, 2015), 
nói chung là vượt ra khỏi một giao dịch nhất định và vượt ra ngoài các đối tác trao 
đổi cụ thể (Zucker, 1986; p. 63). Lòng tin thể chế thúc đẩy sự hợp tác và sẽ có tác 
động tích cực đến kết quả khi khuyến khích các chủ thể tham gia vào các mối quan hệ 
hợp tác kinh doanh với một loạt các đối tác tiềm năng do đó mở rộng cơ hội kinh 
doanh và các nguồn lực sẵn có (Rus & Iglic, 2005). Như vậy, lòng tin thể chế có thể 
ảnh hưởng đến tinh thần doanh nhân là mối quan hệ cần được kiểm tra bằng các 
nghiên cứu cả lý thuyết lẫn thực nghiệm. Trong nghiên cứu này, căn cứ vào mục đích 
nghiên cứu, tác giả tập trung vào lòng tin thể chế, nó được xem là trung tâm nhất 
trong chức năng của các hệ thống kinh tế xã hội hiện đại và rất quan trọng trong giai 
đoạn đầu của mối quan hệ giữa các công ty (Rus và Iglic, 2005). Tương tự như tham 
nhũng, lòng tin thể chế đã được tìm thấy đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra 
môi trường thể chế. Các hoạt động của tinh thần doanh nhân đòi hỏi một nền tảng cơ 
bản của lòng tin thể chế (Karmann et al, 2016). Trong đó, tinh thần doanh nhân và sự 
đổi mới của doanh nghiệp có thể bị suy giảm hoặc phát triển (Anokhin và Schulze, 
2009; Ellonen và cộng sự, 2008). Căn cứ vào cơ sở tổng quan, luận án đề xuất các giả 
thuyết nghiên cứu sau: 
H4a: Lòng tin thể chế có mối quan hệ cùng chiều với mức độ đổi mới sáng tạo. 
H4b: Lòng tin thể chế có mối quan hệ cùng chiều với mức độ chấp nhận rủi ro. 
H4c: Lòng tin thể chế có mối quan hệ cùng chiều với mức độ chủ động tiên phong. 
 11
2.2 Đề xuất mô hình nghiên cứu 
 Mô hình lý thuyết được xây dựng dựa trên các yếu tố thể chế chính thống và 
không chính thống có thể ảnh hưởng đến từng khía cạnh của tinh thần doanh nhân. 
Mặc dù chưa có khung lý thuyết chủ đạo cho nghiên cứu, tuy nhiên qua kết quả tổng 
quan, kế thừa từ các bằng chứng thực nghiệm và các gợi ý từ các nghiên cứu trước 
đây, luận án đề xuất mô hình nghiên cứu như hình 2.4. 
Hình 2.4: Mô hình nghiên cứu 
Sự không phù 
hợp của hệ 
thống chính 
sách, quy định 
Chất lượng 
điều hành 
Lòng tin 
 thể chế 
Tham nhũng 
Đổi mới 
sáng tạo 
Chấp nhận 
rủi ro 
Chủ động 
tiên phong 
- Thời gian 
hoạt động 
- Hình thức 
sở hữu 
 12
CHƯƠNG 3 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
3.1. Thiết kế nghiên cứu tổng thể 
Luận án sử dụng cả hai cách tiếp cận là định tính và định lượng. Định tính 
được thực hiện trong giai đoạn 1 (trước khi tiến hành nghiên cứu định lượng) và cách 
tiếp cận định lượng được thực hiện trong giai đoạn 2 với mục tiêu kiểm định mô hình 
và các giả thuyết nghiên cứu. 
Với cách tiếp cận định tính, đề tài thực hiện các cuộc phỏng vấn sâu nhằm làm 
rõ hơn và kiểm tra sự phù hợp của khái niệm và nội dung của ‘tinh thần doanh nhân’ 
trong bối cảnh ở Việt Nam. Thêm nữa, thể chế không chính thống là vấn đề còn nhiều 
tranh luận, nhạy cảm, khó đo lường nên cần phải thăm dò tìm hiểu. Bên cạnh đó, 
nghiên cứu định tính cũng giúp có cái nhìn tổng quát về sự phù hợp của mô hình và 
các mối quan hệ trong mô hình nghiên cứu đề xuất trước khi tiến hành nghiên cứu 
định lượng với qui mô mẫu lớn. Ngoài ra, nghiên cứu định tính giúp phát hiện và bổ 
sung các chỉ báo đo lường cho các biến nghiên cứu. 
Nghiên cứu định lượng được thực hiện thông qua một cuộc điều tra chọn mẫu 
đối với các DNNVV Việt Nam ở ba trung tâm kinh tế lớn (Hà Nội, Đà Nẵng và thành 
phố Hồ Chí Minh). Mô hình và các giả thuyết nghiên cứu được kiểm định với dữ liệu 
khảo sát thu thập từ mẫu nghiên cứu. Việc sử dụng cả hai cách tiếp cận định tính và 
định lượng giúp hiểu được vấn đề nghiên cứu một cách sâu sắc hơn và kết quả nghiên 
cứu có độ tin cậy cao hơn. 
3.2 Nghiên cứu định tính 
3.2.1Mục tiêu nghiên cứu 
Vẫn còn một số quan điểm khác nhau về tinh thần doanh nhân của các 
DNNVV (Hoàng Văn Hoa, 2010), các mối quan hệ giữa các yếu tố thể chế và các 
khía cạnh của tinh thần doanh nhân là chưa thực sự rõ ràng. Căn cứ vào mục tiêu 
nghiên cứu chung của luận án và một số yếu tố thể chế mang tính nhậy cảm cao nên 
luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính là phù hợp để tìm hiểu và làm rõ 
hơn những khái niệm nghiên cứu mà tác giả quan tâm. 
Nghiên cứu định tính lần 1 với mục đích của nghiên cứu là thăm dò và tìm hiểu 
về bản chất khái niệm tinh thần doanh nhân và các khía cạnh của tinh thần doanh 
nhân. Sau khi xác định được các khía cạnh của tinh thần doanh nhân trong bối cảnh 
các DNNVV Việt Nam, nghiên cứu định tính lần 2 được thực hiện với mục đích là 
tìm hiểu và thăm dò về các yếu tố thể chế chính thống và không chính thống ảnh 
hưởng tới tinh thần doanh nhân của các DNNVV. 
 13
3.2.2 Phương pháp thực hiện 
3.2.2.1 Mẫu nghiên cứu 
Các doanh nghiệp được lựa chọn cho nghiên cứu là các DNNVV Việt Nam với 
các tiêu chí theo đúng Nghị định số 56/2009/NĐ-CP, ngày 30 tháng 6 năm 2009 của 
Chính phủ. Sự lựa chọn các doanh nghiệp đảm bảo sự đa dạng của mẫu nghiên cứu 
về các loại hình doanh nghiệp, hình thức sở hữu, quy mô doanh nghiệp (vốn và số 
lượng nhân viên), và ở các lĩnh vực hoạt động khác nhau. Một lưu ý quan trọng để tác 
giả lựa chọn đối tượng trả lời phỏng vấn đó là: tinh thần doanh nhân thường hoạt 
động theo quan điểm của các nhà quản lý cấp cao (Wiklund & Shepherd, 2003). Họ 
là những người ảnh hưởng cao đến chiến lược công ty (Keh & cộng sự, 2007). 
Phương pháp tiếp cận này được chấp nhận trong các nghiên cứu, đặc biệt là trong bối 
cảnh các DNNVV (Keh & cộng sự, 2007, Wiklund & Dean 2003). Do đó, trong 
nghiên cứu này tác giả đã chọn Tổng giám đốc/Giám đốc hoặc Phó Tổng giám 
đốc/phó giám đốc hoặc Thành viên Hội đồng quản trị/Hội đồng thành viên của mỗi 
công ty với tư cách là người được phỏng vấn. Tất cả các nhà quản lý hàng đầu được 
lựa chọn là những người đã từng làm việc với công ty trong nhiều năm và họ hiểu rất 
rõ về công ty. Tất cả các doanh nghiệp trong mẫu đã hoạt động ít nhất 3 năm. Với 
cách thức chọn mẫu này có thể đảm bảo tính đại diện cho tổng thể và đã được một số 
các nghiên cứu trước thực hiện khi nghiên cứu về tinh thần doanh nhân của các 
DNNVV tại Việt Nam (Nguyen, 2011; Swierczek & Thai, 2003). 
Các doanh nghiệp được lựa chọn cho nghiên cứu định tính lần 1 là các 5 
DNNVV tại Hà Nội, đây là một trong hai thành phố có số lượng DNNVV lớn nhất 
Việt Nam. Phương thức lựa chọn mẫu này cũng đã được các nghiên cứu trước đây 
thực hiện khi sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính (Nguyen, 2009). Tên doanh 
nghiệp được mã hóa để giữ bí mật theo yêu cầu. 
Các doanh nghiệp được lựa chọn cho nghiên cứu định tính lần 2 là 21 DNNVV 
đến từ đến từ ba trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước, đại diện cho ba khu vực Bắc-
Trung-Nam (Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh). Ba thành phố được lựa 
chọn trong mẫu nghiên cứu này có số lượng DNNVV chiếm trên 80% tổng số 
DNNVV của cả nước (Tổng cục thống kê, 2018). 
3.2.2.2 Thu thập và phân tích dữ liệu 
Trước khi tiến hành thu thập dữ liệu, căn cứ vào mô hình nghiên cứu, tác giả tiến 
hành thiết kế lưới hướng dẫn phỏng vấn sâu (xem phụ lục 01A và 01B), trong đó sẽ định 
hình trước các thông tin cần thu thập. Nghiên cứu này sử dụng nhiều nguồn dữ liệu. Dữ 
liệu được thu thập từ nghiên cứu tại bàn, quan sát và phỏng vấn sâu, trong đó phương 
pháp phỏng vấn sâu là phương pháp được sử dụng chính trong nghiên cứu. 
 Cụ thể, tác giả đã tìm kiếm các trang web và tài liệu liên quan đến các 
DNNVV, đặc điểm và tình hình hoạt động của họ trong thời gian gần đây. Quan sát 
 14
được thực hiện bởi tác giả trong các chuyến đi thăm các công ty vì tác giả có mối 
quan hệ tốt với các công ty này. Trong mỗi chuyến thăm, tác giả thường xuyên làm 
việc và thảo luận trực tiếp với các nhà lãnh đạo hàng đầu của mỗi công ty. Vì vậy, tác 
giả có thể quan sát hoạt động của các công ty, các hành vi của các nhà lãnh đạo công 
ty và có thể có một sự nhìn nhận tốt hơn về mức độ của tinh thần doanh nhân của mỗi 
công ty. Trọng tâm của các cuộc phỏng vấn là tìm hiểu các yếu tố thể chế chính thống 
và không chính thống, cũng như tác động của chúng đối với các khía cạnh của tinh 
thần doanh nhân của các DNNVV. Cụ thể, đầu tiên, những người cung cấp thông tin 
được đề nghị cung cấp bức tranh tổng thể về hoạt động của công ty trong năm năm 
qua và xác định các rào cản chính đối với hoạt động kinh doanh của họ, đặc biệt là từ 
môi trường thể chế. Tiếp theo, các mức độ của chủ động tiên phong, tính đổi mới 
sáng tạo và xu hướng chấp nhận rủi ro của công ty (tức là ba khía cạnh của tinh thần 
doanh nhân) đã được khám phá và các yếu tố ảnh hưởng đến các thực tiễn tinh thần 
doanh nhân của các công ty này đã được thăm dò. Trong các cuộc phỏng vấn, các tác 
động của các yếu tố thể chế, đặc biệt là thể chế không chính thống (tham nhũng và 
lòng tin thể chế) trên từng khía cạnh của tinh thần doanh nhân đã được nghiên cứu kỹ 
lưỡng. Mỗi cuộc phỏng vấn kéo dài từ 45 phút đến 60 phút. Các cuộc phỏng vấn 
được tiến hành tại văn phòng của người được phỏng vấn ở công ty hoặc tại nơi lựa 
chọn của người được phỏng vấn nhằm tạo được tâm lý thoải mái. Các cuộc phỏng 
vấn đã được ghi âm lại, sau đó chuyển sang văn bản để phân tích. 
Tất cả các cuộc phỏng vấn đều được thu âm. Dữ liệu phỏng vấn sau khi đã được 
gỡ băng, đánh máy thành văn bản và được tiến hành phân tích. Các chủ đề xuất hiện 
trong mỗi cuộc phỏng vấn đều được ghi chú và tập trung phân tích. Sau mỗi phỏng 
vấn, các nội dung được xem xét kỹ để có thể thay đổi, định hướng cho các phỏng vấn 
tiếp theo. Để phân tích các bằng chứng thu được của nghiên cứu định tính lần 1, tác giả 
đã thực hiện mã hóa các nội dung dựa trên khái niệm lý thuyết về tinh thần doanh nhân 
và các khía cạnh của tinh thần doanh nhân. Sau đó các mã hóa hóa được xác định tần 
suất ở mỗi đối tượng phỏng vấn và làm căn cứ để tổng hợp cho mỗi chủ đề ở tất cả các 
đối tượng phỏng vấn. Tương tự như nghiên cứu lần 1, các chủ đề chính xuất hiện trong 
mỗi cuộc phỏng vấn của nghiên cứu định tính lần 2 đã được xác định và phân tích kỹ 
lưỡng. Sau mỗi phỏng vấn, các nội dung được xem xét để có thể thay đổi, định hướng 
cho các phỏng vấn tiếp theo. Căn cứ vào việc xác định các yếu tố thể chế và các khía 
cạnh của tinh thần doanh nhân qua quá trình tổng quan cùng một số cơ chế tác động, 
luận án thực hiện mã hóa dữ liệu theo các yếu tố để tìm ra các mối quan hệ. 
3.2.3 Kết quả nghiên cứu 
Căn cứ vào mục tiêu nghiên cứu của luận án, nghiên cứu định tính đã đạt một 
số kết quả như sau: 
• Tinh thần doanh nhân của các DNNVV Việt Nam bao gồm 3 khía cạnh nổi bật, 
 15
đó là: tính đổi mới sáng tạo; tính chấp nhận rủi ro; tính chủ động tiên phong đi 
trước đối thủ. Đây là căn cứ để xác định sự phù hợp khi nghiên cứu tinh thần 
doanh nhân với 3 khía cạnh trong mô hình nghiên cứu đề xuất. 
• Thể chế chính thống có ảnh hưởng đến tinh thần doanh nhân thông qua một 
trong các rào cản điển hình, đó là sự biến động và phức tạp của hệ thống các 
quy định và chính sách của Nhà nước. Đây là căn cứ để bổ sung 2 chỉ báo đo 
lường về sự phù hợp của hệ thống chính sách, quy định. 
• Tham nhũng và lòng tin thể chế là hai yếu tố thể chế không chính thống được 
xác định có ảnh hưởng quan trọng đến tinh thần doanh nhân của các DNNVV. 
Bước đầu cho thấy, tham nhũng ảnh hưởng tiêu cực đến tinh thần doanh nhân 
và lòng tin thể chế có ảnh hưởng tích cực đến tinh thần doanh nhân. Điều này 
cũng phù hợp với mô hình nghiên cứu đã đề xuất. Lòng tin thể chế được cảm 
nhận và chia sẻ tích cực ở một số doanh nghiệp, do vậy luận án đề xuất thêm 1 
chỉ báo đo lường để thể hiện nội dung này. 
3.3 Nghiên cứu định lượng 
 Sau khi thực hiện nghiên cứu định tính, tác giả tiến hành nghiên cứu định 
lượng thông qua một cuộc điều tra các DNNVV nhằm mục đích kiểm định mô hình 
và các giả thuyết nghiên cứu. Phần sau đây sẽ trình bày một số nội dung chính như 
sau: các thang đo sử dụng trong luận án và quá trình xây dựng bảng hỏi, mẫu điều tra 
và cách thức thu thập dữ liệu điều tra. 
3.3.1 Thang đo và phát triển bảng hỏi 
3.3.1.1 Thang đo 
Hầu hết các thang đo trong nghiên cứu này đều được kế thừa từ các nghiên cứu 
trước và được sàng lọc, điều chỉnh để phù hợp với bối cảnh nghiên cứu ở Việt Nam. 
Việc sàng lọc và điều chỉnh các thang đo này được thực hiện thông qua ý kiến của hai 
chuyên gia có kinh nghiệm đào tạo, giảng dạy và nghiên cứu về lĩnh vực tinh thần 
doanh nhân và thể chế. Luận án cũng bổ sung thêm năm chỉ báo đo lường cho ba biến 
nghiên cứu, từ các nghiên cứu trước và từ kết quả nghiên cứu định tính. Tất cả các 
thang đo được kế thừa từ các nghiên cứu trước đều sử dụng thang 5-point Likert-type. 
Do vậy, thang 5 điểm cũng đã được được sử dụng cho luận án này với 1 là rất không 
đồng ý, 2 là không đồng ý, 3 là bình thường (trung lập), 4 là đồng ý, 5 là rất đồng ý. 
 Căn cứ vào kết quả các nghiên cứu trước và kết quả của nghiên cứu định tính, 
luận án sử dụng cho phân tích với 2 biến kiểm soát gồm: thời gian hoạt động và hình 
thức sở hữu. Nội dung mã hóa chi tiết các biến kiểm soát có thể tham khảo ở phụ lục 
02. Thời gian hoạt động được hiểu là thời gian tính từ thời điểm doanh nghiệp bắt đầu 
thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh cho đến thời điểm hiện tại. Biến này được 
chia làm 02 khoảng thời gian gồm: dưới 6 năm; từ 6 năm trở lên. Hình thức sở hữu 
 16
được chia làm 02 loại: doanh nghiệp có vốn Nhà nước và doanh nghiệp không có vốn 
Nhà nước. 
3.3.1.2 Phát triển bảng hỏi 
Nhằm đảm bảo chất lượng dữ liệu thu thập được sử dụng cho nghiên cứu, việc 
thiết kế bảng hỏi được thực hiện theo một quy trình chặt chẽ và khoa học. Luận án đã 
thực hiện việc xây dựng bảng hỏi theo 5 bước như sau: 1/ Xác định khái niệm của các 
biến và thang đo lường các biến trong mô hình nghiên cứu dựa trên các nghiên cứu 
trước đây và kết quả nghiên cứu định tính. 2/ Xây dựng phiên bản tiếng Việt của bảng 
hỏi. 3/ Kiểm tra mức độ chính xác, rõ ràng, mạch lạc của phiên bản tiếng Việt với sự 
hỗ trợ của các chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu. 4/ Điều tra thử mẫu nhỏ với mục 
đích hoàn thiện bảng hỏi để đảm bảo sự chính xác và dễ hiểu. Quy trình được thực 
hiện làm 2 bước với việc phỏng vấn trực tiếp trước 3 doanh nghiệp và sau đó điều tra 
thử với 50 DNNVV. 5/ Hoàn chỉnh bảng hỏi với hình thức trang trọng, tất cả các 
bảng hỏi đều được in màu trên giấy khổ A3. Ngoài ra, bảng hỏi còn bao gồm các câu 
hỏi về thông tin doanh nghiệp, thông tin người trả lời. 
3.3.2 Mẫu nghiên cứu và thu thập dữ liệu 
Cuộc điều tra khảo sát được thực hiện tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ 
Chí Minh. Đây là ba trung tâm kinh tế sôi động nhất của cả nước và chiếm hơn 80% 
tổng số DNNVV đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam (Tổng cục thống kê, 2018). 
Không gian nghiên cứu này cũng được các nhà nghiên cứu lựa chọn để có thể mang 
tính đại diện cho tổng thể các DNNVV Việt Nam (ví dụ, Swierczek và Thai, 2003). 
Kích thước mẫu căn cứ vào số lượng biến quan sát của nghiên cứu và không 
gian nghiên cứu. Theo Hair và các cộng sự (1998), kích thước mẫu tối thiểu gấp từ 5 
đến 10 lần số biến quan sát là có thể sử dụng cho phân tích nhân tố và phân tích hồi 
quy. Như vậy, theo tỉ lệ 1:10 với 24 biến quan sát thì quy mô mẫu tối thiểu là 240 
doanh nghiệp. 
Khung chọn mẫu của nghiên cứu đáp ứng các yêu cầu sau: 
1/ Các DNNVV theo đúng định nghĩa trong Nghị định số 56/2009/NĐ-CP, 
ngày 30 tháng 6 năm 2009 của Chính phủ; 2/ Có thời gian hoạt động tối thiểu 3 năm 
trở lên; 3/ Các doanh nghiệp hoạt động trên 5 lĩnh vực gồm: công nghiệp/chế tạo; 
dịch vụ/thương mại; khai khoáng; xây dựng; nông nghiệp/lâm nghiệp/thủy sản. Trong 
đó doanh nghiệp dịch vụ/thương mại chiếm 70,6% (Tổng cục thống kê, 2018); 4/ Tỉ 
lệ doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ tính trên tổng số DNNVV tại mỗi khu vực căn cứ 
vào số liệu thống kê là 98,5% (Tổng cục thống kê, 2018); 5/ Hình thức sở hữu của 
các doanh nghiệp gồm cả Nhà nước và tư nhân. Trong đó sở hữu ngoài Nhà nước 
chiếm 99,5% (Tổng cục thống kê, 2018). 
 17
Căn cứ vào mục tiêu nghiên cứu của luận án và theo khung chọn mẫu, tác giả 
đã liên hệ với Ban pháp chế (VCCI) và được hỗ trợ cung cấp một danh sách các 
doanh nghiệp đã được sử dụng để điều tra PCI năm 2016 tại Hà Nội, Đà Nẵng và 
thành phố Hồ Chí Minh. Đây là danh sách đã được VCCI lựa chọn theo phương pháp 
ngẫu nhiên phân tầng. Sau khi loại bỏ số lượng các doanh nghiệp dự phòng, các 
doanh nghiệp lớn và các doanh nghiệp mới thành lập (Thời gian hoạt động dưới 3 
năm), số lượng doanh nghiệp còn lại là 1269 doanh nghiệp. 
Theo Mangione (1995), tỉ lệ phản hồi từ 50% đến 59% là chấp nhận được. Tuy 
nhiên, tỉ lệ phản hồi đạt được của nhiều nghiên cứu hiện tại chỉ đạt 30% (Nguyễn Thị 
Tuyết Mai và Nguyễn Vũ Hùng, 2015). Bởi vậy, căn cứ vào quy mô mẫu tối thiểu 
cần thiết, luận án sử dụng toàn bộ 1269 phiếu điều tra khảo sát. 
 Để thực hiện việc thu thập dữ liệu, tác giả đã tiến hành hướng dẫn 10 nhân sự về 
cách thức phát và thu thập phiếu câu hỏi. Các nhân sự này có khả năng giao tiếp và đã có 
kinh nghiệm nhất định khi làm việc với các doanh nghiệp, cụ thể gồm: tại Hà Nội là 4 
nhân viên marketing trong lĩnh vực du lịch và khách sạn; tại Đà Nẵng là 2 nhân viên của 
một viện nghiên cứu; tại thành phố Hồ Chí Minh là 4 sinh viên marketing năm cuối. Để có 
thể tăng được tỉ lệ phản hồi, tất các các phiếu điều tra đều được in màu cùng với thư ngỏ 
gửi các doanh nghiệp của Hiệu phó Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (xem phụ lục 2). 
Bên cạnh đó, tại mỗi khu vực tác giả đều nhờ sự hỗ trợ của hiệp hội các DNNVV gửi thư 
hoặc gọi điện đề nghị các DNNVV thuộc thành viên của hiệp hội hỗ trợ trả lời phiếu điều 
tra. Sau khi thu thập được dữ liệu từ mỗi khu vực, tác giả đã gọi điện kiểm tra ngẫu nhiên 
một số doanh nghiệp để xác định độ tin cậy của dữ liệu thu thập được. 
Thời gian điều tra được thực hiện từ tháng 04/2018 đến hết tháng 07/2018. Số 
lượng phiếu phát ra là 1269 phiếu và số lượng phiếu thu về là 486, tỉ lệ phản hồi đạt 
39%, 138 phiếu không hợp lệ. Số lượng phiếu thu được thấp là do không thể liên hệ 
được với các doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp chuyển địa điểm, một số doanh 
nghiệp khác thì không đồng ý hỗ trợ trả lời phiếu điều tra. Số lượng doanh nghiệp 
không thu được phiếu chủ yếu tập trung vào đối tượng doanh nghiệp siêu nhỏ. 
 Nhìn chung, đặc điểm của mẫu đã đáp ứng được phần lớn các tiêu chí so với khung 
chọn mẫu. Cụ thể, tỉ lệ doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ trong mẫu đạt 90,2% so với 98,5% 
theo mức yêu cầu, tỉ lệ doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ/thương mại đạt 
71,6% so với mức yêu cầu là 70,6%, tỉ lệ sở hữu ngoài Nhà nước chiếm 93,7% so với 
mức yêu cầu là 99,5%. Với phương pháp xác định mẫu nghiên cứu, đặc điểm của mẫu 
nghiên cứu và phương pháp thu thập dữ liệu đã được thực hiện, luận án cho rằng dữ liệu 
thu thập được đã có thể đảm bảo độ tin cậy và tính khái quát cho tổng thể nghiên cứu. 
 Toàn bộ dữ liệu đã thu thập được đảm bảo chất lượng để luận án thực hiện 
phân tích dữ liệu. Kết quả phân tích dữ liệu và báo cáo kết quả nghiên cứu sẽ được 
trình bày tại chương tiếp theo. 
 18
CHƯƠNG 4 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Chương này trình bày kết quả nghiên cứu với nội dung trọng tâm là kiểm định 
mô hình và các giả thuyết nghiên cứu đã đề xuất. Trước khi thực hiện kiểm định này, 
luận án tiến hành đánh giá sơ bộ các thang đo thông qua phân tích nhân tố khám phá 
(exploratory factor analysis - EFA) và hệ số Cronbach’s alpha. Sau đó, nghiên cứu 
thực hiện phân tích nhân tố khẳng định (confirmatory factor analysis - CFA) qua 
đánh giá mô hình đo lường toàn phần (full measurement model). Mô hình và các giả 
thuyết nghiên cứu được kiểm định bằng kỹ thuật phân tích mô hình cấu trúc tuyến 
tính (structural equation modeling - SEM). Phân tích nhân tố khẳng định (CFA) và 
mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) được thực hiện với sự trợ giúp của phần mềm 
AMOS tích hợp trong SPSS 21. 
4.1 Kết quả đánh giá các thang đo 
4.1.1 Đánh giá sơ bộ thang đo qua EFA và Cronbach’s alpha 
Đánh giá thang đo các biến độc lập 
Luận án trước hết thực hiện phân tích EFA đồng thời cho tất cả các chỉ báo đo 
lường các biến độc lập trong mô hình nghiên cứu (hai yếu tố của thể chế chính thống 
và hai yếu tố của thể chế không chính thống). Trước khi phân tích nhân tố, tác giả 
thực hiện kiểm định KMO and Bartlett's Test. Kết quả cho thấy Kaiser-Meyer-Olkin 
Measure of Sampling Adequacy = .836 (từ.6 là chấp nhận được) và Bartlett's Test of 
Sphericity có mức ý nghĩa <.05 (xem phụ lục 03). Kết quả này cho thấy đủ điều kiện 
để thực hiện EFA. Tác giả thực hiện EFA với phép trích Principal Component 
Analysis và phép quay Varimax. Kết quả EFA cho thấy có 04 nhân tố được trích tại 
eigenvalue >1.00 và tổng phương sai trích là 65.836% (xem phụ lục 03). Ngoài ra, 
các biến quan sát đều có hệ số tải cao (trọng số nhân tố) trên khái niệm chúng đo 
lường (từ .547 trở lên) và thấp trên khái niệm chúng không đo lường. Vì vậy, các 
thang đo bốn yếu tố thể chế đều đạt giá trị hội tụ và giá trị phân biệt. 
 Luận án thực hiện đánh giá độ tin cậy của từng thang đo các biến độc lập thông 
qua hệ số Cronbach’s alpha. Tất cả các thang đo đều có alpha vượt ngưỡng yêu cầu theo 
thông lệ >.70, trừ alpha của thang đo lòng tin thể chế = .672. Tuy chưa đạt mức .70 
nhưng alpha này cũng >.60 và cũng đạt mức chấp nhận được (Hair & cộng sự, 1998). 
Đánh giá thang đo các biến phụ thuộc 
Luận án tiếp tục thực hiện phân tích EFA đồng thời cho tất cả các chỉ báo đo 
lường ba biến phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu (ba khía cạnh của tinh thần doanh 
nhân). Kết quả kiểm định KMO and Bartlett's Test cho thấy đạt yêu cầu để thực hiện 
EFA (KMO >.60 và Bartlett's Test of Sphericity có mức ý nghĩa <.05). Kết quả này 
cho thấy đủ điều kiện để thực hiện EFA. Trong quá trình phân tích, có một biến đo 
 19
lường chấp nhận rủi ro (CR3) và một biến đo lường chủ động, tiên phong đi trước đối 
thủ (CD3) bị loại do hệ số tương quan biến tổng quá thấp và khi xóa biến quan sát 
này thì hệ số alpha cải thiện đáng kể và đạt mức yêu cầu (>.70). Kết quả EFA với các 
biến còn lại cho thấy ba nhân tố được trích như mong đợi, đảm bảo giá trị phân biệt 
và hội tụ của các thang đo, với tổng phương sai trích là 76.721%. 
4.1.2 Đánh giá các thang đo qua phân tích nhân tố khẳng định (CFA) 
Kết quả phân tích CFA với mô hình đo lường toàn phần cho thấy mô hình đo 
lường phù hợp tốt với dữ liệu sau khi loại bớt một biến quan sát đo lường ‘tham 
nhũng’ (TN1) do biến này gắn liền với một vài giá trị standadized residual 
covariances > 2.58 (Hair & cộng sự, 1998). Cụ thể, kết quả các chỉ số về độ phù hợp 
của mô hình như sau: χ2 (167) = 350.707, χ2/df = 2.10, p < .001, RMR = .046, 
RMSEA = .056, GFI = .915, CFI = .94, and TLI = .924. Tất cả các kiểm định t-tests 
đều đạt mức ý nghĩa 0.001. Kết quả phân tích CFA với mô hình đo lường toàn phần, 
sử dụng phần mềm AMOS được trình bày trong Phụ lục 03. Như vậy, các thang đo 
với các chỉ báo đo lường đạt yêu cầu và được sử dụng cho các phân tích tiếp theo: 
phân tích mô tả nhằm đánh giá thực trạng các yếu tố thể chế và tinh thần doanh nhân 
của các DNNVV Việt Nam (từ góc độ nhận thức của các DNNVV), và phân tích 
SEM để kiểm định các giả thuyết nghiên cứu. 
4.2 Thực trạng các yếu tố thể chế và tinh thần doanh nhân của các DNNVV Việt Nam 
4.2.1 Thống kê mô tả các yếu tố thể chế và tinh thần doanh nhân của các DNNVV 
Kết quả thống kê mô tả về các yếu tố của thể chế chính thống và không chính thống 
 Kết quả thống kê mô tả chỉ ra mức độ của 02 yếu tố của thể chế chính thống đều ở 
mức dao động trên điểm trung bình một chút ( > 3.2) trên thang điểm 5. Điều này phản 
ánh cảm nhận của các DNNVV về các yếu tố của thể chế chính thống vẫn đang là rào cản 
đối với hoạt động kinh doanh của họ, đặc biệt tính hay thay đổi, thiếu nhất quán và chồng 
chéo của các chính sách và qui định của nhà nước (mean = 3.544, S.D. = .744). 
 Kết quả thống kê mô tả cũng cho thấy điểm trung bình của 02 yếu tố của thể 
chế không chính thống cũng ở mức trên trung bình. Cụ thể, lòng tin thể chế được 
đánh giá ở mức chưa cao (mean = 3.662 trên thang điểm 5; S.D. = .6268). Tham 
nhũng được đánh giá ở mức trên trung bình một chút (mean = 3.351; S.D. = .8321). 
Điều này phản ánh thực trạng các DNVVN vẫn thường phải trả các khoản chi phí 
không chính thức khi làm việc với các cơ quan nhà nước và đây cũng là rào cản đối 
với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 
Kết quả thống kê mô tả về các khía cạnh của tinh thần doanh nhân 
 Đối với đánh giá của các DNVVN về ba khía cạnh của tinh thần doanh nhân, kết 
quả thống kê mô tả cho thấy cả ba khía cạnh đều ở mức chưa cao (< 4 trên thang 
điểm 5). Cụ thể, mức độ dám chấp nhận rủi ro và mức độ chủ động, tiên phong đi 
 20
trước đối thủ chỉ ở mức trung bình (mean = 3.2 trên thang điểm 5). Trong 03 khía 
cạnh của tinh thần doanh nhân, đổi mới sáng tạo được đánh giá ở mức cao hơn một 
cách tương đối (mean = 3.718; S.D. = .634), mặc dù vẫn ở mức < 4. 
4.2.2 So sánh các yếu tố của thể chế và tinh thần doanh nhân theo các nhóm 
doanh nghiệp 
Kết quả phân tích compare means (independent-sample T-test) cho thấy nhóm 
doanh nghiệp có vốn nhà nước đánh giá rào cản về sự không phù hợp của chính sách, 
qui định nhà nước, cũng như chất lượng điều hành lớn hơn so với nhóm doanh nghiệp 
không có vốn nhà nước. 
Kết quả so sánh nhóm theo thời gian hoạt động của doanh nghiệp cho thấy 
nhóm doanh nghiệp có thời gian hoạt động ít hơn (< 6 năm) đánh giá rào cản về chất 
lượng điều hành và mức độ tham nhũng lớn hơn so với nhóm doanh nghiệp đã hoạt 
động lâu năm hơn. 
4.3 Kết quả kiểm định mô hình và giả thuyết nghiên cứu 
Luận án sử dụng kỹ thuật phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) để kiểm 
định mô hình và các giả thuyết nghiên cứu. Kết quả phân tích SEM cho thấy mức độ 
phù hợp của mô hình đạt mức tốt: χ2 (197) = 407.466, χ2/df = 2.068, p < .001, RMR 
= .045, RMSEA = .055, GFI = .911, CFI = .931, và TLI = .911. Tất cả các kiểm định 
t-tests đều đạt mức ý nghĩa 0.001. Mô hình giải thích được 54.3% sự biến thiên của 
khía cạnh ‘dám chấp nhận rủi ro’ (R2 = .543). R2 = .611 đối với khía cạnh ‘đổi mới 
sáng tạo’ và R2 = .606 đối với khía cạnh ‘chủ động, tiên phong đi trước đối thủ’. Phần 
sau đây trình bày kết quả kiểm định các giả thuyết nghiên cứu về tác động của thể chế 
(chính thống và không chính thống) tới các khía cạnh của tinh thần doanh nhân. 
4.3.1 Kết quả kiểm định tác động của thể chế chính thống tới tinh thần doanh nhân 
Kết quả kiểm định giả thuyết qua phân tích SEM cho thấy các giả thuyết về tác 
động của ‘sự không phù hợp của hệ thống chính sách, quy định của Nhà nước‘ tới các 
khía cạnh của tinh thần doanh nhân được chấp nhận, trong khi các giả thuyết về tác 
động của ‘chất lượng điều hành’ không nhận được sự ủng hộ từ dữ liệu. 
Không như mong đợi, các đường quan hệ từ ‘chất lượng điều hành’ tới cả 03 
khía cạnh của tinh thần doanh nhân đều có ý nghĩa thống kê nhưng mang dấu dương, 
ngược với chiều tác động đề xuất. Cụ thể, ‘chất lượng điều hành’ có mối quan hệ 
thuận chiều lần lượt với ‘dám chấp nhận rủi ro’: γ1 = 1.441 (t-value = 6.359), với ‘đổi 
mới sáng tạo’: γ2 = 1.569 (t-value = 5.686), và với ‘chủ động, tiên phong đi trước đối 
thủ’: γ3 = 1.503 (t-value = 6.296). Như vậy, H1a, H1b và H1c không được chấp nhận. 
Chương tiếp theo sẽ bình luận về kết quả này. 
Về tác động của ‘sự không phù hợp của hệ thống chính sách, qui định’ tới các 
khía cạnh của tinh thần doanh nhân, kết quả SEM cho thấy cả ba giả thuyết nghiên 
 21
cứu (H2a, H2b và H2c) đều được chấp nhận. Đúng như đề xuất, ‘sự không phù hợp 
của hệ thống chính sách, qui định’ có tác động ngược chiều tới ‘dám chấp nhận rủi 
ro’ (γ4 = -.439; t-value = -3.53), tới ‘đổi mới sáng tạo’ (γ5 = -.520; t-value = -3.747), 
và tới ‘chủ động, tiên phong đi trước đối thủ’ (γ6 = -.509; t-value = -3.949). 
4.3.2 Kết quả kiểm định tác động của thể chế không chính thống tới tinh thần 
doanh nhân 
 Kết quả SEM cho thấy ‘tham nhũng’ tác động ngược chiều tới cả 03 khía cạnh 
của tinh thần doanh nhân. Cụ thể, đúng như mong đợi, ‘tham nhũng’ có tác động 
ngược chiều tới ‘dám chấp nhận rủi ro’ (γ7 = -.658; t-value = -4.535), tới ‘đổi mới sáng 
tạo’ (γ8 = -.845; t-value = -4.949), và tới ‘chủ động, tiên phong đi trước đối thủ’ (γ9 = -
.729; t-value = -4.835). Vì vậy, các giả thuyết H3a, H3b và H3c được chấp nhận. 
 Về tác động của yếu tố ‘lòng tin thể chế’ tới tinh thần doanh nhân, kết quả 
phân tích đã chỉ ra cả 03 giả thuyết H4a, H4b và H4c đều được chấp nhận. Cụ thể, 
‘lòng tin thể chế’ có tác động thuận chiều tới ‘dám chấp nhận rủi ro’ (γ10 = .492; t-
value = 4.289), tới ‘đổi mới sáng tạo’ (γ11 = .534; t-value = 4.131), và tới ‘chủ động, 
tiên phong đi trước đối thủ’ (γ12 = .642; t-value = 5.134). 
 Dựa vào các kết quả kiểm định mô hình, ở chương tiếp theo, luận án sẽ trình bày 
các kiến nghị và đề xuất nhằm nâng cao tinh thần doanh nhân của các DNNVV Việt Nam. 
CHƯƠNG 5 
BÌNH LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT 
5.1 Bình luận về kết quả nghiên cứu 
5.1.1 Bình luận về kết quả nghiên cứu mối quan hệ giữa thể chế chính thống và 
tinh thần doanh nhân 
Sự không phù hợp của hệ thống chính sách, quy định của Nhà nước có mối 
quan hệ ngược chiều với cả ba khía cạnh của tinh thần doanh nhân. Điều này cho thấy 
ảnh hưởng tiêu cực của thể chế chính thống đối với hoạt động kinh doanh của các 
DNNVV, đặc biệt là ảnh hưởng đến các quyết định chiến lược của doanh nghiệp. 
5.1.2 Bình luận về kết quả nghiên cứu mối quan hệ giữa thể chế không chính 
thống và tinh thần doanh nhân 
Lòng tin thể chế và tinh thần doanh nhân 
Lòng tin thể chế có mối quan hệ cùng chiều với cả ba khía cạnh của tinh thần 
doanh nhân. Như vậy, đây là yếu tố thể chế duy nhất trong nghiên cứu có ảnh hưởng 
tích cực đến tinh thần doanh nhân của các DNNVV. 
Tham nhũng và tinh thần doanh nhân 
 22
Kết quả nghiên cứu định tính và kết quả nghiên cứu định lượng đều khẳng định 
ảnh hưởng tiêu cực của tham nhũng đến tinh thần doanh nhân. Các doanh nghiệp bị 
mất động lực để thực hiện các hoạt động đổi mới và theo đuổi các cơ hội kinh doanh 
có rủi ro cao khi mà chi phí không chính thức đã trở thành luật bất thành văn. 
5.1.3 Bình luận về kết quả khác nhau giữa các nhóm doanh nghiệp khi đánh giá 
về các rào cản thể chế. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác nhau khi đánh giá về các yếu tố thể 
chế giữa các nhóm doanh nghiệp. Cụ thể, khi đánh giá về sự không phù hợp của hệ 
thống chính sách, qui định nhà nước, cũng như chất lượng điều hành cho thấy nhóm 
doanh nghiệp có vốn nhà nước đánh giá rào cản lớn hơn so với nhóm doanh nghiệp 
không có vốn nhà nước. Điều này chỉ có thể được giải thích bởi sự khác biệt về các 
quy định hiện hành áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn Nhà nước. Nói một cách 
khác, “càng làm nhiều thì càng có tội”. 
Kết quả so sánh nhóm theo thời gian hoạt động của doanh nghiệp cho thấy 
nhóm doanh nghiệp có thời gian hoạt động ít hơn (< 6 năm) đánh giá rào cản về chất 
lượng điều hành và mức độ tham nhũng lớn hơn so với nhóm doanh nghiệp đã hoạt 
động lâu năm hơn. Cũng sẽ không quá khó hiểu cho sự khác nhau này, khi các doanh 
nghiệp có thời gian hoạt động dài hơn trong một môi trường kinh doanh mà chi phí 
không chính thức đã trở thành luật bất thành văn. 
5.1.4 Bình luận về kết quả giả thuyết nghiên cứu không được chấp nhận 
 Chất lượng điều hành có mối quan hệ cùng chiều với cả ba khía cạnh của tinh 
thần doanh nhân. Kết quả này đã ngược với các kết quả nghiên cứu trước đây cũng 
như ngược với cảm nhận của một số doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu định tính. 
Xét đến cùng, rào cản chất lượng điều hành tăng có nghĩa là chi phí giao dịch 
tăng, dẫn đến các chi phí đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh tăng. Các 
DNNVV với nguồn lực có hạn, khi chi phí tăng họ phải tìm mọi cách để tồn tại cho 
dù đó là các hành vi tiêu cực. Thực tế cho thấy, hầu hết các DNNVV đều khó tránh 
khỏi các sai phạm trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mục đích cuối cùng là tìm 
mọi cách để tồn tại. Do vậy, rào cản này càng lớn thì mức độ của các hành vi “tinh 
thần doanh nhân” có thể càng cao. Kết quả này, có thể là một phát hiện thú vị trong 
bối cảnh các DNNVV Việt Nam. 
5.2 Một số kiến nghị đề xuất nhằm hoàn thiện thể chế, tạo môi trường kinh 
doanh thuận lợi thúc đấy tinh thần doanh nhân của các DNNVV Việt Nam 
Các kiến nghị đề xuất nhằm thúc đẩy tinh thần doanh nhân của các DNNVV Việt Nam 
Thứ nhất, mặc dù các yếu tố thể chế chính thống và tham nhũng vẫn còn là rào cản 
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, tuy nhiên lòng tin thể chế 
 23
của nhiều DNNVV không bị ảnh hưởng tiêu cực. Bởi vậy, từng bước xóa bỏ rào cản 
thể chế chính thống, hạn chế tham nhũng và ưu tiên tăng cường lòng tin thể chế sẽ là 
các giải pháp căn bản để thúc đẩy tinh thần doanh nhân của các DNNVV Việt Nam 
phát triển. 
Thứ hai, kết quả nghiên cứu đã cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa chất lượng điều 
hành và tinh thần doanh nhân của các DNNVV. Dù vậy, sự tăng lên về mức độ của cả ba 
khía cạnh của tinh thần doanh nhân đều không mang tính bền vững. Sự thay đổi đó có thể 
chỉ nhằm hướng tới sự tồn tại và dẫn tới phát triển tinh thần doanh nhân một cách lệch lạc. 
Bởi vậy, rào cản thể chế chính thống về chất lượng điều hành vẫn phải từng bước được 
xóa bỏ để tinh thần doanh nhân của các DNNVV phát triển một cách bền vững. 
Thứ ba, bởi các doanh nghiệp có vốn Nhà nước có nhận thức về rào cản thể chế cao 
hơn các doanh nghiệp không có vốn Nhà nước, do đó tinh thần doanh nhân sẽ có thể 
bị ảnh hưởng tiêu cực hơn. Do vậy, quá trình cổ phần hóa và thoái vốn của các doanh 
nghiệp Nhà nước cần thúc đẩy nhanh chóng để phát triển tinh thần doanh nhân của 
các loại hình doanh nghiệp này. 
Xóa bỏ rào cản thể chế chính thống về sự không phù hợp của hệ thống chính sách, 
quy định của Nhà nước và chất lượng điều hành, hạn chế tham nhũng nhằm giảm chi 
phí giao dịch cho doanh nghiệp. 
Tăng cường lòng tin thể chế 
 Có thể nói rằng đây là giải pháp quan trọng nhất, lâu dài nhất và hiệu quả nhất 
trong bối cảnh hiện tại của các DNNVV Việt Nam. Đặc trưng của thể chế không 
chính thống là thời gian để thay đổi dài hơn so với thể chế chính thống, do vậy lòng 
tin thể chế không thể thay đổi một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, trong các bối cảnh 
cụ thể, thể chế chính thống và không chính thống có thể hỗ trợ và thay thế lẫn nhau. 
Việc hoàn thiện thể chế chính thống về mặt lâu dài có thể tăng cường lòng tin thể chế. 
Bên cạnh đó các cú sốc về thể chế có thể làm thay đổi nhanh chóng hơn lòng tin thể 
chế, vì lòng tin có giá trị tinh thần như là một tín ngưỡng thông qua nhận thức. Công 
cuộc chống tham nhũng hiện tại ở Việt Nam chưa từng có nên đây là một cú hích lớn 
có thể tăng cường lòng tin của toàn xã hội nói chung và các DNNVV nói riêng. Các 
nghiên cứu trước đây cũng đã chỉ ra khi lòng tin xã hội gia tăng thì lòng tin thể chế 
cũng được cải thiện. Đây có thể là một điều kiện thuận lợi để hoàn thiện thể chế 
chính thống, hạn chế tham nhũng và thúc đẩy lòng tin thể chế. 
Cuối cùng, các kiến nghị đề xuất chỉ có thể thực hiện được khi có sự quyết tâm cao 
nhất của toàn bộ hệ thống chính trị. 
 24
PHẦN KẾT LUẬN 
Nghiên cứu này đã tìm hiểu được bản chất khái niệm tinh thần doanh nhân 
(Entrepreneurial orientation) trong bối cảnh của các DNNVV Việt Nam. Ba khía 
cạnh nổi lên của tinh thần doanh nhân đó là tính đổi mới sáng tạo, tính chấp nhận rủi 
ro và tính chủ động tiên phong đi trước đối thủ trong kinh doanh. Bên cạnh đó, luận 
án đã xác định được các yếu tố thể chế chính thống đại diện cho chất lượng thể chế 
chính thống là chất lượng điều hành và sự không phù hợp của hệ thống quy định, 
chính sách của Nhà nước là có ảnh hưởng đến tinh thần doanh nhân. Thể chế không 
chính thống được đại diện bởi hai yếu tố có ảnh hưởng đến tinh thần doanh nhân, đó 
là lòng tin thể chế và tham nhũng cũng được phát hiện. Đặc biệt, luận án đã thực hiện 
kiểm định mối quan hệ giữa thể chế chính thống, thể chế không chính thống với tinh 
thần doanh nhân của các DNNVV trong bối cảnh Việt Nam, một trong các nền kinh 
tế chuyển đổi và đang phát triển. 
Tuy đạt được những kết quả nêu trên, nhưng luận án không tránh khỏi một số 
hạn chế nhất định cần được các nghiên cứu tiếp theo bổ sung, hoàn thiện. Trước tiên, 
liên quan đến các thang đo được sử dụng trong nghiên cứu, ngoài các thang đo gốc 
được thừa kế trong các nghiên cứu trước đây, các biến quan sát mới được phát triển 
đều dựa trên căn cứ cụ thể (từ các gợi ý của các nghiên cứu đã thực hiện và kết quả 
nghiên cứu định tính); mặc dù đã được kiểm định đảm bảo về độ tin cậy và tính hiệu 
lực trong luận án. Tuy nhiên, những thước đo này cần khẳng định lại trong những 
nghiên cứu tiếp theo ở các bối cảnh khác nhau. Thứ hai, thời điểm thực hiện nghiên 
cứu đúng vào thời điểm xuất hiện cú huých quan trọng của hệ thống chính trị có thể 
làm thay đổi lòng tin đối với thể chế. Do vậy ảnh hưởng của lòng tin thể chế đến tinh 
thần doanh nhân cần được tiếp tục nghiên cứu ở một thời điểm hợp lý để tìm hiểu 
thêm về mối quan hệ này. Thứ ba, mối quan hệ cùng chiều giữa chất lượng điều hành 
và tinh thần doanh nhân đã được luận giải phần nào. Dù vậy, nếu cả ba khía cạnh của 
tinh thần doanh nhân đều tăng trước ảnh hưởng gia tăng của rào cản chất lượng điều 
hành chỉ vì lý do tồn tại thì rất có thể không có mối quan hệ giữa các khía cạnh tinh 
thần doanh nhân và kết quả kinh doanh. Để tìm hiểu rõ thêm về mối quan hệ này, các 
nghiên cứu tiếp theo cần bổ sung thêm biến kết quả kinh doanh để kiểm định đồng 
thời trong mô hình nghiên cứu. Tóm lại, nghiên cứu đã cung cấp những bằng chứng 
thực nghiệm quan trọng về mối quan hệ giữa thể chế chính thống, thể chế không 
chính thống và từng khía cạnh tinh thần doanh nhân của các DNNVV Việt Nam. Với 
những đóng góp cụ thể về mặt lý luận và thực tiễn, kết quả của luận án không chỉ có 
thể được tiếp tục tham khảo và sử dụng trong các nghiên cứu tiếp theo về nội dung 
liên quan, mà còn cung cấp các cơ sở khoa học cho các nhà hoạch định chính sách, 
các cơ quan quản lý Nhà nước hoàn thiện thể chế nhằm thúc đẩy tinh thần doanh 
nhân của các DNNVV Việt Nam phát triển. Qua đó, tăng cường năng lực cạnh tranh 
của các DNNVV trong thời kỳ hội nhập quốc tế đang ngày càng sâu, rộng. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 luan_an_anh_huong_cua_the_che_toi_tinh_than_doanh_nhan_nghie.pdf luan_an_anh_huong_cua_the_che_toi_tinh_than_doanh_nhan_nghie.pdf