Yescombe và Khulumane đã khẳng định rằng ”việc phát triển và quản lý dự án
PPP có hiệu quả hay không đòi hỏi vai trò đặc biệt quan trọng từ phía Chính phủ hoặc
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hai ông cũng khẳng định luôn rằng một cơ chế chính
sách không phù hợp cùng với năng lực nhà nước yếu kém sẽ đều dẫn đến thất bại trong
việc phát triển và quản lý dự án PPP trong lĩnh vực hạ tầng giao thông đường bộ”
(Yescombe, 2007; Khulumane, 2008). Nhiệm vụ của Chính phủ hoặc Cơ quan nhà nước
có thẩm quyền là phải tạo lập những điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp đầu
tư tư nhân tham gia vào dự án PPP, dưới đây là ba điều kiện tiên quyết mà Nhà Nước
phải tạo lập:
- Điều kiện hết sức quan trọng đầu tiên mà Chính phủ hoặc Cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phải tạo lập là tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn. Sự hài lòng của các doanh
nghiệp đối tác tư nhân phụ thuộc rất lớn vào môi trường mà dự án hợp tác công tư được
triển khai. ”Chính phủ hoặc Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần tạo lập một môi
trường đầu tư thuận lợi với điều kiện xã hội, pháp luật, kinh tế và tài chính ổn định.
Ngoài ra, để tăng sức hấp dẫn cho các dự án PPP, Chính phủ hoặc Cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cần cung cấp các hỗ trợ riêng biệt hoặc thực hiện bảo lãnh” (UNECE, 2008).
73 trang |
Chia sẻ: tueminh09 | Ngày: 10/02/2022 | Lượt xem: 478 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Các nhân tố ảnh hưởng tới đầu tư của khu vực tư nhân theo hình thức đối tác công - Tư (ppp) trong lĩnh vực hạ tầng giao thông đường bộ tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o và các thoả thuận tương tự là
“một loại hợp đồng được ký kết giữa chính phủ hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
41
và một doanh nghiệp tư nhân trong việc chuyên môn hoá hình thức nhượng quyền trong
đó một doanh nghiệp đối tác tư nhân hoặc một công-xoóc-xi-um cung cấp vốn và xây
dựng một dự án cơ sở hạ tầng mới hoặc một hợp phần chính của dự án cơ sở hạ tầng căn
cứ trên các tiêu chuẩn thực hiện do chính phủ hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quy định”.
Nguồn: Heather Skilling và Kathleen Booth. 2007.
Hình 2.4 Cấu trúc các bên liên quan trong hợp đồng BOT
Trong hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao, “nguồn vốn đầu tư cần
thiết để xây dựng cơ sở hạ tầng dịch vụ mới được các doanh nghiệp đối tác tư nhân
chịu trách nhiệm cung cấp. Điều đặc biệt trong hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh -
Chuyển giao đó là doanh nghiệp đối tác tư nhân điều hành được quyền sở hữu tài sản
trong một khoảng thời gian quy định trong hợp đồng - một khoảng thời gian đủ để cho
doanh nghiệp đối tác tư nhân tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng dịch vụ đồng thời thực
hiện việc thu hồi chi phí đầu tư thông qua việc trả phí của người sử dụng dịch vụ cơ
sở hạ tầng”.
42
Bảng 2.1. Các biến thể của hợp đồng kiểu BOT
Các biến thể của hợp đồng kiểu BOT được nêu trong “Bảng 2.1.
Nội dụng Sở hữu Ý tuởng Thiết kế Xây
dựng
Điều hành
và Bảo
dưỡng
Trách
nhiệm tài
chính
Thiết kế - Đấu
thầu – xây dựng
Chính
phủ
Chính
phủ
Tư nhân thông qua
hợp đồng trả phí
Chính phủ Chính phủ
Thiết kế - xây
dựng
Chính
phủ
Chính
phủ
Tư nhân thông qua
hợp đồng trả phí
Chính phủ
Xây dựng –
kinh doanh –
chuyển giao
(BOT)
Chính
phủ
Chính
phủ
Tư nhân thông qua hợp đồng trả phí Chính phủ
Thiết kế - xây
dựng – cấp vốn
– kinh doanh
(BDFO)
Chính
phủ
Chính
phủhoặc
tư nhân
Tư nhân thông qua hợp đồng trả phí
Chính
phủ,
Chính
phủ/tư
nhân, hoặc
tư nhân
Xây dựng – sở
hữu – kinh
doanh (BOO)
Tư nhân
Chính
phủhoặc
tư nhân
Tư nhân thông qua hợp đồng (nhượng quyền)
Nguồn: Bộ Giao thông Vận tải Hoa Kỳ, Cơ quan Quản lý Đường Cao tốc Liên bang”.
Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao cũng chỉ rõ rằng “khu vực Nhà
nước đồng ý mua một tỷ lệ tối thiểu sản lượng mà cơ sở dịch vụ tạo ra, đủ để doanh
nghiệp điều hành tư nhân thu hồi được chi phí trong quá trình hoạt động”. Việc này đi
kèm với những rủi ro rất lớn nếu khu vực nhà nước đánh giá quá cao nhu cầu sử dụng
dịch vụ cơ sở hạ tầng và nhận ra rằng mình đã mua sản lượng theo một thoả thuận mà
nhu cầu không tồn tại. “Một cách khác, đơn vị phân phối dịch vụ công ích có thể trả một
khoản phí năng lực và phí tiêu dùng, do đó sẽ cùng chia sẻ rủi ro về nhu cầu với các đối
tác nhà nước và tư nhân. Các hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao thường
yêu cầu những gói đầu tư tài chính phức tạp để đạt được lượng tài chính đủ lớn và thời
gian thu hồi vốn đủ dài”.
43
“Khi hợp đồng kết thúc, khu vực nhà nước nắm quyền sở hữu nhưng có thể lựa
chọn việc tự đảm nhiệm việc điều hành, tiếp tục ký hợp đồng giao trách nhiệm điều hành
cho nhà đầu tư cũ, hoặc trao hợp đồng điều hành mới cho một đối tác mới”.
Sự khác biệt giữa một hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giaovà một
hợp đồng nhượng quyền nằm ở chỗ “một hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển
giao thông thường liên quan đến các khoản đầu tư lớn để xây dựng một hệ thống mới,
cần phải huy động nguồn tài chính đáng kể từ bên ngoài, bao gồm cả việc góp vốn và đi
vay. Trong khi, hợp đồng nhượng quyền thông thường liên quan đến việc mở rộng và
điều hành một hệ thống hiện có. Tuy nhiên, trong thực tế, một hợp đồng nhượng quyền
có thể bao gồm việc phát triển những hợp phần mới, có tính chất chủ chốt cũng như việc
mở rộng các hệ thống hiện có, trong khi các hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển
giao đôi lúc lại liên quan đến việc mở rộng các cơ sở dịch vụ hiện có”.
Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao có nhiều biến thể khác nhau
bao gồm “các hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh (BTO) trong đó việc
chuyển giao về sở hữu Nhà nước được tiến hành khi việc xây dựng kết thúc mà không
phải khi hợp đồng kết thúc, các hợp đồng Xây dựng-Sở hữu - Kinh doanh (BOO) trong
đó nhà đầu tư phát triển xây dựng và điều hành cơ sở dịch vụ mà không chuyển lại quyền
sở hữu cho khu vực nhà nước. Theo một hợp đồng Thiết kế - Xây dựng - Kinh doanh
(DBO), sở hữu không khi nào nằm trong tay của tư nhân. Thay vào đó, một hợp đồng
được lập ra cho việc thiết kế, xây dựng và điều hành dự án cơ sở hạ tầng”.
“Câu hỏi về quyền sở hữu và thời gian chuyển giao quyền sở hữu thông thường
được xác định theo luật quốc gia và các điều kiện tài chính, và số lượng các trường hợp
có khả năng xảy ra rất nhiều”.
“Với cách tiếp cận Thiết kế - Xây dựng - Cấp vốn - Kinh doanh (BDFO), trách
nhiệm thiết kế, xây dựng, cấp vốn, điều hành được gói cùng với nhau và được chuyển
cho đối tác tư nhân. Các thỏa thuận BDFO khác nhau rất nhiều về mức độ trách nhiệm
tài chính được chuyển giao cho đối tác tư nhân”.
Những điểm mạnh tiềm năng
Hiện nay, để thu hút vốn đầu tư của khu vực tư nhân đối với các dự án xây dựng và
cải thiện cơ sở hạ tầng nói chung và hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ nói riêng,
các Chính phủ thường lựa chọn và sử dụng khá rộng rãi các loại Hợp đồng Xây dựng - Kinh
doanh - Chuyển giao. Các loại hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao thường
“có xu hướng giảm bớt rủi ro tài chính cho đối tác tư nhân vì thông thường chỉ có một khách
44
hàng là chính phủ. Tuy nhiên, đối tác tư nhân phải giữ được lòng tin rằng các thoả thuận mua
dịch vụ sẽ được thực hiện một cách nghiêm túc”.
Ưu điểm của loại hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao
Ưu điểm lớn nhất của loại hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giaolà
nguồn vốn cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng được lấy một phần hoặc toàn bộ từ vốn
vay, do đó tăng thêm lượng tài chính cho dự án. Trong các loại hợp đồng Xây dựng -
Kinh doanh - Chuyển giao cũng quy định và chỉ rõ doanh thu thu được của các doanh
nghiệp đối tác tư nhân là từ các khoản phí trực tiếp thu từ người sử dụng dịch vụ cơ sở
hạ tầng và đây cũng chính là nguồn thu chủ yếu. Ngoài ra, doanh nghiệp đối tác tư nhân
cũng có thể gia tăng thêm nguồn thu từ các dịch vụ kinh doanh dọc tuyến đường nếu là
dự án cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ. Tuy nhiên, “một số nguồn tài chính khác trong
lĩnh vực đường bộ có thể bao gồm các khoản thanh toán tiền thuê, phí sử dụng đường
do chính phủ trả cho nhà điều hành tư nhân, và lệ phí đăng ký phương tiện”.
2.2.5.6 Liên doanh
Hợp đồng Liên doanh là “một loại hợp đồng được ký kết giữa chính phủ hoặc cơ
quan nhà nước có thẩm quyền và một doanh nghiệp tư nhân trong việc thay thế cho việc
tư nhân hoá toàn bộ, theo đó dịch vụ cơ sở hạ tầng cùng được sở hữu và điều hành bởi
khu vực nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Trong một hợp đồng liên doanh, các đối tác
nhà nước và doanh nghiệp đối tác tư nhân có thể thành lập một công ty mới hoặc thực
hiện việc liên doanh sở hữu trong một công ty hiện có thông qua việc bán cổ phần cho
một hoặc một số nhà đầu tư tư nhân”.
“Công ty liên doanh giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân cũng có thể được
niêm yết trên thị trường chứng khoán. Một yêu cầu chủ chốt cho cấu trúc này là có môi
trường quản trị công ty tốt, đặc biệt khả năng của công ty trong việc duy trì sự độc lập với
chính phủ. Điều này rất quan trọng bởi vì chính phủ vừa là người sở hữu một phần công
ty, vừa là người quản lý nhà nước và các quan chức có thể có xu hướng can thiệp vào
công việc kinh doanh của công ty để đạt được những mục đích chính trị. Tuy nhiên, từ vị
trí là một cổ đông, chính phủ quan tâm đến lợi nhuận và sự bền vững của công ty và có
thể hành động để xoa dịu những cản trở chính trị. Đối tác tư nhân đảm nhiệm vai trò điều
hành và một ban giám đốc thường được xây dựng dựa trên tỷ lệ phần vốn góp hoặc dựa
trên năng lực và trình độ”.
“Cơ cấu liên doanh thường đi kèm với các hợp đồng bổ sung (các thoả thuận
nhượng quyền hoặc thoả thuận hoạt động) trong đó qui định cụ thể những kỳ vọng về
45
công ty. Các liên doanh cũng cần có một khoảng thời gian để phát triển và cho phép các
đối tác nhà nước và tư nhân có cơ hội thích đáng để đối thoại và hợp tác trước khi dự án
được thực hiện”.
Trong cơ cấu liên doanh, cả đối tác nhà nước và tư nhân phải sẵn sàng đầu tư vào
công ty và cùng chia sẽ những rủi ro nhất định.
Hình 2.5 Cấu trúc các bên liên quan trong Hợp đồng liên doanh
Nguồn: Heather Skilling và Kathleen Booth. 2007
Ưu điểm của loại hợp đồng Liên doanh
Ưu điểm lớn nhất của loại hình hợp đồng Liên doanh đó là khai thác cũng như
phát huy được toàn bộ ưu điểm của khu vực tư nhân như có trình độ quản lý điều hành
tốt cũng như khả năng huy động vốn cao với những mối quan tâm xã hội và kiến thức
bản địa của khu vực nhà nước. Như vậy có thể khẳng định hợp đồng Liên doanh là mối
quan hệ đối tác thực sự giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân trong quá trình phát
triển kinh tế xã hội.. “Trong một liên doanh, tất cả các đối tác đều đầu tư vào công ty và
có cùng mối quan tâm đến thành công của công ty và những động lực thúc đẩy hoạt
động hiệu quả”.
Nhược điểm của loại hợp đồng Liên doanh
Xung đột về lợi ích giữa khu vực tư nhân và khu vực nhà nước trong loại hình
hợp đồng Liên doanh được xem như là nhược điểm lớn nhất của loại hình này. Nguyên
nhân chính của việc này là ở vai trò kép của chính phủ hoặc Cơ quan nhà nước có thẩm
46
quyền vừa là người sở hữu, vừa là người quản lý nhà nước. Ngoài ra, nhược điểm thứ 2
của loại hình hợp đồng Liên doanh này là tiềm ẩn nhiều nguy cơ tham nhũng vì các liên
doanh cũng có xu hướng được đàm phán một cách trực tiếp hoặc tuân theo một phương
thức mua sắm không chính thống.
2.3. Các nhân tố tác động đến đầu tư của khu vực tư nhân trong lĩnh vực giao
thông đường bộ theo hình thức hợp tác công tư
2.3.1. Quản lý nhà nước đối với đầu tư của khu vực tư nhân theo hình thức đối
tác công tư trong lĩnh vực hạ tầng giao thông đường bộ
Yescombe và Khulumane đã khẳng định rằng ”việc phát triển và quản lý dự án
PPP có hiệu quả hay không đòi hỏi vai trò đặc biệt quan trọng từ phía Chính phủ hoặc
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hai ông cũng khẳng định luôn rằng một cơ chế chính
sách không phù hợp cùng với năng lực nhà nước yếu kém sẽ đều dẫn đến thất bại trong
việc phát triển và quản lý dự án PPP trong lĩnh vực hạ tầng giao thông đường bộ”
(Yescombe, 2007; Khulumane, 2008). Nhiệm vụ của Chính phủ hoặc Cơ quan nhà nước
có thẩm quyền là phải tạo lập những điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp đầu
tư tư nhân tham gia vào dự án PPP, dưới đây là ba điều kiện tiên quyết mà Nhà Nước
phải tạo lập:
- Điều kiện hết sức quan trọng đầu tiên mà Chính phủ hoặc Cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phải tạo lập là tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn. Sự hài lòng của các doanh
nghiệp đối tác tư nhân phụ thuộc rất lớn vào môi trường mà dự án hợp tác công tư được
triển khai. ”Chính phủ hoặc Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần tạo lập một môi
trường đầu tư thuận lợi với điều kiện xã hội, pháp luật, kinh tế và tài chính ổn định.
Ngoài ra, để tăng sức hấp dẫn cho các dự án PPP, Chính phủ hoặc Cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cần cung cấp các hỗ trợ riêng biệt hoặc thực hiện bảo lãnh” (UNECE, 2008).
- Điều kiện tiên quyết thứ hai mà Chính phủ hoặc Cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phải tạo lập là thiết lập khung pháp lý đầy đủ. Qiao và cộng sự (2001) cho rằng
”một khung pháp lý đầy đủ và minh bạch là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của
dự án PPP nhằm gia tăng niềm tin của nhà đầu tư tư nhân, đảm bảo hiệu quả cho dự án,
phân chia rủi ro phù hợp và tránh những rủi ro tiềm tàng”.
- Điều kiện quan trọng thứ ba mà Chính phủ hoặc Cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phải tạo lập là ”thành lập cơ quan giám sát và hợp tác. Koch và Buser lập luận
rằng mục tiêu trong các hợp đồng PPP rất đa dạng giữa các cơ quan công quyền khác
nhau (trung ương và địa phương). Chính phủ hoặc Cơ quan nhà nước có thẩm quyền
47
cần thiết thành lập một cơ quan hòa giải các xung đột, làm cầu nối giữa các nhà đầu tư
tư nhân chính quyền” (Khulumane, 2008)
- Ngoài ra, ”Quản lý Nhà nước xét theo quá trình quản lý dự án đối với đầu tư
theo hình thức PPP được Nguyễn Thị Ngọc Huyền (2013) xác định bao gồm: (i) hoạch
định phát triển dự án PPP (xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch), (ii) xây dựng và
tổ chức thực hiện các chính sách, quy định và pháp luật cho dự án PPP, (iii) tổ chức bộ
máy Quản lý Nhà nước đối với dự án PPP, (iv) giám sát và đánh giá dự án PPP. Cũng
theo cách tiếp cận này, Quốc hội (2005) xác định nội dung Quản lý Nhà nước đối với
dự án đầu tư theo hình thức PPP bao gồm: Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, chính sách; Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm
pháp luật; Hướng dẫn, hỗ trợ và giải quyết vướng mắc của nhà đầu tư; Tổ chức hoạt
động xúc tiến đầu tư; Cấp, thu hồi giấy chứng nhận đầu tư; Tổ chức hoạt động đào tạo
nguồn nhân lực; Hướng dẫn, đánh giá hiệu quả đầu tư, kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt
động đầu tư; giải quyết khiếu nại, tố cáo, khen thưởng và xử lý vi phạm.”
2.3.2. Chính sách hỗ trợ của chính phủ đối với đầu tư tư nhân theo hình thức
PPP trong lĩnh vực hạ tầng giao thông đường bộ
”Khả năng đầu tư của khu vực doanh nghiệp tư nhân tham gia đầu tư theo hình
thức đối tác công tư trong lĩnh vực hạ tầng giao thông đường bộ phụ thuộc rất lớn và
những Chính sách hỗ trợ của Nhà nước (ADB, 2008). Nếu không có hỗ trợ của Nhà
nước, dù tăng mức phí thì dự án vẫn không khả thi về tài chính và tư nhân thì từ chối
tham gia (Esther, 2007). Nghiên cứu của ông khẳng định chính sách hỗ trợ của Nhà
nước đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong khả năng thu hút doanh nghiệp tư nhân
để có thể thực hiện thành công các dự án PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng giao thông
đường bộ. Ông cũng nhấn mạnh khía cạnh phổ biến tại các nước này trong các chính
sách hỗ trợ của Chính phủ chính là hỗ trợ bộ phận dân cư có thu nhập thấp khi sử dụng
những dịch vụ cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ”.
- Tại các nước đang phát triển, Các dự án theo hình thức hợp tác công tư trong
lĩnh vực cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ sẽ không có khả năng thu hút được khu vực
doanh nghiệp tư nhân nếu mức độ hỗ trợ của Nhà nước không đủ lớn.
- Với quan điểm hỗ trợ bộ phận dân cư có thu nhập thấp, ”Chính phủ hoặc Cơ quan
nhà nước có thẩm quyền nên đưa ra những chính sách thu phí thấp hơn giá trị thực tế,
đồng thời để đảm bảo nhà đầu tư tư nhân có thể hoàn vốn nhanh, Nhà nước phải tăng
thêm mức hỗ trợ để bù đắp mức phí thấp”.
48
Merna và Dubey (1998) xác định các hình thức hỗ trợ của chính phủ bao gồm:
- Hỗ trợ trực tiếp: đầu tư vốn (góp vốn ban đầu), trợ cấp, hỗ trợ chi phí vận
hành, miễn phí sử dụng đất, các tiện ích và khuyến khích thuế...
+ Vốn góp ban đầu (vốn mồi): ” Chính phủ hoặc Cơ quan nhà nước có thẩm quyền
hỗ trợ chi phí đầu tư ban đầu (chi phí xây dựng, chi phí chuẩn bị đầu tư) cho tư nhân.
Hình thức này phù hợp với các dự án có mức độ hấp dẫn không cao”.
+ Hỗ trợ chi phí vận hành: “Chính phủ hoặc Cơ quan nhà nước có thẩm quyền hỗ
trợ chi phí vận hành (chi phí duy tu, bảo dưỡng, thu phí) cho tư nhân. Một số dự án
không hấp dẫn và có chi phí vận hành đắt, nhà nước có thể sử dụng hình thức này để hỗ trợ
tư nhân”.
+ Tính linh hoạt của biểu thuế: “tính linh hoạt của biểu thuế là cần thiết để đảm
bảo tính khả thi về tài chính của dự án. Nhà nước cần có các khuyến khích về thuế
phù hợp để tăng tính hấp dẫn cho các dự án”.
+ Trợ cấp dựa trên kết quả đầu ra để bổ sung/ thay thế cho phí thu từ người sử
dụng, nhà cung cấp vẫn nhận được dòng thanh toán ổn định.
- Hỗ trợ gián tiếp: thông qua bảo lãnh khoản vay, doanh thu tối thiểu, tỷ giá,...
+ Bảo lãnh doanh thu tối thiểu: “để giảm rủi ro nhu cầu thị trường cho tư nhân trong
trường hợp doanh thu từ thu phí không đủ bù đắp chi phí đầu tư”.
+ Bảo vệ chống rủi ro bất khả kháng: “ Chính phủ có thể kéo dài thời gian
nhượng quyền hoặc bù đắp tổn thất (bằng tiền mặt hoặc các hỗ trợ khác) khi rủi ro bất
khả kháng xảy ra để bảo vệ nhà đầu tư tư nhân”.
+ Các hình thức hỗ trợ khác bao gồm bảo lãnh tỷ giá và thưởng cho dự án
vượt tiến độ, bù lãi suất
Nghiên cứu của Zhang (2005) cũng cho rằng “mức hỗ trợ của chính phủ ở mức độ
phù hợp sẽ cải thiện điều kiện tài chính và tăng tính hấp dẫn của dự án theo hình thức đối
tác công tư. Nếu mức hỗ trợ quá nhiều sẽ gia tăng mối quan ngại rằng khu vực tư nhân thu
được nhiều lợi nhuận từ khu vực công. Chính phủ nên điều chỉnh biên độ hỗ trợ và lựa
chọn hình thức hỗ trợ thích hợp tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng dự án”.
“Có thể kết luận ngắn gọn rằng, các bằng chứng trên cho thấy mức độ tác động
của các nhân tố đến thành công hay thất bại của các dự án PPP sẽ khác nhau, tùy thuộc
đặc điểm dự án, điều kiện kinh tế xã hội đặc thù của mỗi nước. Các nước phát triển quan
tâm nhiều đến phân bổ rủi ro và cấu trúc tài trợ” (Cristina, 2004; Hardcastle và các tác
49
giả, 2005). “Đối với các nước đang phát triển thì tập trung cả bốn nhân tố nêu trên”
(Nyagwachi và Smallwood, 2006; John và Sussman, 2006; Esther, 2007)
2.3.3. Kênh huy động vốn của khu vực tư nhân đầu tư trong lĩnh vực hạ tầng
giao thông đường bộ
Báo cáo của Ngân hàng thế giới ngày 25/06/2008 do Kamran M. Khan trình bày
tại Hội thảo về cơ chế PPP tại Việt Nam chỉ ra các kênh đầu tư của tư nhân vào hạ tầng
của khu vực tư nhân bao gồm: vay Ngân hàng, thị trường vốn, Quỹ đầu tư phát triển hạ
tầng, các nhà đầu tư tư nhân; đồng thời cũng chỉ ra những hạn chế của từng kênh huy
động vốn và đưa ra những khuyến nghị giúp khu vực tư nhân tiếp cận nguồn vốn đầu tư
cho cơ sở hạ tầng tốt hơn.
Bảng 2.2. Kênh huy động vốn của khu vực tư nhân
Kênh huy
động vốn
Vấn đề chính Khuyến nghị
Ngân hàng
- Thiếu năng lực thẩm định đầu
tư
- Sự vắng mặt của các khuôn khổ
quản lý rủi ro
- Không phù hợp giữa nhu cầu
dài hạn tài trợ cho cơ sở hạ tầng
và tiền gửi ngắn hạn được tổ
chức bởi các ngân hàng
- Nhận thức về tài sản thế chấp
- Tăng cường định hướng thương mại
của ngân hàng và khuyến khích sử dụng
hình thức hợp vốn
- Khuyến khích định hướng thương mại
của ngân hàng để đa dạng danh mục
đầu tư và quản lý rủi ro tốt hơn
- Sử dụng xếp hạng tín nhiệm của dự án
bởi các cơ quan xếp hạng tín nhiệm
nhằm tăng cường thẩm định rủi ro
- Xây dựng chính sách khuyến khích các
ngân hàng nhận tiền gửi dài hạn
- Hỗ trợ xây dựng thị trường chứng khoán
hóa
Thị trường
vốn
- Thiếu công cụ đầu tư
- Thiếu minh bạch và các quy tắc
về công khai thông tin
- Kết cấu hạ tầng thị trường vốn
không đầy đủ
- Phát hành trái phiếu chính phủ với các
kỳ hạn khác nhau
50
Kênh huy
động vốn
Vấn đề chính Khuyến nghị
Quỹ phát
triển hạ
tầng
- Quy trình thực hiện dự án phức
tạp
- Chính sách của chính phủ
không rõ ràng và không chắc
chắn
- Rủi ro về tỷ giá
- Tinh giản quy trình thực hiện dự án
theo nghị định 78
- Thực hiện các quy định chuẩn bị dự
án đã được cải thiện
- Mời nhà đầu tư tham gia vào quá trình
đấu thầu cạnh tranh sau khi đã chuẩn bị
Dự án và thông báo cho khu vực tư
nhân tham gia
- Làm rõ quy định về bảo lãnh và các
hình thức hỗ trợ khác của chính phủ cho
dự án
- Thiết lập một chương trình vay nợ dài
hạn do chính phủ hỗ trợ để giúp cho các
dự án được chuẩn bị tốt dựa trên các tiêu
chí về năng lực.
Vốn của
khu vực tư
nhân
- Sự áp đảo của các doanh nghiệp
Nhà nước.
Không có đầu thầu cạnh tranh
- Chuẩn bị dự án không đầu đủ
- Ít nhà đầu tư nước ngoài
- Dự án không vững về mặt tài
chính
- Thiết lập các quy định rõ ràng về vai
trò của doanh nghiệp Nhà nước trong
đầu tư cơ sở hạ tầng.
- Xây dựng các tiêu chí năng lực để
được CP hỗ trợ tài chính đối với các dự
án ASA
khuyến khích đấu thầu cạnh tranh
- Chính phủ phối hợp với các tổ chức
quốc tế đào tạo và hỗ trợ cho các dự án
ASA về chuẩn bị dự án, bao gồm các
thủ tục đấu thầu cạnh tranh.
- Xây dựng một hình mẫu chuẩn mực
cho khu vực tư nhân đối với các dự án
ASA.
51
Kênh huy
động vốn
Vấn đề chính Khuyến nghị
- Xây dựng quy định rõ ràng và thống
nhất về việc sử dụng bảo lãnh của CP
Việt Nam cho các nhà đầu tư nước
ngòai và dự án của họ
- Xây dựng một cơ chế trợ cấp rõ ràng
và minh bạch của CP để nâng cao khả
năng đứng vững về tài chính của các dự
án tốt, đáp ứng được các tiêu chí về
năng lực
- Cơ chế này phải có những quy định rõ
ràng về việc phân bổ trợ cấp, bao gồm tỉ
lệ % tối đa chi phí vốn có thể đóng góp.
- Sử dụng xếp hạng tín nhiệm đối với các
dự án lớn để cho phép tiếp cận với nguồn
vốn tư nhân với thời hạn dài hơn
2.3.4. Rủi ro PPP
Rủi ro trong quản lý dự án PPP nói chung và trong dự án xây dựng cơ sở hạ tầng
giao thông đường bộ nói riêng là đối tượng nghiên cứu thu hút sự quan tâm trong thời
gian gần đây. Rủi ro là sự không chắc chắn (uncertainty) gây ra sự sai lệch giữa kì vọng
và thực tế. Sự sai lệch này có thể mang ý nghĩa tiêu cực hoặc tích cực. Rủi ro trong đề
tài này được đề cập với hàm ý là sự không chắc chắn gây ra những hậu quả mang tính
tiêu cực.
Quản lý rủi ro của dự án là một quá trình gắn với việc xác định, phân tích và phản
hồi với rủi ro của dự án. Vì vậy, việc thành công trong quản lý rủi ro của dự án sẽ đem
lại hiệu quả cho dự án về mặt kinh tế và tức là mang lại lợi nhuận cho chủ đầu tư. Trong
trường hợp dự án BOT, dự án được quản lý hiệu quả mang lại lợi nhuận cho đối tác
công (tức là Nhà nước) và đối tác tư nhân tham gia vào dự án.
Thực tế tại Việt Nam cho thấy nhiều dự án BOT đường bộ mang lại hiệu quả
kinh tế cao cho chủ đầu tư (cả công và tư) - tức là quản lý dự án đạt được hiệu quả kinh
tế nhưng vẫn gây bức xúc cho người tiêu dùng và xã hội. Trường hợp này QLNN đã
52
không đạt được mục tiêu cuối cùng là cung cấp dịch vụ công cho người dân, tạo môi
trường cạnh tranh bình đẳng và gia tăng phúc lợi cho xã hội.
Merna và Smith (1996) “định nghĩa phân bổ rủi ro là sự phân chia các công việc
giữa các đối tác trong cùng một dự án, mỗi đối tác có trách nhiệm tài trợ, xây dựng, kinh
doanh và gánh chịu các rủi ro phát sinh từ công việc được giao”. Flanagan và Norman
(1993) “cho rằng các đối tác công và tư khi tham gia PPP cần phải xác định và hiểu rõ
rất cả các rủi ro tiềm tàng liên quan đến PPP để đảm bảo rằng các rủi ro được phân chia
một cách hợp lý. Rủi ro sẽ được phân chia cho bên có khả năng tài chính và kỹ thuật tốt
nhất để xử lý chúng. Trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản này, các nhà nghiên cứu đã
xây dựng chiến lược phân chia rủi ro trong các dự án PPP “(SMEC,2011). “Đặc điểm
nổi bật của các dự án đường bộ là rủi ro cao do thâm dụng vốn, thời gian thực hiện dự
án dài và nhiều bên tham gia, cần thiết phải chia sẻ rủi ro cho các đối tác tin cậy nhằm
đạt được hiệu quả đầu tư “(Nisar, 2007)
Để quản trị rủi ro tối ưu cần phải xác định và phân loại các rủi ro. Merna và Smith
(1996) “chia các rủi ro của dự án PPP thành hai nhóm chính: rủi ro hệ thống và rủi ro
phi hệ thống. Rủi ro hệ thống là những rủi ro ngoài khả năng kiểm soát của những người
tham gia dự án, bao gồm rủi ro chính trị, pháp lý, kinh tế và môi trường. Rủi ro phi
hệ thống liên quan đến bản thân dự án, như rủi ro xây dựng, thiết kế, vận hành, tài
chính và doanh thu”. Nisar (2007) “thì phân chia rủi ro theo hai khía cạnh: rủi ro hiện
hữu và rủi ro tiềm tàng phát sinh trong quá trình thiết kế, xây dựng và phát triển, chi phí
hoạt động, sự đa dạng của nguồn thu và các loại rủi ro khác. Một cách phân loại khác
cũng được sử dụng phổ biến như phân loại theo lĩnh vực có liên quan như rủi ro doanh
thu, rủi ro phân bổ đất, rủi ro nhu cầu, rủi ro kinh tế, rủi ro thiếu cạnh tranh, rủi ro về
chi phí hoạt động, rủi ro nợ vay, và rủi ro chính trị “(Wang và các tác giả, 2000;
Thomas và các tác giả, 2003).
“Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều khẳng định không có một danh sách các
rủi ro cố định cho tất cả dự án. Các rủi ro của dự án PPP đường bộ thường bị ảnh
hưởng bởi quy mô, đặc điểm dự án; loại hợp đồng PPP áp dụng. Ngoài ra, mức độ quan
trọng của một rủi ro cụ thể cũng khác nhau giữa các dự án và/hoặc các quốc gia, như
rủi ro chính trị sẽ quan trọng hơn tại các quốc gia đang phát triển” (ADB,2008).
Ahadzi (2004) “thực hiện một điều tra về các dự án PPP đường bộ ở Anh đã phát
hiện thời gian chuẩn bị đầu tư của 98% các dự án dài hơn các dự án khác khoảng 11-
166% và chi phí đàm phán cũng lớn hơn từ 25 - 200%. Nguyên nhân là do khó đạt được
thỏa thuận về phân chia rủi ro giữa hai khu vực. Các bằng chứng thực nghiệm cho thấy
53
phân bổ rủi ro phù hợp sẽ rút ngắn thời gian và tiết kiệm chi phí đầu tư, thu được giá trị
đồng tiền tốt hơn, thay vì chuyển giao rủi ro càng nhiều càng tốt cho tư Nhân”.
Jonathan Gifford (2007) “nghiên cứu chia sẻ rủi ro trong quan hệ đối tác công tư
trên cơ sở xem xét và đánh giá hình thức PPP trong lĩnh vực giao thông đường bộ tại Hoa
Kỳ. Tác giả đã xem xét các loai rủi ro ảnh hưởng đến quan hệ đối tác công tư đối với dự
án hạ tầng đượng bộ và cách thức chia sẻ rủ ro giữa nhà nước và khu vực tư nhân”.
2.4. Các bài học kinh nghiệm về đầu tư tư nhân theo hình thức PPP trong
lĩnh vực đường bộ trên thế giới
2.4.1. Kinh nghiệm về đầu tư tư nhân theo hình thức PPP của các nước đã và
đang phát triển trên thế giới
2.4.1.1. Kinh nghiệm của Anh
Anh là một trong những quốc gia áp dụng mô hình PPP sớm nhất và đã có nhiều
trải nghiệm trong việc thu hút đầu tư tư nhân theo hình thức PPP.
Tại Vương quốc Anh, “PPP chiếm 11% trong tổng đầu tư công ở Anh trong đó
giao thông vận tải cùng với môi trường là 2 lĩnh vực áp dụng PPP nhiều nhất tại Anh”
(Nguyễn Thị Thu Trang, 2015). Anh thực hiện cơ chế tái cấp vốn cho các dự án PPP,
đặc biệt là thiết lập liên minh các ngân hàng để thu hút nhiều ngân hàng tham gia các
dự án dài hơi. Về mặt quản lý, Anh tách biệt cơ quan ban hành chính sách PPP với cơ
quan phát triển dự án. Cơ quan ban hành chính sách được đặt trong bộ Tài chính và
chịu trách nhiệm việc ra văn bản hướng dẫn về tìm kiếm đối tác, đàm phán hợp đồng
và đánh giá hiệu quả. Cơ quan phát triển dự án - Cơ quan Hợp tác UK khuyến nghị
các cơ quan Chính phủ về dự án PPP: đánh giá dự án, hỗ trợ thực hiện dự án, đồng tài
trợ các dự án PPP.
Trong một nghiên cứu của Li và các cộng sự (2005) “về các dự án PPP giao thông
đường bộ ở Anh, tập trung nghiên cứu về vấn đề phân bổ rủi ro, đã cho thấy: Các rủi ro
liên quan đến môi trường vĩ mô sẽ được phân bổ cho chính phủ, là các rủi ro chịu tác
động bởi chính trị (như thay đổi chính sách, năng lực của Chính phủ, ), bởi tình hình
kinh tế vĩ mô (như lạm phát, lãi suất, ), bởi luật pháp (thay đổi luật, thực thi pháp luật
kém, ). Còn các rủi ro liên quan đến dự án (như rủi ro kỹ thuật, rủi ro quản lý,) sẽ
được chuyển giao cho tư nhân. Các rủi ro nằm trong sự kiểm soát của hai bên (như rủi
ro do cung-cầu, ) được chia sẻ giữa tư nhân và Chính phủ. Nghiên cứu này cũng nêu
rằng mặc dù tư nhân có khả năng xử lý rủi ro tốt hơn nhà nước nhưng việc chuyển giao
rủi ro cho tư nhân có thể làm cho mức độ thu hút đầu tư tụt giảm do sự e ngại đầu tư của
54
khu vực tư nhân. Vì thế để nâng cao được mức độ thu hút ở đây cần được hiểu là không
phải chuyển giao càng nhiều rủi ro càng tốt, mà rủi ro cần được chuyển giao một cách
hợp lý ở mức tối ưu”.
Ở phương diện thu hút nguồn lực tư nhân cho phát triển CSHT, Anh có khuôn
khổ pháp luật và thể chế tương đối toàn diện và mang tính hỗ trợ mà không phải là
sự áp đặt của cơ quan QLNN, thêm vào đó, thị trường tài chính của Anh rất phát
triển. Những đặc điểm này thực sự tạo thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư từ khu
vực tư nhân.
Có thể nói “Anh là quốc gia đứng đầu châu Âu về khả năng thu hút đầu tư của tư
nhân vào dự án PPP trong cung cấp dịch vụ công. Ban đầu, động cơ chính của chính
phủ Anh là thu hút nguồn vốn tư nhân nhằm hỗ trợ ngân sách chính phủ. Tuy nhiên theo
thời gian, mục đích thực hiện dự án PPP dần thay đổi. Chính phủ Anh chỉ lựa chọn
những dự án PPP nếu tạo ra giá trị vượt trội so với hình thức đầu tư truyền thống”.
2.4.1.2. Kinh nghiệm của Hà Lan
Một trong những việc đầu tiên được thực hiện vào năm 1999 mà Hà Lan làm đó
là thành lập Trung tâm kiến thức về PPP trong chuỗi hoạt động đẩy mạnh áp dụng PPP
vào trong việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng tại đất nước này.Trung tâm kiến thức
về PPP tại Hà Lan giữ sứ mạng cực kỳ quan trọng trong việc hướng dẫn cho khu vực
Nhà nước lẫn tư nhân trong việc thực hiện các nhiệm vụ trong những dự án theo hình
thức PPP, ngoài ra một nhiệm vụ cũng hết sức quan trọng mà Trung tâm kiến thức về
PPP của Hà Lan tiến hành đó là xây dựng những tài liệu cũng như những công cụ tiêu
chuẩn để đo lường các giá trị vượt trội mà một dự án theo mô hình PPP có được so với
mô hình đầu tư truyền thống. Đây được xem là những nguyên nhân chính dấn đến sự
thành công lớn trong việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng nói chung và cơ sở hạ tầng
đường bộ nói riêng theo hình thức PPP tại Hà Lan. Kết quả của thành công này đã giúp
Hà Lan tạo ra giá trị tăng thêm 10-15% trong các dự án phát triển cơ sở hạ tầng theo
hình thức PPP cho chính phủ. Các dự án cơ sở hạ tầng giao thông theo hình thức PPP
tại Hà Lan có một nét đặc trưng rất rõ đó là bất kể lưu lượng giao thông trong thực tế
như thế nào thì Chính phủ Hà Lan đều gánh chịu rủi ro doanh thu thu được từ những dự
án này. Hơn thế nữa tại Hà Lan, việc đánh giá giá trị tiền mang lại từ dự án cơ sở hạ
tầng giao thông đường bộ ở các giai đoạn chuẩn bị và đấu thầu cũng là yếu tố thúc đẩy
sự thu hút đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân vào những dự án theo hình thức hợp tác
công tư. Cụ thể được thực hiện như sau:
55
“Ở giai đoạn đầu, một đánh giá được thực hiện xem mô hình PPP có mang lại giá
trị thặng dư cho dự án không. Quá trình này được lặp lại trước khi đấu thầu, khi quy mô
của dự án đã được xác định chi tiết. Khi các đơn thầu PPP được nhận, một so sánh sẽ
được tiến hành giữa đầu tư theo mô hình PPP và đầu tư theo truyền thống, từ đó ra quyết
định có thực hiện dự án bằng mô hình PPP hay không. Chỉ những dự án PPP nào có chi
phí rẻ hơn so với đầu tư truyền thống mới được chọn. Chính sách của Hà Lan là sử dụng
PPP để thực hiện các dự án công rẻ, nhanh, và hiệu quả hơn”.
2.4.1.3. Kinh nghiệm của Chile
Chile được đánh giá là một trong những quốc gia thành công trong việc tạo môi
trường thuận lợi cho khu vực tư nhân trong đầu tư hạ tầng. Sự phát triển của thị trường
chứng khoán có thu nhập ổn định là kênh dẫn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển hạ
tầng tại Chile. Trong lĩnh vực hạ tầng đường cao tốc, Chile thực hiện tư nhân hóa từ đầu
những năm 1990, tập trung vào tuyến đường chính nối miền bắc và miền nam đất nước
và các tuyến đường ngang nối với các tỉnh lân cận. Các dự án hạ tầng đường cao tốc
được thực hiện theo hình thức BOT, với thời gian từ 20-30 năm (Phạm Thiên Hoàng và
cộng sự, 2015). Quy định của Chile cho phép các nhà thầu thiết lập mức phí sử dụng
dịch vụ tuy nhiên phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt của Bộ Công trình công cộng,
điều này nhằm tránh tình trạng nhà đầu tư tự ý thiết lập các mức phí cao vô lí, qua đó
giảm thiểu xung đột lợi ích giữa nhà đầu tư và người trả phí sử dụng đường sá. Phí có
thể được điều chỉnh theo lạm phát và một số yếu tố khác như thời gian nhượng quyền
và mức độ an toàn giao thông trên tuyến đường đó.
Đảm bảo doanh thu tối thiểu là công cụ để thu hút đầu tư của khu vực tư nhân
cho phát triển đường cao tốc. Đến năm 2012, tổng mức chi trả bảo lãnh doanh thu tối
thiểu đạt 0,4% GDP/tổng giá trị bảo lãnh đạt 5% GDP (Nguyễn Thế Trọng, 2014). Chính
phủ Chile cũng yêu cầu báo cáo ngân sách hàng năm phải tính toán nợ tiềm tàng từ các
dự án PPP nhằm kiểm soát nợ công từ các dự án này. Các cơ chế dự phòng tài chính
được thực hiện, trên cơ sở ước tính mức doanh thu hàng năm của các dự án PPP.
Kênh dẫn vốn chủ yếu cho các dự án hạ tầng giao thông của Chile là thị trường
trái phiếu. Năm 2008, quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp đạt 19,4 tỷ USD
(11,4% GDP). Trong đó, trái phiếu hạ tầng của các dự án PPP chiếm 20% quy mô thị
trường, chủ yếu được nắm giữ bởi các quỹ hưu trí và công ty bảo hiểm (trên 90%). Trái
phiếu hạ tầng tại Chile có kỳ hạn dài, bình quân đạt 21 năm, rủi ro thấp do được đảm
bảo bởi chính phủ.
56
Khung pháp lý cho chương trình PPP của Chile là Luật Nhượng quyền, ban hành
theo Nghị định đặc biệt số 164 năm 1991 và được sửa đổi trong các năm 1993, 1996 và
gần nhất là năm 2010. Luật Nhượng quyền đã hình thành một hệ thống đấu thầu cạnh
tranh trên cơ chế mềm dẻo đối với việc trao nhượng quyền, xác lập quyền và nghĩa vụ
lẫn nhau giữa nhà nước và tư nhân, thiết lập các cơ chế giải quyết xung đột, cũng như
các công cụ khuyến khích sự tham gia của nhà đầu tư tư nhân (Hill, 2011). Luật Nhượng
quyền sửa đổi năm 2010 củng cố các quy định về minh bạch và công khai trong quá
trình đấu thầu; sửa đổi cơ chế hòa giải và giải quyết tranh chấp, theo hướng tạo ra các
công cụ kỹ thuật độc lập cho điều tra và giải quyết tranh chấp; cải thiện quy trình thu
phí để giảm mức nợ phí. Tất cả các dự án PPP đều được đấu thầu quốc tế công khai. Các
chủ thể tham gia đấu thầu là các pháp nhân được hình thành theo luật Chile và luật nước
ngoài (Hill, 2011).
2.4.1.4. Kinh nghiệm của Úc
Úc là nước có nhiều kinh nghiệm thành công về triển khai mô hình PPP trong
những năm qua (Nguyễn Ngọc Hà và Trần Nam Trung, 2015). “Năm 2013, Úc là 1
trong 10 nước có đầu tư PPP hiệu quả nhất trong tổng số gần 200 quốc gia và vùng lãnh
thổ.Úc thực thi phổ biến hai mô hình PPP dựa trên cơ chế hoàn vốn cho dự án”. Mô hình
thứ nhất Nhà nước chịu trách nhiệm cung ứng dịch vụ và chịu hoàn toàn rủi ro về cầu
của dịch vụ. Nhà đầu tư tư nhân thực hiện cung ứng dịch vụ, nguồn tài chính để hoàn
vốn cho nhà đầu tư do chính phủ trực tiếp chi trả. Mô hình thứ hai được áp dụng chủ
yếu cho xây dựng cơ sở hạ tầng (CSHT) giao thông vận tải (GTVT), theo đó rủi do về
cầu được chuyển sang nhà đầu tư, nguồn tài chính để hoàn vốn không phải do chính phủ
trực tiếp chi trả mà từ doanh thu khai thác dự án.
Tại Úc các dự án PPP phát triển CSHT GTVT, trong đó chủ yếu giao thông đường
bộ (GTĐB), chiếm một phần ba tổng vốn đầu tư trong các dự án PPP. Các dự án PPP
được phát triển ở cấp độ Liên bang và tiểu bang. Các dự án PPP GTĐB có chất lượng
cao hơn các hình thức truyền thống.
Có thể tóm lược những cơ sở thành công của Úc trong thực hiện các dự án PPP
nhờ những yếu tố sau:
“Một là, Chính phủ Úc đã xây dựng được khung chính sách vững chắc về PPP;
đặc biệt là quy trình dự thầu đối với dự án PPP rất chặt chẽ, góp phần tối ưu hóa hiệu
quả kinh tế cho các dự án. Hai là, khuyến khích cắt giảm chi phí chuẩn bị đấu thầu. Để
tăng cường hiệu quả kinh tế cho các dự án PPP, trước khi thực hiện bất kỳ một dự án
PPP nào, Chính phủ Úc khuyến khích các sáng kiến, để cắt giảm chi phí chuẩn bị đấu
57
thầu dự án PPP, tiết kiệm một khoản tiền không nhỏ cho dự án PPP (tiết kiệm từ 0,5%
- 1,5% giá trị phí dự án). Ba là, các dự án PPP của Úc đều phải tuân thủ chặt chẽ quy
định về thời gian (thời gian dự thầu trung bình cho một dự án PPP về hạ tầng xã hội ở
Úc là 17 tháng, thấp hơn nhiều so với ở Anh là 34 tháng). Bốn là, quá trình thực hiện
các dự án PPP tại nước này cũng được chuẩn hóa thông qua hợp đồng và giảm số lượng
tài liệu hồ sơ cần nộp khi tham gia đấu thầu các dự án PPP. Năm là, để tối đa hóa hiệu
quả dự án PPP, Úc cũng chuẩn bị nguồn dự án PPP lớn; thực hiện bồi hoàn một số chi
phí đấu thầu bên ngoài nhất định. Sáu là, rút ngắn danh sách nhà thầu trước khi thực
hiện đấu thầu dự án PPP. Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền thông tin về dự án và mời
gọi các nhà thầu khác tham gia”.
2.4.1.4. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Đối với Nhật Bản, ”sự hỗ trợ và tham gia của các nhà đầu tư tư nhân đóng vai trò
đặc biệt quan trọng trong các dự án đầu tư theo hình thức PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ
tầng giao thông đường bộ.
Ở Nhật Bản, các công ty tư nhân đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển các
công trình hạ tầng, phổ biến và thúc đẩy các hình thức và hoạt động của hình thức PPP,
không chỉ trong lĩnh vực giáo dục mà tất cả các các lĩnh vực khác. Các tổ chức, Chính
phủ, các Bộ, ban ngành và hệ thống doanh nghiệp đều được hỗ trợ tham khảo tư vấn về
các loại hợp đồng theo hình thức PPP.
Nhật Bản luôn luôn xác định đây là một lĩnh vực có hiệu quả kinh tế thấp nhưng
đi kèm nhiều rủi ro cao cũng như cần có một nguồn vốn rất lớn, chính vì vậy việc áp
dụng mô hình PPP của Nhật Bản được tiến hành trong bối cảnh Châu Á phát triển
nhanh và nhu cầu về dịch vụ công cộng cũng như cơ sở hạ tầng rất lớn đem lại nhiều
thành công cho Nhật Bản. Theo kinh nghiệm của Nhật Bản, đối với dự án không thể
áp dụng phương pháp cổ phần hóa và Nhà nước không thể tham gia trực tiếp vào những
dự án này thông qua quá trình sản xuất và quá trình phân phối thì việc áp dụng mô
hình PPP sẽ cho hiệu quả rất lớn trong việc giảm chi phí, giảm rủi ro trong môi trường
cạnh tranh cao.
Tại Nhật Bản, ngay từ sau những năm 1950 các công ty tư nhân, đặc biệt là trong
4 ngành điện lực, than, thép, và vận tải biển, đã nhận được sự hỗ trợ đáng kể về tài chính
từ Chính phủ, trong đó có kênh đầu tư thông qua các tổ chức tài chính công mà điển
hình là Ngân hàng Phát triển Nhật Bản. Các tổ chức tài chính công này được thành lập
nhằm tách việc thực hiện các chính sách công của nhà nước ra khỏi chức năng kinh
doanh của các ngân hàng thương mại, và tiếp nhận các khoản vốn đầu tư từ chính phủ
58
và các nguồn tài trợ từ nước ngoài để đầu tư phát triển cho các công ty tư nhân trong
việc phát triển cơ sở hạ tầng và cung cấp các dịch vụ thiết yếu.
Đến thập niên 80, hợp tác giữa khu vực công và tư đã phát triển theo hướng tư
nhân hóa, theo đó xu hướng khu vực tư nhân thực hiện cung cấp các dịch vụ công trước
đây do nhà nước thực hiện nhằm giảm bớt gánh nặng về tài chính của Chính phủ, đồng
thời tạo điều kiện nâng cao chất lượng các dịch vụ công.
Vào những năm 1990, khái niệm quản lý theo mô hình khu vực tư nhân được áp
dụng vào quản lý khu vực công nhằm nâng cao trách nhiệm và tính hiệu quả trong khu
vực công tiến tới cải cách tổng thể khu vực công.
Từ năm 2000 đến nay, xu hướng liên danh công – tư đã được phát triển và hoàn
thiện. Theo đó, hợp tác công – tư được hiểu là một phần của việc cải cách khu vực công
nhằm khắc phục sự thiếu hụt nguồn tài chính, thực hiện tối đa hoá lợi ích, và cung cấp
tốt hơn các dịch vụ công với chi phí thấp nhất. Nội dung chính của hợp tác công – tư là
chia sẻ rủi ro và trách nhiệm giữa Nhà nước và khu vực tư nhân, trong đó trách nhiệm
gánh chịu chính đối với những rủi ro thuộc về khu vực tư nhân. Nhà nước cũng có trách
nhiệm trong việc hỗ trợ khu vực tư nhân về tài chính để đảm bảo dự án khả thi và giảm
bớt khó khăn cho khu vực tư nhân. Cơ chế hợp tác đã thay đổi và chuyển dần từ quản lý
bằng Luật sang quản lý thông qua hợp đồng. Ngoài những cách thức hợp tác truyền
thống, trong vòng 10 năm qua đã có nhiều biện pháp, quy định và chính sách để thúc
đẩy các mô hình hợp tác công – tư khác nhau, đáng chú ý là Luật về thúc đẩy các sáng
kiến tài chính tư nhân 1999. Thực hiện Luật này, đã có khoảng 310 dự án PPP dưới hình
thức sáng kiến tài chính tư nhân (PFI) tính đến 2008”.
2.4.2. Một số trường hợp “thất bại” trong triển khai dự án PPP
Nghiên cứu của John và Sussman (2006) “đã chỉ ra năm nguyên nhân dẫn đến
thất bại của việc thu hút đầu tư của tư nhân theo hình thức PPP ở Malaysia, đó là: Sự
thiếu minh bạch trong quá trình lựa chọn nhà đầu tư; mức giá thu phí thấp; khả năng hỗ
trợ của Chính phủ bị giới hạn; các chính sách của chính phủ chưa đồng bộ; sự bất ổn về
chính trị”.
Theo tổng kết của Thu Hương (2017), Mexico và Hungary có thể coi là các
trường hợp “thất bại” điển hình khi triển khai phương thức PPP trong CSHT GTVT.
Đối với trường hợp Mexico: “Từ năm 1987 đến 1992, chính phủ Mexico cấp
phép cho 52 dự án theo mô hình đối tác công tư PPP (BOT là 1 trong số 5 loại mô hình
của PPP). Đến cuối năm 1995, 34 dự án đã thu hút được tổng cộng 9,9 tỷ USD vốn cam
59
kết từ các doanh nghiệp tư nhân”. Tuy nhiên, những con số thu hút vốn lớn nói trên lại
phản ánh một kết cục không mong muốn. Nguyên do là “Mexico đã mắc phải một số
sai lầm như trong lúc đấu thầu công ty nào đưa ra thời hạn thu phí ngắn nhất sẽ chiến
thắng, dẫn đến áp lực phải thu mức phí cao đến mức bất hợp lý. Bên cạnh đó, Chính phủ
yêu cầu mỗi con đường có thu phí phải có một con đường không thu phí chạy song song.
Cùng với việc tính toán chi phí xây dựng không tốt (trung bình bị đội lên 25%) trong
khi doanh thu lại thấp hơn 30% so với dự tính và chỉ có 5 dự án đạt mục tiêu, nhiều dự
án đã thất bại thảm hại. Cuối cùng Chính phủ Mexico đã phải tiếp nhận lại 23 dự án và
gánh khoản nợ 5 tỷ USD phải trả cho các ngân hàng cùng với 2,6 tỷ USD trả cho các
công ty xây dựng”.
Đối với trường hợp Hungary, “dự án đường M1/M15 của Hungary là 1 ví dụ khác
cho thấy để có 1 dự án BOT thành công cần phải ước tính được chính xác chi phí và
doanh thu dự kiến. Là con đường thu phí đầu tiên ở khu vực Trung và Đông Âu, năm
1995 dự án được hoàn thành đúng tiến độ và chi phí ước tính. Tuy nhiên lượng xe đi
qua đây lại thấp hơn khoảng 40% so với dự báo. Mức phí cao không thể giúp bù đắp
lượng xe thấp và cuối cùng Chính phủ Hungary phải mua lại và tiếp quản lại dự án”.
Những trường hợp thất bại khi thu hút tư nhân tham gia các dự án PPP về CSHT cho
thấy thông thường quy mô dự án CSHT lớn và theo đó cũng ẩn chứa nhiều rủi ro. “Để
thành công, đòi hỏi các bên tham gia phải lên kế hoạch một cách cẩn thận, tính toán và
dự báo chi phí cũng như doanh thu sát với thực tế, nghiêm chỉnh chấp hành các thỏa
thuận đã đề ra trong hợp đồng, tuân thủ pháp luật và tăng cường tính minh bạch. Bên
cạnh đó dự án phải hợp lý và nhận được sự ủng hộ của công chúng”.
2.4.3. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam về đầu tư tư nhân theo hình
thức PPP
Kinh nghiệm triển khai mô hình PPP trong phát triển CSHT nói chung và CSHT
giao thông nói riêng từ các nước phát triển như Anh, Úc, Hàn Quốc và các nước đang
phát triển như Chile cho thấy từ góc độ QLNN có thể rút ra từ ba nhóm bài học kinh
nghiệm như sau:
Nhóm bài học thứ nhất: Xác định hình thức PPP phù hợp và dự án phải nhận
được sự ủng hộ của người dân và doanh nghiệp Kinh nghiệm thực hiện các dự án PPP
ở nhiều quốc gia cho thấy hình thức PPP thường chỉ phù hợp với những dự án lớn và
phức tạp do: “(i) chi phí đầu tư, bảo trì và các chi phí khác lớn; (ii) quá trình mời thầu
và quản lý điều hành dự án phức tạp và tốn kém; và (iii) thời gian hoạt động của dự án
phải dài để đạt được giá trị đồng tiền (VOM) và giảm chi phí vòng đời dự án”. Thêm
60
nữa, cơ chế PPP phải dựa trên cơ sở đảm bảo vừa để thu hút nhà đầu tư, đồng thời cũng
đảm bảo hài hòa lợi ích cho người sử dụng dịch vụ, tránh áp đặt sử dụng dịch vụ hoặc
áp đặt mức phí sử dụng quá cao lên người dân và doanh nghiệp.
Nhóm bài học thứ hai: các nhân tố quyết định sự thành công của hình thức PPP.
Từ kết quả các nghiên cứu ở các nước phát triển và đang phát triển cho thấy:
- Không có sự khác biệt về những nhân tố đóng góp vào thành công của phương
thức PPP. Bổ sung thêm vào các nghiên cứu kể trên, phân tích của APEC (2015) và
PPIAF (2014) cũng nhấn mạnh các yếu tố quyết định thành công của PPP bao gồm: “cụ
thể khung pháp lý đầy đủ và minh bạch; lựa chọn đối tác có năng lực; tối đa hóa lợi ích
cho các đối tác, ổn định môi trường vĩ mô và phân bổ rủi ro hiệu quả. Ngoài ra, cần đảm
bảo cả nhà nước và tư nhân hoàn toàn dồn hết tâm sức vào việc cung cấp dịch vụ tuỳ
theo năng lực đặc biệt của mỗi bên, thực hiện nghiêm túc các thỏa thuận hợp tác, nếu
không mọi nỗ lực cho PPP sẽ thất bại”;
- Có sự khác biệt về mức độ tác động giữa các nhân tố đến thành công của PPP
tuỳ thuộc đặc thù kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước;
- “Mục tiêu của PPP sẽ thay đổi theo quá trình phát triển của PPP. Trong giai
đoạn đầu, PPP hướng đến mục tiêu bù đắp thiếu hụt vốn. Nhưng càng phát triển thì mục
tiêu của PPP sẽ thay đổi hướng đến tăng giá trị đồng tiền, chỉ những dự án PPP nào có
chi phí rẻ hơn so với đầu tư truyền thống mới được chọn (như Hà Lan, Anh chỉ chọn dự
án nào có chi phí rẻ hơn từ 10 – 15% so với đầu tư bằng ngân sách). Và khi mục tiêu
thay đổi, mức độ tác động của các nhân tố cũng sẽ thay đổi”.
Nhóm bài học thứ ba: Chính phủ cần tạo môi trường thuận lợi cho hình thức
PPP để thu hút đầu tư của khu vực tư nhân, cụ thể:
- Xây dựng khung khổ luật pháp phù hợp đảm bảo tính hiệu quả và công bằng
được tôn trọng trong suốt vòng đời dự án.
- Hỗ trợ của chính phủ đủ lớn để hấp dẫn khu vực tư nhân tham gia. Các chính
sách hỗ trợ chính bao gồm: hỗ trợ về tài chính thực hiện dự án, hỗ trợ về đất đai, hỗ trợ
về thuế và phí, bồi thường chi phí chuẩn bị đề xuất, bảo lãnh tín dụng, cơ chế mua lại,
đảm bảo doanh thu tối thiểu (doanh thu chia sẻ rủi ro), bảo đảm về tỷ giá, cho phép
nhượng quyền dự án CSHT, Có chính sách khuyến khích các đề xuất tư nhân thực
hiện dự án CSHT theo hình thức PPP.
- Tích lũy kiến thức và kinh nghiệm để tổ chức hợp đồng PPP thành công.
61
- Phát triển mối quan hệ với các bên tham gia dự án PPP như các nhà tư vấn, các
nhà tài trợ và các cơ quan đa phương để tránh xung đột trong quá trình hợp tác.
- Giám sát và đánh giá PPP thường xuyên để liên tục nâng cao hiệu quả đầu tư.
- Xây dựng bộ tiêu chuẩn khoa học để đánh giá chính xác các dự án PPP; có cơ
chế đánh giá, lựa chọn dự án PPP hiệu quả, đảm bảo công khai, minh bạch. PPP, nếu
không được lựa chọn kỹ lưỡng, là nguồn nợ tiềm tàng của Nhà nước. Các thành phần
kinh tế cần được đối xử bình đẳng trong việc đề xuất dự án thực hiện theo hình thức
PPP. Cơ quan có thẩm quyền quyết định dự án PPP chịu trách nhiệm công khai thông
tin về dự án PPP.
- Các cam kết của chính phủ phải đảm bảo có hiệu lực thực thi.
- Duy trì các chính sách vĩ mô ổn định tạo sự yên tâm cho khu vực tư nhân.
2.5. Khung phân tích
Hầu hết những nghiên cứu, báo cáo trước đây được đề cập ở phần trên trong
chương này đều chỉ ra mức độ đầu tư của khu vực tư nhân vào các dự án thuộc hệ thống
cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ theo hình thức PPP thường bị chi phối bởi các nhân
tố hay các vấn đề xoay quanh như: thứ nhất là môi trường vĩ mô của đất nước ổn định,
thứ hai là khả năng cũng như mức độ chia sẻ rủi ro giữa khu vực tư nhân và chính phủ
ở mức phù hợp, thứ ba là quá trình đầu tư vào các dự án thuộc hệ thống cơ sở hạ tầng
giao thông đường bộ phải minh bạch và hiệu quả, thứ tư là môi trường chính trị - xã hội
của đất nước phải ổn định và thứ năm là khả năng kiểm soát của chính phủ phải ở mức
độ hợp lý. Thực tế cho đến nay thì rất nhiều mô hình nghiên cứu đã được sử dụng vào
vấn đề này để đạt được mục tiêu nghiên cứu tiêu biểu như: mô hình mô phỏng Monte
Carlo, mô hình hồi quy truyền thống, mô hình phân bổ rủi ro mờ, mô hình các vòng tròn,
và mô hình phân tích thống kê.
Có chín yếu tố được sử dụng trong nghiên cứu này tác động đến đầu tư của khu
vực tư nhân theo hình thức PPP trong lĩnh vực hạ tầng giao thông đường bộ tại Việt
Nam bao gồm: (1) Lợi nhuận đầu tư, (2) Khung pháp lý, (3) Chia sẻ rủi ro, (4) Kinh tế
vĩ mô, (5) Lựa chọn đối tác, (6) Hỗ trợ của chính phủ, (7) Kênh tài trợ vốn, (8) Năng lực
tư nhân và (9) Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Trong 9 yếu tố được xem xét trong
nghiên cứu này, cả 9 khái niệm này đều là khái niệm đơn hướng. Ngoài ra, 4 yếu tố đầu
tiên bao gồm (1) Lợi nhuận đầu tư, (2) Khung pháp lý, (3) Chia sẻ rủi ro và (4) Kinh tế
vĩ mô đã được nghiên cứu trong mô hình của Sader (2000). Yếu tố (5) Lựa chọn đối tác
62
cũng đã được đưa vào nghiên cứu trong mô hình của Huỳnh Thị Thúy Giang (2013).
Trong nghiên cứu này, từ kết quả nghiên cứu định tính thông qua thảo luận nhóm, tác
giả đưa thêm 4 yếu tố mới vào xem xét bao gồm (6) Hỗ trợ của chính phủ, (7) Kênh tài
trợ vốn, (8) Năng lực tư nhân và (9) Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Yếu tố (6) Hỗ trợ của chính phủ mặc dù chưa được đưa vào nghiên cứu ở bất
kỳ mô hình của tác giả nào nhưng tầm quan trọng của yếu tố này đã được đề cập nhiều
trong những nghiên cứu trước đây. Trong báo cáo của (ADB, 2008) đã nhấn mạnh
rằng chính sách hỗ trợ của Nhà nước rất cần thiệt để đảm bảo có thể thu hút đầu tư của
khu vực tư nhân tham gia đầu tư theo hình thức PPP trong lĩnh vực hạ tầng giao thông
đường bộ.
Yếu tố (7) Kênh tài trợ vốn, do đặc điểm mang tính đặc thù của các dự án GTVT
thường quy mô lớn, tiến hành thực hiện trong thời gian dài, đòi hỏi lượng vốn đầu tư
lớn nên xu hướng vượt quá khả năng tài chính của công ty. Do vậy trong dài hạn, các
nhà đầu tư muốn tìm cho mình những kênh tài trợ vốn tốt, đặc biệt trong bối cảnh thị
trường tài chính của Việt nam còn nhiều bất cập trong việc huy động vốn. Hiện nay,
nguồn vốn dành cho các dự án PPP chủ yếu đến từ các ngân hàng thương mại và nhà
đầu tư, trong đó ngân hàng chiếm đến 80%. Tuy nhiên, vốn huy động của các ngân hàng
chủ yếu là ngắn hạn, trong khi nhà đầu tư vay vốn để thực hiện các dự án PPP thường
kéo dài tới 20 – 25 năm.
Ngoài ra các chuyên gia cũng cho rằng những yếu tố mang tính chất nội lực của
doanh nghiệp cũng đóng vai trò rất quan trọng ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư của
khu vực tư nhân theo hình thức đối tác công – tư (PPP). Đây được xem là lý do chính
tác giả đưa yếu tố (8) Năng lực tư nhân vào mô hình nghiên cứu.