Giảng viên của các trường đại học kinh tế đánh giá khá thấp các rào cản ảnh
hưởng tới hoạt động nghiên cứu. Điểm đánh giá cho các khía cạnh về rào cản nghiên
cứu khá thấp, dưới mức 3 trong thang đo Likert 4 điểm và chủ yếu ở mức ngưỡng
quanh mức 2 điểm. Điều này cho thấy sự khác biệt về văn hóa nghiên cứu và những
cản trở nghiên cứu giữa ngành khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Các giảng viên
khối khoa học xã hội giường như xem nhẹ các rào cản ảnh hưởng tới hoạt động nghiên
cứu hơn như cơ sở vật chất, điều kiện làm việc Trong khi đó, đối với khối khoa học
tự nhiên và kỹ thuật hoạt động nghiên cứu gần như không thể tách rời hệ thống cơ sở
vật chất như phòng thí nghiệm, thiết bị thí nghiệm, hóa chất, mẫu vật điều này làm
cho các rào cản liên quan đến cơ sở vật chất sẽ lớn hơn. Trong khi đó các nghiên cứu
trong khối khoa học xã hội thường không liên quan quá nhiều đến cơ sở vật chất hay
mức chi phí cho hoạt động nghiên cứu có thể khiêm tốn hơn. Các nhà khoa học dễ
dàng vượt qua được các cản trở hơn để có thể hoàn thành các nghiên cứu.
200 trang |
Chia sẻ: tueminh09 | Ngày: 10/02/2022 | Lượt xem: 336 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c, tham
gia phản biện khoa học cho các kỳ thi khoa học).
Ở khía cạnh cá nhân giảng viên, cần nhận thức về tự do học thuật là quyền của
nhà khoa học. Cũng cần nhận thức hoạt động nghiên cứu khoa học là một trách nhiệm
của giảng viên, giảng viên của trường đại học đồng thời cũng là một nhà khoa học
162
(hàm lượng đánh giá sản phẩm khoa học có thể khác nhau tùy theo ngạch giảng dạy
hay ngạch nghiên cứu).
c) Xã hội hóa quỹ tài trợ nghiên cứu
Việc huy động nguồn lực cho hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên
hiện nay phần lớn vẫn trông chờ vào tài trợ từ ngân sách của Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Bộ Khoa học Công nghệ, các Bộ khác, trường đại học, các địa phương, doanh nghiệp
và các tổ chức phi chính phủ. Bởi vậy, cùng với hoạt động tự chủ đại học thì việc tạo
nguồn quỹ tài trợ cho hoạt động nghiên cứu khoa học trong giai đoạn tới cũng rất cần
thiết, các nguồn quỹ xã hội hóa với sự tham gia của nhiều bên có thể sẽ đem đến hiệu
quả cao hơn trong việc thúc đẩy nghiên cứu khoa học từ các giảng viên đại học. Mục
tiêu chung của việc xã hội hóa nguồn quỹ hỗ trợ nghiên cứu nhằm thúc đẩy động cơ
nghiên cứu và hạn chế các rào cản do thiếu nguồn tài trợ cho hoạt động nghiên cứu với
các nhà nghiên cứu tiềm năng, các dự án nghiên cứu có đóng góp. Một số điểm cần
lưu ý khi thiết lập chính sách xã hội hóa tài trợ nghiên cứu trong trường đại học.
Một là, hoạt động tạo nguồn cho các quỹ tài trợ. Trường đại học có thể chủ
động tạo ra các Quỹ tài trợ nghiên cứu khoa học và thu hút tài trợ từ bên ngoài, nhà
trường cũng có thể phối hợp với các tổ chức khác thành lập các Quỹ phát triển khoa
học theo những cơ chế thảo thuận giữa các bên tham gia. Hoạt động tạo nguồn tài trợ
rất quan trọng đối với khả năng hoạt động của quỹ. Các nguồn tài trợ cho quỹ phát
triển khoa học có thể được huy động từ một phần vốn tự có của nhà trường, tài trợ của
các tổ chức, cá nhân bên ngoài trường. Theo truyền thống của các đại học từ các nước
phát triển nguồn quỹ phát triển khoa học hay các quỹ khuyến khích học tập được tài
trợ từ hệ thống cựu học viên, các doanh nghiệp của cựu học viên chiếm một tỷ lệ rất
lớn. Bởi vậy, cần tìm cách đa dạng hóa nguồn tài trợ cho Quỹ tập trung vào nhóm cựu
học viên thông qua mạng lưới cựu học viên, các doanh nghiệp thông qua hoạt động
hợp tác nhà trường doanh nghiệp.
Hai là, thiết lập cơ chế tài trợ hiệu quả cho các quỹ hỗ trợ phát triển khoa học
được xã hội hóa. Cơ chế tài trợ phải được đơn giản hóa và đến đúng đối tượng cần tài
trợ. Đối với các quỹ tài trợ khoa học cần quan tâm đến việc nguồn tài trợ được tài trợ
đúng và không bị thất thoát bởi các cơ chế phê duyệt hay thủ tục hành chính như hoạt
động xét duyệt các đề tài nghiên cứu khoa học các cấp hiện nay.
Ba là, xây dựng cấu trúc quản lý quỹ hiệu quả. Quỹ phát triển được xã hội hóa
sẽ phải đảm bảo quyền lợi của tất cả các bên tham gia từ nhà trường tới các cá nhân, tổ
chức tài trợ. Các quỹ nên có những bộ phận chuyên trách về chuyên môn được tổ chức
163
một cách gọn nhẹ. Nhà trường, các nhà khoa học được mời tham gia các Hội đồng,
tiểu ban chuyên môn và ban hành quy chế cho hoạt động của các hội đồng, tiểu ban
này. Các tiểu ban này phụ trách việc xây dựng tiêu chuẩn và quy trình liên quan đến
phê duyệt tài trợ. Hoạt động này là thuần túy khoa học. Nhà tài trợ hoặc đại diện nhà
tài trợ, các nhóm xã hội dân sự được mời tham gia vào ủy ban quản lý tài chính và
theo dõi tính hiệu quả của nghiên cứu cùng với các nhà khoa học. Việc các nhà tài trợ
tham gia quản lý quỹ sẽ đảm bảo nguồn tài trợ được tài trợ đúng theo mục đích thành
lập quỹ.
d) Đổi mới mô hình hợp tác quốc tế trong hoạt động nghiên cứu khoa học
Hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học là một xu thế không thể đảo ngược
hiện nay. Tuy nhiên, hợp tác như thế nào và lựa chọn đối tác hợp tác như thế nào hiệu
quả mà không mất “chủ quyền khoa học”, không trở thành “thuộc địa khoa học” là
một vấn đề cần đặt ra. Thực tế, tại Việt Nam có đến 80% các bài nghiên cứu đăng tải
trên các tạp chí uy tín quốc tế có sự hợp tác với các tác giả nước ngoài. Hợp tác quá
nhiều mà đóng góp vào quá trình nghiên cứu, đóng góp tri thức vào dự án nghiên cứu
thấp cho thấy nội lực của nền khoa học còn yếu kém. Việc thiếu tự chủ trong hợp tác
quốc tế có thể dẫn đến việc lệ thuộc khoa học vào nước ngoài. Kinh nghiệm từ các
nước cho thấy hoạt động nghiên cứu có hợp tác khoảng 30 đến 50% là bình thường và
nhà khoa học phải thể hiện vai trò quan trọng trong các dự án nghiên cứu (thể hiện qua
vị trí tác giả trên các bài báo khoa học), hợp tác quá nhiều và không đóng vai trò quan
trọng trong các dự án nghiên cứu cho thấy năng lực nghiên cứu thấp của nền khoa học.
Bởi vậy, trong luận án này tác giả đề xuất các trường đại học nên xem xét lại mô hình
hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, chủ động hơn trong hoạt động hợp tác và thể hiện
vai trò lớn hơn trong đóng góp khoa học của các dự án hợp tác nghiên cứu. Để làm
được điều này các trường có thể cần để ý một số khía cạnh như sau:
Thứ nhất, các trường, các giảng viên chủ động hơn trong việc hợp tác nghiên
cứu với các đồng nghiệp, đối tác quốc tế. Đối với các dự án quốc tế được tài trợ từ các
tổ chức nước ngoài có sự tham gia của các đồng nghiệp quốc tế, các nhà khoa học Việt
Nam cần tham gia sâu hơn vào toàn bộ quá trình nghiên cứu, không đơn giản là làm
công tác “thu thập dữ liệu” cho các dự án và đứng tên ở các vị trí kém quan trọng
trong các bài báo khoa học công bố từ dự án nghiên cứu. Các nhà khoa học phải thảo
luận với đồng nghiệp quốc tế về chủ đề nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, cách thức
thiết kế nghiên cứu, thu thập và phân tích dữ liệu nghiên cứu, viết bản thảo và công bố.
Chỉ khi tham gia sâu vào toàn bộ quá trình nghiên cứu thì các nhà khoa học mới có thể
“thương lượng” về vị trí đứng tên tác giả và thể hiện đóng góp khoa học của mình vào
164
nghiên cứu, tránh được hiện tượng “chất liệu Việt Nam, tri thức ngoại quốc” trong hợp
tác nghiên cứu.
Thứ hai, các trường, đơn vị thuộc trường cần lựa chọn các mô hình hợp tác đôi
bên cùng có lợi (win - win) với đối tác nước ngoài. Các trường không thể chỉ trông
chờ vào hợp tác nghiên cứu như một ngân khoản tài trợ từ nước ngoài cho nghiên cứu
của mình. Cần chủ động mời gọi các nhà nghiên cứu quốc tế tham gia các dự án
nghiên cứu do các nhà khoa học Việt Nam chủ trì được tài trợ bởi các quỹ nghiên cứu
trong nước, trong đó có quỹ được thành lập từ trường.
Thứ ba, các trường cần xác định hợp tác nghiên cứu là nhu cầu không thể đảo
ngược nhưng phải xác định “chủ quyền khoa học”. Thúc đẩy các nhà nghiên cứu trong
nước tiệm cận năng lực quốc tế để tham gia sâu hơn vào các dự án nghiên cứu do phía
đối tác nước ngoài chủ trì hoặc do phía Việt Nam chủ trì.
đ) Đẩy mạnh liên kết đại học - doanh nghiệp (U-I linkes)
Các trường đại học cũng cần đẩy mạnh hoạt động liên kết với doanh nghiệp tạo
ra áp lực với các nghiên cứu của giảng viên nhà trường, tăng cường tính ứng dụng và
tạo nguồn tài trợ cho hoạt động nghiên cứu. Các hoạt động hợp tác với doanh nghiệp
có thể được thực hiện thông qua các hình thức liên kết chính tắc (các thỏa thuận có
tính nguyên tắc và pháp lý) cũng như liên chính tắc (tự phát từ giảng viên). Tuy nhiên,
trong dài hạn các trường nên ưu tiên khuyến khích các hình thức liên kết chính tắc với
doanh nghiệp, thế giới công nghiệp. Một số lưu ý đối với các trường đại học trong việc
thiết lập liên kết với doanh nghiệp ở các khía cạnh (i) sự cần thiết; (ii) tính hỗ trợ; (iii)
tính hiệu quả; (4) tính ổn định và (5) tính chính thống. Trong đó:
Sự cần thiết của hình thức liên kết là câu hỏi đầu tiên nhà trường phải trả lời.
Với bất kỳ hình thức liên kết nào nhà trường cũng cần đặt ra việc đánh giá tính cần
thiết của nó. Hoạt động liên kết có khuyến khích tương tác giữa nhà trường với doanh
nghiệp và thế giới công nghiệp hay không? Hoạt động liên kết có cải thiện hiệu quả
hoạt động sáng tạo, đổi mới hay tạo ra của cải hay không. Nhìn chung, nhà trường phải
cân nhắc khi thiết lập các hình thức liên kết với doanh nghiệp để đảm bảo lợi ích cho
cả hai bên, tạo ra phúc lợi cho nền kinh tế.
Tính hỗ trợ: nhà trường phải xác định hoạt động liên kết với doanh nghiệp có
đem lại hoạt động hỗ trợ tích cực cho cả hay bên hay không. Tính hỗ trợ cần được đặt
ra với liên kết bởi vì có một lập luận rằng các trường đại học cung cấp phương tiện cho
khả năng tiếp cận rộng rãi với các chuyên gia nghiên cứu và cơ sở hạ tầng cho nghiên
cứu. Trong khi đó, doanh nghiệp cung cấp kiến thức chuyên sâu về phát triển sản
165
phẩm và thương mại hóa, kiến thức thị trường (Sherwood, 2004). Bởi thế, hoạt động
liên kết phải hướng tới việc tận dụng lợi thế của doanh nghiệp hướng và nhà trường để
đạt được lợi ích cho cả hai bên.
Tính hiệu quả: hoạt động liên kết với doanh nghiệp từ nhà trường cũng phải
tính đến tính hiệu quả. Để đánh giá tính hiệu quả các trường và doanh nghiệp có thể
đánh giá qua các sản phẩm nghiên cứu, hợp tác như thương mại hóa kết quả nghiên
cứu, định lượng hóa kết quả đánh giá qua hệ thống đánh giá trắc lượng khoa học.
Tính ổn định: hoạt động liên kết phải hướng tới tính ổn định trong dài hạn. Bởi
để tạo ra hiệu quả trong dài hạn, cả nhà trường và doanh nghiệp phải hướng tới hợp tác
đề kiểm soát các yếu tố bất định và đạt được sự tin tưởng lẫn nhau (Oliver, 1990).
Tính chính thống: phản ánh hoạt động liên kết với doanh nghiệp của trường đại
học là chính tắc hay phi chính tắc. Trường đại học có động cơ tham gia vào các liên
kết để nâng cao uy tín và vị thế của mình (Mora-Valentin, 2000). Hoạt động liên kết
cũng đòi hỏi các trường và doanh nghiệp về tính trách nhiệm xã hội, tinh thần doanh
nhân và sự liên quan đến các vấn đề kinh tế - xã hội (Cohen và cộng sự, 1998), sự
công nhận trong cộng đồng khoa học và doanh nghiệp. Bởi vậy, tính chính thống cũng
cần được xem xét khi nhà trường thực hiện các hình thức liên kết khác nhau với doanh
nghiệp. Trong dài hạn nên hướng tới các hình thức liên kết chính tắc.
e) Thúc đẩy hội nhập và chấp nhận văn hóa khoa học quốc tế
Quá trình quốc tế hóa đại học hiện nay bắt buộc các trường muốn tồn tại và
phát triển phải chấp nhận hoạt động hội nhập và văn hóa khoa học quốc tế. Ở khía
cạnh thúc đẩy và chấp nhận văn hóa khoa học quốc tế, tác giả đề xuất một số khía cạnh
như sau:
Một là, tiêu chuẩn hóa sản phẩm nghiên cứu theo thông lệ quốc tế, từ bỏ cách lý
giải về “đặc thù Việt Nam” để giải thích cho năng suất khoa học thấp, đặc biệt là nhóm
ngành khoa học xã hội. Bởi hiện nay nghiên cứu khoa học được xem là những đóng
góp toàn cầu, không nên tự giới hạn trong khuôn khổ quốc gia, địa phương. Thực tế,
các cơ quan đánh giá khoa học có thể tham khảo các thông lệ quốc tế từ các tổ chức
đánh giá khoa học độc lập để đánh giá kết quả nghiên cứu. Tiêu chuẩn đánh giá sản
phẩm nghiên cứu phải xem xét cả phần “phẩm” và phần “lượng”. Ở phần lượng, các
tiêu chuẩn đánh giá nên được phân chia theo các hạng mục khác nhau như: Số lượng
bài báo, bằng sáng chế, bài hội thảo, bài thuyết trình được mời tại các hội thảo quốc tế
uy tín, tập trung vào các danh mục quốc tế, xem xét loại bỏ việc tính điểm khoa học ở
một số tạp chí trong nước có quy chế bình duyệt bài báo thiếu tính khoa học. Phần
166
“phẩm” phản ánh chất lượng nghiên cứu thông qua: thứ hạng của tạp chí đăng tải của
nghiên cứu, uy tín của hội thảo khoa học (qua các chỉ số như chỉ số IF, chỉ số H, chỉ số
trích dẫn của bài báo), mức độ ảnh hưởng trong chuyên ngành, mức độ ảnh hưởng
tới việc thực hành và thay đổi chính sách công
Hai là, có lộ trình và cải tiến mạnh mẽ việc phong chức danh giáo sư, phó giáo
sư tham khảo nhiều tiêu chuẩn từ các nước phát triển hơn. Tiêu chuẩn chức danh giáo
sư, phó giáo sư mới đã có nhiều cải thiện nhưng vẫn mang nhiều đặc thù Việt Nam.
Tiêu chuẩn về công bố quốc tế ở các ngành khoa học xã hội còn khá thấp, thấp hơn cả
tiêu chuẩn để được bảo vệ luận án tiến sĩ của nghiên cứu sinh từ nhiều đại học trên thế
giới. Bởi vậy, cần xem xét lại tiêu chuẩn cho đánh giá phong chức danh giáo sư, phó
giáo sư theo hướng nâng cao chuẩn hơn nữa, cải tổ mạnh mẽ hơn nữa.
Thứ ba, cải cách các tiêu chuẩn đề bạt chức danh khoa bảng trong trường đại
học. Việc đánh giá giảng viên, nhà khoa học trong trường đại học nên được đánh
giá theo “ngạch”. Nhà trường có thể thực hiện chia ngạch cho cán bộ có tham gia
nghiên cứu theo hai ngạch chính (1) giảng dạy và (2) nghiên cứu. Những người
tham gia giảng dạy sẽ được tính trọng số hoạt động giảng dạy cao hơn và thấp hơn
ở các chỉ tiêu đánh giá sản phẩm nghiên cứu khoa học và ngược lại những người
làm nghiên cứu yêu cầu về sản phẩm nghiên cứu khoa học cao hơn và thấp hơn ở
hoạt động giảng dạy.
Thứ tư, xây dựng tiêu chuẩn đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học của giảng
viên toàn diện ở cả khía cạnh trực tiếp và khía canh gián tiếp. Ở khía cạnh trực tiếp có
thể bao gồm các chỉ tiêu về công bố, hoàn thành đề tài nghiên cứu, tham gia hội thảo,
có bằng sáng chế. Ở khía cạnh gián tiếp phản ánh hoạt động phục vụ cộng đồng
khoa học như tham gia các hội đồng học thuật, ban biên tập, tư vấn doanh nghiệp hay
cơ quan chính phủ. Các chỉ tiêu này nên kết hợp đánh giá bằng các chỉ tiêu lượng hóa
và các chỉ tiêu định tính như thông qua khảo sát uy tín khoa học hay đóng góp với
cộng động khoa học.
5.2.2. Giải pháp đối với các cơ quan quản lý nhà nước
a) Cải tiến cơ chế tài trợ và quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học
Vấn đề tài chính và thủ tục tài chính trong tài trợ nghiên cứu khoa học đối với
giảng viên đang làm nản lòng nhiều giảng viên tâm huyết vì những thủ tục hành chính
nhiêu khê trong xét duyệt các đề tài nghiên cứu. Đối với hoạt động nghiên cứu khoa
học của giảng viên, các nhóm giảng viên có thể xây dựng quy chế tài trợ nghiên cứu từ
duyệt phê duyệt đến kiểm soát nghiên cứu theo mô hình tài trợ của các quỹ khoa học
167
từ các nước phát triển. Trong phạm vi của luận án này, ở quy mô quốc gia, tác giả đề
xuất tham khảo mô hình xét duyệt tài trợ cho nghiên cứu khoa học của Úc (mô hình
này cũng khá giống với các mô hình xét duyệt tài trợ của Mỹ, Anh, Canada, các nước
châu Âu), mô hình này cho thấy tính hiệu quả ở nhiều nước áp dụng. Cơ chế quản lý
và tài trợ có thể mô tả ngắn gọn như sau:
Quỹ tài trợ nghiên cứu khoa học quốc gia và hội đồng tài trợ khoa học cho các
ngành (nếu có) (ở Úc là Australian Research Council – ARC). Hội đồng này có cơ cấu
tổ chức giống các cơ quan quản lý nhà nước. Chủ tịch hội đồng và các thành viên của
hội đồng là các nhà khoa học làm bán thời gian và không lương. Các cán bộ điều hành
công việc hàng ngày là một nhóm nhân viên hành chính được trả lương do Nhà nước
tuyển dụng. Lãnh đạo các Bộ, cơ quan Nhà nước không tham gia can thiệp vào việc
quản lý và phân phối tài trợ của quỹ19.
Việc tài trợ và quản lý các dự án nghiên cứu của quỹ được tiến hành theo trình
tự ba bước bao gồm: (1) trình nộp đề cương nghiên cứu; (2) bình duyệt và (3) quản lý
tiến trình của đề tài/dự án nghiên cứu. Trong đó:
Trình nộp đề cương nghiên cứu
Khác với Việt Nam, các Quỹ phát triển khoa học tại các nước phát triển không
thực hiện việc “đấu thầu” đề tài. Bởi việc đấu thầu rất thiếu công bằng và hạn chế khả
năng của nhà nghiên cứu. Nhà nước có thể đề ra một số định hướng nghiên cứu nhằm
giải quyết các vấn đề cụ thể. Nhưng cơ bản nhà khoa học được tự do lựa chọn đề tài
nghiên cứu mà họ cho rằng mình có khả năng chuyển môn nhất để thực hiện và đáp
ứng xu hướng nghiên cứu trong chuyên ngành. Điều này cũng giúp đảm bảo quyền tự
do học thuật của các trường đại học.
Các đề tài nghiên cứu được bắt đầu bằng với một đề cương nghiên cứu (project
proposal hoặc research proposal). Các Hội đồng khoa học chuyên ngành sẽ quy định
chi tiết về kết cấu và yêu cầu của đề cương từ việc thuyết trình tính cần thiết, mục tiêu,
phương pháp, những kết quả kỳ vọng, ý nghĩa thực tế cũng như kế hoạch thực hiện và
nguồn lực đảm bảo cho hoạt động nghiên cứu. Đề cương nghiên cứu cũng phải trình
bày về thành phần nhà khoa học tham dự, thành tích, kinh nghiệm nhằm cung cấp cho
hội đồng cơ sở đánh giá tính thích hợp và khả thi của đề cương nghiên cứu.
19
Thực tế Quỹ Nafosted là một phương thức gần giống với các quỹ tài trợ khoa học tại các nước tiên
tiến và có thể nhân rộng.
168
Các phần của đề cương phải được thuyết minh chi tiết để cho thấy tính khả thi
của dự án nghiên cứu, các giải trình về dự toán chi tiêu cho hoạt động nghiên cứu có
kế hoạch theo thời gian cụ thể. Đề cương có thể cung cấp các dữ liệu sơ bộ của
nghiên cứu để thuyết phục hội đồng về hướng nghiên cứu, thuyết phục họ tài trợ bởi
các hội đồng không thể tin tưởng hoàn toàn vào “lời hứa” của chủ nhiệm đề tài trong
thuyết minh.
Các quy định và tiêu chuẩn xét duyệt đề cương đều được minh bạch hoa, công
bố trên website thuận lợi cho nhà khoa học truy cập, có các quy định hướng dẫn chi
tiết. Các đề cương của các nhà nghiên cứu/nhóm nghiên cứu được gửi tới Quỹ phát
triển khoa học để được xem xét đánh giá và tài trợ.
Xét duyệt các đề cương nghiên cứu
Sau khi nhận được các đề cương nghiên cứu, Quỹ sẽ gửi thư mời các nhà khoa
học trong và ngoài nước tham gia công tác bình duyệt. Sau khi nhận được phản hồi và
tuyển chọn, Quỹ tài trợ sẽ thành lập các tiểu ban ban hay Hội đồng đánh giá xét duyệt
đề cương. Hội đồng đánh giá bao gồm các nhà khoa học cả trong và ngoài nước và
mỗi Hội đồng đánh giá phụ trách bình duyệt một đề cương nghiên cứu. Danh sách
thành viên từng hội đồng được công bố trên website và phải đảm bảo không xung đột
về lợi ích khi đánh giá (thành viên Hội đồng có thể gửi đề cương nghiên cứu của
mình). Hoạt động đánh giá đề cương khoa học không được nhận thù lao nhưng các chi
phí như đi lại, ăn ở trong thời gian duyệt đề cương sẽ do Quỹ chi trả trên một định
mức nhất định.
Hoạt động thẩm định được thực hiện qua hai bước. Bước thứ nhất là các thành
viên hội đồng sẽ đọc đề cương nghiên cứu, sơ loại các đề tài và mời các chuyên gia
bình duyệt độc lập (2 đến 3 chuyên gia), các chuyên gia này là người bên ngoài có
chuyên môn thích hợp để đánh giá đề cương. Bước thứ hai, sau khi nhận đánh giá đề
cương của các chuyên gia bình duyệt, hội đồng đánh giá họp và tiến hành thảo luận và
cho điểm đề cương trên 1 thang điểm nhất định. Thang điểm và các thành phần đánh
giá được thống nhất từ hội đồng chuyên gia của từng ngành để đảm bảo tính khách
quan, lượng hóa được của hoạt động đánh giá.
Kết quả đánh giá của Hội đồng và chuyên gia bình duyệt sẽ được chuyển tới
giảng viên, nhà khoa học có đề cương nghiên cứu để lấy phản hồi của họ về việc đánh
giá đề cương nghiên cứu. Trong một khoảng thời gian quy định nhất định, nhà khoa
học phải phản hồi những bình duyệt, đánh giá của hội đồng phê duyệt.
169
Sau khi nhận được phản hồi của giảng viên, nhà khoa học hội đồng đánh giá
tiếp tục đánh giá đề cương trên kết quả bình duyệt của chuyên gia độc lập, ý kiến của
các thành viên và phản hồi của nhà khoa học để xếp hạng các dự án nghiên cứu tài trợ.
Kết thúc bước này Hội đồng đánh giá sẽ ra một thông báo chính thức những đề tài nào
được tài trợ, những đề tài nào không được tài trợ và mức điều chỉnh tài trợ. Nếu có
thắc mắc về đề cương nghiên cứu, giảng viên có thể làm một báo cáo phản hồi (phản
đối) như một hình thức khiếu nại để xem xét lại đề cương nghiên cứu của họ và Hội
đồng sẽ xem xét lại.
Quản lý tiến trình của đề tài
Tiền cho dự án nghiên cứu trên danh nghĩa được cấp cho nhà khoa học, nhóm
nghiên cứu được phê duyệt nhưng họ không được quản lý trực tiếp số tiền này. Tiền
tài trợ được chuyển qua một ủy ban ủy nhiệm để quản lý số tiền nghiên cứu. Ủy ban
này sẽ thực hiện giải ngân chi phí nghiên cứu cho nhà khoa học, giảng viên theo tiến
độ thực hiện dựa trên hợp đồng nghiên cứu. Quỹ nghiên cứu sẽ trả một phần phí quản
lý cho Ủy ban quản lý được ủy nhiệm.
b) Khen thưởng và vinh danh các giảng viên có thành tích xuất sắc trong hoạt
động nghiên cứu khoa học
- Xây dựng chính sách khen thưởng và vinh danh các nhà khoa học, các giảng
viên có thành tích xuất sắc trong hoạt động nghiên cứu khoa học;
- Xây dựng chính sách đãi ngộ, ưu đãi và khuyến khích các nhà khoa học người
Việt Nam ở nước ngoài hợp tác với các nhà khoa học, các giảng viên của các trường
đại học trong nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ;
- Xây dựng định mức khen thưởng theo tỷ lệ % hợp lý của số tiền làm lợi khi
chuyển giao công nghệ (phạm vi, quy mô chuyển giao công nghệ càng lớn thì tiền
thưởng tăng theo);
- Đẩy mạnh hoạt động sở hữu trí tuệ tại các trường đại học, cao đẳng.
5.3. Kiến nghị
5.3.1. Đối với Chính phủ
- Đẩy mạnh triển khai Luật Khoa học công nghệ năm 2013 theo hướng Nhà
nước (i) Tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, chú trọng lĩnh vực khoa
học và công nghệ ưu tiên, trọng điểm quốc gia; áp dụng cơ chế, chính sách ưu đãi đặc
biệt để phát triển, đào tạo, thu hút, sử dụng có hiệu quả nhân lực khoa học và công
170
nghệ; (ii) Tạo điều kiện phát triển thị trường khoa học và công nghệ; (iii) Khuyến
khích, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp đầu tư cho hoạt động khoa học và công
nghệ, đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ; (iv) Khuyến khích, tạo điều kiện để các
hội khoa học và kỹ thuật, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội -
nghề nghiệp tham gia tư vấn, phản biện, giám định xã hội và hoạt động khoa học và
công nghệ.
- Xây dựng quy định về hoạt động khoa học và công nghệ trong các trường đại
học có tính đến đặc thù các khối ngành khoa học (trong đó có khối ngành kinh tế) và
phát huy tính sáng tạo của đội ngũ giảng viên, tự chủ học thuật của các trường đại học.
5.3.2. Đối với các bộ, ngành (Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học và Công
nghệ, Bộ Tài chính và các tổ chức liên quan)
Thứ nhất, cải cách các thủ tục hành chính liên quan đến xét duyệt và tài trợ
nghiên cứu khoa học từ các quy định của các Quỹ tài trợ do Bộ quản lý. Các giảng
viên, các nhà khoa học phản ánh khá nhiều về thủ tục hành chính phức tạp, đặc biệt
liên quan đến thủ tục tài chính của dự án nghiên cứu và cả vấn đề xét duyệt đề tài. Bởi
vậy, các Bộ chủ quan cần cải cách thủ tục hành chính đối với toàn bộ quá trình xét
duyệt cũng như quản lý đề tài khoa học.
Thứ hai, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành các quy định về liêm chính hay
đạo đức khoa học. Thực tế hiện nay có các quy định về đạo văn, sao chép nhưng
quy định về vấn đề liêm chính hay đạo đức nghiên cứu vẫn còn chưa có. Phần lớn
các đề tài nghiên cứu khoa học các cấp vẫn chưa được xét duyệt thông qua các ủy
ban hay hội đồng đạo đức nghiên cứu (trừ các nghiên cứu Y khoa), Bởi vậy, nhu
cầu cần thiết là có quy định về đạo đức nghiên cứu trong việc xét duyệt dự án
nghiên cứu. Bộ có thể ban hành quy định thúc đẩy các trường đại học thành lập các
Ủy ban đạo đức để đánh giá khía cạnh đạo đức nghiên cứu cho các đề cương phê
duyệt.
Thứ ba, Bộ Giáo dục và Đào tạo tăng cường chuyển giao nhiều quyền tự chủ
cho trường đại học. Tự trị đại học hay tự do học thuật là yêu cầu bắt buộc với các
trường đại học theo thông lệ quốc tế. Tuy nhiên quyền tự trị đại học của các trường
đại học Việt Nam còn kém, chủ trương về mở quyền tự chủ cho các trường đại học
là chủ trương đúng nhưng vẫn còn dừng lại ở quyền tự chủ tài chính. Nhiều hoạt
động đòi hỏi tính tự chủ của nhà trường vẫn bị can thiệp từ Bộ. Bởi vậy, để hội
nhập và thúc đẩy nghiên cứu khoa học tốt hơn nữa Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng
các Bộ chủ quản cần mở rộng hơn nữa quyền tự chủ cho các trường đại học. Trong
171
giai đoạn hiện nay, cần sớm cho thí điểm việc trường đại học không trực thuộc Bộ
chủ quản với các trường được thí điểm (Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Kinh tế
thành phố Hồ Chí Minh và Đại học Bách khoa Hà Nội) để đánh giá triển khai trên
diện rộng.
Thứ tư, Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các trường đại học thiết lập các
tiêu chuẩn đánh giá kết quả theo thông lệ quốc tế cho Việt Nam. Tiêu chuẩn thiết lập
đánh giá này có thể được tham khảo từ các nước phát triển có điều chỉnh cho phù hợp
với điều kiện Việt Nam. Hoạt động đánh giá kết quả nghiên cứu từ bỏ hình thức
“nghiệm thu” đề tài thay bằng các hình thức công bố khoa học có bình duyệt để giảm
tình trạng tiêu cực trong việc thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học.
Thứ năm, Bộ Giáo dục và Đào tạo kết hợp với Bộ Khoa học và công nghệ chủ
trì thiết lập cơ sở dữ liệu khoa học quốc gia, xây dựng việc đánh giá kết quả nghiên
cứu khoa học bằng các chỉ tiêu trắc lượng khoa học theo thông lệ quốc tế (chẳng hạn
đánh giá trên chỉ số H, IF, trích dẫn).
Thứ sáu, các cơ quan hành chính của Chính phù không xem xét việc nghiên cứu
khoa học như một tiêu chuẩn đề bạt để giảm các đề tài nghiên cứu không đúng chuẩn
mực từ các đơn vị không có khả năng nghiên cứu. Hoạt động nghiên cứu khoa học
không phải là một “phong trào” mà phải là một chương trình dài hạn. Chỉ nên giao
hoạt động nghiên cứu cho các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp mà không phải các cán
bộ hành chính.
5.4. Hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo
Mặc dù đã đạt được các mục tiêu ban đầu đặt ra nhưng nghiên cứu này cũng
còn những hạn chế nhất định.
Thứ nhất, nghiên cứu mới được thực hiện ở quy mô khá nhỏ của các trường đại
học ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh trong khi đó các trường đại học Kinh tế ở
nhiều khu vực chưa được khảo sát như Thái Nguyên, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang,
Cần Thơ có thể làm cho tính đại diện của nghiên cứu bị ảnh hưởng.
Thứ hai, do những hạn chế về cơ cở dữ liệu và khả năng khảo sát nên trong
các chỉ tiêu đánh giá nghiên cứu được xây dựng còn có tính “chung chung” chưa
tách bạch được đóng góp khoa học theo giảng viên. Chẳng hạn đăng bài báo trên
tạp chí ISI/Scopus đều được tính 2 điểm nhưng trong các tạp chí này có mức độ
khó khác nhau và còn phụ thuộc vào vị trí và đóng góp của tác giả trong bài báo.
Điều này có thể dẫn đến đánh giá thiếu công bằng cho một số giảng viên về điểm
nghiên cứu.
172
Thứ ba, kết quả nghiên cứu còn thiếu điều chỉnh theo thời gian nghiên
cứu/nguồn tài trợ, kinh nghiệm nên có thể dẫn đến thiên lệch về kết quả. Bởi vậy,
các nghiên cứu tiếp theo có thể mở rộng quy mô nghiên cứu ra nhiều trường đại
học, phân chia cách tính điểm khoa học cho giảng viên một cách chi tiết hơn và nên
điều chỉnh điểm nghiên cứu theo thời gian giảng dạy để chỉ tiêu đánh giá được
khách quan hơn.
173
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu của luận án đã trả lời được các câu hỏi nghiên cứu ban
đầu đặt ra và cơ bản đã đạt được mục tiêu nghiên cứu. Thông qua tổng quan các
nghiên cứu và tổng hợp các lý thuyết về đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả
nghiên cứu khoa học, luận án đã hệ thống hóa được cơ sở lý luận về các nhân tố
ảnh hưởng tới hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường đại học
kinh tế. Luận án đã xác định được bốn nguồn ảnh hưởng tới hoạt động nghiên cứu
khoa học và kết quả nghiên cứu khoa học của giảng viên là (1) các động cơ bên
ngoài; (2) các động cơ bên trong; (3) các rào cản cản trở hoạt động nghiên cứu và
(4) các nhân tố điều kiện. Thông qua kết quả nghiên cứu thực nghiệm bằng khảo sát
ý kiến các giảng viên từ 5 trường đại học kinh tế lớn, nghiên cứu đã phát hiện có sự
khác biệt về cấu trúc khái niệm nghiên cứu của các nhóm nhân tố ảnh hưởng tới kết
quả nghiên cứu khoa học của giảng viên. Trong đó, động cơ bên ngoài gồm hai
động cơ là (i) uy tín học thuật và (ii) thăng tiến và cộng cơ tài chính; động cơ bên
trong gồm ba động cơ là (i) đam mê nghiên cứu; (ii) theo đuổi học thuật và (iii) tự
chủ và đóng góp xã hội; các rào cản gồm bốn loại rào cản gồm (i) rào cản cơ sở vật
chất; (ii) thiếu kỹ năng và kinh nghiệm; (iii) tuổi tác và sự hỗ trợ và (iv) khối lượng
giảng dạy và văn hóa nghiên cứu. Cũng thông qua phân tích dữ liệu khảo sát luận
án tìm thấy bằng chứng về ảnh hưởng của các động cơ, rào cản và điều kiện có ảnh
hưởng khá khác nhau tới kết quả nghiên cứu từ từng nhóm chỉ tiêu đánh giá kết quả
nghiên cứu. Đánh giá thực trạng hoạt động nghiên cứu của một số trường đại học
kinh tế điển hình trong thời gian gần đây. Thông qua phân tích kết quả nghiên cứu,
tác giả cũng đưa ra được một số gợi ý nhằm thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa
học của các giảng viên các trường đại học kinh tế bao gồm: (1) thực hiện tự do học
thuật trong các trường đại học; (2) nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho hoạt
động nghiên cứu; (3) cải thiện cơ chế tài trợ khoa học; (4) xã hội hóa nguồn quỹ tài
trợ cho hoạt động nghiên cứu; (5) đổi mới mô hình hợp tác nghiên cứu khoa học
quốc tế; (6) đẩy mạnh liên kết đại học - doanh nghiệp (U-I linkes); (7) thúc đẩy hội
nhập và chấp nhận văn hóa khoa học quốc tế. Do một số hạn chế và ràng buộc về
thời gian, điều kiện và kinh phí thực hiện nghiên cứu, luận án còn một số hạn chế
về độ “bao phủ” hay tính đại diện của các trường đại học được khảo sát, về sự phân
tích có tính đối chiếu, so sánh giữa các trường khối kinh tế so với khối trường khoa
học - công nghệ, văn hóa - nghệ thuật, về lý giải những phát hiện có tính đặc thù
174
trong hoạt động NCKH của Việt Nam so với các nước. Đây cũng là những vấn đề
có thể gợi mở hướng nghiên cứu tiếp theo cho bản thân tác giả của luận án hoặc các
cá nhân, tổ chức khác có quan tâm với mục đích đẩy mạnh hiệu suất, hiệu quả hoạt
động NCKH của các trường đại học nói chung, các trường đại học khối kinh tế nói
riêng, góp phần tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế của
nước ta.
175
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Trần Đại Hải (2019), "Thúc đẩy động lực nghiên cứu để tăng năng suất khoa học
của giảng viên các trường đại học Kinh tế", Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương, tháng 10/2019, tr.34-37.
2. Trần Đại Hải, Dương Thị Liệu (2019), "Tác động của các động lực và rào cản
của giảng viên tới năng suất khoa học: Trường hợp các Trường Đại học Kinh tế
tại Việt Nam", Tạp chí Kinh tế và Dự báo, tháng 10/2019, tr.117-120.
3. Tran Dai Hai, Dao Ngoc Tien, Pham Thi Anh Duong, Dao Trung Kien (2019),
“Factors Affecting Research Productivity of Lecturers in Economic Universities
in Vietnam”, South East Asia Association for Institutional Research Conference,
New Taipei City, Taipei, 25 - 27, September 2019.
176
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ayman Ahmad Abu Rumman & Ahmad Fathi Alheet (2019), “The Role of
Researcher Competencies in Delivering Successful Research”, Information and
Knowledge Management, ISSN 2224-896X (Online) DOI: 10.7176/IKM, Vol.9,
No.1, 2019.
2. A. A. Victor, E. G. Babatunde (2014), ‘Motivation and Effective Performance of
Academic Staff in Higher Education (Case Study of Adekunle Ajasin University,
Ondo State, Nigeria)’, International Journal of Innovation and Research in
Educational Sciences, Vol.1, No.2.
3. Bernadette Conraths and Hanne Smidt (2005), The funding of university based
research and innovation in Europe, EUA publications
4. Bộ Giáo dục và đào tạo (2005), 'Đánh giá hoạt động nghiên cứu khoa học 5 năm
2001-2005 và định hướng 2006-2010 trong lĩnh vực khoa học kinh tế của các
trường đại học', Kỷ yếu hội thảo.
5. Bộ Giáo dục và đào tạo (2017), Báo cáo tổng hợp tại Hội nghị Khoa học và
Công nghệ năm 2017.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2020), Báo cáo Đánh giá thực trạng chính sách về hoạt
động khoa học và công nghệ trong cơ sở giáo dục đại học.
7. C. A. D’Angelo và G. Abramo (2014), 'How do you define and measure research
productivity? Scientometrics', Scientometrics, 101(2). pp. 1129-1144.
8. Chen, A. (2001), 'A Theoretical Conceptualization for Motivation Research in
Physical Education: An Integrated Perspective', Quest, 53(1), pp. 35-58.
9. Chu Phạm Ngọc Sơn (2006), 'Để kết quả nghiên cứu khoa học không còn nằm
trong phòng thí nghiệm', Tạp chí Hoạt động khoa học, số tháng 2.2006, tr. 23.
10. Creswell J., 1986, Measuring faculty research performance, Jossey-Bass Inc.,
San Francisco.
11. Cummings W.K., Finkelstein M.J., The Balance Between Teaching and Research
in the Work Life of American Academics, Springer Publishing House, 2014.
12. Đào Ngọc Tiến, Đoàn Quang Hưng và Nguyễn Sơn Tùng (2015), The
Relationship between University GPA and Family Background: Evidence from a
University in Vietnam, có tại: https://www.researchgate.net/publication/
177
303103718_The_Relation_between_University_GPA_and_Family_Background_
Evidence_from_a_University_in_Vietnam [Truy cập ngày: 13/06/2016].
13. Đinh Văn Ân (2006), 'Nghiên cứu khoa học phục vụ xây dựng chính sách kinh tế
- Những vấn đề đặt ra', Tạp chí Hoạt động khoa học, số tháng 9.2006, tr. 28.
14. E. Leahey (2006), 'Gender Differences in Productivity: Research Specialization
as a Missing Link', Gender & Society, 20(6). pp. 754-780.
15. Edabu P. & Anumaka J.2014), 'Motivation tools as a determinant of effectiveness
on academic staff in selected private universities in Central Uganda',
International Journal of Research in Business Management, 2(9), pp. 93-106.
16. Erick Buberwa (2015), 'Role of Motivation on Academic Staff Performance in
Tanzania Public Universities: Underpinning Intrinsic and Extrinsic Facets',
European Journal of Business and Management, 7(36), pp. 219-230
17. G. Abramo, C. A. D’Angelo và A. Caprasecca (2009), 'Gender differences in
research productivity: A bibliometric analysis of the Italian academic system',
Scientometrics. 79(3). pp. 517-539.
18. Geiger, R (1986), To advance knowledge: the growth of American research
universities: 1900-1940, Oxford University Press, New York.
19. Hồ Thị Hải Yến (2007), Hoàn thiện cơ chế tài chính đối với hoạt động khoa học
và công nghệ trong các trường đại học ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Trường Đại
học Kinh tế Quốc dân.
20. Hoàng Ngọc Hà (2006), 'Công tác nghiên cứu khoa học trong các trường đại học,
cao đẳng giai đoạn 2001-2005 và định hướng 2006-2010', Tạp chí Hoạt động
khoa học, số tháng 2.2006, tr. 36.
21. Hosoi, M. (2005), “Motivating Employees in Academic Libraries in Tough
Times”, pp. 43-49, https://pdfs.semanticscholar.org/15c6/
f62fef0e04c5a326b0fbf0e7ddf587190903.pdf?ga=2.240645379.1610454878.161
5883923-1389971911.1615883923.
22. Jung Cheol Shin, Akira Arimoto, William K. Cummings, Ulrich Teichler:
Teaching and Research in Contemporary Higher Education: Systems, Activities
and Rewards, The changing academic profession in international comparative
perspective 9, DOI 10.1007/978-94-007-6830-7
178
23. Kelly Wester (2011), “Research Competencies in Counselling, a Delphi Study”,
Journal of Counseling & Development, American Counseling Association, 2014,
vol. 92, pp. 447-458.
24. Lê Đình Lý (2010), “Chính sách tạo động lực cho cán bộ công chức cấp xã
(nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Nghệ An)”, Luận án tiến sĩ tại Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân, NXB Trường ĐHKTQD (2019), tr.1-142.
25. M. A. Peters. (2003), 'Classical Poilitical Economy and the Role of Universities
in the New Knowledge Economy', Globalisation, Societies and Education, 1(2).
pp. 153-168.
26. M. F. Fox. (1992), 'Research, Teaching, and Publication Productivity: Mutuality
Versus Competition in Academia', Sociology of Education, 65(4). pp. 293-305.
27. M. Z. Iqbal. (2011), 'Factors Related to Low Research Productivity at Higher
Eduction Level', Asian Social Science, 7(2), pp. 188-193.
28. Mai Ngọc Cường (2004), Điều tra thực trạng và kiến nghị giải pháp đổi mới đầu
tư tài chính đối với các trường đại học Việt Nam phù hợp với cơ chế thị trường
và hội nhập kinh tế quốc tế, Dự án điều tra cơ bản cấp Bộ năm 2004.
29. Mai Ngọc Cường (2005), Hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính đối với hoạt
động khoa học và công nghệ trong các trường đại học Việt Nam, Đề tài cấp Bộ
B2003.38.76TĐ.
30. Mai Ngọc Cường (2006), 'Đổi mới quản lý tài chính từ ngân sách Nhà nước đối
với hoạt động khoa học và công nghệ', Kỷ yếu Hội thảo khoa học do Kiểm toán
Nhà nước - Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức, Hà Nội, tháng 8/2006, tr. 71.
31. Meyer & Allen (1997), Commitment in the Workplace: Theory, Research, and
Application, SAGE Publication.
32. Minh Nguyệt (2006), 'Chi cho khoa học và công nghệ: Hiệu quả khó "đong
đếm"', Tạp chí Hoạt động khoa học, số tháng 9.2006, tr. 16.
33. Mohammed Abubakar Mawoli, Abdullahi Yusuf Babandako (2011), ‘An
evaluation of staff motivation, dissatisfaction and job performance in an
academic setting’, Australian Journal of Business and Management Research,
Vol.1 No.9 [01-13] | December-2011-1.
34. Muhammad Zafar Iqbal và cộng sự (2011), 'Factors Related to Low Research
Productivity at Higher Education Level', Asian Social Science, Vol. 7, No. 2.
179
35. Nguyễn Danh Sơn (2000), Nghiên cứu hình thành và cơ chế hoạt động của hệ
thống các quỹ hỗ trợ tài chính cho hoạt động khoa học và công nghệ ở Việt Nam,
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ.
36. Nguyễn Hải Hằng (2006), 'Thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ theo Nghị
định thư: Góp phần phát triển nền khoa học và công nghệ nước ta', Tạp chí Hoạt
động khoa học, số tháng 9.2006, tr. 16.
37. Nguyễn Minh Sơn (2006), 'Nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ trong
các trường đại học: Thử đi tìm một mô hình mới?', Tạp chí Hoạt động khoa học,
số tháng 7.2006, tr. 29.
38. Nguyễn Thị Anh Thư (2006), 'Đổi mới chính sách tài chính đối với khoa học và
công nghệ ', Tạp chí Hoạt động khoa học, số tháng 3.2006, tr.18.
39. Nguyễn Thùy Dung (2015), Các nhân tố tác động đến động lực làm việc của
giảng viên các trường đại học tại Hà Nội, Luận án Tiến sĩ Quản trị kinh doanh,
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
40. Nguyễn Trọng Thụ (2006), 'Nhận xét, đánh giá về quy trình tổ chức và quản lý
chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp nhà nước', Tạp chí Kiểm toán,
tháng 9/2006.
41. Nguyễn Trường Giang (2006), 'Về cơ chế quản lý tài chính chương trình khoa
học và công nghệ trọng điểm cấp nhà nước giai đoạn 5 năm 2001-2005', Tạp chí
Kiểm toán, số tháng 9.2006.
42. Nguyễn Văn An (2006), 'Xã hội hoá hoạt động khoa học và công nghệ: Nên hiểu
thế nào?', Tạp chí Hoạt động khoa học, số tháng 3.2006, tr. 27.
43. Nguyễn Văn Phúc (2005), Cơ chế gắn hoạt động nghiên cứu khoa học của các
trường đại học với thực tiễn sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, Đề tài
cấp Bộ B2005. 38.126.
44. P. Arensbergen, I. Weijden và P. Besselaar. (2012), 'Gender differences in scientific
productivity: a persisting phenomenon?', Scientometrics, 93(3), pp. 857-868.
45. Perry, J. and Porter, L. (1982), 'Factors Affecting the Context for Motivation in
Public Organizations', Academy of Management Review, 7(1), pp. 89-98.
46. Phạm Hồng Chương (2005), Đổi mới tổ chức và quản lý hoạt động nghiên cứu
khoa học kinh tế phục vụ đào tạo và thực tiễn, Đề tài cấp Bộ B2003.38.70.
180
47. Phan Xuân Dũng - Hồ Thị Mỹ Duệ (2006), Đổi mới quản lý và hoạt động các tổ
chức khoa học công nghệ theo cơ chế doanh nghiệp, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
48. Phan Xuân Dũng (chủ biên) - Hồ Thị Mỹ Duệ (2006a), Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về đánh giá nhiệm vụ khoa học và công nghệ ở Việt Nam, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Pierre Lamblin (2010), Skills and competenciesneeded in the research field
objectives 2020, Deloitte and APEC.
50. Qayyum, A., Sukirno & Mahmood, A. (2011), 'A Preliminary Investigation of
Employee Motivation in Pakistan’s Banking Sector', Research and Practice in
Human Resource Management, 19(1), pp. 38-52.
51. Rashid Muhammad. (2001), Educational Research, National Book Foundation,
Islamabad, Pakistan.
52. Rijaru Negash, Shimelis Zewude, Reta c. (2014), 'The effect of compensation on
employees motivation', Basic Research Journal of Business Management and
Accounts, ISSN 2315-6899 Vol. 3(2) pp. 17-27 February 2014.
53. S. G. Levin và P. E. Stephan. (1991), 'Research Productivity over Life Cycle:
Evidence for Academic Scientists', American Economic Review, 81(1). pp. 114-132.
54. S. Kyvik và M. Teigen. (1996), 'Child Care, Research Collaboration, and Gender
Differences in Scientific Productivity', Science, Technology, & Human Values,
21(1). pp. 54-71.
55. S. Lee và B. Bozeman. (2005), 'The Impact of Research Collaboration on
Scientific Productivity', Social Studies of Science, 35(5). pp. 673-702.
56. S. N. Wichian, S. Wongwanich và S. Bowarnkitiwong. (2009), 'Factors Affecting
Research Productivity of Faculty Members in Government Universities: Lisrel
and Neural Network Analyses', Kasetsart Journal, 30. pp. 67-78.
57. Trần Thị Thanh (2006), 'Nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ quan trọng của người
cán bộ giảng dạy', Tạp chí Hoạt động khoa học, số tháng 12.2006, tr. 58.
58. Trần Xuân Trí (2006), 'Quản lý, cấp phát, thanh toán kinh phí sự nghiệp khoa học giai
đoạn 2001-2005, những bất cập và kiến nghị', Tạp chí Kiểm toán, tháng 9/2006.
59. Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2010), 'Đổi mới hoạt động khoa học và công
nghệ để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực về kinh tế - quản trị kinh
doanh trong các trường đại học phục vụ phát triển kinh tế - xã hội', Kỷ yếu Hội
181
thảo khoa học quốc gia các trường đại học, học viện có đào tạo về kinh tế và
quản trị kinh doanh.
60. Vũ Duy Hào (2005), Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với các trường đại
học công lập ở Việt Nam, Đề tài cấp Bộ B2005.38.125.
61. W. W. Powell và K. Snellman. (2004), 'The Knowledge Economy', Annual
Review of Sociology, 30, pp. 199-220.
62. William K. Cummings, Ulrich Teichler, The relevance of academic work in
comparative perspective, The changing academic profession in international
comparative perspective 13, DOI 10.1007/978-3-319-11767-6_8, Springer
International Publishing Switzerland, 2015.
63. Williams, A (2003), A mediated hierarchical regression analysis of factors related
to research productivity of human resource education and workforce development
postsecondary faculty, Doctoral Dissertation, Lousiana State University and
Agricultural and Mechanical College, retrieved from UMI database.
64. Y. Xie và K. A. Shauman. (1998), 'Sex Differences in Research Productivity:
New Evidence about an Old Puzzle', American Sociological Review, 63(6), pp.
847-870.
65. Yamoah, E. and Ocansey, E. (2013), 'Motivational Factors of Lecturers of
Private Universities in Ghana', AJBMR, 3(1), p.33.
Các trang mạng đã khảo cứu:
https://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/khoa-hoc/diem-nghen-cua-nghien-cuu-khoa-
hoc-trong-truong-dai-hoc-viet-nam-387036.html
https://vtv.vn/chinh-tri/doi-moi-giao-duc-dai-hoc-chia-khoa-phat-trien-
nguon-nhan-luc-chat-luong-cao-20210123095457171.htm
https://doimoisangtao.vn/news/nghin-cu-khoa-hc-trong-trng-i-hc-hn-ch-c-cht-v-
lng
phat-trien-giao-duc-va-dao-tao-o-viet-nam-trong-boi-canh-cach-mang-cong-
nghiep-40.html
182
PHỤ LỤC
PHIẾU PHỎNG VẤN
Giảng viên và cán bộ nghiên cứu
Kính gửi:
Để góp phần đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên các
trường đại học khối kinh tế, xin Ông/Bà vui lòng cung cấp một số thông tin sau đây.
Các thông tin cung cấp sẽ được giữ bí mật. Chúng tôi cam đoan sẽ chỉ công bố
những kết quả thống kê.
Xin trân trọng cảm ơn sự cộng tác của Ông/Bà!
A. THÔNG TIN CÁ NHÂN: xin vui lòng đánh dấu X vào ô thích hợp hoặc
điền vào chỗ .
1. Đơn vị công tác: ..
2. Tuổi: ..
3. Giới tính: Nam Nữ
4. Học vị, học hàm và năm được cấp
Cử nhân, năm ..
Thạc sỹ, năm .
Tiến sĩ, năm .
PGS, năm .
GS, năm .
5. Chức danh
Trợ giảng Giảng viên
Giảng viên chính Giảng viên cao cấp
6. Chức vụ trong chính quyền đã từng giữ
Cán bộ kiêm nhiệm Trưởng/phó phòng
Trưởng/Phó khoa chuyên môn Ban giám hiệu
7. Thâm niên công tác (đánh xấu X vào ô thíc hợp)
Dưới 10 năm Từ 10-20 năm Từ 20 - 30 năm Trên 30 năm
183
8. Trình độ ngoại ngữ, tin học
Thành thạo Khá Trung bình Không biết
Tiếng Anh giao tiếp
Tiếng Anh chuyên môn
Ngoại ngữ khác cho giao tiếp,
xin ghi rõ:..
Ngoại ngữ khác cho chuyên
môn, xin ghi rõ .
Tin học văn phòng
Phần mềm phân tích số liệu, xin
ghi rõ:
B. KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC 2011-2016
1. Số lượng đề tài nghiên cứu khoa học đã chủ nhiệm và tham gia
Tổng số
2011-
2016
2011 2012 2013 2014 2015 2016
1. Chủ nhiệm đề tài cấp nhà
nước và tương đương
2. Chủ nhiệm đề tài cấp bộ và
tương đương
3. Chủ nhiệm đề tài cấp trường
và tương đương
4. Tham gia đề tài cấp nhà
nước và tương đương
5. Tham gia đề tài cấp bộ và
tương đương
6. Tham gia đề tài cấp trường
và tương đương
184
2. Số lượng giáo trình, sách chuyên khảo, tham khảo đã xuất bản
Tổng
số
2011-
2016
2011 2012 2013 2014 2015 2016
1. Số giáo trình là chủ
biên/đồng chủ biên
2. Số giáo trình tham gia viết
3. Số sách tham khảo/chuyên
khảo là chủ biên/đồng chủ biên
4 Số sách tham khảo/chuyên
khảo tham gia viết
3. Số lượng bài báo tạp chí trong và ngoài nước đã công bố
Tổng
số
2011-
2016
2011 2012 2013 2014 2015 2016
1. Số bài báo công bố quốc tế trong
danh mục ISI, Scopus, ACI
2. Số bài báo công bố quốc tế trong
danh mục ISI, Scopus, ACI
3. Số bài đăng trong các tạp chí
chuyên ngành được tính tối đa 1
điểm theo quy định của HĐ chức
danh GS nhà nước
4. Số bài đăng trong các tạp chí
được tính tối đa 0,75 và 0,5 điểm
theo quy định của HĐ chức danh
GS nhà nước
5. Số bài báo được đăng toàn văn
trong kỷ yếu hội thảo quốc tế/quốc
gia, có số xuất bản ISBN
185
4. Số lượng sinh viên, học viên cao học, NCS đã và đang hướng dẫn
Tổng số
2011-
2016
2011 2012 2013 2014 2015 2016
1. Đề tài Sinh viên NCKH
2. Đề tài Sinh viên NCKH đạt
giải thưởng cấp trường
3. Đề tài Sinh viên NCKH đạt
giải thưởng cấp Bộ
9. Số lượng luận án NCS đã
và đang hướng dẫn
- Trong đó số NCS đã bảo vệ
thành công luận án
- Số NCS đang làm luận án
10. Số lượng luận văn thạc sỹ
đã và đang hướng dẫn
- Trong đó số học viên cao học
đã bảo vệ luận văn thành công
- Số luận văn đang hướng dẫn
C. CÂU HỎI PHỎNG VẤN
Anh/chị có đồng ý với những nhận định sau đây không. Xin vui lòng đánh dấu vào ô
thích hợp trên thang điểm từ 1 (hoàn toàn không đồng ý) đến 4 (hoàn toàn đồng ý)
1. Các nhân tố bên ngoài
Hoàn toàn
không đồng
ý
(1)
Không
đồng ý
(2)
Đồng
ý
(3)
Hoàn toàn
đồng ý
(4)
Tôi nghiên cứu khoa học để có cơ hội
thăng chức
Tôi nghiên cứu khoa học vì đó là yêu
186
Hoàn toàn
không đồng
ý
(1)
Không
đồng ý
(2)
Đồng
ý
(3)
Hoàn toàn
đồng ý
(4)
cầu của Nhà trường
Nếu không bắt buộc thì tôi sẽ không thực
hiện nghiên cứu khoa học
Tôi nghiên cứu khoa học vì những
khuyến khích tài chính đối với hoạt
động này
Tôi thực hiện nghiên cứu khoa học để
có thêm thu nhập từ chuyển giao kết
quả nghiên cứu
Tôi nghiên cứu khoa học vì muốn
được vào biên chế hoặc ký hợp đồng
lao động dài hạn hơn
Kết quả NCKH tốt sẽ giúp tôi có được
vị trí tốt hơn trong cơ quan
Tôi muốn nhận được sự tôn trọng của
đồng nghiệp với kết quả nghiên cứu
của mình
Tôi nghiên cứu khoa học để có thể kết
nối với cộng đồng nghiên cứu trong và
ngoài nước
Tôi nghiên cứu khoa học để có uy tín cao
hơn trong cộng đồng khoa học
Tôi nghiên cứu khoa học để có thể đi
tham dự các hội thảo khoa học quốc tế
Tôi nghiên cứu khoa học để có thể tìm
được việc làm ở những cơ quan tốt hơn.
187
2. Các nhân tố bên trong
Hoàn toàn
không đồng
ý
(1)
Không
đồng ý
(2)
Đồng
ý
(3)
Hoàn
toàn
đồng ý
(4)
Tôi luôn đam mê với nghiên cứu
khoa học
Tôi dành nhiều thời gian NCKH vì
tôi cảm thấy thích thú
Tôi luôn có những ý tưởng và thích
việc đặt ra những câu hỏi nghiên cứu
Tôi thích việc tìm kiếm câu trả lời
thông qua nghiên cứu khoa học
Tôi mong muốn có thể nâng cao kỹ
năng nghiên cứu khoa học
Tôi mong muốn nâng cao kiến thức
thông qua nghiên cứu khoa học
Tôi mong muốn có nhiều công trình
của mình được xuất bản
Tôi tin rằng kết quả nghiên cứu của
mình có ích cho xã hội
Tôi tin rằng NCKH sẽ giúp ích cho
việc nâng cao chất lượng giảng dạy
NCKH là trách nhiệm tất yếu của
giảng viên đại học
Tôi thích sự độc lập trong NCKH
Tôi thích giải quyết những thách
thức, phức tạp trong NCKH
188
3. Các nhân tố ảnh hưởng
Hoàn toàn
không đồng
ý
(1)
Không
đồng ý
(2)
Đồng
ý
(3)
Hoàn
toàn
đồng ý
(4)
Tôi không có đủ kinh nghiệm nghiên
cứu
Tôi không được trang bị kỹ năng cần
thiết cho nghiên cứu
Tôi không thấy tự tin khi gửi đi các
công trình NCKH của mình
Tôi không có đủ thời gian dành cho
NCKH
Tôi phải giảng dạy quá nhiều nên
không có thời gian nghiên cứu
Tôi đã quá già cho việc nghiên cứu
khoa học
Tôi không có những người hỗ trợ
trong việc NCKH
Trường đại học không cung cấp đủ
kinh phí cho nghiên cứu của tôi
Tôi không có đủ nguồn lực tài chính
cho hoạt động nghiên cứu
Tôi không có cơ sở dữ liệu và số liệu
cần thiết cho nghiên cứu
Tôi không có văn phòng để thực
hiện NCKH
Văn hóa khuyến khích nghiên cứu
trong trường luôn thúc đẩy tôi thực
hiện NCKH
189
D. CÂU HỎI MỞ
1. Theo quan điểm cá nhân, cần thúc đẩy hoạt động NCKH của giảng viên đại
học các trường khối kinh tế theo hướng nào?
..............................................................................................................................
2. Để thực hiện định hướng này, Nhà nước và các trường cần làm gì?
..............................................................................................................................
Xin trân trọng cám ơn Ông/Bà!
THÔNG TIN CÁ NHÂN (không bắt buộc)
Họ và tên: ..............................................
Điện thoại: ............................................... – Email: ..................................