Luận án Chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam

Bạo lực gia đình gây hậu quả nghiêm trọng cho các nạn nhân và thành viên trong gia đình, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình, gây thiệt hại về kinh tế; gây mất trật tự xã hội, là mầm mống phát sinh tội phạm và tệ nạn xã hội, giảm sút lao động, cản trở sự phát triển và tiến bộ xã hội. Chính vì vậy, phòng, chống bạo lực gia đình có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo quyền con người, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của các thành viên gia đình; đảm bảo sự phát triển lành mạnh của trẻ em; đảm bảo cho hạnh phúc, bình yên trong mỗi gia đình cũng như đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, phòng, chống bạo lực gia đình không phải là nhiệm vụ của riêng một chủ thể nào mà là trách nhiệm của mỗi công dân, từng gia đình, các cơ quan nhà nước và của toàn thể xã hội. Nhiệm vụ phòng, chống BLGĐ chỉ có thể thu được kết quả tốt khi có sự tham gia đông đảo của các giai tầng trong xã hội với một hệ thống các biện pháp đa dạng, đặc biệt, phải có một hệ thống các quan điểm, đường lối, chủ trương, định hướng chỉ đạo phù hợp và kịp thời nhằm đảm bảo từng bước đi thích hợp, vừa mang tính sách lược, vừa thể hiện tính chiến lược trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đặc biệt có ý nghĩa về mặt chính trị xã hội và pháp lý, cũng như ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng. Thông qua quá trình nghiên cứu công phu, luận án đã củng cố thêm các luận cứ khoa học và thực tiễn khẳng định vị trí, vai trò và tầm quan trọng của chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình trong việc quản lý có hiệu quả vấn đề chống bạo lực gia đình, bảo đảm quyền con người, đáp ứng yêu cầu bình đẳng giới, công bằng xã hội, an ninh trật tự hướng đến mục tiêu xây dựng gia đình hạnh phúc, phát triển bền vững kinh tế xã hội của quốc gia. Để công tác phòng, chống chống bạo lực gia đình đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Luận án đã đạt được các mục tiêu đề ra: Thứ nhất, tổng quan chung tình hình nghiên cứu, đã xác định được khung nghiên cứu của đề tài chính sách pháp luật về phòng, chống chống bạo lực gia đình ở Việt Nam, trong đó đã tổng hợp được về cơ bản các kết quả nghiên cứu của Việt Nam và một số kết quả nghiên cứu của thế giới về công tác phòng, chống chống bạo lực gia đình để làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc nghiên cứu của luận án. Thứ hai, hệ thống hóa cơ sở lý luận chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, làm rõ các nội dung cơ bản: các khái niệm, đặc điểm, vai trò của chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam; chủ thể, đối tượng, nội dung chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam; các yếu tố tác động đến chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam.

pdf207 trang | Chia sẻ: Minh Bắc | Ngày: 16/01/2024 | Lượt xem: 576 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hậu quả của BLGĐ và các biện pháp phòng, chống BLGĐ. Tuyên truyền bằng cách lồng ghép nội dung phòng, chống BLGĐ và bình đẳng giới vào các cuộc họp, sinh hoạt ở địa phương cũng 180 như là một trong các biện pháp có hiệu quả, nhưng cần chú ý đến nội dung cho phù hợp với đối tượng, tức là mời được đúng đối tượng tham gia các cuộc họp, sinh hoạt tại địa phương khu dân cư. Tổ chức các cuộc nói chuyện, tọa đàm, tạo ra diễn đàn trao đổi có sự tham gia của phụ nữ, trẻ em và nam giới nhằm tuyên truyền về tình hình và các biện pháp phòng, chống BLGĐ. Huy động sự tham gia tích cực của nam giới trong phòng, chống BLGĐ. Nam giới không thể đứng ngoài cuộc vì đây chính là đối tượng có thể làm thay đổi tình trạng BLGĐ và bảo đảm bình đẳng giới trong gia đình. Có thể tuyên truyền thông qua các buổi họp cộng đồng, dòng họ vì chính trong các sinh hoạt của dòng họ thu hút rất đông sự tham gia của nam giới. Trong các buổi họp dòng họ này cần xác định và tuyên truyền cho người có tầm ảnh hưởng trong dòng họ trước, sau đó từ những người này mới tiến hành tuyên truyền thay đổi suy nghĩ của những người đàn ông khác trong dòng họ. Là một nước phương Đông, Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng phong kiến, “hủ nho”, đề cao vị trí, vai trò người đàn ông trong gia đình và ngoài xã hội. Tư tưởng này “ăn sâu bén rễ ngàn đời” vào lối sống, thói quen của nhiều tầng lớp dân cư, cho đến nay vẫn còn là trở ngại lớn cho sự nghiệp thúc đẩy bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ, phòng, chống BLGĐ. Để thay đổi nhận thức, thói quen, thái độ gia trưởng mang tính truyền thống của mỗi người, cần phải sử dụng yếu tố văn hóa. Các cơ quan quản lý về gia đình cần chủ động xây dựng và sử dụng có hiệu quả các thiết chế văn hóa, các hương ước, quy ước trong cộng đồng để tác động vào nhận thức, thói quen của người dân. Cần chú ý việc lồng ghép, tăng cường công tác truyền thông về gia đình nhân các lễ hội ở các địa phương - nơi thu hút đông đảo người dân ở khắp nơi về tham dự, tưởng nhớ tổ tiên, dòng họ hay những người anh hùng, liệt nữ có công lớn với đất nước. Một hình thức nữa cũng khá hiệu quả trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống BLGĐ. Đó là tạo dư luận cộng đồng lên án mạnh mẽ các hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống BLGĐ. Trên thực tế, không ít các hành vi vi pháp pháp luật về gia đình (nhất là BLGĐ và bất bình đẳng giới) bị coi là “bình thường”, “tự nhiên”, “chấp nhận được”, do vậy các hành vi đó vẫn tiếp tục xảy ra hàng ngày. Ví dụ khoảng 86% số người được hỏi trong cuộc khảo sát đồng tình với quan niệm rằng “cha mẹ có quyền dùng roi vọt đánh đập hoặc chửi mắng con cái”; hoặc 16% số người được khảo sát tỏ ra đồng ý với việc chồng có thể ngược đãi, hành hạ vợ khi người vợ mắc phải 01 trong 09 lỗi từ “nấu cơm không vừa ý chồng” cho đến “phát hiện thấy vợ không chung thủy” [125]. Trước tình hình như vậy, rõ ràng là cần phải ưu tiên hàng đầu biện pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống BLGĐ và bình đẳng giới trong gia đình, tiếp đến là phát hiện, xử lý các hành vi BLGĐ và tạo dư 181 luận cộng đồng lên án mạnh mẽ các hành vi BLGĐ chứ không thể tỏ thái độ đồng tình với các hành vi đó. Thứ hai, đổi mới nội dung tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống BLGĐ. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục cần tập trung vào những nội dung: Luật Phòng, chống BLGĐ; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Luật Bình đẳng giới; Bộ Luật Hình sự (những điều khoản quy định liên quan đến BLGĐ ); Luật Hôn nhân và gia đình; Luật Người cao tuổi...; các chính sách như Chỉ thị, Nghị định, Thông tư hướng dẫn thực hiện Luật phòng, chống BLGĐ; các văn bản chiến lược về Kế hoạch hành động, Chương trình hành động quốc gia về phòng, chống BLGĐ...; các Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, Công ước của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em... Các văn bản pháp luật này muốn đến được với người dân phải được chuyển thành các hình ảnh, ngôn từ đơn giản, dễ hiểu và sinh động, có như thế các nhóm đối tượng có học vấn không cao mới tiếp cận và thực hiện một cách có hiệu quả. Giáo dục, cung cấp kiến thức về xây dựng gia đình: Đẩy mạnh giáo dục, cung cấp cho các thành viên gia đình về chủ trương, chính sách, luật pháp liên quan đến gia đình; kỹ năng sống (kỹ năng làm cha, mẹ, nâng cao chất lượng mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình với nhau và với cộng đồng, xây dựng gia đình là một môi trường an toàn cho trẻ em); trách nhiệm của nam giới đối với công việc trong gia đình, đối với việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong gia đình; trách nhiệm thực hiện nếp sống văn mình, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở; xây dựng tình làng nghĩa xóm, đoàn kết, giúp đỡ, nhắc nhở, động viên nhau thực hiện tốt chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước; kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình, của dòng họ; tiếp thu các giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển; cảnh báo các nguy cơ và hậu quả về mất cân bằng giới tính khi sinh. Lồng ghép kiến thức xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, phòng, chống BLGĐ vào các chương trình giáo dục, đào tạo phù hợp với yêu cầu của từng ngành học, cấp học. Cụ thể như lồng ghép vấn đề về gia đình, phòng, chống BLGĐ trong sách giáo khoa ở các cấp học phù hợp. Ví dụ, có thể lồng ghép vào các môn học như: lịch sử, ngữ văn, giáo dục công dân và lồng ghép vào trong các hoạt động phong trào đoàn, đội, chương trình giáo dục ngoại khóa, các cuộc thi... Đối với từng gia đình, cơ quan QLNN trước hết cần dựa vào dân, thống nhất với dân để sửa đổi, bổ sung các hương ước, quy ước của làng, xã, khu dân cư, trong đó khẳng định rõ các tiêu chí “thực hiện bình đẳng giới” là yêu cầu cần thiết để xây dựng “Gia đình văn hóa”, “Làng xã văn hóa”, “Khu dân cư văn hóa”. Cần tôn vinh, đề cao tính gương mẫu, của những người có chức sắc, vị trí ở cơ sở và trong cộng đồng. Cần xem xét, đánh giá mỗi gia đình trong việc thực hiện hương ước, quy ước ở cộng đồng 182 một cách thực chất và nghiêm túc. Từ đó, có những hình thức động viên, biểu dương các tập thể, cá nhân hay hộ gia đình sao cho phù hợp và thiết thực. Thứ ba, tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật xử lý vi phạm đối với hành vi vi phạm pháp luật BLGĐ. Căn cứ Luật xử lý vi phạm hành chính ngày 20/6/2012, Luật phòng, chống BLGĐ năm 2007, Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng chống BLGĐ thì thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính của Công an nhân dân đối với hành vi vi phạm BLGĐ (Nghị định số 167/2013/NĐ- CP) thì khi có một trong các hành vi vi phạm nêu trong Nghị định đủ điều kiện xử lý vi phạm hành chính có nghĩa là chưa đến mức tội phạm. Việc xác định các dấu hiệu cấu thành vi phạm hành chính về BLGĐ trước hết căn cứ vào dấu hiệu cấu thành hành vi vi phạm hành chính nói chung theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính. Đó là các dấu hiệu thuộc các yếu tố khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan của hành vi vi phạm hành chính. Đồng thời, việc xác định các dấu hiệu cấu thành vi phạm hành chính BLGĐ còn phải căn cứ định nghĩa hành vi BLGĐ trong Luật phòng, chống BLGĐ. Theo quy định các hành vi BLGĐ rất rộng, bao gồm các hành vi xâm hại sức khỏe thành viên gia đình; hành hạ, ngược đãi thành viên gia đình; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của thành viên gia đình; cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý; ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ với chồng; giữa anh, chị, em với nhau; vi phạm quy định về chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng; cưỡng ép kết hôn, ly hôn, tảo hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; bạo lực về kinh tế; các hành vi trái pháp luật buộc thành viên gi đình ra khỏi chỗ ở hợp pháp của họ; hành vi bạo lực đối với người ngăn chặn, phát hiện, báo tin BLGĐ, người giúp đỡ nạn nhân BLGĐ; hành vi cưỡng bức, kích động, xúi giục, giúp sức người khác thực hiện hành vi BLGĐ; hành vi cố ý không ngăn chặn, báo tin hành vi BLGĐ và cản trở việc ngăn chặn, báo tin, xử lý hành vi BLGĐ; hành vi sử dụng, truyền bá thông tin, hình ảnh, âm thanh nhằm kích động hành vi BLGĐ; vi phạm về tiết lộ thông tin về nạn nhân BLGĐ; hành vi lợi dụng hoạt động phòng, chống BLGĐ để trục lợi; vi phạm quy định về đăng ký hoạt động đối với cơ sở hỗ trợ nạn nhân BLGĐ, cơ sở tư vấn về phòng, chống BLGĐ. Trong nhiều trường hợp, để định tội danh chính xác và trên cơ sở đó quyết định hình phạt đối với hành vi phạm tội BLGĐ cụ thể, trước hết phải xác định chính xác hành vi vi phạm hành chính BLGĐ, phân biệt vi phạm hành chính với tội phạm hình sự hoặc xác định: đã vi phạm hành chính mà còn phạm tội và bởi vậy, cần có hướng dẫn chi tiết và rõ ràng về loại hành vi vi phạm này. 183 4.2.3.3. Tăng cường công tác thanh tra, giám sát và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm, khen thưởng kịp thời tổ chức, cá nhân thực hiện có hiệu quả chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình Thứ nhất, tăng cường công tác thanh tra, giám sát về thực hiện pháp luật phòng, chống BLGĐ. Pháp luật về phòng, chống BLGĐ đã quy định rõ nội dung công tác thanh tra pháp luật về phòng, chống BLGĐ. Trong thời gian tới, Bộ LĐTB&XH và Bộ VHTT&DL cần tập trung hướng dẫn các đơn vị trong ngành xây dựng kế hoạch, tổ chức triển khai công tác thanh tra theo quy định của pháp luật; cần sớm quan tâm những nội dung như: Thanh tra việc thực hiện pháp luật về phòng, chống BLGĐ; thanh tra việc thực hiện Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam, Chương trình mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới, các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới và phòng, chống BLGĐ; thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo về BLGĐ theo quy định của Luật phòng, chống BLGĐ và pháp luật về khiếu nại, tố cáo; xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống BLGĐ theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính; kiến nghị các biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật về phòng, chống BLGĐ; đề nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật về phòng, chống BLGĐ. Thanh tra việc thực hiện pháp luật về phòng, chống BLGĐ đòi hỏi phải bảo đảm các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra nói chung (như: tuân theo pháp luật; bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời; không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra; không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra), đồng thời phải bảo đảm nguyên tắc trong hoạt động thanh tra chuyên ngành (đối với QLNN về phòng, chống BLGĐ ). Bên cạnh công tác thanh tra cần phải nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giám sát thực hiện pháp luật về phòng, chống BLGĐ. Việc giám sát thực hiện pháp luật về phòng, chống BLGĐ, Quốc hội, UBTVQH, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội trên có sở nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm giám sát theo quy định. Đồng thời, HĐND, đại biểu HĐND trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình cũng có trách nhiệm giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống BLGĐ tại địa phương. Thứ hai, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống BLGĐ. Các kết quả nghiên cứu cho thấy rằng những thành viên bị BLGĐ thường ít khi tiếp cận cơ quan công an và hệ thống pháp lý chính thống (tư pháp, toà án). Bên cạnh sự kỳ thị và xấu hổ, các rào cản lớn đối với việc họ tiếp cận các dịch vụ tư pháp: mức độ nhận thức hạn chế của bản thân về các dịch vụ hỗ trợ pháp lý sẵn có và quy trình tiếp cận các dịch vụ này và sự thiếu kiến thức về BLGĐ của những người tiếp đón và trợ giúp nạn nhân trong hệ thống tư pháp. 184 Do năng lực của hệ thống tư pháp và công an vẫn còn các mặt hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu của những nạn nhân bạo lực, nhân viên hỗ trợ pháp lý, các trung tâm hỗ trợ pháp lý, công an, thẩm phán cần phải được nâng cao kiến thức và kỹ năng về chính sách và khung pháp lý liên quan tới BLGĐ, cách cung cấp các dịch vụ cho người bị bạo lực và cách xử lý phù hợp đối với những người gây bạo lực. Nhà nước cần xem xét, mở rộng quyền hạn với các dịch vụ pháp lý để có thể cung cấp các dịch vụ pháp lý rộng rãi hơn tới các cá nhân có liên quan đến BLGĐ khi họ cần đến dịch vụ này, không chỉ bó hẹp trong các nhóm đối tượng được ghi trong luật. Nội dung này một số nước trên thế giới đã quy định chế tài đối với việc vi phạm quyết định bảo vệ. Đối với luật mẫu của Liên hợp quốc nêu rõ rằng cảnh sát và tòa án có trách nhiệm giám sát việc tuân thủ quyết định bảo vệ. Một bản sao của quyết định bảo vệ phải được gửi trong thời gian hạn 24 giờ cho cảnh sát khu vực nơi nạn nhân cư trú. Nhiều nước đã quy định một cách rõ ràng điều khoản này trong các luật về phòng, chống BLGĐ. Ví dụ, ở Malaysia, luật quy định trong thời hạn 24 giờ kể từ khi quyết định bảo vệ hoặc quyết định bảo vệ tạm thời được ban hành, Lục sự tòa án sẽ ban hành quyết định đó phải gửi một bản sao của quyết định cho sĩ quan chỉ huy của cảnh sát quận nơi nạn nhân cư trú. Luật phòng, chống BLGĐ của Kosovo quy định rằng trong vòng 24 giờ, kể từ khi ra quyết định bảo vệ, tòa án phải chuyển một bản sao cho nạn nhân, người vi phạm, đồn cảnh sát địa phương nơi các bên sinh sống và Trung tâm phụ trách công việc xã hội (cơ quan có thẩm quyền của địa phương chịu trách nhiệm về phúc lợi trẻ em và gia đình). Luật mẫu của Liên hợp quốc cũng nêu rõ rằng việc vi phạm quyết định bảo vệ phải tự nó cấu thành một hành vi phạm tội ngay cả khi hành vi bạo lực của người vi phạm vì lý do khác không cấu thành hành vi phạm tội (ví dụ, tiếp xúc với nạn nhân trái quy định của quyết định bảo vệ). Những người vi phạm quy định của quyết định bảo vệ phải bị xử lý bằng hình thức phạt tiền, không tuân lệnh tòa và phạt tù, tùy thuộc vào tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi vi phạm. Việc vi phạm quy định của quyết định bảo vệ là một tội phạm độc lập và riêng biệt phải chịu phạt tiền hoặc phạt tù ở phần lớn các bang ở Mỹ, New Zealand, Malaysia, Malaysia, Đài Loan, Australia và Nam Phi [132]. Ở Việt Nam xử phạt các quy định về quyết định bảo vệ đang còn là một khoảng trống pháp lý. Mặc dù thực tế luật phòng, chống BLGĐ Việt Nam xử phạt tất cả các hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống BLGĐ chứ không phải chỉ xử phạt hành vi gây hậu quả nghiêm trọng. Để làm được việc này thì cần có những quy định cụ thể cho từng điều khoản và từng vùng. Ví dụ đối với vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đối với các hộ gia đình nghèo bên cạnh việc xử phạt bằng tiền cần kèm theo hoặc thay thế việc xử phạt bằng tiền bằng các hình thức khác như lao động tại cộng đồng, v.v...Tuy nhiên trong thời gian trước mắt cần tập trung giải quyết 185 dứt điểm những vụ BLGĐ về thể chất bởi qua đó có thể gửi thông điệp cứng rắn đối với những người thường gây BLGĐ và có tính răn đe đến nhận thức của mọi người. Xử lý nghiêm minh các vụ vi phạm, tránh tình trạng người dân hình thành tâm lý coi thường, khinh nhờn pháp luật. Đặc biệt quan tâm xử lý các trường hợp bạo lực thể chất do say rượu, chất kích thích... để tạo chuyển biến về nhận thức cho người dân. 4.2.3.4. Kiện toàn bộ máy và nguồn nhân lực quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình Thứ nhất, kiện toàn bộ máy và ổn định tổ chức về phòng, chống bạo lực gia đình BLGĐ là một vấn đề xã hội và nó cần được giải quyết theo cách thức tổng hợp, đồng bộ. Các nghiên cứu và báo cáo quốc tế về BLGĐ thường xuyên nhấn mạnh sự cần thiết phải có cách tiếp cận mang tính phối hợp và tổng hợp để giải quyết vấn đề này. Kinh nghiệm từ các nước khác cho thấy, tất cả các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan phải cùng nhau phối hợp hoạt động thì mới mong chấm dứt BLGĐ một cách hiệu quả. Cần có những hướng dẫn liên ngành, các văn bản thỏa thuận, các cơ chế chuyển tuyến để đảm bảo giải quyết, xử lý một cách thống nhất. Luật phòng, chống BLGĐ đã quy định cụ thể về trách nhiệm phối hợp của tất cả các cơ quan, gồm cả lập pháp, hành pháp, tư pháp, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội; quy định về việc thành lập tổ chức phối hợp liên ngành, tổng đài điện thoại quốc gia thường trực để tiếp nhận, xử lý thông tin, thông báo, tố giác nguy cơ, hành vi vi phạm BLGĐ. Bộ máy làm công tác gia đình, phòng chống BLGĐ đang được hoàn thiện trên có sở của Nghị định số 13/2008/NĐ- CP, Nghị định số 14/2008/NĐ-CP và Nghị định số 08/2009/NĐ- CP quy định chi tiết và hướng dẫn Luật phòng, chống BLGĐ. Tinh thần của các Nghị định hướng dẫn cần tiếp tục củng cố và xây dựng bộ máy thật vững mạnh về con người, tổ chức và trang thiết bị để thực hiện chức năng QLNN về lĩnh vực gia đình, làm tiền đề vững chắc cho hoạt động của Ban chỉ đạo phòng, chống BLGĐ các cấp với chức năng là cơ quan điều phối các hoạt động phòng, chống BLGĐ. Về chiến lược hành động quốc gia, Chính phủ chỉ đạo tổng kết Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, giải quyết những vấn đề đặt ra và tăng cường trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn xã hội nhằm đảm bảo mục tiêu xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hệ thống các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm triển khai nhiệm vụ phòng, chống BLGĐ hoạt động độc lập theo chức năng của mình, phối hợp chủ yếu theo các hoạt động, sự kiện, theo thời điểm. Việc hỗ trợ nạn nhân bị BLGĐ và xử lý hành vi vi phạm BLGĐ trong từng vụ việc cụ thể từ tâm lý, đến hỗ trợ pháp lý, chăm sóc sức khỏe và các hỗ trợ cần thiết khác đang bị cắt khúc ở các cơ quan, tổ chức khác nhau mà thiếu sự liên thông, đồng bộ, thân thiện, bí mật và kịp thời. Ví dụ, các cơ quan tố tụng chịu 186 trách nhiệm chính điều tra, truy tố, xét xử, trong khi việc hỗ trợ nạn nhân về chăm sóc sức khỏe, tâm lý lại ở các cơ quan, tổ chức khác và sự phối hợp này còn rất hạn chế. Như vậy, phòng, chống BLGĐ không thể giải quyết, can thiệp hiệu quả nếu thiếu cơ chế phối hợp và theo quy trình chặt chẽ. Chính phủ chỉ đạo cơ quan chức năng tăng cường hơn nữa cơ chế phối hợp, xác định trách nhiệm chủ trì, trách nhiệm phối hợp giữa cơ quan QLNN, cơ quan tư pháp, tổ chức xã hội..., các tổ chức và cá nhân ở các cấp độ nhằm nâng cao hiệu quả thực chất của công tác phòng, chống BLGĐ. Để khắc phục những hạn chế, yếu kém trong công tác phối hợp quản lý, thực hiện công tác phòng, chống BLGĐ của các cơ quan cần có những giải pháp phối hợp đồng bộ, cụ thể như sau: Đẩy mạnh kiện toàn Ban chỉ đạo Trung ương và Ban chỉ đạo ở các cấp, các ngành, các đoàn thể theo hướng dẫn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Rà soát số thành viên tham gia và kiểm điểm thường xuyên về trách nhiệm của các cá nhân đơn vị thành viên của ban chỉ đạo. Có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng cho từng ngành; có cơ quan điều phối chung; mỗi một nhiệm vụ, lĩnh vực đều có cơ quan phụ trách chính và cơ quan phối hợp trên cơ sở phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của họ. Bên cạnh đó, xây dựng quy chế phối hợp liên ngành. Ở một số quốc gia, pháp luật về BLGĐ được khảo sát đã đề cập đến sự cần thiết phải có cách tiếp cận thống nhất, đồng bộ trong việc giải quyết BLGĐ và kêu gọi thiết lập một ủy ban điều phối liên ngành. Ví dụ, Luật phòng, chống BLGĐ của Đài Loan đã quy định việc thành lập các Ủy ban phòng, ngừa BLGĐ địa phương. Luật của phòng, chống BLGĐ của Philippines cũng có một điều quy định về việc thành lập một Hội đồng liên ngành về bạo đối với phụ nữa và trẻ em. Đối với Việt Nam cho đến nay, hầu hết các tỉnh, thành phố, các đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã đều thành lập Ban chỉ đạo công tác phòng, chống BLGĐ của cấp mình, song hoạt động chưa thực sự hiệu quả do thiếu quy chế phối hợp, nên phần lớn các ban, ngành khác đều ỷ lại cho ngành chức năng. Để đạt hiệu quả tốt hơn, cần phải nhanh chóng xây dựng Quy chế phối hợp liên ngành trong công tác phòng, chống BLGĐ của Ban chỉ đạo các cấp. Nâng cao năng lực của cơ quan điều phối. Trước hết, xác định rõ cơ quan đầu mối; thường xuyên kiện toàn cơ quan này về tổ chức và cán bộ. Chú trọng đào tạo, nâng cao năng lực thực thi nhiệm vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác phòng, chống BLGĐ không chỉ của ngành chức năng mà còn của các ngành thành viên. Tập trung vào bồi dưỡng một số kỹ năng quan trọng như: kỹ năng lập kế hoạch hoạt động, kỹ năng truyền thông, kỹ năng giám sát... Thường xuyên củng cố và nâng cao năng lực của cơ quan điều phối - cơ quan phòng, chống BLGĐ ở các cấp, các ngành, các đoàn thể để đảm bảo có mô hình thống nhất và đủ năng lực làm cơ quan tham mưu trong việc điều phối hoạt động liên ngành trong thực hiện công tác phòng, chống BLGĐ. 187 Như vậy, phòng, chống BLGĐ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Do tính nhạy cảm và phức tạp của các vụ việc xâm hại về BLGĐ mà cần có cơ chế đặc biệt, thân thiện, bí mật, kịp thời, đồng bộ, nhất là cơ chế, quy trình phối hợp để phòng ngừa, bảo vệ, hỗ trợ tại chỗ cho nạn nhân bị BLGĐ. Thứ hai, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình tại cơ sở Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình tại cơ sở trước tiên phải nâng cao năng lực quản lý công tác phòng, chống BLGĐ của các cơ quan QLNN. Năng lực quản lý này được thể hiện bằng việc đáp ứng được các yêu cầu cấp thiết như: xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ các hoạt động phòng, chống BLGĐ, hỗ trợ kịp thời các nạn nhân bị BLGĐ hay hỗ trợ nâng cao trình độ của các cộng tác viên; xây dựng, vận hành các mô hình phòng, chống BLGĐ hoạt động hiệu quả; tư vấn các quy định của pháp luật về hôn nhân, về bình đẳng giới, về quyền trẻ em, về kỹ năng xử lý tình huống trong mâu thuẫn gia đình. Cần tập trung vào một số giải pháp cụ thể sau: - UBND cấp tỉnh cần sớm ban hành hệ thống vị trí việc làm đối với đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình, phân bổ đủ chỉ tiêu biên chế theo vị trí việc làm để có cơ sở tuyển dụng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và làm căn cứ xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng với nội dung thiết thực, phù hợp với từng đối tượng cán bộ, công chức, viên chức làm công tác gia đình nhằm đảm bảo đào tạo, bồi dưỡng có trọng tâm, trọng điểm, chuyên sâu kết hợp với đào tạo trong thực tiễn. - Trong tuyển dụng công chức văn hóa - xã hội, ngoài yêu cầu về trình độ, chuyên môn, nên quy định và thực hiện về tiêu chí “người tuyển dụng phải là người cư trú tại địa phương” để thuận lợi hơn, hiệu quả hơn trong công tác phòng, chống BLGĐ do hiểu rõ các tập quán sinh hoạt, lối sống, các đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của địa bàn công tác. - Đào tạo kỹ năng tin học cho đội ngũ cán bộ, công chức và người dân, sẵn sàng tham gia khi chính phủ điện tử được ứng dụng trong hoạt động của bộ máy QLNN về phòng, chống BLGĐ. Chính phủ điện tử không cần “công chức điện tử” mà còn rất cần “công dân điện tử”. Người dân, nhất là những nạn nhân bị BLGĐ chỉ có thể tham gia các dịch vụ tốt của Chính phủ nếu những dịch vụ này tốt, nhanh chóng, tiện lợi. Công dân điện tử là những người đóng góp ý kiến, tố cáo các vụ BLGĐ đang diễn ra. Từ đó các nhà quản lý làm công tác phòng, chống BLGĐ có căn cứ để giải quyết, ngăn chặn BLGĐ. - Tiếp tục duy trì và có chế độ chính sách thỏa đáng cho đội ngũ cộng tác viên làm công tác gia đình và phòng, chống BLGĐ ở thôn/xóm/ấp/bản/làng và khu phố. Trên thực tế đây là những người không chính thức trong biên chế của bộ máy làm công tác gia đình nhưng do xuất phát từ bản chất của công tác văn hóa, xã hội, họ có vị trí, vai trò vô cùng lớn trong triển khai tất cả các chính sách gia đình và phòng, chống 188 BLGĐ của Nhà nước. Điều này đã được minh chứng rõ ràng trong sự nghiệp thành công của của sự nghiệp gia đình và phòng, chống BLGĐ ở Việt Nam trong những giai đoạn trước đây. Bởi vậy, việc duy trì hoạt động của các cộng tác viên và phát huy vai trò của họ trong công tác phòng, chống BLGĐ giai đoạn hiện nay và tiếp theo phụ thuộc vào sự quan tâm của Nhà nước và các cấp chính quyền. Ngoài ra cần tổ chức tập huấn định kỳ giúp cán bộ và cộng tác viên luôn cập nhật chủ trương, đường lối của Đảng, kiến thức về gia đình và phòng, chống BLGĐ, kiến thức pháp luật, nâng cao kỹ năng tác nghiệp (thu thập thông tin, làm báo cáo, phổ biến chính sách, pháp luật, tham gia hòa giải, vận động đối tượng vi phạm), song có đánh giá để tạo động lực học tập, rèn luyện và nâng cao kỹ năng tác nghiệp. Chế độ đãi ngộ cũng là một trong những cơ sở tạo tinh thần nhiệt huyết, trách nhiệm trong công việc đối với những người làm công tác gia đình tại cơ sở. Vì vậy Nhà nước phải quan tâm, có những chế độ chính sách đúng đắn, phù hợp. Thứ ba, đảm bảo phân bổ đầy đủ, hợp lý tài chính để thực hiện các hoạt động can thiệp phục vụ công tác phòng, chống BLGĐ. Cần có quy định cụ thể, rõ ràng về các mục kinh phí chi cho hoạt động của các bộ, ban ngành, đoàn thể và các địa phương, đơn vị cần phải bố trí cho hoạt động phòng, chống BLGĐ để tăng tính chủ động của từng đơn vị, địa phương. Huy động và sử dụng kinh phí cho hoạt động phối hợp liên ngành phòng, chống BLGĐ cần phải có sự thay đổi theo hướng tập trung mọi nguồn lực (ngân sách nhà nước, tài trợ quốc tế, hoạt động cộng đồng...) về một đầu mối, quản lý và phân bổ theo các hoạt động ưu tiên và được xây dựng trong kế hoạch. Ủy ban nhân dân các cấp chịu trách nhiệm quản lý và điều tiết nguồn kinh phí cho hoạt động, trao quyền cho cấp dưới trong sử dụng kinh phí sao cho đúng mục đích và đạt hiệu quả. Đồng thời có kế hoạch các hoạt động về phòng, chống BLGĐ trên phạm vi quốc gia và từng tỉnh để có cơ sở huy động các nguồn lực khác ngoài ngân sách như tài trợ từ các doanh nghiệp, hiệp hội, các cá nhân trong việc phát triển kinh tế địa phương, xoá đói giảm nghèo, ví dụ như: - Phí hội viên: các tổ chức có thể thu tiền mặt từ phí thành viên hoặc phí đăng ký. Số tiền cần phải được quy định rõ trong điều lệ hoặc quy chế ban đầu. - Các hoạt động gây quỹ: tổ chức các sự kiện, cuộc biểu diễn, phát huy thế mạnh ngành nghề truyền thống tại địa phương; - Kêu gọi sự ủng hộ từ các hiệp hội, doanh nghiệp trên địa bàn; Khuyến khích đầu tư cá nhân, tổ chức trong việc hỗ trợ các gia đình phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống. 4.2.4. Giải pháp tạo lập các điều kiện đảm bảo hiệu quả xây dựng và thực thi chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam 189 4.2.4.1. Xã hội hóa công tác phòng, chống bạo lực gia đình gắn với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội Sự thành công của bất kỳ một chương trình hay biện pháp phòng, chống BLGĐ nào cũng đều nhờ vào sự đóng góp và hợp tác của cộng đồng, các tổ chức xã hội và các tổ chức phi chính phủ. Các biện pháp chủ yếu của các nhóm này là giáo dục, tuyên truyền, trợ giúp pháp lý và tư vấn về tinh thần, sức khỏe thông qua đường dây nóng, nhà tạm lánh, trường học, bệnh viện, thực hiện các nghiên cứu nhằm vào các nhóm đối tượng khác nhau. Mô hình điển hình về phòng, chống BLGĐ là mô hình về “phòng, chống bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình”, là mô hình Duluth hình thành bởi dự án can thiệp BLGĐ ở Dulut, Minnesota (Mỹ). Đây là dự án đầu tiên phối hợp các hoạt động can thiệp của cơ quan pháp luật ở từng địa phương. Mô hình này dựa trên cam kết rằng cộng đồng sẽ chịu trách nhiệm đối với các hành vi BLGĐ xảy ra ở địa phương mình và nạn nhân BLGĐ không phải chịu trách nhiệm nào đối với các hành vi BLGĐ mà học phải gánh chịu. Lý thuyết của mô hình này dựa trên một giả định rằng mục đích của hành vi bạo lực là để nam giới thực hiện quyền lực và sự kiểm soát đối với người phụ nữ. Mô hình này nhấn mạnh đến vai trò của cộng đồng đối với BLGĐ và sau này nó đã trở thành mô hình tiêu biểu về biện pháp can thiệp đối với BLGĐ trên khắp thế giới. Để thực hiện được mô hình này đạt hiệu quả cao, gắn với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội cần phải tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan QLNN, cơ quan tư pháp, các tổ chức và cá nhân để huy động trách nhiệm toàn xã hội trong công tác phòng, chống BLGĐ. phòng, chống BLGĐ không thể giải quyết, can thiệp hiệu quả nếu thiếu cơ chế phối hợp và theo quy trình chặt chẽ. Huy động sự tham gia của cộng đồng dân cư, các tổ chức xã hội, các dòng họ, cá nhân vào việc hỗ trợ hoặc tạo các điều kiện giúp cho các gia đình nâng cao nhận thức và có thêm cơ hội, điều kiện tham gia vào các hoạt động xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc. Khuyến khích đầu tư của các tổ chức, cá nhân trong, ngoài nước trong việc hỗ trợ các gia đình phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống phù hợp với quy hoạch phát triển, yêu cầu, đặc điểm của địa phương và quy định của pháp luật. Đề cao tính chủ động và trách nhiệm tham gia của từng ngành, lĩnh vực đối với việc thực hiện các nhiệm vụ công tác, việc hỗ trợ, xây dựng, phát triển gia đình, việc thực hiện các chỉ tiêu liên quan đến lĩnh vực gia đình thuộc phạm vi trách nhiệm của ngành, đoàn thể, địa phương. Xây dựng mô hình dịch vụ “Trung tâm một điểm dừng” liên ngành hỗ trợ, bảo vệ toàn diện phụ nữ, trẻ em, người già... bị BLGĐ xâm hại. Bằng cách rà soát các quy định của pháp luật hiện hành, đề xuất xây dựng và vận hành các mô hình: Trung tâm một điểm dừng, Ngôi nhà bình yên, Nhà tạm lánh... liên ngành hỗ trợ, bảo vệ nạn nhân bị BLGĐ. Nâng cao chức năng của các trung tâm này: Tư vấn tâm lý, ứng phó khủng 190 hoảng, can thiệp khẩn cấp; Hỗ trợ nạn nhân tiếp cận liên ngành các dịch vụ y tế, trợ giúp pháp lý, công tác xã hội và điều tra thân thiện, nhạy cảm giới tại 01 địa điểm. Xây dựng cơ chế vận hành các “Trung tâm một điểm dừng”, đảm bảo tính toàn diện, hiệu quả trong hỗ trợ nạn nhân. Bảo đảm thực hiện các dịch vụ hỗ trợ khẩn cấp tại trung tâm; hỗ trợ tư vấn, tham vấn; tiếp nhận vụ việc, tham vấn, hỗ trợ kết nối chuyển tuyến đảm bảo an toàn 24/24; hỗ trợ y tế: cấp cứu nạn nhân; điều trị tổn thương; thu thập chứng cứ (đánh giá tổn thương tâm lý); làm biên bản tiếp nhận; hỗ trợ khủng hoảng; hỗ trợ điều tra: cảnh sát có mặt ngay khi được yêu cầu, thu thập lời khai, thu thập mẫu vật; tư vấn pháp lý; lưu giữ chứng cứ, giám định pháp lý... 4.2.4.2. Xây dựng hệ thống an sinh xã hội, có trọng tâm và có hệ thống tiêu chí rõ ràng trong thực hiện chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đinh Thứ nhất, đảm bảo chính sách an sinh xã hội gồm cả phòng ngừa, ứng phó và khắc phục rủi ro. Hệ thống an sinh cần có chức năng duy trì được mức sống, bảo vệ sự an toàn và sinh kế thiết yếu chứ không dựa vào nguồn lực cá nhân, bởi về lâu dài mỗi cá nhân không thể tự an sinh, tự bảo vệ và tự chủ mọi thứ. Vì thế, các chính sách ASXH nên bao gồm ba hợp phần chính. Phòng ngừa rủi ro thông qua các biện pháp chủ động như hỗ trợ người dân có việc làm, tạo thu nhập. Ứng phó với rủi ro, thông qua chính sách trợ giúp xã hội nhằm khắc phục hậu quả của rủi ro thông qua các chính sách và chương trình nhằm cứu trợ đột xuất, linh hoạt và định kỳ, khắc phục được hậu quả thiên tai, thảm họa lường trước hoặc không thể lường trước. Cần xem đổi mới mô hình an sinh xã hội theo hướng chuyển từ mục tiêu duy trì và đáp ứng thu nhập tối thiểu sang đảm bảo an ninh con người trên các phương diện liên quan (kinh tế, chính trị, xã hội, sức khỏe, môi trường sống...). Thứ hai, nâng cao năng lực an sinh đồng thời tiếp cận chính sách an sinh xã hội theo đơn vị gia đình. Chính sách an sinh của gia đình hiện nay cần được tăng cường bằng các chính sách hỗ trợ của nhà nước và cộng đồng để có thể hạn chế, giảm thiểu và khắc phục những rủi ro trong đời sống. Cần có chính sách hỗ trợ nâng cao khả năng chống chịu, bền vững của gia đình thay vì để cho các thành viên tự lo toan, tự xoay sở và tự bảo vệ trước khó khăn. Đây cũng là giải pháp khả thi góp phần duy trì sự bền vững của gia đình. Đồng thời xem xét xây dựng và thực hiện toàn diện các chính sách ASXH dựa trên đơn vị gia đình, tránh sự tản mạn, hay bỏ sót đối tượng. Bổ sung các chính sách hỗ trợ cho người chăm sóc nạn nhân bị BLGĐ. Nhất là trẻ em, phụ nữ và người già. Thứ ba, xây dựng chính sách trợ giúp xã hội đa dạng, hiệu quả cho gia đình. Chính sách trợ giúp thường xuyên có vai trò làm giá đỡ cuối cùng nhằm bảo vệ người yếu thế. Cần tiến hành xây dựng các tiêu chí xác định đối tượng trợ giúp, đối tượng trợ cấp xã hội theo hướng linh hoạt hơn, loại bỏ bớt những điều kiện cứng (đủ) mà quan 191 tâm nhiều hơn tới điều kiện thực tế (cần) để thực sự bao phủ hết số lượng đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Đổi mới chính sách trợ giúp xã hội theo hướng bảo đảm mức trợ cấp xã hội hợp lý với nhiều hình thức khác nhau. Việc tính toán mức trợ cấp xã hội phải dựa vào chi phí tối thiểu cần thiết để duy trì cuộc sống và mức này cần được tính toán, công bố theo năm. Các hỗ trợ trực tiếp bao gồm xây dựng các chính sách phát triển kinh tế hộ gia đình, tạo cho gia đình khó khăn một nguồn thu nhập bền vững, giảm nghèo, phát triển sinh kế hộ gia đình để đảm bảo an sinh cho thành viên trong gia đình hướng tới có việc làm, tăng thêm thu nhập. Hoặc tổ chức các hình thức hỗ trợ cho từng nhóm gia đình khác nhau như gia đình có cha, mẹ đi làm ăn xa, gia đình nghèo, gia đình di cư,... Thứ tư, huy động sự tham gia của các chủ thể trong cung cấp các dịch vụ xã hội và trợ giúp xã hội. Xây dựng các cơ chế nhằm thu hút sự hỗ trợ tài chính của các chủ thể khác như các tổ chức phi lợi nhuận, các tổ chức xã hội tự nguyện và các tổ chức quốc tế dành cho các đối tượng bảo trợ xã hội. Tạo điều kiện để khu vực tư nhân tham gia vào cung cấp dịch vụ chăm sóc và trợ giúp xã hội với những cơ chế, chính sách ưu đãi về tín dụng, thuế, mặt bằng đất đai,.v.v. Các mô hình trợ giúp và chăm sóc xã hội dựa vào cộng đồng cần được khuyến khích với sự tham gia của nhiều đối tác xã hội, tổ chức phi chính phủ nhằm cung cấp dịch vụ tốt hơn, hiệu quả hơn cho các hộ gia đình và người dân. Thứ năm, hoàn thiện cấu trúc hệ thống QLNN về bảo vệ nạn nhân BLGĐ. Tại cấp xã, cần duy trì ít nhất một nhân sự chuyên trách bảo vệ nạn nhân BLGĐ với những quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, cơ chế làm việc. Nhân sự này cần có chuyên môn phù hợp với hoạt động bảo vệ nạn nhân BLGĐ và được tập huấn nâng cao hiểu biết thường xuyên. Xây dựng một hệ thống báo cáo, giám sát, thống kê thống nhất từ cấp cơ sở đến Trung ương và tinh giản thủ tục hành chính, báo cáo hướng tới hiệu quả công việc bảo vệ nạn nhân BLGĐ với hệ thống tiêu chí sàng lọc xác định nạn nhân bị xâm hại rõ ràng. Đồng thời cần có sự phân công cụ thể nhiệm vụ cụ thể trong phối hợp liên ngành bảo vệ nạn nhân BLGĐ, chuyên môn hóa ai làm gì và như thế nao. Xem xét thống nhất một đầu mối QLNN về phòng, chống BLGĐ. Thứ sáu, nâng cao hiệu quả hệ thống dịch vụ bảo vệ nạn nhân BLGĐ. Đổi mới hoạt động tập huấn nâng cao năng lực và nhận thức, hoạt động truyền thông theo hướng thân thiện, bền vững, hiệu quả hơn bằng việc xây dựng tài liệu tập huấn chuẩn quốc gia về nội dung, phương pháp, kịch bản cho từng nhóm đối tượng và có tính đến những đặc thù văn hóa vùng, miền, dân tộc, tôn giáo. Tập huấn phác đồ bảo vệ nạn nhân BLGĐ tới cấp xã. Xây dựng dịch vụ xác định vấn đề, can thiệp sớm, hỗ trợ tâm lý xã hộ, trợ giúp xã hội, phục hồi tích cực, và phục hồi chức năng cho nạn nhân bị bạo lực. Đối với các dịch vụ bảo vệ nạn nhân BLGĐ ở khu vực không chính thức cần đưa 192 vào hoạt động chính thức của chính quyền chứ không nằm ở các dự án can thiệp của các tổ chức. Thứ bảy, có sự kết nối tốt hơn giữa kết quả nghiên cứu, đánh giá và xây dựng chính sách. Thực tế có rất ít số liệu định lượng tầm quốc gia hay chọn mẫu đại diện về các vấn đề bảo vệ nạn nhân BLGĐ, do tính chất nhạy cảm và cá nhân cao của vấn đề này, như tình trạng giấu diếm, lạm dụng nạn nhân là những người trong gia đình, hoặc che giấu thực tế để báo cáo lên cấp trên về trật tự an ninh xã hội ở địa phương được đảm bảo. Tình hình nạn nhân bị BLGĐ, nhất là trẻ em bị xâm hại tình dục trong gia đình chưa được thống kê đầy đủ và điều này có thể do một số vấn đề như không thông báo, cha mẹ thiếu hiểu biết và cơ chế phản ứng của Chính phủ còn chưa hiệu quả. Các nghiên cứu hiện nay chưa đánh giá được hết sự tác động và những hậu quả của BLGĐ. Còn nhiều chủ đề mới nảy sinh trong thực tiễn chưa được nghiên cứu đầy đủ như bạo lực tinh thần, bạo lực tình dục, bạo lực kinh tế, các hệ thống dịch vụ bảo vệ và chăm sóc nạn nhân BLGĐ, tác động của văn hóa hay những quy tắc xã hội đến BLGĐ... Vì thế, cần tổ chức các điều tra, nghiên cứu quy mô quốc gia về tình hình BLGĐ. 4.2.4.3. Bảo đảm phù hợp với các điều ước quốc tế, cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia và tăng cường hợp tác quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình Thứ nhất, bảo đảm phù hợp với các điều ước quốc tế, cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia và bài học kinh nghiệm quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình Việt Nam đã tham gia các cam kết quốc tế trong nhiều lĩnh vực, trong đó có quyền con người, vấn đề BLGĐ. Đáng chú ý là Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR), Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) và các khuyến nghị của Ủy ban các Công ước Nhân quyền. Công ước CEDAW có hiệu lực ở Việt Nam từ ngày 19/3/1982. Ngay sau khi tham gia các cam kết quốc tế liên quan đến BLGĐ, Việt Nam đã có những bước đi quan trọng để cụ thể hóa về mặt pháp lý như ban hành Luật Bình đẳng giới (2006), Luật Phòng, chống BLGĐ năm 2007, Luật Hôn nhân và Gia đình (2014) Ở khu vực ASEAN, Việt Nam là quốc gia chủ động đưa ra nhiều sáng kiến và tham gia các tuyên bố chung liên quan đến bình đẳng giới, xóa bỏ bạo lực giới và BLGĐ. Tương tự như nhiều quốc gia khác, Luật Phòng, chống BLGĐ của Việt Nam dựa trên tiếp cận đa ngành và toàn diện nhằm giải quyết BLGĐ. Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới khi giải quyết vấn đề BLGĐ như: tại Austrlia khi áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc thì người có hành vi BLGĐ là người phải ra khỏi nhà trong trường hợp người bị BLGĐ lựa chọn chỗ ở là chính ngôi nhà của họ. Luật Phòng, chống BLGĐ của nước ta hiện nay chưa quy định rõ điều này dẫn đến quá trình thực thi luật, người phải ra khỏi nhà lại chính là người bị BLGĐ. Việc áp dụng biện pháp mạnh để ngăn chặn hành vi BLGĐ cũng được New Zealand thực hiện. 193 Theo đó, quốc gia này trao cho cảnh sát quyền được ban hành lệnh an toàn nếu thấy cần thiết để bảo vệ người bị BLGĐ. Trong trường hợp vì sự an toàn cho người bị BLGĐ, cảnh sát có thể ban hành lệnh an toàn mà không cần sự đồng ý của người bị BLGĐ. Tại Hàn Quốc, sau khi cơ quan có thẩm quyền nhận được tin báo, tố giác về hành vi bạo lực, cán bộ điều tra sẽ lập tức đến hiện trường vụ việc BLGĐ. Trong quá trình điều tra, xác minh vụ việc cán bộ điều tra có trách nhiệm thực hiện các biện pháp cần thiết, bao gồm tách người bị BLGĐ, người cung cấp tin báo, tố giác, nhân chứng, v.v. khỏi đối tượng có hành vi bạo lực vì mục đích điều tra để họ có thể thoải mái cung cấp lời khai. Luật của Hàn Quốc cũng quy định không ai được phép từ chối hợp tác với cán bộ điều tra được phái cử đến hiện trường vụ BLGĐ hoặc can thiệp vào các hoạt động của cán bộ điều tra này mà không có lý do chính đáng. Tại Anh, cảnh sát cấp cao đưa ra thông báo cảnh cáo người có hành vi BLGĐ để làm cơ sở cho xử lý nếu tái phạm hành vi bạo lực. Theo đó, người có hành vi BLGĐ sau khi đã nhận được thông báo của cảnh sát nếu tiếp tục có hành vi BLGĐ thì sẽ bị bắt giữ mà không cần có lệnh bắt. Tại Malaysia, nhân viên phúc lợi xã hội ban hành lệnh bảo vệ khẩn cấp sẽ gửi một bản sao của lệnh cho sĩ quan cảnh sát quận, huyện nơi người có hành vi BLGĐ cư trú hoặc bất kỳ cảnh sát nào khác dưới quyền chỉ huy của người đó. Cảnh sát có trách nhiệm thi hành ngay quyết định này. Tại Thụy Điển, Chính phủ coi BLGĐ là trở ngại cấp bách nhất đối với bình đẳng giới. Việc đẩy mạnh công tác phòng, chống BLGĐ được coi là một trong những giải pháp thực hiện bình đẳng giới [16]. Bảo đảm phù hợp với các điều ước quốc tế, cam kết quốc tế và học hỏi kinh nghiệm quốc tế là một trong những cơ sở nền tảng cho việc tạo lập các điều kiện đảm bảo hiệu quả xây dựng và thực thi chính sách pháp luật về phòng, chống BLGĐ ở Viêt Nam hiện nay. Thứ hai, tăng cường hợp tác quốc tế về phòng, chống BLGĐ Tăng cường sự hợp tác khu vực và quốc tế về phòng, chống BLGĐ là hết sức cấp thiết để tận dụng có hiệu quả các cơ hội, hạn chế tác động của các thách thức từ hội nhập quốc tế và từ cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ tư. Hợp tác quốc tế là điều kiện cần để đảm bảo đồng hành đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc, cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau: - Hợp tác quốc tế ở cấp Chính phủ: Chính phủ đàm phán ký các thỏa thuận với các tổ chức quốc tế lớn của Liên hợp quốc như Quỹ Dân số thế giới (UNFPA), Chương trình phát triển (UNDP), Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp (FAO) hoặc tổ chức thuộc Chính phủ các nước như EU, Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) nhằm hỗ trợ tăng cường năng lực xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, hoạch định chính sách, năng lực QLNN về phòng, chống BLGĐ ở Việt Nam phù 194 hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia hoặc triển khai các dự án cấp quốc gia về phòng, chống BLGĐ. - Hợp tác quốc tế giữa các bộ, ngành và địa phương với tổ chức phi chính phủ (NGO) về tuyên truyền nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của công tác phòng, chống BLGĐ trong việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, thực hiện các dự án thí điểm phát triển sinh kế, hỗ trợ đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực trong hoạt động phòng, chống BLGĐ, đặc biệt trong việc bồi dưỡng kỹ năng bảo vệ nạn nhân bị BLGĐ và xây dựng, vận hành có hiệu quả mạng lưới các mô hình phòng, chống BLGĐ. - Hợp tác quốc tế giữa các đơn vị, tổ chức với các tổ chức quốc tế, Quỹ hỗ trợ các nạn nhân bị BLGĐ quốc tế, đặc biệt mở hướng hợp tác với các doanh nghiệp xã hội, mô hình kinh doanh vì mục đích cộng đồng qua các hình thức tổ chức các hội thảo, tham quan học tập các mô hình phòng, chống BLGĐ điển hình trên thế giới, trao đổi kinh nghiệm quản lý hoạt động phòng, chống BLGĐ và phát triển sinh kế hỗ trợ nạn nhân bị BLGĐ. Hợp tác quốc tế nằm trong xu thế phát triển bảo vệ quyền của phụ nữ, quyền trẻ em trên thế giới trong bối cảnh Cách mạng 4.0 chính vì vậy hợp tác quốc tế là yếu tố rất quan trọng, một nội dung của chính sách pháp luật về phòng, chống BLGĐ trong việc phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay và tương lai, trực tiếp giải quyết các vấn đề cấp thiết thời sự về xã hội, hướng đến việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc. 195 KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 Chương 04 đã luận giải 03 quan điểm hoàn thiện chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình như sau: hoàn thiện chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam phải nhằm thể chế hóa đầy đủ quan điểm, đường lối của Đảng về phòng, chống bạo lực gia đình và chiến lược phát triển gia đình Việt Nam; hoàn thiện chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam phải hướng tới xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, minh bạch, khả thi trong phòng, chống bạo lực gia đình; hoàn thiện chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam phải phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam và các chuẩn mực pháp lý quốc tế về quyền con người, về bình đẳng giới. Trên cơ sở quan điểm hoàn thiện chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, tác giả đã đề xuất 04 nhóm giải pháp: nâng cao nhận thức về chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam; xây dựng chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam; tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam; tạo lập các điều kiện đảm bảo hiệu quả xây dựng và thực thi chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khoảng cách chênh lệch giàu nghèo gia tăng và sự tác động của thiên tai, dịch bệnh. Đặc biệt là ảnh hưởng nghiêm trọng của đại dịch SAR-Covid 2019 đòi hỏi chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình cần phải tiếp tục hoàn thiện, đổi mới và phù hợp với từng quốc gia, dân tộc, hạn chế thấp nhất sự xâm phạm quyền con người. Nhất là những đối tượng yếu thế trong xã hội. 196 KẾT LUẬN Bạo lực gia đình gây hậu quả nghiêm trọng cho các nạn nhân và thành viên trong gia đình, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình, gây thiệt hại về kinh tế; gây mất trật tự xã hội, là mầm mống phát sinh tội phạm và tệ nạn xã hội, giảm sút lao động, cản trở sự phát triển và tiến bộ xã hội. Chính vì vậy, phòng, chống bạo lực gia đình có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo quyền con người, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của các thành viên gia đình; đảm bảo sự phát triển lành mạnh của trẻ em; đảm bảo cho hạnh phúc, bình yên trong mỗi gia đình cũng như đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, phòng, chống bạo lực gia đình không phải là nhiệm vụ của riêng một chủ thể nào mà là trách nhiệm của mỗi công dân, từng gia đình, các cơ quan nhà nước và của toàn thể xã hội. Nhiệm vụ phòng, chống BLGĐ chỉ có thể thu được kết quả tốt khi có sự tham gia đông đảo của các giai tầng trong xã hội với một hệ thống các biện pháp đa dạng, đặc biệt, phải có một hệ thống các quan điểm, đường lối, chủ trương, định hướng chỉ đạo phù hợp và kịp thời nhằm đảm bảo từng bước đi thích hợp, vừa mang tính sách lược, vừa thể hiện tính chiến lược trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đặc biệt có ý nghĩa về mặt chính trị xã hội và pháp lý, cũng như ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng. Thông qua quá trình nghiên cứu công phu, luận án đã củng cố thêm các luận cứ khoa học và thực tiễn khẳng định vị trí, vai trò và tầm quan trọng của chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình trong việc quản lý có hiệu quả vấn đề chống bạo lực gia đình, bảo đảm quyền con người, đáp ứng yêu cầu bình đẳng giới, công bằng xã hội, an ninh trật tự hướng đến mục tiêu xây dựng gia đình hạnh phúc, phát triển bền vững kinh tế xã hội của quốc gia. Để công tác phòng, chống chống bạo lực gia đình đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Luận án đã đạt được các mục tiêu đề ra: Thứ nhất, tổng quan chung tình hình nghiên cứu, đã xác định được khung nghiên cứu của đề tài chính sách pháp luật về phòng, chống chống bạo lực gia đình ở Việt Nam, trong đó đã tổng hợp được về cơ bản các kết quả nghiên cứu của Việt Nam và một số kết quả nghiên cứu của thế giới về công tác phòng, chống chống bạo lực gia đình để làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc nghiên cứu của luận án. Thứ hai, hệ thống hóa cơ sở lý luận chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, làm rõ các nội dung cơ bản: các khái niệm, đặc điểm, vai trò của chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam; chủ thể, đối tượng, nội dung chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam; các yếu tố tác động đến chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam. 197 Thứ ba, tổng quan về thực trạng chống bạo lực gia đình và công tác phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay. Nêu và phân tích rõ chính sách pháp luật và thực hiện chính sách về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam. Trên cơ sở về thực trạng chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình làm cơ sở luận cứ để tác giả đưa ra những quan điểm và giải pháp hoàn thiện chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam. Thứ tư, tiếp tục đưa ra những quan điểm và giải pháp hoàn thiện chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam; bao gồm các quan điểm: hoàn thiện chính sách pháp luật về phòng, chống BLGĐ ở Việt Nam phải nhằm thể chế hóa đầy đủ quan điểm, đường lối của Đảng về phòng, chống bạo lực gia đình và chiến lược phát triển gia đình Việt Nam; phải hướng tới xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, minh bạch, khả thi trong phòng, chống bạo lực gia đình. Luận án đã đề xuất 04 giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong xây dựng khung pháp lý và cơ chế chính sách liên ngành trong chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, cụ thể là: Nâng cao nhận thức về chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam; xây dựng chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam hoàn thiện đồng bộ; tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam; tạo lập các điều kiện đảm bảo hiệu quả xây dựng và thực thi chính sách pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam. Đặc biệt trong giải pháp tổ chức thực hiện phải luôn lấy phòng ngừa là chính, nâng cao nhận thức của người dân và huy động sự tham gia của toàn dân trong công tác phòng, chống bạo lực gia đình. Thống nhất nhận thức của công tác phòng, chống chống BLGĐ có hiệu quả mới đảm bảo được yêu cầu phát triển bền vững của quốc gia./. 198 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 1. Nguyễn Thị Thu Trang (2020), Quy định mới Bộ luật hình sự góp phần nâng cao hiệu quả phòng, chống BLGĐ ở Việt Nam, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, tháng 4/2020 2. Nguyễn Thị Thu Trang (2022), Hoàn thiện chính sách pháp luật, phòng, chống BLGĐ. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 14- kỳ 2, tháng 7/2022 3. Nguyễn Thị Thu Trang (2021), Phòng, chống BLGĐ nói riêng và xâm hại trẻ em nói chung - thực trạng và giải pháo, kiến nghị. IJER - International Journal of Educational Research Vol 4 No 06/2021 199 1

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_chinh_sach_phap_luat_ve_phong_chong_bao_luc_gia_dinh.pdf
  • pdfQD_NguyenThiThuTrang.pdf
  • docTrichyeu_NguyenThiThuTrang.doc
  • pdfTT Eng NguyenThiThuTrang.pdf
  • pdfTT NguyenThiThuTrang.pdf
Luận văn liên quan