+ Có chính sách đầu tư tài chính hợp lý vừa xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật, nghiên cứu khoa học phục vụ cho công tác đào tạo, vừa hỗ trợ cho học
viên đảm bảo mức sinh hoạt phí tối thiểu trong thời gian đi học tập trung. Có
chế độ cho học viên đi nghiên cứu thực tế, gắn học với hành, nhận biết được
những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết và những giải pháp khắc phục có hiệu
quả. Tăng cường đầu tư công tác đào tạo, bồi dưỡng, thúc đẩy quá trình trí tuệ
hóa đội ngũ CC, coi đó là cho sự phát triển bền vững, là khâu đột phá có ý
nghĩa nhất đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước (các tỉnh,
thành). Trong đó tập trung chủ yếu vào việc đào tạo, bồi dưỡng CC lãnh đạo,
quản lý, kỹ thuật - công nghệ mũi nhọn, ngành mới phát triển. Khuyến khích
việc học tập cả tại chức và tập trung, trong giờ và ngoài giờ hành chính, ưu
tiên phân công công tác những người học giỏi, có thái độ nghiêm khắc đối với
CC học lười. Có chủ trương ưu tiên đầu tư hợp lý ngân sách nhà nước của các
cấp, các tổ chức, từ các dự án phát triển khoa học - công nghệ, sản xuất cho
công tác đào tạo, bồi dưỡng CC.
+ Thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý theo quy
hoạch ở các ban, các ngành và địa phương. CC chủ chốt từ cấp huyện, thị trở
lên giữ một chức vụ lãnh đạo ở một đơn vị, không quá hai nhiệm kỳ liền.
Khắc phục tư tưởng cục bộ, khép kín trong đơn vị, ngành và địa phương về
CC. Luân chuyển CC lãnh đạo, quản lý bao gồm nhiều loại: giữa các địa bàn,
các địa phương, các huyện, thi, các tỉnh, thành nhằm tạo sự đồng đều về chất
lượng đội ngũ CC. Rèn luyện CC, tăng cường CC cho cấp dưới, cho nơi thiếu
CC và bồi dưỡng CC.
213 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2300 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ công chức hành chính cấp tỉnh theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền ở cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình lãnh đạo cách mạng
186
Việt Nam cũng đặc biệt quan tâm đến vấn đề cán bộ. Người khẳng định:
“CB là cái gốc của mọi công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do
CB tốt hay kém” [60, tr.377].
Những luận điểm cơ bản của các nhà kinh điển và Chủ tịch Hồ Chí
Minh về vấn đề CB là những nguyên lý có giá trị và ý nghĩa lớn trong công
tác xây dựng đội ngũ CB, CC ở CHDCND Lào hiện nay. Để thực hiện được
vai trò của mình, mỗi CC phải đấu tranh chống biểu hiện thờ ơ, coi thường
những đòi hỏi, yêu cầu chính đáng của nhân dân, chống phương pháp làm
việc bàn giấy, hình thức hoàn toàn không phù hợp với bản chất của nhà nước
xã hội chủ nghĩa. Từ đó, đội ngũ CC thuộc cơ quan hành chính cấp tỉnh phải
thể hiện trách nhiệm với công việc được giao một cách chu đáo, trung thực và
giải quyết nhiệm vụ chuyên môn một cách nhanh chóng, không để tình trạng
tắc trách, vô tổ chức, phải chủ động hoàn thành tốt công việc được giao,
chống lại sự đùn đẩy trách nhiệm, quan liêu. Để CC thực hiện tốt công việc,
vấn đề có tính quyết định là tổ chức tốt công tác kiểm tra, đặc biệt là sự kiểm tra
của CC lãnh đạo.
Mục tiêu đặt ra trong công tác đào tạo, bồi dưỡng CC là: đào tạo, bồi
dưỡng, xây dựng đội ngũ CC, chuyên viên, nhân viên kỹ thuật, nghiệp vụ vừa
có phẩm chất đạo đức cách mạng, trung thành với lý tưởng của Đảng, với Tổ
quốc, vừa có trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, năng lực thực tiễn, đạt
được tiêu chuẩn, chức danh CCHC, đảm bảo từng người hoàn thành nhiệm vụ
được giao, thực hiện tốt chức năng trực tiếp tham mưu và phục vụ tỉnh ủy,
từng bước đào tạo, xây dựng đội ngũ CC giỏi về nghiệp vụ.
Hồ Chí Minh đã dạy: “Huấn luyện CB là công việc gốc của Đảng”
[60, tr.269]. Quy mô chất lượng đào tạo quyết định trực tiếp đến việc nâng
cao chất lượng, thực hiện cơ cấu, tiêu chuẩn CC và hiệu quả lãnh đạo của
Đảng, Nhà nước, đến sự thành bại của công cuộc đổi mới. Hiện nay, nhìn
chung trình độ, kiến thức của đội ngũ CC các sở, ban. Ngành của các tỉnh,
187
thành còn nhiều bất cập so với yêu cầu của nhiệm vụ. Đa số CC trưởng thành
trong chiến tranh, không được đào tạo cơ bản về kiến thức chuyên môn, trình
độ quản lý, nên quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện chủ yếu dựa vào kinh
nghiệm. Trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt trong những năm đầu thế kỷ XXI,
trước sự phát triển mạnh mẽ của công cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
và yêu cầu xây dựng phát triển các tỉnh, thành của đất nước, đội ngũ CC của
các tỉnh, thành không chỉ phải có phẩm chất, đạo đức tốt, mà năng lực trình
độ chuyên môn phải giỏi, kiến thức quản lý cao, nhanh nhẹn, dám nghĩ, dám
làm, dám chịu trách nhiệm, đủ sức tranh thủ thời cơ, hạn chế được tác động
tiêu cực của cơ chế KTTT nền kinh tế của CHDCND Lào hội nhập vào nền
kinh tế khu vực và thế giới theo xu thế phát triển chung của thời đại.
Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CC là một quá trình có định hướng theo
yêu cầu nhiệm vụ. Vì vậy, việc xây dựng và đổi mới chất lượng đội ngũ
CC cấp tỉnh nói chung, CCHC cấp tỉnh nói riêng phải gắn với quy hoạch
đào tạo, rèn luyện đối với từng loại CC, từng ngành đảm bảo cho CC làm
tốt chức vụ được giao. Phải đào tạo cho CC có kiến thức, năng lực tương
đối toàn diện. CC chuyên môn, kỹ thuật nghiệp vụ nhất thiết phải có kiến
thức chuyên sâu; phát huy được tiềm năng phát triển trong ngành và các
ngành khác trong cùng nhóm ngành, trong một lĩnh vực công tác. Kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng CC phải đáp ứng cho các hướng chiến lược trọng điểm,
các ngành nghề mới phát triển. Có kế hoạch cụ thể, thiết thực để thực hiện
nghiêm túc chủ trương “đại học hóa” trình độ chuyên môn của đội ngũ CC
các sở, ban, ngành của các tỉnh, thành.
Hiện nay Đảng và Nhà nước Lào có kế hoạch cử những CC giỏi đi đào
tạo các ngành khoa học - kỹ thuật mũi nhọn, công nghệ cao ở các nước phát
triển theo chỉ tiêu kế hoạch nhà nước, theo các dự án phát triển khoa học –
công nghệ và các quan hệ hợp tác song phương, đa phương giữa các cơ sở
đào tạo, nghiên cứu khoa học. Thực tiễn xây dựng và phát triển đặt ra nhiều
188
vấn đề mới mẻ, để tránh tụt hậu xa hơn so với sự phát triển chung của đất
nước, cần xây dựng cho CC một phẩm chất, một tác phong, thói quen ham mê
học tập, rèn luyện, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu các vấn đề nảy sinh trong
cuộc sống, nâng cao trình độ kiến thức mọi mặt. Công tác đào tạo, bồi dưỡng
CC phải được đặt thành nền nếp, chế độ thường xuyên cho mọi cấp, bằng mọi
hình thức, linh hoạt, đêm lại hiệu quả thiết thực. Thời gian học tập ở trường
rất ngắn so với toàn bộ thời gian công tác của mỗi người, nên cùng với việc
đào tạo cơ bản, chính quy, cần đào tạo lại, thường xuyên cập nhật, bổ sung
kiến thức cho CC. CC cấp trên có trách nhiệm thường xuyên bồi dưỡng bồi
dưỡng, giao việc, hướng dẫn và kiểm tra CC cấp dưới trực tiếp. Có chế độ
khuyến khích và bắt buộc đối với việc CC tự học tập, tự nghiên cứu nâng cao
trình độ theo yêu cầu mới.
Để thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CC phải thực hiện
đồng bộ các khâu, từ việc xác định nội dung, chương trình, xây dựng cơ sở
trường lớp, chuẩn bị đội ngũ giáo viên đến việc bố trí sắp xếp CC đảm bảo đã
qua đào tạo, thực hiện từng bước chuẩn hóa đội ngũ CC theo tiêu chuẩn. Phấn
đấu từ năm 2020 trở đi đội ngũ CC của các tỉnh, thành ở CHDCND Lào phải:
tốt nghiệp cao đẳng, đại học và sau đại học về chuyên môn, chuyên ngành, có
bằng cao cấp, cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ về lý luận chính trị - hành chính, về
quản lý nhà nước.
Trong những năm trước mắt, cần tập trung thực hiện tốt một số mặt
công tác sau:
+ Trước hết, phải tiến hành phân loại CC, trong đó có các hình thức đào
tạo bồi dưỡng phù hợp với yêu cầu sử dụng và trình độ CC. Hiện nay, trong
đội ngũ CC đương chức các sở, ban, ngành của các tỉnh, thành, còn có người
chưa được đào tạo cơ bản, hệ thống; có người đã được đào tạo, nhưng đào tạo
theo kiến thức cũ và chưa toàn diện; có người đã được đào tạo theo kiến thức
189
mới, nhưng chưa đầy đủ. Để đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài, cần thực
hiện sự phân loại từ đó có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng phù hợp cho từng loại
CC, tránh sự lãng phí và xáo trộn không cần thiết.
Những người chưa được đào tạo cơ bản, hệ thống hậu hết là tuổi đã
cao, thời gian công tác còn lại không dài, nhưng thực sự là lực lượng CC nòng
cốt để định hướng chính trị và các quyết sách đối với sự phát triển của các
tỉnh, thành. Chỉ cần bồi dưỡng, tập huấn những kiến thức mới dưới dạng
chuyên đề hoặc là các kết quả nghiên cứu khoa học để họ nắm được những
khái niệm, nguyên tắc, nội dung của cơ chế kinh tế mới và tình hình phát triển
của khoa học - công nghệ trong lĩnh vực sản xuất, an ninh, quốc phòng.
Đối với những người đã qua đào tạo, nhưng theo kiến thức cũ và chưa
toàn diện thì tiến hành đào tạo lại dưới hình thức vừa học, vừa làm. Nội dung
cầu tập trung vào những vấn đề về cơ sở lý luận, xu hướng vận động và phát
triển của thế giới, phương pháp tư duy khoa học và nâng cao phẩm chất đào
đức cách mạng của đảng viên. Trong đó cần chú ý đào tạo theo nghiệp vụ,
chuyên sâu phù hợp với chức năng nhiệm vụ của từng loại CC.
Những người đã được đào tạo theo kiến thức mới, nhưng chưa đầy đủ
thi cần được cập nhật thông tin, bổ sung cho những kiến thức đã được học,
bồi dưỡng thêm những kiến thức mới. Đối với những nội dung chưa được học
trong hệ thống trường chính trị - hành chính các tỉnh, thành, đặc biệt là các
CC chuyên môn mới được đào tạo ở các nước tư bản, cần có kế hoạch tập
trung đào tạo, đảm bảo cho CC có kiến thức toàn diện, chú ý đến hệ thống
kiến thức về lý luận cơ bản và nâng cao bản chất giai cấp công nhân, phẩm
chất đạo đức cho CC. Những người thuộc diện dự nguồn bồi dưỡng thành CC
lãnh đạo, quản lý các ban, ngành của các tỉnh, thành, các huyện, tuổi dưới 40,
nhất định phải cử đi học tập trung dài hạn ở Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Lào, ở CHXHCN Việt Nam và CHND Trung Hoa.
+ Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng theo quy hoạch, gắn chặt với quy hoạch
CC. Với phương châm cơ bản, hệ thống và thiết thực, thà ít mà tốt, một mặt,
190
cần tập trung nghiên cứu đổi mới nội dung xây dựng chương trình phù hợp
với từng loại đối tượng; mặt khác, phương thức đào tạo cũng phải có sự đổi
mới và quy chế quản lý đào tạo chặt chẽ. Đối với CC trẻ, dự nguồn thì kiên
quyết không bố trí học các lớp tại chức, mà phải học tập trung tại các trường
chính trị - hành chính tỉnh, thành và Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia. Còn đối với các đồng chí CC có tính chất quá độ thì không cử đi học tập
trung, mà chủ yếu dự các lớp bồi dưỡng, tập huấn. Điều đó không chỉ tiết
kiệm được ngân sách, mà còn xóa bỏ được quan niệm bố trí CC mang tính
tạm thời, từng bước thực hiện được việc chuẩn hóa CC đáp ứng yêu cầu của
thời kỳ mới.
+ Công tác đào tạo, bồi dưỡng CC phải được đặt thành nền nếp, chế độ
thường xuyên cho mọi cấp, bằng nhiều hình thức linh hoạt, hiệu quả thiết thực
các hình thức đào tạo, bồi dưỡng tại trường, tại chức, tích lũy học phần, hội
thảo chuyên đề, hội thảo, thực thi chức trách nhiệm vụ. Phải kiến quyết đấu
tranh khắc phục mọi biểu hiện lười học tập, lười suy nghĩ, chủ quan, thỏa
mãn, dừng lại, chống lối học vẹt, cốt lấy điểm cao, chạy theo bằng cấp giả
tạo. Trong đào tạo CC, phải đặc biệt thực hành các phương châm lý luận gắn
với thực tiễn, nâng cao tri thức gắn với rèn luyện phẩm chất đạo đức, lấy tự
học tập, tự rèn luyện làm chính, khiêm tốn, cầu thị không giấu dốt, tự mãn;
phát huy vai trò tích cực, chủ động của người học. Đẩy mạnh công tác đào
tạo, bồi dưỡng CC là một công việc thường xuyên có tính chất cơ bản, lâu dài.
Đó không chỉ là đầu tư cho phát triển, mà còn là sự thể hiện mục tiêu và động
lực của cuộc cách mạng XHCN - phát huy nguồn lực con người, phát triển
nhân tài của đất nước. Vì vậy, thực hiện tốt giải pháp trên đây vừa sử dụng tốt
đội ngũ CC hiện có của các tỉnh, thành, vừa tạo ra đội ngũ CC có đủ trình độ
đáp ứng với yêu cầu của nhiệm vụ trong những thập niên tới, tránh được tình
trạng “chắp vá”, “ăn đong” trong công tác CC như những năm vừa qua.
191
+ Có chính sách đầu tư tài chính hợp lý vừa xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật, nghiên cứu khoa học phục vụ cho công tác đào tạo, vừa hỗ trợ cho học
viên đảm bảo mức sinh hoạt phí tối thiểu trong thời gian đi học tập trung. Có
chế độ cho học viên đi nghiên cứu thực tế, gắn học với hành, nhận biết được
những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết và những giải pháp khắc phục có hiệu
quả. Tăng cường đầu tư công tác đào tạo, bồi dưỡng, thúc đẩy quá trình trí tuệ
hóa đội ngũ CC, coi đó là cho sự phát triển bền vững, là khâu đột phá có ý
nghĩa nhất đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước (các tỉnh,
thành). Trong đó tập trung chủ yếu vào việc đào tạo, bồi dưỡng CC lãnh đạo,
quản lý, kỹ thuật - công nghệ mũi nhọn, ngành mới phát triển. Khuyến khích
việc học tập cả tại chức và tập trung, trong giờ và ngoài giờ hành chính, ưu
tiên phân công công tác những người học giỏi, có thái độ nghiêm khắc đối với
CC học lười. Có chủ trương ưu tiên đầu tư hợp lý ngân sách nhà nước của các
cấp, các tổ chức, từ các dự án phát triển khoa học - công nghệ, sản xuất cho
công tác đào tạo, bồi dưỡng CC.
+ Thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý theo quy
hoạch ở các ban, các ngành và địa phương. CC chủ chốt từ cấp huyện, thị trở
lên giữ một chức vụ lãnh đạo ở một đơn vị, không quá hai nhiệm kỳ liền.
Khắc phục tư tưởng cục bộ, khép kín trong đơn vị, ngành và địa phương về
CC. Luân chuyển CC lãnh đạo, quản lý bao gồm nhiều loại: giữa các địa bàn,
các địa phương, các huyện, thi, các tỉnh, thành nhằm tạo sự đồng đều về chất
lượng đội ngũ CC. Rèn luyện CC, tăng cường CC cho cấp dưới, cho nơi thiếu
CC và bồi dưỡng CC.
+ Đào tạo, bồi dưỡng CC phải toàn diện cả về lý luận chính trị, phẩm chất
đạo đức, trình độ văn hóa, chuyên môn, ngoại ngữ, tin học và chuyên sâu về
nghiệp vụ văn phòng, năng lực thực tiễn công tác tham mưu, phục vụ cấp tỉnh
theo từng ngạch và chức danh CC được xác định trong tiêu chuẩn CCHC cấp tỉnh.
192
CCHC cấp tỉnh không những phải có trình độ lý luận chính trị, am hiểu
các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các
chủ trương của cấp ủy, có sự hiểu biết cần thiết về quản lý vĩ mô trên một lĩnh
vực mà còn phải nắm vững các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng, phương
thức lãnh đạo của Đảng, quy chế làm việc của cấp ủy, thường trực và am
hiểm sâu về nghiệp vụ của chuyên ngành mình phụ trách.
4.2.2.3. Xây dựng và hoàn thiện các quy định về đánh giá, tuyển dụng
đội ngũ công chức hành chính cấp tỉnh
- Để đổi mới công tác xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh ở CHDCND
Lào, các cấp ủy Đảng và chính quyền các địa phương trên cơ sở quy chế
chung của Trung ương Đảng và Chính phủ, cụ thể hóa cho phù hợp với đặc
điểm tình hình và nhiệm vụ của các địa phương. Cần xây dựng hệ thống các
quy chế chung và cho từng khâu của công CB, CC làm cơ sở cho công tác CB
nói chung, công tác xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh nói riêng.
- Điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện các quy chế đánh giá CC: đánh giá
CC là khâu quan trọng nhất trong tất cả các khâu của công tác xây dựng đội ngũ
CC, vì đánh giá đúng hay sai đều có tác động ảnh hưởng quan trọng đến việc lựa
chọn, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng và đề bạt CC. Coi nhẹ khâu đánh giá
CC, hoặc đánh giá công chức sai không thể đổi mới đội ngũ CC đúng đắn. Đánh
giá công chức đúng giúp cho cấp ủy các tỉnh, thành hiểu được CC một cách toàn
diện, đầy đủ, điểm mạnh, điểm yếu của CC, làm cơ sở cho việc lựa chọn, bố trí
sử dụng, sắp xếp cơ cấu đội ngũ CC phù hợp và có hiệu quả cao. Tuy nhiên,
đánh giá CC lại đang là khâu khó nhất trong công tác xây dựng CC do quan
điểm đánh giá CC khác nhau, do cơ chế quản lý, pháp luật chưa hoàn chỉnh,
chưa đồng bộ, do phương pháp, cách làm còn theo nếp cũ. Muốn đánh giá đúng
đội ngũ CC và từng CC phải dựa vào hệ thống tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá CC,
căn cứ vào nhiệm vụ chính trị cụ thể của từng cấp, từng ngành, đơn vị và cương
vị chức trách của từng người để đánh giá CC.
193
Đánh giá công chức là công việc phức tạp, nhạy cảm, liên quan đến
sinh mệnh chính trị của CC. Phải đổi mới cách nhìn nhận về CC, có phương
pháp xem xét, đánh giá CC với quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, phát
triển. Nắm vững và dựa vào tiêu chuẩn chức danh CC, lấy kết quả hoàn thành
nhiệm vụ được giao làm thước đo đánh giá phẩm chất, năng lực của CC một
cách cụ thể, khoa học, chính xác và thống nhất. Phải đánh giá toàn diện cả
đức và tài, đặc biệt chú trọng về phẩm chất chính trị và năng lực trí tuệ của
CC. Khắc phục tình trạng nhận xét, đánh giá CC một cách hời hợt, chung
chung, trừu tượng, cảm tính chủ quan theo kiểu “ưa ai nên tốt, ghét ai nên
xấu”; xem xét phiến diện, lúc nhấn mạnh mặt này, lúc nhấn mạnh mặt khác;
lẫn lộn giữa điều kiện với tiêu chuẩn, đồng nhất bằng cấp với phẩm chất, năng
lực; cần đánh giá bằng cấp, học vị đúng với ý nghĩa của nó là ở hiệu quả hoàn
thành nhiệm vụ được giao. Người CC tốt nhất thiết phải là người hoàn thành
tốt nhiệm vụ.
Quy chế đánh giá CC phải gắn liền với chế độ phê bình, tự phê bình và
nhận xét CC định kỳ, với từng nhiệm vụ. Cấp ủy và người đứng đầu tổ chức phải
dân chủ, thống nhất đánh giá CC, cấp trên phải thường xuyên nhận xét cấp dưới
trực tiếp, cơ quan quản lý CC các cấp phải tiếp cận với CC, trực tiếp lắng nghe
CC tự nhận xét, lấy ý kiến của cấp ủy, đảng viên và quần chúng, thông báo cho
CC kết luận của cấp ủy về những ưu điểm, khuyết điểm, trong công tác, học tập,
rèn luyện của họ. Cần giảm bớt các thủ tục hành chính máy móc, rườm rà làm
cho việc đánh giá CC nặng nề, thiếu chính xác, không đúng bản chất.
Để đảm bảo tính khách quan, khoa học trong công tác đánh giá CC,
nhất thiết phải có quy chế. Đánh giá CC có liên quan chặt chẽ đến sức mạnh
của tổ chức và quyền lợi, danh dự của CC; do vậy, phải đánh giá thường
xuyên, định kỳ, quán triệt sâu sắc quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử,
cụ thể, tránh định kiến. Phải trên cơ sở tự phê bình và phê bình, thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai nhằm làm rõ ưu điểm. Khuyết điểm
194
về tất cả các mặt phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực, hiệu quả
công tác và chiều hướng phát triển của CC.
Việc đánh giá CC, phải căn cứ vào tiêu chuẩn tiêu chí đánh giá công
chức. Tiêu chuẩn CC là sự cụ thể hóa yêu cầu, nhiệm vụ của mỗi chức danh,
do vậy chỉ những CC nào có đủ các tiêu chuẩn đề ra mới có thể hoàn thành
được nhiệm vụ và cũng chỉ trên cơ sở tiêu chí đánh giá mới đánh giá được
chất lượng công tác của mỗi CC. Tiêu chuẩn công chức là căn cứ đầu tiên,
nhưng không phải là căn cứ duy nhất trong công tác đánh giá CC. Bởi vì trên
thực tế, có một số CC, tuy có đủ các tiêu chuẩn đề ra, nhưng trong thực tế,
chất lượng, hiệu quả công tác chưa cao, do môi trường, điều kiện công tác
không thuận lợi, hoặc trong lĩnh vực chuyên môn họ thể hiện được năng lực
sáng tạo, nhưng có những biểu hiện không bình thường về đạo đức, lối sống.
Do vậy, quy trình đánh giá CC cần phải dựa vào các tiêu chí cụ thể, đánh giá
chất lượng công tác của CC trong mối quan hệ với môi trường và điều kiện công
tác; xem xét cả uy tín đối với quần chúng, với CC thuộc quyền và đồng sự.
Đánh giá CC là một công tác hệ thống, cho nên, đánh giá CC là trách
nhiệm của cấp ủy và tổ chức đảng mà CC sinh hoạt, của người quản lý cấp
trên trực tiếp của CC và cá nhân CC. Quy chế phải vừa đảm bảo tính khách
quan, tính chính xác của việc đánh giá CC, vừa xác định rõ trách nhiệm của
cá nhân và tổ chức đối với sự phát triển của từng CC cũng như sự vững mạnh
của tổ chức, bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
- Điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện quy chế về tuyển dụng, công chức
hành chính: Tuyển dụng CC là một khâu của công tác xây dựng đội ngũ CC
nhằm thu hút được người có đức, có tài, có cơ hội đóng góp tài năng của mình
vào công cuộc xây dựng đất nước. Tuyển dụng đúng không những tạo ra đội
ngũ CC giỏi, mà còn tạo ra nguồn cho việc xây dựng đội ngũ CC của các tỉnh,
thành. Trên phạm vi địa bàn các tỉnh, thành, người có tài, có đức phân bố ở
nhiều nơi, để phát hiện được họ phải có quy chế tuyển dụng công khai, dân chủ,
đảm bảo cho tất cả mọi người có đủ tiêu chuẩn đều được tham gia tuyển chọn.
195
Trên thực tế, mỗi loại CC, mỗi ngành đều có yêu cầu về tiêu chuẩn
tuyển dụng khác nhau, nhưng trong giai đoạn hiện nay phải bám sát những
tiêu chuẩn cơ bản như: Một là, tỏ ra trung thành với sự nghiệp cách mạng của
Đảng NDCM Lào, có hiểu biết lý luận Mác - Lênin, biết vận dụng lý luận vào
điều kiện cụ thể của đất nước từng nơi, từng lúc, hết lòng, hết lòng, hết sức vì
dân phục vụ. Hai là, có mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng, biết tổ chức cho
quần chúng thực hiện đường lối, nhiệm vụ chính trị, chăm lo đến đời sống của
quần chúng, gương mẫu trong công tác, được quần chúng tin yêu và sẵn sàng
phục vụ từng lãnh đạo của CC. Ba là, nắm vững đường lối, chính sách của
Đảng, có năng lực hoàn thành nhiệm vụ, có kiến thức cần thiết về chuyên
môn, tích cực học tập để không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt nhằm nâng
cao năng lực công tác của mình. Bốn là, luôn giữ nghiêm kỷ luật và phục vụ
tổ chức, có tinh thần đấu tranh thẳng thắn, đoàn kết được nội bộ, có thái độ
đối xử công bằng, dân chủ với CC, đảng viên. Năm là, có tư duy mới và
phong cách làm việc khoa học, sâu sát, cầu thị, luôn đổi mới cách nghĩ, cải
tiến cách làm cho có hiệu quả hơn.
Trên cơ sở những định hướng trên, căn cứ vào yêu cầu của nhiệm vụ,
các cơ quan thông báo công khai số lượng CC cần tuyển dụng cho tất cả các
ngành, địa phương trong các tỉnh, thành, các huyện để những người có đủ tiêu
chọn đăng ký thi tuyển. Hết hạn đăng ký, cơ quan quản lý CC lập danh sách,
mời chuyên gia chuẩn bị các nội dung thi tuyển. Tổ chức thi tuyển theo đúng
quy định trên. Đánh giá kết quả, lựa chọn những người đạt điểm cao, kết hợp
với xem xét về lý lịch, nếu đủ tiêu chuẩn thì báo cáo đề nghị tập thể lãnh đạo
cơ quan cho ý kiến và ra quyết định tiếp nhận.
4.2.2.4. Điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện quy chế về bầu cử, bổ
nhiệm, đề bạt và miễn nhiệm công chức hành chính cấp tỉnh
Việc bầu cử cần thực hiện theo đúng quy định của Điều lệ Đảng
NDCM Lào và pháp luật của Nhà nước cũng như Điều lệ của các tổ chức
196
chính trị - xã hội. Những CC do tổ chức đảng giới thiệu vào các cơ quan dân
cử phải được cấp ủy thảo luận kỹ và nhất ký giới thiệu theo đúng quy trình
bầu cử do pháp luật và điều lệ của các tổ chức quy định. Người ứng cử hoặc
được đề cử vào các chức vụ lãnh đạo, quản lý phải đề xuất đề án, chương
trình công tác trong nhiệm kỳ có tính khả thi, cam kết hoàn thành nhiệm vụ,
giữ gìn phẩm chất đạo đức. Thời gian giữ một chức vụ của một cán bộ không
quá hai nhiệm kỳ. Khi hết nhiệm kỳ CC muốn tham gia vào nhiệm kỳ cần tiến
hành tự kiểm điểm, đánh giá trước tập thể về ưu điểm, khuyết điểm, sau đó
mới ứng cử hoặc đề cử vào nhiệm kỳ mới.
Việc bổ nhiệm CC, về nguyên tác, cần căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ và
tiêu chuẩn CC đối với từng chức danh. Phải căn cứ vào công việc để bố trí
người, chứ không phải vì người mà xếp việc. Yêu cầu về nhiệm vụ như thế
nào phải tìm người có đủ tiêu chuẩn đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ đó.
Với quan điểm đó, người được bổ nhiệm không nhất thiết phải là người đang
công tác ở trong cơ quan, mà có thể là người từ nơi khác đến. Tuy nhiên, để
có cơ sở bổ nhiệm chính xác thì những người được bổ nhiệm lên chức vụ chủ
chốt phải thông qua một kỳ sát hạch về kiến thức, sở trường... trước khi bổ
nhiệm theo một quy chế thống nhất. Và, để đảm bảo cho việc bổ nhiệm được
chính xác, trước khi bổ nhiệm chính thức, CC cần qua một thời gian tập sự
chức vụ lãnh đạo, quản lý được quy định cụ thể cho từng loại chức vụ.
Người được đề nghị bổ nhiệm phải có đủ các tiêu chuẩn theo chức danh
đã được quy định, được tổ chức đảng và các cơ quan có thẩm quyền nhất trí
đề nghị, đảm bảo có đủ hồ sơ CC, lý lịch rõ ràng, phải được cơ quan chức
năng thẩm tra, xác minh và kết luận. Kiên quyết không đề nghị bổ nhiệm
những CC lý lịch không rõ ràng, hoặc đang có những vấn đề nghi vấn, chưa
được các cấp có thẩm quyền kết luận.
Việc bổ nhiệm CC cấp tỉnh có thể dựa trên nguồn CC tại chỗ, nhưng
cũng có thể bổ nhiệm từ nguồn nhận ở nơi khác, nhưng, đều phải tuân thủ quy
trình chặt chẽ. Cụ thể là Ban tổ chức tỉnh ủy phối hợp chặt chẽ với bộ phận
197
CC của các sở, ban, ngành, lập văn bản trình Ban thường vụ tỉnh ủy về chủ
trương, số lượng, dự kiến vị trí công tác đối với CC sẽ được bổ nhiệm. Sau
khi được cấp có thẩm quyền đồng ý, CC lãnh đạo của cơ quan đề xuất nhân
sự cụ thể. Số lượng đề xuất nên nhiều hơn số lượng dự kiến bổ nhiệm để có
cơ sở xem xét, so sánh. Tập thể lãnh đạo của cơ quan nghiên cứu, phân tích,
đánh giá từng nhân sự và tổ chức lấy ý kiến của CC chủ chốt. Người đứng
đầu tổ chức Đảng cùng tập thể lãnh đạo phân tích các ý kiến, xác minh những
vấn đề nảy sinh (nếu có), sau đó bỏ phiếu tín nhiệm và có nhận xét bằng văn
bản, làm tờ trình đề nghị cấp trên bổ nhiệm.
Cung với việc bổ nhiệm phải có quy chế về miễn nhiệm đối với CC
không hoàn thành nhiệm vụ. Trong thực tế, công tác xây dựng đội ngũ CC luôn
phải chịu trách tác động của quy luật phát triển đi đối với đào thải. Trong quá
trình hoạt động, dưới tác động của môi trường xã hội và các yếu tố khác, con
người có lúc không làm chủ được bản thân, dẫn đến vi phạm sai lầm, khuyết
điểm. cũng có những CC ở vị trí, lĩnh vực công tác này hoàn thành tốt, nhưng
sang lĩnh vực công tác khác, vị trí khác thì chất lượng công tác lại kém. Chính vì
vậy, không nên quan điểm cứng nhắc là đã bổ nhiệm rồi thì cứ làm suốt đời, mà
nên coi việc miễn nhiệm cũng là tất yếu, bình thường. Nhưng để bảo đảm sự
chặt chẽ và chính xác, đề phòng sự lợi dụng để thực hiện những ý đồ cá nhân,
phải thực hiện theo đúng quy chế, trong đó coi trọng sự lãnh đạo của tập thể. Nếu
như việc bổ nhiệm CC phải có ý kiến của tập thể và phê bình chuẩn cấp có thẩm
quyền, thì việc miễn nhiệm cũng phải được tiến hành theo trình tự từ dưới lên trên
và phải có ý kiến của tập thể lãnh đạo thì cấp có thẩm quyền mới phê duyệt.
4.2.2.5. Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát công chức
hành chính cấp tỉnh
Quản lý cán bộ, công chức chặt chẽ có ý nghĩa quan trọng trong quá
trình xây dựng và phát triển đội ngũ CC của Đảng và Nhà nước. Quản lý CC
có nội dung rất rộng lớn, nhưng cần đi sâu vào những nội dung chính là: bố
198
trí, phân công công tác đối với CC; khen thưởng, kỷ luật CC; thực hiện chế
độ, chính sách CC; kiểm tra CC; giải quyết khiếu nại, tố cáo CC.
Xây dựng các quy chế công tác quản lý CC là một nội dung quan trọng
trong công tác xây dựng đội ngũ CC. Làm tốt vấn đề này có ý nghĩa cơ bản
và lâu dài. Trước hết, đó là sự thể hiện việc chấp hành nghiêm túc nguyên
tác công tác CB, CC, đảm bảo sự lãnh đạo tập trung thống nhất của cấp ủy
đảng các cấp và trách nhiệm của các cơ quan chuyên môn, của CB, CC,
đảng viên đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn CC nói chung và
CCHC cấp tỉnh nói riêng của CHDCND Lào hiện nay. Đồng thời, đây là cơ
sở làm cho việc xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh từng bước đi vào nề nếp.
Các tổ chức đảng, chính quyền chuyên môn đoàn thể quần chúng, căn cứ
vào quy chế đã xác định thực hiện đúng quy trình, đánh giá khách quan,
toàn diện đối với mỗi người CC, đảng viện, làm cơ sở để xác định thực
chất trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức của CC, đảm bảo cho quá trình
bố trí, sắp xếp CC đúng người, đúng việc, tạo điều kiện cho CC phát huy
được năng lực cá nhân; chống những biểu hiện bè phái, cục bộ trong việc
xây dựng đội ngũ CC. Mặt khác, đó còn là cơ sở để mỗi CC có kế hoạch tự
phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện mọi mặt, nâng cao trình độ của bản thân, tạo
điều kiện thuận lợi cho công tác tuyển chọn, đảm bảo cho những năm tới
đội ngũ CC cấp tỉnh ở các tỉnh, thành của CHDCND Lào có trình độ về lý
luận chính trị - hành chính, chuyên môn nghiệp vụ đủ sức đáp ứng yêu cầu
đổi mới đất nước ở CHDCND Lào hiện nay.
4.2.2.6.. Đổi mới chế độ, chính sách đãi ngộ công chức hành chính
cấp tỉnh
Trong điều kiện kinh tế thị trường, chế độ, chính sách đối với CC có
nhiều điểm mới cần được nghiên cứu giải quyết kịp thời. Cơ chế quản lý mới
càng đòi hỏi phải có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với CC có tài, có công
hiến sâu sắc.
199
Đảng NDCM Lào luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của chế độ, chính sách
đãi ngộ CB, CC, Đại hội lần thứ IX của Đảng NDCM Lào đã nhấn mạnh rằng
“Đổi mới chế độ tiền lương, tiền trợ cấp, chính sách đãi ngộ về vật chất và tinh
thần đối với CB, CC, quân đội, công an cho phù hợp với giá sinh hoạt trong điều
kiện mới, đảm bảo cho họ yên tâm phấn đấu thực hiện nghiệp vụ” [38, tr.56].
Chính sách đãi ngộ CC có ý nghĩa quan trọng đối với công tác xây dựng
đội ngũ CC. Đó là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách xã hội của
Đảng và Nhà nước nhằm phát huy nhân tố con người trong việc thực hiện mục
tiêu cách mạng. Chính sách đối với CC liên quan trực tiếp tới việc xây dựng đội
ngũ CC trong giai đoạn cách mạng mới. Công tác chính sách đối với CC không
chỉ là chính sách đãi ngộ, mà cần đổi mới tư duy, mở rộng ra nhiều mặt, nhiều
mối quan hệ khác vừa đảm bảo tính công bằng, vừa nâng cao vị thế xã hội của
CC. Có như vậy, chính sách mới phát huy được hiệu quả tích cực, góp phần
nâng cao chất lượng đội ngũ CC nói chung và đội ngũ CCHC cấp tỉnh nói riêng,
động viên CC tu dưỡng, rèn luyện, yêu tâm thực hiện nhiệm vụ và thu hút được
tài năng vào tổ chức bộ máy của các tỉnh, thành ở CHDCND Lào.
Ở địa phương, nhất là cấp tỉnh của NCHDCND Lào hiện nay, chế độ
chính sách đối với CC còn ở mức thấp, chưa bảo đảm sự tái tạo sức lao động,
và chưa tương xứng với những cống hiến của công chức thể hiện rõ nhất ở
chế độ tiền lương còn nhiều bất hợp lý.
Việc nghiên cứu xây dựng và chấp hành chính sách CC phải quán triệt
quan điểm giữ vững công tác tổ chức của Đảng. Đặt chính sách CC trong hệ
thống chính sách chung của Đảng và Nhà nước, là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị đối với CC. Đồng thời phát huy sự chủ động, sáng tạo, tinh thần tự
lực, tự cường của các cấp, các ngành trong các tỉnh, thành, chăm lo thực hiện
chính sách CC và gia đình CC. Phát huy thành tựu trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước và khắc phục được mặt trái của nền KTTT, của chính
sách mở cửa để giải quyết các vấn đề của chính sách CC một cách nhất quán,
200
công bằng, có lý, có tình, giữ vững chất lượng CC, nhất là chất lượng chính trị,
chất lượng về nghiệp vụ chuyên môn.
Về chính sách sử dụng CC, việc bố trí, sử dụng CC đúng tiêu chuẩn, đúng
ngành; CC phải được đào tạo, bồi dưỡng trước khi bố trí công tác. Đề bạt, cất
nhắc CC đúng lúc, đúng người, đúng việc, đảm bảo đoàn kết nội bộ, giữ gìn bảo
vệ được CC, tạo điều kiện cho CC cống hiến, trưởng thành. Kịp thời bồi dưỡng,
đề bạt, giúp đỡ, khen thưởng đúng mức những CC có thành tích, xử lý kỷ luật
nghiêm minh những CC vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật nhà nước. Trong thời
gian trước mắt, các tỉnh ủy, thành ủy cần tập trung nghiên cứu, xây dựng cơ chế,
chính sách để thực hiện chủ trương đổi mới cơ cấu, diện bố trí đội ngũ CC, đảm
bảo quyền lợi về vật chất và tinh thần của các CC diện bố trí để sau khi điều
chỉnh không bị hẫng hụt, làm cho CC thông suốt, tự nguyện chuyển diện bố trí
theo nhu cầu của tổ chức, ổn định và tiếp tục phát huy tốt nghề nghiệp chuyên
môn của mình. Mặt khác, cần có những chính sách đối với CC qua rèn luyện
trưởng thành, có nhiều năm cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của
dân tộc thuộc diện bố trí nghỉ hưu, tạo điều kiện thuận lợi cho họ sớm hòa nhập
với đời sống xã hội trong điều kiện kinh tế vận hành theo cơ chế thị thường.
Về chính sách đãi ngộ CC, cần vận dụng thực hiện đồng bộ các chính
sách đãi ngộ của Đảng và Nhà nước, đảm bảo điều kiện làm việc và cuộc sống
của CC, phù hợp với khả năng cho phép của nền kinh tế. Xóa bỏ các chế độ
chính sách mang tính bình quân và các quy định tạo ra đặc quyền, đặc lợi. Nhà
nước nghiên cứu đổi mới, hoàn thiện chế độ tiền lương theo hướng thiết kế tiền
lương theo chức vụ, thực hiện đầy đủ nguyên tác phân phối theo lao động.
Từng bước hoàn thiện chế độ tiền lương, có quy định cụ thể đảm bảo
cho CC khi làm việc cũng như khi nghỉ hưu có cuộc sống ổn định, tương
xứng với mặt bằng chung, có chính sách về nhà ở, chế độ thăm hỏi... có như
vậy công chức mới yên tâm công tác, hạn chế phát sinh tiêu cực trong thực
hành công vụ. Trong những năm qua Nhà nước đã thực hiện điều chỉnh chế
201
độ tiền lương CC, năm 2012 Nhà nước đã tăng mức lương tối thiểu từ
620.000 kíp/tháng cộng với tiền trợ cấp sinh hoạt 760.000 kíp/tháng cho mỗi
CCNN, nhưng mức sống của CC vẫn chưa đảm bảo, chưa đủ khuyến khích
đội ngũ CC giành toàn bộ thời gian cống hiến cho công việc mình phụ trách,
nhất là CC làm việc trong lĩnh vực tổ chức Đảng, tổ chức chính trị - xã hội.
CC làm thêm công việc ngoài chức trách quy định được hưởng phụ
cấp. Khuyến khích việc giảm biên chế bằng cách tăng thu nhập cho những
người còn lại, phải kiêm nhiệm thêm công việc. Có hình thức biểu dương về
tinh thần và thưởng vật chất đối với những người có sáng kiến có giá trị, đóng
góp xuất sắc. Những người có cống hiến lớn, tỏ ra năng lực công tác giỏi
được đề bạt lên cương vị cao hơn. Có chính sách khuyến khích CC học tập,
nâng cao trình độ. Thống nhất chế độ cung cấp thông tin, chế độ đi tham
quan, học tập, kinh phí cho các trường đào tạo CC và đài thọ cho CC đi học.
Với phương châm đảm bảo cho mỗi CC có thể sống bằng nghề nghiệp
của mình, giải pháp về chính sách đãi ngộ phải đặt đến mức giúp cho CC yên
tâm đầu tư thời gian, trí tuệ nghiên cứu, hoạch định chính sách, biện pháp
lãnh đạo, quản lý xây dựng phát triển đất nước; tăng cường thời gian bám sát,
nắm cơ sở, tham gia tích cực vào phong trào cách mạng của quần chúng. Và
điều không kém phần quan trọng là chính sách đãi ngộ phải góp phần tạo sức
“đề kháng” chống lại thủ đoạn lôi kéo, mua chuộc bằng lợi ích kinh tế của chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, khắc phục tình trạng tham nhũng, tham
ô đang diễn ra gay gắt hiện nay.
Kết luận chương 4
Xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh theo yêu cầu xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN ở CHDCND Lào hiện nay cần quán triệt các quan điểm có
ý nghĩa phương pháp luận chỉ đạo quá trình này, đó là xây dựng đội ngũ
CCHC cấp tỉnh phải dựa trên quan điểm của Đảng và Nhà nước Lào về xây
202
dựng nhà nước pháp quyền; về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; gắn với
công tác xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước và đổi mới cơ chế, chính sách
đối với công chức; trên cơ sở chiến lược phát triển nguồn nhân lực của từng
địa phương; đáp ứng yêu cầu về chất lượng đội ngũ CCHC trong thời kỳ đổi
mới; gắn với quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng công chức đồng thời bám sát
yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Trên cơ sở những quan điểm nêu trên cần thực hiện đồng bộ các giải
pháp chung là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng
đội ngũ CCHC cấp tỉnh; nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, phong cách
làm việc; tăng cường giáo dục pháp luật, kết hợp giáo dục pháp luật với giáo
dục tư tưởng đạo đức cho đội ngũ CCHC cấp tỉnh. Mặt khác, cũng cần
khẩn trương thực hiện các giải pháp cụ thể gắn với nội dung của công tác
cán bộ, bao gồm xây dựng và thực hiện tốt quy hoạch CCHC cấp tỉnh; đổi
mới và nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng; hoàn thiện các
quy định về đánh giá, tuyển dụng; điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện quy chế
bầu cử, bổ nhiệm, đề bạt, miễn nhiệm công chức; tăng cường công tác quản
lý, kiểm tra, giám sát công chức; đổi mới chế độ, chính sách đối với công
chức hành chính cấp tỉnh.
Thực hiện đồng bộ những giải pháp chung và giải pháp cụ thể nêu trên
vừa là những giải pháp có tính chất chiến lược, nền tảng vừa là những vấn đề cấp
bách trong xây dựng đội ngũ CB, CC nói chung và CCHC cấp tỉnh nói riêng đáp
ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền ở CHDCND Lào hiện nay.
203
KẾT LUẬN
1. Trong quá trình đổi mới đất nước ở CHDCND Lào hiện nay, cùng
với nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế - xã hội vì mục tiêu dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, thì công tác cán bộ, xây dựng đội
ngũ CC và xây dựng đội CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào nói riêng là nhiệm
vụ cấp bách. Phải xây dựng được đội ngũ CC làm việc trong cơ quan hành
chính cấp tỉnh ở CHDCND Lào hiện nay ngang tầm với nhiệm vụ chính trị
của công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN.
Qua thực tiễn cách mạng của mình, các Đảng Cộng sản và công nhân
quốc tế (trước đây và hiện nay) đều khẳng định vai trò quan trọng của CC và
công tác cán bộ. Đảng NDCM Lào thường xuyên quan tâm công tác cán bộ
nói chung và công tác xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh trong điều kiện xây
dựng NNPQ ở CHDCND Lào nói riêng.
CC và công tác xây dung đội ngũ CC là một trong những vấn đề quan
trọng, quyết định đối với mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, đối với việc
nâng cao chất lượng lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đảng Cộng sản chân chính chỉ làm tròn và thực sự xứng đáng với vai
trò là hạt nhân chính trị lãnh đạo toàn xã hội, bộ tham mưu chiến đấu của giai
cấp công nhân, khi Đảng có đường lối chính trị đúng và đồng thời xây dựng
được một đội ngũ CC có đủ phẩm chất, trí tuệ và năng lực sáng tạo tham gia
xây dựng đường lối và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó.
2. Thực tiễn cách mạng ở CHDCND Lào mấy chục năm qua đã chứng
minh. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng NDCM Lào rất coi trọng, chú ý
quan tâm và có nhiều chủ trương biện pháp tích cực để giải quyết vấn đề CB,
CC và công tác CB, CC, nhất là từ sau Đại hội IV của Đảng đến nay. Do vậy,
Đảng NDCM Lào đã đạt nhiều thành tựu trong công tác xây dung đội ngũ
CC, đáp ứng được yêu cầu to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành
204
độc lập thống nhất tổ quốc và trưởng thành một bước trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, tiếp cận một bước trong điều kiện chuyển sang cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN.
Từ sau Đại hội IV của Đảng đến nay, công tác CB đã thu được một số kết
quả, đã có những phát triển, trưởng thành, đổi mới. đội ngũ CC, nhất là CC làm
công tác trong cơ quan hành chính nói chung và CClàm công tác cơ quan hành
chính cấp tỉnh ở CHDCND Lào nói riêng, đã được rèn luyện thử thách, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần độc lập tự chủ, kiên định với lý tưởng và
mục tiêu định hướng XHCN; trình độ các mặt được nâng cao. Phần lớn cán bộ
đã nhạy bén học tập cái mới, đã bắt đầu có sự hiểu biết, tích lũy kinh nghiệm
mới về KTTT, kinh tế đối ngoại, về pháp luật, về quản lý vĩ mô, vi mô.
Nhờ vậy, đội ngũ CC đã có sự trưởng thành về nhận thức, về tư duy, về
nắm vững và vận dụng đường lối chính sách của Đảng, tạo cơ sở cho sự thống
nhất cao hơn cho sự nghiệp đổi mới của đất nước. Tuy nhiên công tác xây
dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh còn tồn tại nhiều khuyết điểm, nhược điểm, còn
bất cập so với yêu cầu nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới. Cần nhấn
mạnh rằng, việc chậm bố trí đúng sự chuyển tiếp hạt nhân lãnh đạo sự hẫng
hụt đội ngũ CB, CC là nguyên nhân trực tiếp làm cho sự lãnh đạo của Đảng
trong những năm gần đây không đáp ứng được đòi hỏi của tình hình mới.
Phẩm chất và năng lực của một bộ phận không nhỏ CB, CC còn khoảng cách
xa so với yêu cầu nhiệm vụ kinh tế, xã hội, một bộ phận năng lực quá yếu
kém không đủ sức đảm đương nhiệm vụ, không xử lý tốt những vấn đề mới
nảy sinh, gặp nhiều vấp váp trong thực tiễn. Nhìn chung các nội dung của
công tác xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh còn trì trệ chậm được đổi mới.
Tình hình trên đã và đang gây trở ngại không ít cho việc thực hiện thắng lợi
công cuộc đổi mới.
3. Thực trạng trên đây của đội ngũ CC hành chính nói chung và đội ngũ
CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào nói riêng chủ yếu là nguyên nhân yếu kém
205
trong việc thực hiện công tác xây dựng đội ngũ CCHC của các tỉnh, thành
phố. Yêu cầu nhiệm vụ chính trị, những mục tiêu kinh tế, xã hội ở CHDCND
Lào hoàn thành đến mức nào, điều đó phụ thuộc phần lớn vào kết quả của
việc tiếp tục đổi mới công tác xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh trên tất cả các
khâu quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng đánh giá, lựa chọn, bố trí, sử dụng và đề
bạt đúng CB, CC, thực hiện tốt chế độ chính sách đối với CCHC.
Trách nhiệm xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh, trước hết thuộc về các
tỉnh Đảng bộ - thành Đảng bộ toàn quốc, mà trực tiếp là Ban Thường vụ các
tỉnh, thành phố. Điều kiện để làm tốt trách nhiệm đó là: Phải có động cơ
trong sáng, thực sự cầu thị đổi mới, phải khách quan, trung thực trong công
tác xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh nhất là các khâu đánh giá, lựa chọn, bố
trí, sử dụng và đề bạt CC. Phải có kiến thức và năng lực sáng tạo thực hiện
đồng bộ các giải pháp để quy hoạch CC, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đánh
giá, lựa chọn, sắp xếp, đề bạt đúng người, đúng việc, đúng CC và bố trí sử
dụng CC một cách có hiệu quả cao, phẩm chất tài năng của cán bộ, phát huy
cao nhất sức mạnh tổng hợp của cả đội ngũ CC nói chung và đội ngũ CC
làm công tác cơ quan hành chính cấp tỉnh trong toàn quốc.
206
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
1. Vông Sa Văn Xay Nha Vông (2013), "Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
ở Lào - Thực trạng và giải pháp", Tạp chí lý luận chính trị, (10).
2. Vông Sa Văn Xay Nha Vông (2013), "Quan điểm xây dựng đội ngũ công
chức hành chính cấp tỉnh ở Lào hiện nay", Tạp chí Thông tin khoa học
chính trị - Hành chính, (8).
207
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đức Ái (2003), Nâng cao năng lực quản lý nhà nước của đội ngũ
cán bộ chủ chốt xã vùng cao phía Bắc, thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Ban tổ chức - cán bộ Chính phủ (1993), Chế độ công chức và luật công
chức của các nước trên thế giới, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
3. Ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Tài liệu bồi
dưỡng lý luận và nghiệp vụ công tác tổ chức, cán bộ, tập I, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
4. Ban Tổ chức Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2004), Hướng
dẫn số 358/BTCTWĐ ngày 2/7/2004 về tổ chức thực hiện quy định
của Bộ Chính trị Trung ương Đảng về đánh giá phân loại cán bộ.
5. Ban Tổ chức Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2004), Hướng
dẫn số 359/BTCTWĐ ngày 2/7/2004 về tổ chức thực hiện quy định
của Bộ Chính trị Trung ương Đảng về bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ.
6. Ban Tổ chức Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2006), Nghị
quyết Hội nghị công tác tổ chức toàn quốc lần thứ 8, Nxb Ban Tổ
chức Trung ương Đảng, Viêng Chăn.
7. Ban Tổ chức Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2008), Báo cáo
công tác tổ chức, xây dựng Đảng, công tác cán bộ năm 2007 - 2008
và kế hoạch năm 2008 - 2009.
8. Ban Tổ chức Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2009), Tổng kết
công tác tổ chức, xây dựng Đảng, cán bộ năm 2008 - 2009 và kế hoạch
năm 2009 - 2010.20
9. Cao Khoa Bảng (Chủ biên), (2008), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt của hệ thống chính trị cấp tỉnh, thành phố (qua kinh
nghiệm của Hà Nội), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2003), Quy
định số 01/BCTWĐ ngày 7/7/2003 về đánh giá phân loại cán bộ.
208
11. Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2003), Quy định
số 02/BCTTWĐ ngày 14/7/2003 về bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ.
12. Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2003), Quy
định số 04/BCTTWĐ ngày 22/7/2003 về tiêu chuẩn cán bộ.
13. Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2006), Quy
định số 02/BCTTWĐ ngày 17/10/2006 về việc quản lý cán bộ.
14. Cay Xỏn Phôm Vi Hản (1987), Toàn tập, tập 2, Nxb CHDCND Lào,
Viêng Chăn.
15. Cay Xỏn Phôm Vi Hản (2001), Bài phát biểu tại Hội nghị công tác tổ
chức toàn quốc lần thứ 7 (17/12/1991), Nxb Ban Tổ chức Trung
ương Đảng, Viêng Chăn.
16. Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào 30 năm (1975 - 2005), Nxb Ban Tuyên
giáo Trung ương Đảng, Viêng Chăn.
17. Trịnh Cư, Nguyễn Duy Hùng... (Đồng chủ biên) (2009), Kinh nghiệm xây
dựng đội ngũ cán bộ ở Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đỗ Minh Cương (2009), Quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp
hành trung ương Đảng khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
209
24. Đảng Cộng sản Việt Nam - Ban Chấp hành Trung ương - Ban Tổ chức
(1999), Một số quyết định, quy định, quy chế, hướng dẫn về công
tác cán bộ, Tạp chí Xây dựng Đảng, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đảng IX, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IV, Nxb CHDCND Lào, Viêng Chăn.
29. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1988), Văn kiện Hội nghị lần thứ 6Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IV, Nxb CHDCND Lào, Viêng Chăn.
30. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ V, Nxb CHDCND Lào, Viêng Chăn.
31. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1995), Nghị quyết Hội nghị công tác cán
bộ toàn quốc, Nxb Tạp chí Xây dựng Đảng, Viêng Chăn.
32. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI, Nxb CHDCND Lào, Viêng Chăn.
33. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2001), Chiến lược nguồn lực con người
đến năm 2020, Nxb Ban Tổ chức Trung ương Đảng, Vụ Nguồn lực
con người.
34. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII, Nxb CHDCND Lào, Viêng Chăn.
35. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2005), Chiến lược lãnh đạo đối với công
tác tổ chức, xây dựng Đảng, công tác cán bộ, Nxb Ban Tổ chức
Trung ương Đảng, Viêng Chăn.
210
36. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII, Nxb CHDCND Lào, Viêng Chăn.
37. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2008), Báo cáo về kiện toàn tổ chức cơ
sở đảng và xây dựng chi bộ đảng vững mạnh 2 năm vừa qua tại Hội
nghị công tác tổ chức năm 2008.
38. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nxb CHDCND Lào, Viêng Chăn.
39. Đỉnh Bùi Kim Đỉnh (Chủ biên) (2009), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo công cuộc đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Nguyễn Bá Dương (Chủ biên) (2002), Những vấn đề cơ bản của khoa học
tổ chức, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
41. Tô Tử Hạ (1998), Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Tô Tử Hạ (Chủ biên) (2002), Cẩm nang cán bộ làm công tác tổ chức nhà
nước, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội.
43. Phạm Minh Hạc (2001), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào
công nghiệp hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Trần Đình Hoan (Chủ biên) (2008), Quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ
thống chính trị ở Việt Nam giai đoạn 2005 - 2010, Nxb CTQG, Hà Nội.
45. Trần Đình Hoan (Chủ biên) (2009), Đánh giá, quy hoạch, luân chuyển
cán bộ lãnh đạo, quản lý, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Lào (2006), Quy hoạch số
624/HVCT-HCQG ngày 15/12/2005.
47. Học viện Hành chính quốc gia (1994), Những vấn đề về tổ chức nhà nước
và công vụ, công chức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Học viện Hành chính quốc gia (1998), Công vụ - công chức, Nxb giáo dục.
49. Bùi Kim Hồng (Biên soạn) (2009), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác tổ
chức, cán bộ, Nxb CTQG, Hà Nội.
211
50. Nguyễn Đắc Hưng (2007), Phát triển nhân tài chấn hưng đất nước, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Nguyễn Đắc Hưng (2008), Trí thức Việt Nam tiến cùng thời đại, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Khăm My NÀO TOA GIANG, (Chủ biên) (2010), Chủ tịch Cay Sỏn
PHÔM VI HẢN, mãi mãi tồn tại trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại
của nhân dân Lào các dân tộc, Nxb Nhà nước Viêng Chăn.
53. Khăm Tày Xỉ Phăn Đon (1995), Bài phát biểu tại Hội nghị công tác cán
bộ toàn quốc.
54. Nguyễn Hải Khoát (1991), Những khía cạnh tâm lý của công tác cán bộ,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
55. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
56. V.I.Lênin (1975), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
57. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
58. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
59. Đinh Văn Mậu, Phạm Hồng Thái, v.v. (1997), Chính trị học đại cương,
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
60. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Hồ Chí Minh (2000), Di chúc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
62. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Đỗ Hoài Nam (Chủ biên) (2008), Vị trí cầm quyền và vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều kiện mới, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
65. Nguyễn Văn Ngừng (2009), Tác động của kinh tế thị trường và hội nhập
kinh tế quốc tế đối với quốc phòng, an ninh ở Việt Nam, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
66. Hoài Nguyên (2008), Lào đất nước - con người, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
212
67. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
68. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. Nguyễn Trọng Phúc (1999), Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. Thang Văn Phúc, (Chủ biên) (2004), Hệ thống công vụ và xu hướng cải
cách của một số nước trên thế giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
71. TS. Thành Văn Phúc, TS. Nguyễn Minh Phương, (Chủ biên) (2005), Cơ
sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, Nxb
Chính quốc gia, Hà Nội.
72. Quyết định 874/TTg ngày 20/11/1996 của Thủ tướng Chính Phủ về công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công chức nhà nước.
73. Chu Xuân Rỵ (Chủ biên) (1996), Điều tra thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt
trong hệ thống chính trị đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
74. Trần Xuân Sầm (Chủ biên) (1998), Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ
lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
75. Bùi Ngọc Thanh (2008), Một số vấn đề về xây dựng và công tác cán bộ,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
76. Trần Hương Thanh, (Chủ biên) (2010), Các biện pháp tâm lý nâng cao
tính tích cực lao động của cán bộ, công chức trong các cơ quan
hành chính nhà nước hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
77. Phạm Văn Thọ (2001), Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo quản lý trong hệ thống chính trị và
trung tâm chính trị hiện nay, Đề tài cấp Bộ.
78. Lê Minh Thông, Nguyễn Danh Châu (2009), Kinh nghiệm công tác nhân
sự của một số nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
79. Thủ tướng Chính phủ (2002), Các quy định về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
213
80. Lê Quang Thưởng (Chủ nhiệm) (2002), Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh
đạo cấp tỉnh, thành phố trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay.
81. Nguyễn Phú Trọng (Chủ biên) (2003), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước (1997 - 2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
82. Đoàn Trọng Truyến (1997), Hành chính học đại cương, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
83. Nguyễn Minh Tuấn, (Chủ biên) (2012), Tiếp tục đổi mới đồng bộ công
tác cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Vụ cải cách hành chính nhà nước, Bộ Nội vụ (2011), Tìm hiểu văn kiện Đại
hội Đảng NDCM Lào lần thứ IX năm 2011, Nxb Quốc gia.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xaynhavong_la_1__2194.pdf