Chi ra những yếu tố của tư tương hiện sinh trong văn xuôi Việt Nam đương đại
cũng như phương thức nghệ thuật tiêu biêu đê thê hiện tinh thân hiện sinh, luận án đa
chi ra những khả dĩ và hạn chế của các nhà văn Việt Nam. Tuy nhiên, văn xuôi Việt
Nam vẫn đang trên con đường đôi mới đê đi đến giới hạn triệt đê hơn nữa, sẽ con
nhiều tác phâm mới ra đời thê hiện tâm thức thời đại, cung với đó là nhiều phương
thức nghệ thuật khác được vận dung. Vì vậy sẽ con nhiều hứa hẹn thú vị và bất ngờ
đoi hoi cân được tiếp tuc nghiên cứu về khuynh hướng này trong văn xuôi Việt Nam đương đại.
168 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 4298 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh trong văn xuôi Việt Nam đương đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở tầng dưới, chuyện về người bố bị cùm giải đi trong
đêm, chuyện lần đầu ngủ với gái điếm Như vậy, nhiều lớp thời gian được tái hiện
như vòng xoáy trôn ốc sâu hun hút. Mỗi vòng xoáy, mỗi lớp thời gian là một cái tôi
khi sợ hãi, yếu đuối, khi hoài nghi đơn độc, khi thù hận điên cuồng.
Cách xây dựng thời gian sai trật tự biên niên phổ biến trong văn xuôi Việt Nam
đương đại cho thấy sự linh hoạt trong nghệ thuật trần thuật của các tác giả. Tuy
nhiên, để xây dựng nên kiểu thời gian mang tính huyền thoại, thủ pháp đảo ngược
thời gian không chỉ được sử dụng ở một vài lớp sự kiện mà cần thể hiện với mức độ
dày đặc đến mức gây rối loạn trong việc xác định tiêu điểm thời gian. Thời gian hiện
thực trở nên phi hiện thực, đời sống thực tại mịt mờ bởi sự xâm lấn của kí ức. Sự
hiện hữu của con người cũng trở nên chông chênh, bất ổn, có thể trượt ra ngoài thực
tại bất cứ lúc nào khi sự níu giữ của đời sống đã lỏng lẻo, yếu ớt.
4.2.2.2. Thủ pháp của sự lặp lại và lối trần thuật hỗn độn
Tần suất “là mối quan hệ giữa khả năng lặp lại của câu chuyện với khả năng lặp lại
của truyện kể” [57, tr.242]. Sự kiện được nhắc lại và lời trần thuật được nhắc lại khiến các
điểm thời gian hòa trộn, ngưng đọng, tính hiện thực mờ nhạt và dần trừu tượng hóa như
huyền thoại. G. Genette đưa ra bốn kiểu quan hệ tần số giữa chuyện và truyện:
1) Kể lại một lần điều xảy ra một lần.
2) Kể lại n lần những gì xảy ra n lần.
3) Kể lại n lần những gì xảy ra một lần.
4) Kể lại một lần những gì xảy ra n lần.
Trong bốn kiểu trên kiểu (2) và (3) có khả năng cao trong việc xây dựng không
gian huyền thoại. Sự trùng lặp được thể hiện trên nhiều cấp độ như ngôn ngữ, hành
động nhân vật, thái độ nhân vật hoặc lặp lại một tình tiết nào đó tạo nên mạng lưới
thời gian chằng chịt.
Kiểu trần thuật sử dụng phổ biến trong sáng tác của một số nhà văn Việt Nam
đương đại là kiểu trần thuật n lần những gì xảy ra n lần. Đây được xem như một thủ
pháp nghệ thuật gợi cảm giác hỗn độn, rối loạn về những nỗi ám ảnh trở đi trở lại
143
trong tâm thức nhân vật. Các tác phẩm của Nguyễn Bình Phương (Trí nhớ suy tàn,
Thoạt kỳ thủy, Người đi vắng, Những đứa trẻ chết già), Tạ Duy Anh (Đi tìm nhân
vật), Nguyễn Danh Lam (Giữa vòng vây trần gian, Giữa dòng chảy lạc), truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp thường sử dụng kiểu trần thuật này.
Trong Giữa vòng vây trần gian của Nguyễn Danh Lam, như đã nói ở phần
trước, được xây dựng theo kết cấu mê cung vòng tròn, bởi vậy, nhân vật đi vòng lại
con đường đã từng đi qua. Có nhiều hành động nhân vật Thữc lặp lại hai lần, như
hành động xuống sông - lên thuyền. Lần thứ nhất là lần Thữc đi lấy nước cho người
lái xe tải, bị lạc đường, đang đứng bên bờ sông nói chuyện với hai ông già trên
thuyền thì “chỉ kịp cảm thấy có một vật rất nặng, phang thẳng vào giữa gáy” [189,
tr.33] rồi Thữc ngã lộn xuống sông, tỉnh dậy thì đã ở trên thuyền cùng “ông già đen”
và “ông già trắng”. Lần thứ hai, Thữc ở trong rẫy của cô gái (anh gặp khi từ thuyền
lên một ngôi làng), hết thức ăn, đói kiệt quệ, Thữc men theo dòng suối đi về phía hạ
lưu, lần vào một ruộng bắp bẻ ăn, khi con chó đi cùng tru lên vì bị kiến cắn, Thữc
cũng sợ hãi điên cuồng lao ra phía bờ sông, đi giật lùi rồi ngã ngửa, chìm trong nước,
lúc tỉnh dậy lại đã thấy ở trên thuyền với “ông già trắng” (“ông già đen” đã chết
trong một trận lũ). Thữc còn nhiều hành động lặp lại khác như hai lần vào làng cô
gái. Lần thứ nhất đi trên thuyền với ông già trắng, sau nhiều ngày trôi dạt trên sông,
Thữc xuống thuyền vào một ngôi làng xa lạ; lần thứ hai sau khi từ rẫy cô gái ra, gặp
ông già và con thuyền ở bờ sông, sau những ngày tháng lênh đênh đói khát để đi tìm
điều anh ta không thể hiểu nổi, Thữc lại quay về ngôi làng với hi vọng được chấp
nhận. Thữc cũng nhiều lần chạy trốn như chạy trốn khỏi gác trọ khi nghe nói có
những kẻ lạ mặt đến tìm, hai lần chạy trốn khỏi dân làng (hai lần vào rẫy), chạy trốn
khỏi quán ăn trong rừng khi nhìn thấy những vết máu, trốn gió, trốn lũ. Cùng với
những lần chạy trốn đó là sự lặp lại thái độ, cảm giác của nhân vật (sợ hãi điên
cuồng, cảm giác có người đang theo dõi, chực bủa lưới). Dù nhân vật miệt mài trong
những cuộc trốn chạy, không ngừng hoạt động song chính việc kể lặp lại các sự kiện,
thái độ, hành động khiến dòng trôi chảy của thời gian như ngưng đọng. Cách kể đó
cũng gây cảm giác nhân vật ngày càng kiệt quệ trong nỗi đày ải dài đằng đẵng và
dường như chỉ có cái chết mới chấm dứt được cơn ác mộng này. Một số chi tiết trong
Người đi vắng cũng được lặp lại rất nhiều lần như tiếng mọt, tiếng chuông ở cổ con
ngựa kêu lanh canh (các chi tiết lặp lại này đã trình bày trong mục 4.1.1.1) (tiếng mọt
được nhắc đi nhắc lại chín lần ở các trang 365, 398, 399, 434, 478, 481, 525, 562,
571). Có lúc đó là âm thanh thật của thực tại nhưng cũng có lúc đó là ảo giác của
144
nhân vật về âm thanh mà Thắng đã nghe trước đó, như lúc đang ở cơ quan Thắng
vẫn “nghe thấy tiếng mọt nghiến mơ hồ” “từ nơi xa xăm vẳng lại” [214, tr.571]. Kĩ
thuật lặp lại này còn được Nguyễn Bình Phương sử dụng trong cuốn tiểu thuyết trước
đó là Những đứa trẻ chết già. Tiếng lọc cọc của chiếc xe trâu, tiếng “vắt diệt” của gã
đánh xe vang lên nhiều lần trong khung cảnh im lìm giữa dòng hồi ức thao thiết của
nhân vật “ông” qua mỗi phần Vô thanh. Sự lặp lại n lần sự việc xảy ra n lần ở các
cuốn tiểu thuyết này khiến thời gian như ngừng trôi, đi vào vĩnh cửu, gây ấn tượng
về sự mỏi mệt rã rời. Trong Những đứa trẻ chết già còn có sự lặp lại số phận nhân
vật qua các đời của một dòng họ. Nhân vật “ông” trong Vô thanh là anh họ Trường
hấp. “Ông” có một em gái, lúc học năm cuối trường sư phạm thị xã thì có bầu. Đến
con của Liêm, cháu Trường hấp cũng lặp lại như vậy, Liêm có hai con, Hải và Loan,
Loan có bầu rồi bỏ học khi đang học trường sư phạm. Chi tiết cô em gái ngồi vét
cơm nguội ăn khi anh trai đến tìm và đứa anh kêu đói đều có trong hai đời. Hai điểm
thời gian quá khứ thật xa (“ông” và em gái) và hiện tại thật gần (Hải và em gái) như
chạm vào nhau. Thời gian trôi nhanh đến mức tưởng như không hề suy chuyển.
Vòng tròn thời gian là vòng tròn định mệnh, từ thế hệ này qua thế hệ khác, con người
không thể bứt ra, không thể trốn tránh mà buộc phải chấp nhận. Cách xây dựng thời
gian vòng tròn của Nguyễn Bình Phương gợi nhớ đến tính phi thời gian trong Trăm
năm cô đơn của G. Márquez.
Yếu tố được lặp lại đôi lúc hóa thành nỗi ám ảnh khôn nguôi, khiến nhân vật
hoang mang kinh hãi. Ở Thoạt kỳ thủy có “lời câm” của Tính, đánh dấu bằng kiểu
chữ in nghiêng. Toàn bộ tiểu thuyết có hai mươi hai “lời câm” thì có mười lăm “lời
câm” có nhắc đến trăng, trong đó có những đoạn ngắn nhưng hình ảnh trăng lặp lại
liên tục: “Biết nó là trăng, trăng xanh đen, rỗ chi chít. Mặt trăng nằm trên cỏ, hơi
võng ở giữa làm các ngọn cỏ run lên. Run lên run lên. Mắt chó vàng như trăng.
Những con kiến kềnh càng đã tràn đến, bu quanh mặt trăng. Anh Hưng bảo đói thì
rán trăng mà ăn. Ở đây không có chảo. Mỡ cũng chẳng có. Sao lại tệ đến thế nhỉ.
Đây nữa này. Đây lại là trăng nữa này. Mẹ khỉ. To đến thế là cùng. Sướng thật”
[205, tr.42].
Không chỉ Tính mà Hưng, ông Phùng thỉnh thoảng cũng bị nhiễu loạn bởi
trăng trong những lời lảm nhảm: “bị mắt Tính rọi thẳng, Hưng líu lưỡi, thổ ra một
câu: - Mắt chó vàng như trăng” [205, tr.33]; “ông Phùng cười ằng ặc, tợp nốt chỗ
rượu, nằm vật ra đất, mồm lảm nhảm: - Mắt chó vàng như trăng, mắt chó vàng như
trăng” [205, tr.54]. Ánh trăng còn được nhắc đến nhiều lần tạo nên khung cảnh mênh
145
mông rợn ngợp: “Trăng lại đến. Rộng mênh mông, mênh mông” [205, tr.54], “Trăng
u u rơi xuống mặt sông. Sương lên sương lên” [205, tr.36] Tần suất lặp lại dày đặc
thu hút hầu như toàn bộ sự chú ý đến hình ảnh được lặp lại, mọi đường nét của đời
sống xung quanh, trong đó có thời gian hiện thực như mờ đi. Nếu cách lặp lại theo
tuần tự như trong Giữa vòng vây trần gian gợi cảm giác về thời gian dằng dặc vô tận
thì cách lặp lại bất chợt như trong Thoạt kỳ thủy lại gây ấn tượng về sự hỗn độn, mù
mịt của thời gian.
Có lúc, những lần lặp lại không mang bản chất như khi nó diễn ra ban đầu mà
bổ sung thêm những ý nghĩa mới. Nhân vật “tôi”, nhà báo Chu Quý trong Đi tìm
nhân vật đến phố G. hai lần để tìm hiểu về cái chết của thằng bé đánh giày vô danh
bé mọn nào đó. Trong lần trở lại thứ hai, “tôi” lần lượt tìm đến những nơi đã từng
đến là cửa hiệu bán đồ lót phụ nữ, quán nước của bà cụ phúc hậu, quán bar “Cảm
giác thiên đường”, song trong lần trở lại này mọi băn khoăn của anh ta không còn
hướng về chú bé đánh giày mà đó chỉ là cái cớ để anh ta đi tìm chính mình.
Kiểu trần thuật n lần những gì xảy ra n lần có thể đưa đến nhiều dư vị khác
nhau về thời gian trong từng tác phẩm. Việc lặp lại nhiều lần những sự việc lặp lại
nhiều lần tạo ra sự giống nhau của các hành động, sự kiện diễn ra ở những thời điểm
khác nhau đã hòa trộn thời gian, thời gian hiện thực, cụ thể trở nên nhòe mờ, khó
phân định.
Một kĩ thuật trần thuật khác cũng có thể gợi nên thời gian huyền thoại là trần
thuật n lần những gì xảy ra một lần. Ở Và khi tro bụi, cái chết của người chồng được
kể lại nhiều lần:
“Chồng tôi mất vì xe rơi xuống núi, ở một đoạn đèo, trong một đám sương mù,
khoảng 5 giờ một buổi chiều tháng 11” [210, tr.7];
“() Nhưng vào ngày chồng tôi chết ()” [210, tr.24].
“Tôi nhớ lại cảm giác thanh bình ngắn ngủi lúc đi trong đám sương mù bất
chợt sa xuống thành phố. Cảm giác đó chỉ có vài phút, nhưng khó quên. Hay là
chồng tôi cũng đi vào một đám sương mù trên núi, cũng được bao bọc trong một sự
thanh bình mênh mông như vậy, và không muốn ra khỏi đám sương mù ấy nữa?”
[210, tr.42].
“Tôi sẽ đi vào đám sương mù của tôi, sẽ tan ra trong đó. Như chồng tôi đã đi
vào đám sương mù của anh ấy một buổi chiều tháng mười (..) [210, tr.46]
“Chúng tôi cưới nhau được hai năm chồng tôi mất vì xe rơi xuống núi, ở một
đoạn đèo, trong một đám sương mù” [210, tr.118].
146
“Người tôi yêu lái xe vào một đám sương mù” [210, tr.176].
Câu chuyện ấy được An Mi trở đi trở lại nhiều lần như nỗi ám ảnh khôn nguôi.
Ám ảnh bởi đó là thời điểm An Mi mất đi sợi dây nối kết mình với cuộc đời và cũng
bởi sự phi lí của cái chết ấy. Thường những điều không rõ ràng sẽ khiến con người
bận tâm hơn những gì đã sáng rõ. Cũng như ở kĩ thuật lặp lại đã nói trên, việc lặp lại
nhiều lần làm cho tính hiện thực mờ nhạt dần. Dấu ấn thời gian lặn sâu vào cảm giác.
Câu chuyện hiện thực về cái chết của người chồng dần nhuốm màu huyền thoại. Nó
không còn là sự kiện đã xảy ra trong hiện thực nữa mà chuyển thành tâm tưởng, hồi
ức, thậm chí là ảo giác, là cái cớ để những ẩn ức, những thiếu hụt của nhân vật
nương vào. Sau cái chết của người chồng, An Mi cũng tìm đến cái chết. Cái chết của
chồng, cái chết của “tôi” được nhắc lại rất nhiều lần:
“Đáng lẽ tôi nên chết đi trong vòng hai tuần sau khi chồng tôi chết. Chết lúc chưa
tin rằng anh ấy không còn; lúc chưa kịp hiểu cái chết có thật. Lúc còn chưa chịu nhận
mình bất hạnh. Chết vào một trong những đêm ngủ thức giấc không thấy buồn vì tưởng
chồng còn nằm gần bên; lúc còn hoảng loạn, ngày còn mơ màng nhìn thấy bóng của anh ở
mọi góc phố, tối còn nhìn thấy cái đốm sáng nhỏ từ điếu thuốc anh đang hút, thấy làn khói
mỏng vương lại không muốn tan đi. Chết không hề biết rằng cái chết cần được hiểu.
Nhưng tôi đã không chết vào những ngày đó. Không còn có thể có cái chết
mông lung, tím ngắt ở giữa trung tâm cơn gió xoáy của nỗi bi thảm. Chỉ còn lại cái
chết được chọn lựa. Nó cần được hiểu, cho dù người hiểu nó chỉ là tôi mà thôi” [210,
tr.11-12].
Suy tư về cái chết lặp đi lặp lại tràn ngập từng khoảnh khắc, phủ bầu không khí
ảm đạm, mịt mù tang tóc từ trang đầu đến trang cuối của cuốn tiểu thuyết.
Trong Chinatown, Thuận cũng sử dụng kĩ thuật này. Những sự việc nhân vật
“tôi” kể đi kể lại nhiều lần đều chỉ diễn ra một lần trong quá khứ (chuyện Thụy bỏ đi,
chuyện gặp Thụy). Cách lặp lại đó ngoài việc tạo tính chất mù mờ về không gian
còn khiến thời gian đứt gãy hỗn độn. Về kĩ thuật lặp lại trong tiểu thuyết Chinatown,
luận án đã trình bày trong mục 3.3.1.
Với những nhân vật hiện hữu bằng dòng chảy ý thức như An Mi hay “tôi”
trong Chinatown việc lặp lại nhiều lần một chi tiết, một sự kiện nào đó bắt nguồn từ
những nỗi ám ảnh không lối thoát, có tác động mạnh mẽ đến toàn bộ cuộc đời nhân
vật kể từ khi xảy ra biến cố. Các nhịp thời gian chồng chéo, rối bời khiến thời gian
tác phẩm không còn là thời gian biên niên lịch sử nữa mà là thời gian huyền thoại,
thời gian tâm lí, tâm linh, qua đó cho thấy đời sống tinh thần nặng nề, đầy day dứt và
ám ảnh của con người hiện đại.
147
Tiểu kết: Đã qua rồi thời kì của văn học mô phỏng, giải thích thế giới, các nhà văn
hướng vào biểu hiện, sáng tạo hiện thực trong tính phức tạp và phiến đoạn. Ý thức và
nỗ lực đó thể hiện rõ ở việc sử dụng thủ pháp huyền thoại để xây dựng không gian,
thời gian mới mẻ, táo bạo nhằm phơi bày cảm quan hiện sinh của con người trong xã
hội hiện đại. Để xây dựng không gian huyền thoại các nhà văn Việt Nam đương đại
thường sử dụng kĩ thuật giải huyền thoại bằng cách tái tạo các motif huyền thoại
hoặc các câu chuyện, các nhân vật huyền thoại theo tinh thần mới, khác hẳn bản chất
ban đầu. Bên cạnh đó, những kĩ thuật viết mới nhằm huyền thoại hóa không gian
hiện thực cũng được sử dụng. Đó là sự biến dạng, nghịch dị hóa không gian, sự mờ
hóa bởi thủ pháp lặp lại, là sự ảo hóa bởi sự xâm nhập của không gian cõi âm, không
gian tâm lí, tâm linh. Cũng như không gian, thời gian cũng được huyền thoại hóa
bằng các kĩ thuật khiến thời gian chuyện bị biến dạng, lạ hóa gây cảm giác bất an, xa
lạ. Thời gian niên biểu trở nên mơ hồ, bất xác định, quá khứ, tương lai được kéo về
hội tụ ở hiện tại khiến tính chất tuyến tính của sự kiện biến mất. Một kĩ thuật thú vị
cũng được một số nhà văn sử dụng khá thành công là lối trần thuật lặp lại cho thấy
đời sống tinh thần đầy ám ảnh hoang mang của nhân vật.
Có thể nói, việc sử dụng phương thức huyền thoại hóa không gian, thời gian
đã mang lại hiệu quả nhất định trong việc phơi bày bản chất hiện sinh của con người
hiện đại. Tồn tại trong không gian, thời gian mang tính huyền thoại huyền hoặc, mơ
hồ bất định khiến trạng thái hiện sinh của con người trở nên u buồn và nghiệt ngã,
khó tìm thấy giá trị hiện hữu đích thực trong hoàn cảnh mà việc xác định “điểm thời
gian” tồn tại của mình cũng trở nên muôn vàn khó khăn. Cảm quan đó chính là trải
nghiệm sinh tồn của con người Việt Nam trong xã hội hiện đại.
148
KẾT LUẬN
1. Chủ nghĩa hiện sinh ghi dấu trong lịch sử văn hóa nhân loại bởi một thứ triết
học giàu tính nhân văn, có ý nghĩa thức tỉnh con người trăn trở về ý nghĩa cuộc sống
và các hiện tượng phi lí trong xã hội. Trong thời đại con người bị đe dọa tha hóa đến
tận cùng như thời đại ngày nay, những bài học về giá trị làm người của tư tưởng hiện
sinh thực sự lay động tâm tư những con người khắc khoải tự do, khao khát dấn thân
để tự quyết định số phận mình.
Người ta cho rằng ngày nay thế giới đã bước vào thời hậu hiện đại và văn học
cũng đang đi theo diễn trình đó. Tuy nhiên, khi quay trở lại xem xét chủ nghĩa hiện
sinh - một trào lưu của chủ nghĩa hiện đại, có thể nhận thấy sự tương quan rõ nét
giữa tâm thức hiện sinh và tâm thức hậu hiện đại về một số biểu hiện như hư vô, hoài
nghi (phi lí), tính nhục thể Nói cách khác, các phạm trù của chủ nghĩa hiện sinh
được sử dụng để phản ánh trạng thái tinh thần của con người hậu hiện đại. Bởi vậy,
khi văn chương bước vào khuynh hướng hậu hiện đại, chủ nghĩa hiện sinh vẫn tiếp
tục hiện tồn trong cảm quan của các nhà văn cho dù họ có ý thức hay không. Có thể
nói rằng giữa tinh thần hiện sinh và tinh thần hậu hiện đại không có nhiều điểm khác
biệt bởi hậu hiện đại đề cập đến các vấn đề về số phận con người trong thời đại kĩ trị
mà những gì thuộc về thân phận con người lại chính là trung tâm của chủ nghĩa hiện
sinh. Sự khác nhau giữa hai trào lưu này, trong văn học, chỉ là ở vấn đề thi pháp.
2. Văn xuôi Việt Nam đương đại từ sau 1986 đến nay đã thực sự trải qua một
cuộc chuyển động sôi nổi, mạnh mẽ, mang lại diện mạo mới cho nền văn học theo xu
thế chung của văn học thế giới. Trong tình hình đó, sự trở lại của chủ nghĩa hiện sinh
là một cuộc tái sinh mới mẻ và thú vị, góp phần thể hiện sự chuyển biến trong quan
niệm về văn chương, thể loại cũng như những vấn đề quan trọng khác của văn học.
Chưa thể khẳng định về dòng văn học hiện sinh, nhưng đã có thể nói về những yếu
tố, những dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh trong văn xuôi Việt Nam đương đại.
3. Về mặt tiền đề, so với thời điểm ra đời của chủ nghĩa hiện sinh ở phương
Tây, sự xuất hiện trở lại của chủ nghĩa hiện sinh trong văn học thế giới nói chung và
trong văn xuôi Việt Nam đương đại nói riêng có nhiều điểm khác biệt, song bên cạnh
đó vẫn có điểm tương đồng lớn mang ý nghĩa quyết định về trạng thái tinh thần của
thời đại. Hai bối cảnh khác nhau (bối cảnh hậu công nghiệp phương Tây và bối cảnh
hậu chiến Việt Nam) nhưng dẫn tới trạng thái chung là khủng hoảng tinh thần và nỗi
hoang mang bản thể. Với nhu cầu thể hiện đời sống tinh thần và thân phận con người
trong thời đại nhiều suy tư này, chủ nghĩa hiện sinh trong văn xuôi Việt Nam đương
đại không hoàn toàn là kết quả trực tiếp từ luồng gió tư tưởng của các nhà hiện sinh
149
phương Tây thế kỉ XIX - XX mà còn là sự đồng điệu, gặp gỡ giữa tinh thần thời đại,
cảm thức về thân phận trong sáng tác của các nhà văn với tư tưởng của triết thuyết
này. Thêm vào đó, sự vận động của bản thân nền văn học, đặc biệt sự phát triển của
hoạt động dịch thuật, sự thay đổi của nhu cầu người đọc cũng đã góp phần tạo tiền đề
quan trọng dẫn tới sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện sinh trong văn xuôi Việt Nam
đương đại.
Nói như vậy cũng có nghĩa rằng nhà văn khi thể hiện các yếu tố của tinh thần
hiện sinh không nhất thiết phải là những nhà hiện sinh chủ nghĩa hoặc đơn giản hơn,
biết nhiều đến triết học hiện sinh, nói như Gordon E. Bigelow, “Faulkner có thể chưa
bao giờ đọc Heidegger, người từng tìm cách chứng tỏ thời gian tồn tại bên trong con
người và lệ thuộc vào kinh nghiệm độc nhất của anh ta về nó, hơn là nằm bên ngoài
anh ta. Nhưng vẫn hoàn toàn hợp lí khi gọi các quan điểm về thời gian và cuộc đời
của Faulkner mang tính chất hiện sinh trong cuốn tiểu thuyết này (Âm thanh và
cuồng nộ - NTH) của ông, bởi vì trong những năm gần đây, các lí thuyết gia hiện
sinh đã mang đến cho các quan điểm ấy một cái tên và một nơi cư trú”[15]. Như với
Faulkner, điều đó cũng đúng khi xét đến các nhà văn Việt Nam đương đại.
4. Những chủ đề cơ bản, quan trọng nhất của chủ nghĩa hiện sinh thể hiện trong
văn xuôi Việt Nam đương đại trước hết ở cái nhìn về thân phận con người thông qua
việc xây dựng các nhân vật mang những trạng thái tâm thức đặc thù. Đó là nhân vật
vong thân, cô đơn, nhân vật dấn thân, nhân vật bản năng và nhân vật mang ám ảnh
về cái chết. Qua các nhân vật này có thể thấy quan niệm của các nhà văn về hai con
đường của con người trong cuộc hiện sinh là suy tư về thực trạng, bản chất đời sống
và hành động quyết liệt để đạt đến hiện hữu đích thực. Qua đó cũng có thể thấy rằng
các nhà văn Việt Nam đã chạm đến những vấn đề về bản thể và hiện tồn vốn đang
trở thành trọng tâm của văn chương thế giới.
Khác với tinh thần hiện sinh trong văn học miền Nam trước 1975, trong văn
xuôi Việt Nam đương đại cái nhìn về đời sống bình thản hơn, lãnh đạm hơn, bởi vậy,
những nỗi cay đắng của con người không quay quắt, bi ai mà mang hơi hướng black
- houmour. Cũng nỗi bi thảm, chua xót về thân phận con người, nhưng trong thời đại
mới, cách thể hiện của con người về nỗi đau đã khác trước.
Tuy nhiên, có thể nói, so với văn học hiện sinh phương Tây và kể cả một số
nước Châu Á khác, tính phổ quát khi thể hiện tinh thần hiện sinh trong tác phẩm của
các nhà văn Việt Nam chưa cao. Nói cách khác, các nhà văn phương Tây khi sáng tác
luôn cảm nghiệm, ý thức sâu sắc về xã hội, hiểu rõ căn nền xã hội mình đang sống để từ
đó luôn đặt vấn đề cá nhân trong tương quan với vấn đề xã hội. Tầm nhìn rộng khiến tác
phẩm của họ thoát khỏi tính vụn vặt, nhỏ lẻ cá nhân để vươn lên mang tầm thời đại.
150
Trong văn xuôi Việt Nam đương đại, chưa có nhiều tác phẩm đạt được giá trị đó.
5. Trong văn xuôi Việt Nam đương đại, huyền thoại được các nhà văn sử dụng
với nhiều cấp độ, nhiều hình thức để chuyển tải tinh thần hiện sinh. Phương thức
huyền thoại tạo nên kiểu không gian huyền thoại, thời gian huyền thoại đầy biến ảo
như chính bản chất biến ảo, phi lí của đời sống. Các thủ pháp giải huyền thoại (bằng
tái tạo các motif, các câu chuyện, nhân vật huyền thoại), tạo lập huyền thoại (bằng
huyền thoại hóa không gian hiện thực), xây dựng không gian mê cung tạo nên không
gian huyền thoại hư hoặc. Vận dụng lí thuyết tự sự của G. Genette, luận án làm rõ các
kĩ thuật mờ hóa, xáo trộn thời gian như kĩ thuật tạo tính bất xác định của thời gian niên
biểu, tạo sự sai trật tự niên biểu và kĩ thuật lặp lại, cho thấy tính chất huyền thoại như
một trong những đặc trưng của thời gian trong văn xuôi Việt Nam đương đại.
Tuy nhiên, trong văn xuôi Việt Nam đương đại, có thể nói chưa có nhiều
những tác phẩm mang tính biểu trưng cao, mà tính biểu trưng được xem là đặc điểm
cơ bản của huyền thoại. Hầu như chỉ có một số tác giả thực sự có ý thức và đã phần
nào làm được điều này như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Bình
Phương, Nguyễn Danh Lam (Giữa vòng vây trần gian). Tính chất huyền thoại phần
lớn chỉ thể hiện ở chi tiết, chưa trở thành cảm quan và cấu tứ nghệ thuật mà nhiều nhà
văn trên thế giới như G. Marquez, F. Kafka, Haruki Murakami, Cao Hành Kiện
từng rất thành công. Song không thể phủ nhận phương thức huyền thoại hóa đã góp
phần không nhỏ trong việc làm phong phú thêm cách thức thể hiện hiện thực và thân
phận con người trong văn xuôi Việt Nam đương đại.
6. Khi thể hiện tinh thần hiện sinh, một số nhà văn như Nguyễn Huy Thiệp,
Phạm Thị Hoài, Nguyễn Bình Phương, Đoàn Minh Phượng đã phần nào đạt đến sự
thấu triệt nhất định, từ đó tạo nên thế giới nghệ thuật khá thuyết phục về mặt nội
dung cũng như hình thức nghệ thuật. Song bên cạnh đó ở một số tác phẩm sự thể
hiện các yếu tố hiện sinh còn gượng ép, chưa mang đến hiệu quả tư tưởng và thẩm
mĩ cần có như tiểu thuyết Giữa dòng chảy lạc (Nguyễn Danh Lam), Xác phàm
(Nguyễn Đình Tú), các tiểu thuyết của Đỗ Phấn
7. Chỉ ra những yếu tố của tư tưởng hiện sinh trong văn xuôi Việt Nam đương đại
cũng như phương thức nghệ thuật tiêu biểu để thể hiện tinh thần hiện sinh, luận án đã
chỉ ra những khả dĩ và hạn chế của các nhà văn Việt Nam. Tuy nhiên, văn xuôi Việt
Nam vẫn đang trên con đường đổi mới để đi đến giới hạn triệt để hơn nữa, sẽ còn
nhiều tác phẩm mới ra đời thể hiện tâm thức thời đại, cùng với đó là nhiều phương
thức nghệ thuật khác được vận dụng. Vì vậy sẽ còn nhiều hứa hẹn thú vị và bất ngờ
đòi hỏi cần được tiếp tục nghiên cứu về khuynh hướng này trong văn xuôi Việt Nam
đương đại.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thái Hoàng, Không gian huyền thoại trong văn xuôi Việt Nam đương đại,
Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 12/2014.
2. Nguyễn Thái Hoàng, Sự trở lại của khuynh hướng hiện sinh trong văn xuôi Việt
Nam đương đại, Tạp chí Cửa Việt, số 249, tháng 6/2015.
3. Nguyễn Thái Hoàng, Sự gặp gỡ của một số motif trong tiểu thuyết Giữa vòng vây
trần gian (Nguyễn Danh Lam) và Người đàn bà trong cồn cát (Kobo Abe), Tạp
chí Sông Hương, số 318, tháng 8/2015.
4. Nguyễn Thái Hoàng, Thế giới vô thức trong văn xuôi Việt Nam đương đại, Tạp
chí Cửa Việt, số 253, tháng 10/2015.
5. Nguyễn Thái Hoàng, Thời gian trần thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại,
Tạp chí Nhân lực Khoa học Xã hội, số 1/2016.
152
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. R. M. Albérès (2003), Cuộc phiêu lưu tư tưởng văn học Âu Châu thế kỉ XX
1900 - 1959 (Vũ Đình Lưu dịch), Nxb Lao động.
2. Huỳnh Phan Anh (1972), Duyên Anh tuổi trẻ mộng và thực, Vàng Son xuất
bản, Sài Gòn.
3. Thái Phan Vàng Anh (2010), Những cái tôi kể chuyện trong tiểu thuyết Đoàn
Minh Phượng, Tạp chí Khoa học Đại học Huế, số 62A, tr. 31-36.
4. Thái Phan Vàng Anh (2012), Con người hiện sinh trong tiểu thuyết Việt Nam
mười năm đầu thế kỉ XXI, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (8), tr. 53 - 61.
5. Thái Phan Vàng Anh (2013), Các khuynh hướng tiểu thuyết Việt Nam đầu thế
kỉ XXI, Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 771.
6. Thái Phan Vàng Anh (2015), Khuynh hướng hiện sinh trong tiểu thuyết Việt
Nam sau 1986, số 820.
7. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
8. Lại Nguyên Ân, Thần thoại, văn học, văn học huyền thoại,
9. M. Bakhtin (2003), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
10. R. Barthes (1997), Độ không của lối viết (Nguyên Ngọc dịch và giới thiệu),
Nxb Hội nhà văn.
11. R. Barthes (2003), Nhập môn phân tích cấu trúc truyện kể (Tôn Quang Cường
dịch từ bản tiếng Nga), Tạp chí văn học nước ngoài, số 1, tr.110 -115.
12. R. Barthes (2008), Những huyền thoại (Phùng Văn Tửu dịch), Nxb Tri thức, Hà
Nội.
13. Lê Huy Bắc (2006), Nghệ thuật F. Kafka, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
14. Hoàng Ngọc Biên (1969), Mười nhà văn Pháp hiện đại, Nxb Trình bày, Sài
Gòn.
15. Gordon E. Bigelow (2007), Đôi nét về chủ nghĩa hiện sinh (Cao Hùng Lynh dịch),
16. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi việt Nam 1975-1995 những đổi mới cơ bản,
NXB Giáo Dục, HN.
17. Nguyễn Thị Bình (2007), Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 - một cái nhìn khái
quát, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 2.
153
18. Nguyễn Thị Mai Chanh (2001), Siêu thực và hiện sinh trong tập thơ văn xuôi
“Cỏ dại” của Lỗ Tấn, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 9, tr.65-73.
19. Lê Kim Châu, Một số tư tưởng của chủ nghĩa hiện sinh thế kỉ XX
&esrc=s&sa=U&ei=4ZIGVLKlBdDN8gWkxYL4CA&ved=0CBIQFjAA&usg
=AFQjCNExY3zaXb5TFH0ZII0HinBphPlyJg
20. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (1997), Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới,
(Phạm Vĩnh Cư dịch), Trường viết văn Nguyễn Du - NXB Đà Nẵng.
21. Lê Phương Chi, Loạn của Chu Tử, Tin Sách 9/1964.
22. Thạch Chương (1960), Trình bày và phê bình hai quan điểm nổi loạn của
Albert Camus, Tạp chí Sáng tạo, số 3, tr. 68 - 87.
23. Jacques Colette (2011), Chủ nghĩa hiện sinh thế giới (Hoàng Thạch dịch), Nxb
Thế giới.
24. Pierre Daco (1999), Giải mã những giấc mộng qua ánh sáng Phân tâm học,
Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
25. Nguyễn Văn Dân (1997), Dấu ấn phương Tây trong văn học Việt Nam hiện đại
- vài nhận xét tổng quan, Tạp chí Văn học số 2.
26. Nguyễn Văn Dân (2010), Sức sống dai dẳng của kĩ thuật “dòng chảy ý thức”,
Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 8, tr. 17-29.
27. Nguyễn Văn Dân (2002), Văn học phi lí, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
28. Chu Xuân Diên (2009), Để góp phần nghiên cứu huyền thoại và thi pháp huyền
thoại trong sáng tác văn học
&view=article&id=337:-gop-phn-nghien-cu-huyn-thoi-va-thi-phap-huyn-thoi-
trong-sang-tac-vn-hc&catid=94:ly-lun-va-phe-binh-vn-hc&Itemid=135
29. Trần Nhật Duật (1970), “Quê người” của Dương Nghiễm Mậu, Tuần báo Khởi
Hành, số 71, tr. 13 - 14.
30. Trương Đăng Dung (2002), Phương thức tồn tại của tác phẩm văn học, Tạp chí
Văn học, số 8, tr.7-8.
31. Dương Ngọc Dũng (2011), Huyền thoại và giải huyền thoại trong tư tưởng
Roland Barthes,
iew=article&id=1998:huyn-thoi-va-gii-huyn-thoi-trong-t-tng-roland-
barthes&catid=94:ly-lun-va-phe-binh-vn-hc&Itemid=135. Truy cập ngày 04.02.20
32. Nguyễn Tiến Dũng (2006), Chủ nghĩa hiện sinh: lịch sử, sự hiện diện ở Việt
154
Nam, NXB tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
33. Đoàn Ánh Dương (2009), Lối viết tiểu thuyết Việt nam trong bối cảnh hội nhập
(Qua trường hợp Tạ Duy Anh), Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 7, tr.85-95.
34. Đoàn Ánh Dương (2012), Đỗ Phấn giữa chúng ta,
vn/details/51/chan-dung/102504/do-phan-giua-chung-ta-.aspx. Truy cập
ngày 34. 3. 2013
35. Trần Trọng Đăng Đàn (2000), Văn hoá Văn nghệ miền Nam Việt Nam 1954 -
1975, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
36. Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại,
Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
37. Đặng Anh Đào (2007), Việt Nam và phương Tây - tiếp nhận và giao thoa trong
văn học, Nxb Giáo dục Hà Nội.
38. Đặng Anh Đào (2003), Huyền thoại văn chương: Thời điểm phát sáng và biến
hóa trong văn học viết hiện đại.
van-chuong--Thoi-diem-phat-sang-va-bien-hoa-trong-van-hoc-viet-hien-dai/
39. Trần Thiện Đạo (1964), Lịch sử của cảm giác buồn nôn trong văn chương
phương Tây, Tạp chí Văn, số 17.
40. Trần Thiện Đạo (2001), Chủ nghĩa hiện sinh và thuyết cấu trúc, Nxb Văn học,
Hà Nội.
41. Đinh Văn Điệp (2014), Nhân vật mang tâm thức hiện sinh trong tiểu thuyết Tạ
Duy Anh và Nguyễn Bình Phương, Luận văn Thạc sĩ bảo vệ tại trường Đại học
Sư phạm Hà Nội 2.
42. Trần Thái Đỉnh (1968), Triết học hiện sinh, Thời Mới xuất bản, Sài Gòn.
43. Lưu Phóng Đồng (1994), Triết học phương Tây hiện đại, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
44. P. Foulquie (1969), Chủ nghĩa hiện sinh, Nxb Nhị Nùng, Sài Gòn.
45. Michel Fragonard (1999), Văn hoá thế kỷ XX - Từ điển lịch sử văn hoá, (Chu
Tiến Ánh dịch), NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.
46. Roger Garaudy (2012), Kafka (Lộc Phương Thủy dịch),
w_Detail.aspx?ItemID=14. Truy cập ngày 13.5.2013
47. Roger Garaudy, Chủ nghĩa hiện thực không bờ bến (Lê Xuân Ninh dịch), Tài
liệu đánh máy, Thư viện Viện văn học.
48. Văn Giá (2005), Tấm ván phóng dao - sức sống của giá trị nhân văn cổ điển,
155
gia-tri-nhan-van-co-dien-1973804.html. Truy cập ngày 15. 4. 2016
49. Hoàng Cẩm Giang (2010), Vấn đề nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ
XXI,
hc/804-vn-nhan-vt-trong-tiu-thuyt-vit-nam-u-th-k-xxi. Truy cập ngày: 23.12.2011
50. Phạm Minh Hạc (2007), Thuyết hiện sinh và giá trị học, Tạp chí Nghiên cứu
Con người, số 3.
51. Nguyễn Hào Hải (2001), Một số học thuyết triết học phương Tây hiện đại, Nxb
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
52. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2007), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
53. Martin Heidegger (2004), Tác phẩm triết học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
54. Lê Thị Hiền (2011), Cảm thức hiện sinh trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp,
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, bảo vệ tại Trường ĐHKH Huế.
55. Phan Thu Hiền (2007), Huyền thoại học và văn hóa học,
van-hoa/47-phan-thu-hien-huyen-thoai-hoc-va-van-hoa-hoc.html. Ngày truy
cập: 11. 4. 2014.
56. Hoàng Ngọc Hiến (2008), Tiếp nhận những cách tân của chủ nghĩa hiện đại và
chủ nghĩa hậu hiện đại
&pid=0&shname=Tiep-nhan-nhung-cach-tan-cua-chu-nghia-hien-dai-chu-
nghia-hau-hien-dai. Ngày truy cập: 10. 02. 2013.
57. Đào Duy Hiệp (2008), Phê bình văn học từ lí thuyết hiện đại, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
58. Đỗ Đức Hiểu (1978), Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa, Nxb Văn học, Hà
Nội.
59. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn.
60. Trần Hinh (2005), Tiểu thuyết A. Camus trong bối cảnh tiểu thuyết Pháp thế kỷ
XX, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
61. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
62. Trần Hoàng Hoàng (2010), Những yếu tố hiện sinh trong tiểu thuyết Và khi tro
bụi của Đoàn Minh Phượng, khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Văn hóa Hà
Nội.
156
63. Mai Hương (2006), Đổi mới tư duy văn học và đóng góp của một số cây bút
văn xuôi, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 11, tr.3-14.
64. Trịnh Đặng Nguyên Hương, Cảm thức lạc loài trong sáng tác của Thuận,
sang-tac-cua-Thuan-4387.html. Truy cập ngày 25.6.2012
65. Hoàng Thanh Hương (2012), Ám ảnh hiện sinh trong tiểu thuyết nhà văn
Thuận, Tạp chí Nhà văn, số 11, tr.102-109.
66. Ngô Thị Hy (2014), Tiểu thuyết Tấm ván phóng dao của Mạc Can trong bối
cảnh văn học Việt Nam cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, Tạp chí Khoa học
Trường Đại học An Giang, số 2, tr. 106 - 114.
67. Cao Huy Khanh (1970), Sơ thảo 15 năm văn xuôi miền Nam (1955 - 1969),
Tuần báo Khởi Hành số 74, tr. 9 - 12.
68. Thuỵ Khê (2000), Sóng từ trường II,
Truy cập ngày: 13.6.2012
69. Milan Kundera (2001), Tiểu luận (Nghệ thuật tiểu thuyết và Những di chúc bị
phản bội) (Nguyên Ngọc dịch), Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin và Trung tâm
Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây.
70. Lê Đình Kỵ (1987), Nhìn lại tư tưởng văn nghệ thời Mỹ Ngụy, Nxb Tp Hồ Chí
Minh.
71. Lê Đình Kỵ (1993), Văn hóa văn nghệ miền Nam 1954 - 1975, Nxb Thông tin,
Hà Nội.
72. Nguyễn Minh Lăng (1988), Mấy trào lưu triết học phương Tây, Nxb Đại học
và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.
73. Phạm Minh Lăng, (2003), Những chủ đề cơ bản của triết học phương Tây, Nxb
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
74. Cô Liêu (1960), Lập trường văn nghệ của Albert Camus, Bách Khoa số 77.
75. Nguyễn Quang Lục (1970), Mổ xẻ nhà văn hiện sinh Jean Paul Sartre, Nxb
Hoa muôn phương, Sài Gòn.
76. Vũ Đình Lưu (1963), Albert Camus người đánh cuộc đời sống, Tạp chí Tin
sách, số 18, tr. 5 - 9.
77. Phương Lựu (chủ biên) (1997), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
78. Phương Lựu (2001), Lí luận và phê bình văn học phương Tây thế kỉ XX, Nxb
Văn học, Hà Nội.
79. Phương Lựu (2002), Trích Bút ký tự sự học (về thời gian giả trong tự sự), Tạp
157
chí Văn học số 7, tr.31 - 35.
80. C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập (1994), T12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
81. Trần Hạnh Mai, Ngô Thị Thu Hiền (2011), Cảm thức lạc loài trong văn xuôi
đương đại, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 11, tr.62-68.
82. Jahn Manfred (2005), Trần thuật học: nhập môn lí thuyết trần thuật (Nguyễn
Thị Như Trang dịch), tài liệu ở dạng bản thảo.
83. Lê Văn Mẫu (2009), Không gian ngghệ thuật trong sáng tác của Franz Kafka,
Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 6.
84. E.M.Meletinsky (2004), Thi pháp của huyền thoại, (Trần Nho Thìn, Song Mộc
dịch), NXB ĐHQG Hà Nội.
85. Trần Hiếu Minh (1969), Suy nghĩ bước đầu về nền văn nghệ trên một nửa đất
nước: Văn nghệ miền Nam, Tạp chí văn học số 1, tr. 11 - 17.
86. Hồ Tấn Nguyên Minh, Quan niệm về con người trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp.
ngan-nguyen-huy-thiep.html
87. E. Mounier (1970), Những chủ đề triết hiện sinh (Thụ Nhân dịch), Nxb Nhị
Nùng, Sài Gòn.
88. Lê Thanh Nga (2006), Thân phận con người trong sáng tác của Franz Kafka,
Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 3, tr.107-117.
89. Nguyễn Thị Thanh Nga (2006), Dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh trong truyện
ngắn Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến nay (2006), Luận văn thạc sĩ bảo vệ tại
trường Đại học Khoa học Huế.
90. Nguyễn Thị Việt Nga (2012), Vấn đề thân phận con người trong tiểu thuyết đô
thị miền Nam 1954 - 1975, Luận án tiến sĩ bảo vệ tại Học viện Khoa học Xã
hội.
91. Lã Nguyên (2007), Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học
Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài, Tạp chí
Nghiên cứu Văn học, số 12.
92. Lê Tôn Nghiêm (1971), Những vấn đề triết học hiện đại, Nxb Ra khơi, Sài
Gòn.
93. Trần Thị Mai Nhân (2009), Tìm hiểu phương thức “huyền thoại hóa” trong
một số tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới
=article&id=264:tim-hiu-phng-thc-huyn-thoi-hoa-trong-mt-s-tiu-thuyt-vit-nam-
thi-k-i-mi&catid=63:vn-hc-vit-nam&Itemid=106
158
94. Nguyễn Thị Tuyết Nhung, Nguyễn Huy Thiệp- hợp lưu giữa nguồn mạch dân gian
và tinh thần hiện đại.
Truy cập ngày: 02. 06. 2013.
95. Trần Thị Mai Nhi (1994), Văn học hiện đại - văn học Việt Nam giao lưu gặp
gỡ, NXB Văn học, Hà Nội.
96. Nhiều tác giả (2002), Đổi mới tư duy tiểu thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
97. Nhiều tác giả (2003), Lý luận văn học, Khoa Văn, Đại học Khoa học xã hội &
Nhân văn Hà Nội, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
98. Nhiều tác giả (2005), Huyền thoại và văn học, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ
Chí Minh.
99. Đỗ Hải Ninh (2009), Đôi điều suy nghĩ từ một mùa tiểu thuyết, Tạp chí Nhà
văn, số 7, tr.41-47.
100. Hoàng Phê (chủ biên) (2010), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
101. Nguyễn Phúc (1995), Khảo sát sự du nhập của phân tâm học và chủ nghĩa hiện
sinh trong văn học đô thị miền Nam trước năm 1975, Luận án tiến sĩ bảo vệ tại
trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
102. Lữ Phương (1981), Cuộc xâm lăng về văn hoá tư tưởng của đế quốc Mĩ tại
miền Nam Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
103. Thạch Phương (1977), Khuynh hướng chống cộng, mũi xung kích của văn học
thực dân mới, Tạp chí Văn học, số 4, tr. 3 - 18.
104. Hoài Phương (2013), "Sông" và hành trình “bản ngã” của Nguyễn Ngọc Tư,
va-hanh-trinh-%E2%80%9Cban-nga%E2%80%9D-cua-nguyen-ngoc-tu.html.
Truy cập ngày: 22.5.2014
105. Huỳnh Như Phương (2011), Hồi chuông tắt lửa và cái nhìn hiện tượng luận,
=article&id=2146:hi-chuong-tt-la-va-cai-nhin-hin-tng-lun&catid=63:vn-hc-vit-
nam&Itemid=106. Truy cập ngày: 34.7.2012
106. Huỳnh Như Phương (2008), Chủ nghĩa Hiện sinh ở Miền Nam Việt Nam 1954-
1975 (trên bình diện lý thuyết), Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 9, tr. 91 - 103.
107. Nguyễn Mạnh Quỳnh (2006), Một số luận điểm cơ bản trong Diễn ngôn tự sự
của G.Genette, Tạp chí khoa học số 5, Trường ĐHSP Hà Nội, tr.66-74.
108. Trần Huyền Sâm (biên soạn và giới thiệu) (2010), Những vấn đề lí luận văn
học Phương Tây hiện đại, Nxb Văn học, Hà Nội.
109. Phạm Văn Sỹ (1965), Những nọc độc của văn chương suy đồi phương Tây
159
trong cuốn tiểu thuyết Yêu của Chu Tử, Tạp chí Văn học số 8, tr.56-65.
110. Phạm Văn Sỹ (1969), Vòng tay học trò - một cuốn truyện cần được phê phán
nghiêm khắc, Tạp chí Văn học số 11, tr.83-89.
111. Phạm Văn Sỹ (1975), Văn học giải phóng miền Nam 1954 - 1970, Nxb ĐH và
THCN, Hà Nội.
112. Phạm Văn Sỹ (1986), Về tư tưởng và văn học phương Tây hiện đại, Nxb Đại
học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
113. Trần Đình Sử (chủ biên) (2008), Tự sự học (phần 2), Nxb Đại học Sư phạm, Hà
Nội.
114. Đỗ Ngọc Thạch (2011), Sartre và văn học,
4902. Truy cập ngày: 15.6.2012
115. Phạm Xuân Thạch (2006), Tiểu thuyết như là trạng thái tìm kiếm ý nghĩa của
đời sống, báo Văn nghệ số 45.
116. Hồ Anh Thái (2002), Hồ Anh Thái và những quan niệm về văn chương,
quan-niem-ve-van-chuong-1874655.html. Truy cập ngày: 20. 3. 2010.
117. Phạm Thị Thắm (2015), Dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh trong tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương, Luận văn Thạc sĩ bảo vệ tại trường Đại học Sư phạm Hà
Nội.
118. Phùng Gia Thế (2008), Cảm nhận tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, phần 1,
Văn nghệ Trẻ, số 2.
119. Phùng Gia Thế (2008), Cảm nhận tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, phần 2,
Văn nghệ Trẻ, số 3.
120. Phùng Gia Thế (2012), Lý giải về sự khó đọc của tiểu thuyết hiện nay,
Truy cập ngày 23.6.2013.
121. Đoàn Cầm Thi (2004), Sáng tạo văn học: giữa mơ và điên (Đọc 'Thoạt kỳ thủy'
của Nguyễn Bình Phương),
van/sang-tao-van-hoc-giua-mo-va-dien-doc-thoat-ky-thuy-cua-nguyen-binh-
phuong-2140778.html. Truy cập ngày: 21.06.2008.
122. Nguyễn Thành Thi (2010), Ám ảnh hiện sinh trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 5.
123. Nguyễn Thành Thi (2012), Tiểu thuyết Bờ xám của Vũ Đình Giang: Cái nhìn
“xám” và chất “hài hước đen,
160
view=article&id=2826%3Atiu-thuyt-b-xam-ca-v-inh-giang-cai-nhin-xam-va-
cht-hai-hc-en&catid=94%3Aly-lun-va-phe-binh-vn-hc&Itemid=135&lang=en.
Truy cập ngày: 05.4.2013.
124. Trần Viết Thiện (2011), Huyền thoại trong truyện ngắn đương đại Việt Nam,
3Ahuyn-thoi-trong-truyn-ngn-ng-i-vit-nam&catid=119%3Avan-hoc-viet-
nam&Itemid=7243&lang=vi&site=30. Truy cập ngày: 07.7.2014
125. Bích Thu (2015), Văn học Việt Nam hiện đại - sáng tạo và tiếp nhận, Nxb Văn
học, Hà Nội.
126. Bùi Công Thuấn (2010), Giữa dòng hiện sinh
127. Nguyễn Văn Thuấn, Trần Thị Lý (2015), Một vài đặc điểm trong truyện ngắn
huyền thoại Việt Nam thời kì Đổi mới,
luan-van-nghe/mot-vai-dac-diem-trong-truyen-ngan-huyen-thoai-viet-nam-
thoi-ki-doi-moi-7683.html. Truy cập ngày: 25.7.2015
128. Trần Thị Thục (2012), Trào lưu hiện sinh chủ nghĩa trong văn học hiện đại
Nhật Bản và Việt Nam dưới góc nhìn so sánh,
=article&id=2909%3Atrao-lu-hin-sinh-ch-ngha-trong-vn-hc-hin-i-nht-bn-va-
vit-nam-di-goc-nhin-so-sanh&catid=64%3Avn-hc-nc-ngoai-va-vn-hc-so-
sanh&Itemid=108&lang=vi. Truy cập ngày: 05.5.2012
129. Lộc Phương Thủy (2007), Lí luận - phê bình văn học thế giới thế kỉ XX (tập 2),
NXB Giáo Dục, Hà Nội.
130. Đặng Tiến (1963), Giới thiệu Yêu, Tạp chí Tin sách, số tháng 11, tr. 20 - 22.
131. Trần Văn Toàn (1960), Vị trí của trào lưu hiện sinh trong lịch sử triết lí, Đại
Học số 18.
132. Tzevan Todorov (2008), Dẫn luận về văn chương kì ảo, Nxb Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
133. Tzvetan Todorov (2008), Thi pháp văn xuôi, Nxb Đại học Sư Phạm, Hà Nội.
134. Minh Đức Hoài Trinh (1967), Sám hối, Nxb Triều Dương, Sài Gòn.
135. Nguyễn Thị Thu Trang (2007), Vài nét về văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn
1954-1975, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 5.
136. Lê Thành Trị, Hiện tượng luận về hiện sinh (1969), Phủ Quốc Vụ Khanh đặc
trách Văn hóa xuất bản, Sài Gòn.
161
137. Nguyễn Thanh Tú (2008), Bi kịch hoá trần thuật - một phương thức tự sự (Trên
cứ liệu "Cánh đồng bất tận" của Nguyễn Ngọc Tư), Tạp chí Nghiên cứu Văn
học, số 5.
138. Hoàng Anh Tuấn (2011), Một số hiện tượng văn học Việt Nam ở đầu thế kỷ
XXI,
nam-o-dau-the-ky-xxi.html. Truy cập ngày 18.6.2013
139. Lê Phong Tuyết (2005), Tiếp cận Genette qua một vài khái niệm trần thuật,
Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 8, tr.75 - 89.
140. Dương Tử (2010), "Kín" và nỗi hoang mang thời đại, Văn nghệ Trẻ, số 51.
141. Phùng Văn Tửu (2010), Tiểu thuyết trên đường đổi mới nghệ thuật, Nxb Tri
thức, Hà Nội.
142. Tạ Tỵ, Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay,
Truy
cập ngày 12. 5. 2012
143. Võ Văn (2011), Về sự cách tân của tiểu thuyết,
144. Lê Trí Viễn (2006), Hồ Xuân Hương thơ và cuộc đời, Nxb Văn học, Hà Nội.
145. Ngô Thế Vinh (1964), Bóng đêm, Nxb Khai Trí, Sài Gòn.
146. Hoàng Vũ (1963), Nhận định về Francoise Sagan sau "Cô có thích nhạc
Brahms?", Tạp chí Văn học, số 4, tr. 88 - 93.
147. Bửu Ý (1973), Văn học thế giới hiện đại, Nxb An Tiêm, Sài Gòn.
II. Tài liệu tiếng Anh
148. Gareth Edwards (1998), The use of certain fantastic concepts in the fiction of
Murakami Haruki,
149. Walter Kaufmann (1975), Existentialism from Dostoevsky to Sartre, Meridian
Books, Inc. New York.
150. S. Thompson, Motif - index of Folk - Literature, A Classification of Narrative
Elements in Folk - Tale, Ballads, Myths, Fables, Medieval, Romances,
Exempla, Local Legends, Truy
cập ngày 13. 5. 2014
162
PHỤ LỤC
(Các tác phẩm đã khảo sát)
151. Kobo Abe (2001), Khuôn mặt người khác, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
152. Kobo Abe (2010), Người đàn bà trong cồn cát (Nguyễn Tuấn Khanh dịch),
Nxb Văn học, Hà Nội.
153. Tạ Duy Anh (2004), Thiên thần sám hối, Nxb Đà Nẵng.
154. Tạ Duy Anh (2004), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
155. Tạ Duy Anh (2008), Giã biệt bóng tối, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
156. Tạ Duy Anh (2008), Đi tìm nhân vật, Nxb Tổng hợp Đồng Nai.
157. Duyên Anh (1965), Luật hè phố, Nxb Trí Dũng, Sài Gòn.
158. Duyên Anh (1967), Ảo vọng tuổi trẻ, Thứ tư Tạp chí xuất bản, Sài Gòn.
159. Duyên Anh (1971), Ngựa chứng sân trường, Nxb Tuổi Ngọc, Sài Gòn.
160. J.L.Borges (2001), Louis Borges tuyển tập, (Nguyễn Trung Đức dịch), Nxb
Đà Nẵng.
161. Nhã Ca (1967), Đêm dậy thì, Nxb An Tiêm, Sài Gòn.
162. Nhã Ca (1965), Tình ca cho Huế đổ nát, Nxb Thương Yêu, Sài Gòn.
163. Nhã Ca (1969), Đoàn nữ binh mùa thu, Nxb Thương Yêu, Sài Gòn.
164. Nhã Ca (1969), Một mai khi hòa bình, Nxb Thương Yêu, Sài Gòn.
165. Nhã Ca (1969), Mưa trên cây sầu đông, Nxb Đời Mới, Sài Gòn.
166. Nhã Ca (1971), Cô Hippy lạc loài, Nxb Vàng Son, Sài Gòn.
167. Mạc Can (2006), Tấm ván phóng dao, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
168. Trùng Dương (1967), Mưa không ướt đất, Nxb Văn, Sài Gòn.
169. Vũ Đình Giang (2010), Bờ xám, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
170. Vũ Đình Giang (2007), Song song, Nxb Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh.
171. Nguyễn Việt Hà (2005), Khải huyền muộn, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
172. Nguyễn Việt Hà (2006), Cơ hội của chúa, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
173. Nguyễn Việt Hà (2014), Ba ngôi của người, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh
174. Herman Hesse (2013), Sói thảo nguyên, Nxb Văn học, Hà Nội.
175. Phạm Thị Hoài (1989), Mê lộ, Nxb Tổng hợp Phú Khánh.
176. Phạm Thị Hoài (1995), Man nương, Nxb Hà Nội.
177. Phạm Thị Hoài (1998), Thiên sứ, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
178. Nguyễn Thị Hoàng (1967), Ngày qua bóng tối, Tập san Văn xuất bản, Sài Gòn.
179. Nguyễn Thị Hoàng (1968), Tuổi Sài Gòn, Kim Anh xuất bản, Sài Gòn.
180. Nguyễn Thị Hoàng (1968), Về trong sương mù, Thái Phương xuất bản, Sài
163
Gòn.
181. Nguyễn Thị Hoàng (1969), Vòng tay học trò (in lần thứ 4), Nxb Thái Phương,
Sài Gòn.
182. Nguyễn Thị Hoàng (1969), Tiếng chuông gọi người tình trở về, Nxb Sống Mới,
Sài Gòn.
183. Nguyễn Thị Hoàng (1971), Bóng tối cuối cùng, Nxb Giao Điểm, Sài Gòn.
184. Túy Hồng (1970), Tôi nhìn tôi trên vách, Nxb Đồng Nai, Sài Gòn.
185. Túy Hồng (1971), Biển điên, Văn Khoa xuất bản, Sài Gòn.
186. Túy Hồng (1971), Bướm khuya, Cửu Long xuất bản, Sài Gòn.
187. Franz Kafka (2012), Lâu đài (Trương Đăng Dung dịch), Nxb Văn học, Hà Nội.
188. Nikos Kazantzakis (2008) Alexis Zorba - con người hoan lạc, Nxb Văn học,
Hà Nội.
189. Nguyễn Danh Lam (2005), Giữa vòng vây trần gian, Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội.
190. Nguyễn Danh Lam (2014), Cuộc đời ngoài cửa, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
191. Nguyễn Danh Lam (2014), Giữa dòng chảy lạc, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
192. Bình Nguyên Lộc (1959), Đò dọc, Nxb Bến Nghé, Sài Gòn.
193. Dương Nghiễm Mậu (1965), Tuổi nước độc, Nxb Văn, Sài Gòn.
194. Dương Nghiễm Mậu (1966), Đêm tóc rối, Nxb Thời Mới, Sài Gòn.
195. Haruki Murakami (2006), Rừng Na Uy, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
196. Haruki Murakami (2006), Biên niên kí chim vặn dây cót, Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội.
197. Haruki Murakami (2007), Kafka bên bờ biển, Nxb Văn học, Hà Nội.
198. Haruki Murakami (2009), Xứ sở kì diệu bạo tàn và chốn tận cùng thế giới, Nxb
Hội Nhà văn, Hà Nội.
199. Haruki Murakami (2008), Người tình Sputnik, Nxb Văn học, Hà Nội.
200. Bảo Ninh (2011), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
201. Đỗ Phấn (2010), Vắng mặt, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
202. Đỗ Phấn (2011), Rừng người, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
203. Đỗ Phấn (2011), Chảy qua bóng tối, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
204. Đỗ Phấn (2013), Gần như là sống, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
205. Nguyễn Bình Phương (2005), Thoạt kỳ thủy, Nxb Văn học, Hà Nội.
206. Nguyễn Bình Phương (2006), Trí nhớ suy tàn, Nxb Văn học, Hà Nội.
207. Nguyễn Bình Phương (2013), Ngồi, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
208. Nguyễn Bình Phương (2013), Những đứa trẻ chết già, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
164
209. Nguyễn Bình Phương (2014), Mình và họ, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
210. Đoàn Minh Phượng (2008), Và khi tro bụi, NXB Trẻ.
211. Đoàn Minh Phượng (2009), Mưa ở kiếp sau, NXB Trẻ.
212. Francoise Sagan (2014), Buồn ơi chào mi, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
213. Jean Paul Sartre (2008), Buồn nôn, Nxb Văn hóa Sài Gòn, Tp Hồ Chí Minh.
214. Cao Duy Sơn, Nguyễn Bình Phương (2005), Tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi
mới (Người lang thang, Người đi vắng), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
215. Mai Thảo (1964), Khi mùa thu tới, Nxb Thái Lai, Sài Gòn.
216. Mai Thảo (1969), Cũng đủ lãng quên đời, Nxb Hồng Đức, Sài Gòn.
217. Mai Thảo (1972), Chỉ là ảo tưởng, Nxb Sống Mới, Sài Gòn.
218. Mai Thảo (1972), Một đời còn tưởng nhớ, Nxb Hải Vân, Sài Gòn.
219. Mai Thảo (1973), Bên lề giấc mộng, Nxb Ngày Mới, Sài Gòn.
220. Mai Thảo (1973), Chìm dần vào quên lãng, Nxb Tiếng phương Đông, Sài Gòn.
221. Nguyễn Huy Thiệp (2004), Tuyển tập truyện ngắn, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
222. Thuận (2009), Chinatown, Nxb Văn học, Hà Nội.
223. Thuận (2005), Paris 11 tháng 8, Nxb Đà Nẵng.
224. Thuận (2007), T mất tích, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
225. Trần Nhã Thụy (2008), Sự trở lại của vết xước, Nxb Văn nghệ, Tp Hồ Chí
Minh.
226. Nhật Tiến (1964), Chuyện bé Phượng, Nxb Ngày Nay, Sài Gòn.
227. Nhật Tiến (1971), Thềm hoang, Nxb Huyền Trân, Sài Gòn.
228. Nguyễn Đình Tú (2009), Nháp, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
229. Nguyễn Đình Tú (2009), Phiên bản, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
230. Nguyễn Đình Tú (2010), Kín, Nxb Văn học, Hà Nội.
231. Nguyễn Đình Tú (2013), Hoang tâm, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
232. Thanh Tâm Tuyền (1967), Cát lầy, Nxb Giao Điểm, Sài Gòn.
233. Thanh Tâm Tuyền (1970), Mù khơi, Nxb Kẻ Sĩ, Sài Gòn.
234. Nguyễn Ngọc Tư (2014), Cánh đồng bất tận, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
235. Nguyễn Ngọc Tư (2012), Sông, Nxb Trẻ.
236. Chu Tử (1963), Yêu, Nxb Đường Sáng, Sài Gòn.
237. Chu Tử (1964), Loạn, Nxb Đuốc Sáng, Sài Gòn.
238. Nguyễn Thị Thụy Vũ (1968), Thú hoang, Nxb Hồng Đức, Sài Gòn.
239. Nguyễn Thị Thụy Vũ (1972), Nhang tàn thắp khuya, Nxb Nguyễn Đình
Vượng, Sài Gòn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dau_an_cua_chu_nghia_hien_sinh_trong_van_xuoi_viet_nam_duong_dai_8715.pdf