Luận án làm rõ quy định về thủ tục xét hỏi và tranh luận ở một số nƣớc trên
thế giới, rút ra kinh nghiệm đối với Việt Nam. Qua nghiên cứu đi đến nhận định rằng:
Thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ở Hoa Kỳ, Pháp và Nhật Bản
đƣợc thiết lập có tính tranh tụng cao; đƣợc bảo đảm trên thực tế, gắn với việc bảo đảm các
quyền của bị cáo, và vai trò của ngƣời làm chứng, bị hại rất đƣợc coi trọng .v.v. Tuy
nhiên các thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ở các nƣớc nêu trên với
hạn chế là phiên tòa phải trải qua nhiều thủ tục rƣờm rà, kéo dài, hao tốn sức lực, chi phí
và sự bị động thái quá của bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc chứng minh
150 trang |
Chia sẻ: tueminh09 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 457 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Đề xuất giải pháp bảo đảm thực hiện thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh sự sơ thẩm. Thực hiện quyền bào chữa
126
không những bảo đảm quyền bình đẳng, quyền lợi cho ngƣời bị buộc tội, mà còn tạo vị
thế cân bằng cho các bên tham gia tranh tụng tại phiên tòa. Cho dù trên thực tế ở nƣớc ta
việc thực hiện quyền bào chữa vẫn còn nhiều hạn chế.
(ii) Một số quy định gián tiếp về nguyên tắc tranh tụng và nguyên tắc suy đoán vô
tội, đó là việc ghi nhận nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chƣa có bản án kết tội của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (Điều 9 BLTTHS), nguyên tắc xác định sự thật của vụ án
(Điều 10 BLTTHS). Các quy định này đƣợc Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 kế thừa có
chọn lọc và đặt mới nguyên tắc suy đoán vô tội (Điều 13), nguyên tắc tranh tụng trong xét
xử đƣợc bảo đảm (Điều 26). Đây là những nguyên tắc mới, có tính đột phá trong pháp
luật TTHS Việt Nam, ảnh hƣởng tích cực đến hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự
sơ thẩm. Theo đó ngƣời bị buộc tội không buộc phải chứng minh là mình vô tội mà trách
nhiệm đó thuộc về nhà nƣớc. Ngƣời tiến hành tố tụng không đƣợc định kiến có tội đối với
một ngƣời chƣa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Hơn nữa, mọi nghi
ngờ trong việc giải quyết vụ án phải đƣợc giải thích theo hƣớng có lợi cho bị can, bị cáo,
không làm xấu đi tình trạng của bị cáo.
(iii) Quy định việc tiến hành tố tụng đối với trƣờng hợp khởi tố theo yêu cầu của bị
hại (Điều 105 BLTTHS, Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Nghĩa là công dân
có quyền tự định đoạt trong việc yêu cầu khởi tố hoặc rút yêu cầu khởi tố trong một số
loại tội phạm do pháp luật quy định, chứ không phải hoàn toàn là ý chí từ phía nhà nƣớc.
Quy định này cho phép đƣơng sự có thể thỏa thuận với nhau trong một số VAHS ít phức
tạp, hạn chế sự can thiệp từ phía nhà nƣớc. Ở đó chứa đựng yếu tố tranh tụng công bằng.
(iv) Quy định về trách nhiệm đối đáp của KSV, theo đó khi có ý kiến tranh luận
của ngƣời bào chữa và bị cáo thì KSV phải có trách nhiệm đối đáp trở lại để làm rõ chứng
cứ, tình tiết vụ án, làm rõ yêu cầu của ngƣời bị buộc tội. Quy định này có ý nghĩa tích
cực, đảm bảo dân chủ, bình đẳng trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Thứ tư, hoàn thiện pháp luật TTHS về thủ tục xét hỏi, tranh luận tại PTHSST phải
đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật về tƣ pháp hình sự Việt Nam.
Trong đó chú ý đến sự đồng bộ, thống nhất giữa quan hệ pháp luật hình sự với quan hệ
127
pháp luật tố tụng hình sự. Tiếp thu điểm tích cực, tiến bộ về quy định xét hỏi, tranh luận
tại PTHSST ở một số nƣớc trên thế giới có nền pháp luật phát triển.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật
Vận dụng những vấn đề lý luận đƣợc làm sáng tỏ ở Chƣơng 1 của Luận án và qua
đánh giá cơ sở luật thực định và thực tiễn thực hiện, làm rõ nguyên nhân của thực tiễn áp
dụng quy định về thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Ngoài những bất cập, hạn chế của BLTTHS về thủ tục xét hỏi, tranh luận tại
PTHSST đã đƣợc khắc phục trong quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; mặc
dù Bộ luật mới ban hành, nhƣng qua nghiên cứu, so sánh những điểm mới của nó và trên
cơ sở thực tiễn, tác giả Luận án đề xuất tiếp tục hoàn thiện pháp luật TTHS về vấn đề
nghiên cứu nhƣ sau:
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về các quy định xét hỏi tại phiên tòa hình
sự sơ thẩm
- Kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 306 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục
trình bày cáo trạng: Một là, đổi tên gọi điều luật là “Công bố bản cáo trạng” thành “Trình
bày lời buộc tội và ý kiến của bị cáo”; hai là, về nội dung điều luật: loại bỏ thủ tục đọc
cáo trạng của KSV tại PTHSST nhằm khắc phục hạn chế, vƣớng mắc của nó, thay vào đó
là bổ sung thủ tục trình bày lời buộc tội của KSV và giải thích, bổ sung luận điểm truy tố
nếu cần thiết; bổ sung thủ tục bị hại trình bày ý kiến buộc tội trong trƣờng hợp khởi tố vụ
án theo yêu cầu của họ; bổ sung thủ tục chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo có hiểu nội dung
buộc tội hay không, có nhận tội hay không và có cần trình bày ý kiến của bị cáo về việc bị
KSV cáo buộc hay không. Cụ thể Điều 306 đƣợc thiết kế nhƣ sau:
“Điều 306. Trình bày lời buộc tội và ý kiến của bị cáo
1. Trước khi tiến hành xét hỏi, Kiểm sát viên trình bày lời buộc tội; giải thích, bổ
sung làm rõ nội dung luận điểm truy tố, nếu có. Bị hại hoặc người đại diện của họ có mặt
tại phiên tòa trình bày lời buộc tội trong trường hợp vụ án khởi tố theo yêu cầu của họ.
Chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo về việc có hiểu nội dung buộc tội hay không, có nhận
tội hay không và bị cáo (kể cả người bào chữa cho bị cáo) có cần bày tỏ thái độ với lời
buộc tội của Kiểm sát viên hay không.
128
2. Lời buộc tội của Kiểm sát viên nêu tóm tắt thông tin về nhân thân bị cáo, sự kiện
cấu thành tội phạm bị truy tố, tội danh và khung hình phạt đối với bị cáo bị truy tố.
Khi bị hại hoặc người đại diện của họ yêu cầu, hoặc trong trường hợp bị hại là
người chưa thành niên, người bị tổn thương về thể chất hoặc tâm thần trong các vụ án về
tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, tính mạng của con người thì Kiểm sát
viên có thể không công bố hoặc công bố không đầy đủ về nhân thân của bị hại tại phiên
tòa ”.
- Kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 307 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về trình tự
xét hỏi, bằng việc đổi tên gọi điều luật là “Trình tự xét hỏi” thành “Phương pháp xét hỏi
và trình tự xét hỏi”. Về nội dung điều luật: Một là, bổ sung cụ thể hơn về các phƣơng
pháp xét hỏi nhằm tạo ra sự linh hoạt: Đó là đặt KSV chịu trách nhiệm chính trong việc
xét hỏi, HĐXX chỉ hỏi bổ sung khi thấy cần thiết; chủ thể xét hỏi đƣợc quyền lựa chọn bị
cáo hoặc ngƣời tham gia tố tụng nào trƣớc để hỏi; khắc phục thực trạng trong hoạt động
xét hỏi không gắn với việc trƣng diện và làm rõ vật chứng, cũng nhƣ bị cáo và ngƣời
tham gia tố tụng khác không đƣợc nhận xét vật chứng tại phiên tòa (chỉ xem qua biên bản
mô tả vật chứng trong giai đoạn điều tra); hai là, nhằm khắc phục bất cập trong việc điều
khiển phiên tòa, tạo ra sự bình đẳng, dân chủ trong hoạt động tranh tụng, kiến nghị bổ
sung quy định chủ tọa phiên tòa điều khiển phiên xét hỏi đi đôi với không đƣợc hạn chế
thời gian xét hỏi, nhƣng có quyền cắt những câu hỏi có tính gợi ý, vòng vo, hoặc không
liên quan đến vụ án; ba là, để bảo đảm thống nhất và hiệu quả trong việc hỏi, bổ sung quy
định tại khoản 1 Điều 307 trƣờng hợp vụ án có nhiều bị cáo mà một trong số bị cáo phạm
nhiều tội thì KSV xét hỏi hành vi của tội này xong, sang hành vi khác của tội khác của bị
cáo này, rồi chuyển sang xét hỏi bị cáo khác. Nghĩa là bị cáo phạm nhiều tội thì phải xét
hỏi hành vi của từng tội đối với bị cáo đó xong mới chuyển sang xét hỏi bị cáo khác. Cụ
thể Điều 307 đƣợc thiết kế nhƣ sau:
“Điều 307. Phương pháp và trình tự xét hỏi
1. Kiểm sát viên phải xác định đầy đủ các tình tiết về từng sự việc và về từng tội
của vụ án theo thứ tự xét hỏi hợp lý. Bị cáo phạm nhiều tội thì phải xét hỏi hành vi của
từng tội đối với bị cáo đó xong, chuyển sang xét hỏi bị cáo khác.
129
Kiểm sát viên hỏi bị cáo trước, khi cần thiết thì có thể hỏi bị hại, người làm chứng
trước.
2. Khi hỏi từng người, Kiểm sát viên hỏi trước rồi đến người bào chữa, bị cáo, bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
hoặc người đại diện của họ, người giám định, người định giá tài sản, sau đó đến Hội
đồng xét xử. Những ngƣời tham gia tố tụng tại phiên tòa cũng có quyền đề nghị chủ tọa
phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ.
Hội đồng xét xử chỉ hỏi khi xét thấy việc xét hỏi chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn.
3. Khi xét hỏi, Kiểm sát viên, người bào chữa và Hội đồng xét xử phải xem xét vật
chứng trong vụ án; trong quá trình xét hỏi, chủ tọa phiên tòa phải để cho bị cáo, người
làm chứng hoặc những người tham gia tố tụng khác trực tiếp xem xét vật chứng và đưa ra
lời nhận xét.
4. Chủ tọa phiên tòa điều hành việc xét hỏi, không được hạn chế thời gian xét hỏi
và tạo điều kiện cho người bào chữa, người tham gia tố tụng khác đặt câu hỏi, nhưng có
quyền cắt những câu hỏi có tính gợi ý, vòng vo lặp lại hoặc không liên quan đến vụ án”.
- Kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 309 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (Hỏi bị
cáo) ở hai nội dung nhƣ sau:
Một là, sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều luật này theo hƣớng không còn quy định
“Bị cáo trình bày ý kiến về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án” nhằm thống nhất
với giải pháp nêu trên là bỏ đi thủ tục công bố cáo trạng mà thay vào đó là trình bày lời
buộc tội của KSV và ý kiến của bị cáo về lời buộc tội đó; đồng thời bổ sung chủ thể KSV,
ngƣời bào chữa, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án hoặc ngƣời đại diện của họ đƣợc đề nghị HĐXX hỏi thêm bị cáo. Hai
là, sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 309 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 theo hƣớng việc
hỏi trực tiếp của bị cáo không phụ thuộc vào “đƣợc ngƣời hỏi đồng ý” hay không. Bị cáo
có quyền hỏi trực tiếp bị cáo khác theo trình tự, chỉ đề nghị HĐXX hỏi khi muốn hỏi bổ
sung. Đồng thời bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án hoặc ngƣời đại diện của họ và ngƣời giám định, ngƣời định giá tài sản
đƣợc đặt câu hỏi đối với bị cáo về các vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ
130
trong vụ án. Trong trƣờng hợp này quy định chủ tọa phiên tòa đƣợc cắt câu hỏi của bị cáo
và ngƣời tham gia tố tụng khác không liên quan đến vụ án, câu hỏi vòng vo, trùng lặp.
Quy định này tăng tính tranh tụng cao, bảo đảm quyền chất vấn trực tiếp, quyền bào chữa
cũng nhƣ bảo vệ quyền lợi hợp pháp khác của bị cáo. Cụ thể Điều 309 Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 đƣợc thiết kế nhƣ sau:
“Điều 309. Hỏi bị cáo
2. Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa hỏi thêm về những điểm mà bị
cáo trình bày chƣa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn; bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện của họ được đề
nghị Hội đồng xét xử hỏi thêm bị cáo về những vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích hợp
pháp của mình mà chưa được bị cáo trả lời đầy đủ hoặc có mâu thuẫn.
3. Theo trình tự xét hỏi, bị cáo được đặt câu hỏi với bị cáo khác về các vấn đề có
liên quan đến bị cáo. Bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện của họ và người giám định, người định giá tài
sản được đặt câu hỏi đối với bị cáo về các vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của
họ trong vụ án.
Chủ tọa phiên tòa cắt những câu hỏi của bị cáo và những người tham gia tố tụng
khác không liên quan đến vụ án hoặc câu hỏi trùng lặp, vòng vo”.
- Kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 310 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (Hỏi bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
hoặc ngƣời đại diện của họ) nhƣ sau: Theo trình tự xét hỏi, bị cáo có quyền đặt câu hỏi
trực tiếp đối với những ngƣời tham gia tố tụng mà không bị bó hẹp bởi “đƣợc ngƣời hỏi
đồng ý” hay không; ngƣời giám định, ngƣời định giá đƣợc đặt câu hỏi trực tiếp với ngƣời
tham gia tố tụng khác trong vụ án để trả lời, giải thích kết luận giám định hoặc phục vụ
việc giám định. Quyền đề nghị HĐXX đƣợc hỏi trong trƣờng hợp cần hỏi bổ sung. Cụ thể
Điều 310 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đƣợc sửa đổi, bổ sung nhƣ sau:
“Điều 310. Hỏi bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, ngƣời có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc ngƣời đại diện của họ
131
Theo trình tự xét hỏi, bị cáo được đặt câu hỏi với bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện của họ
về các vấn đề có liên quan đến bị cáo; đối với người giám định, người định giá thì được
đặt câu hỏi liên quan đến công việc giám định, định giá”.
- Kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 304 Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2015 (Cam đoan của ngƣời làm chứng, cách ly ngƣời làm chứng). Theo đó, mở
rộng các chủ thể là KSV, ngƣời bào chữa và bị cáo, ngƣời tham gia tố tụng khác có quyền
đƣa ra yêu cầu, đề nghị chủ tọa áp dụng biện pháp cách ly ngƣời làm chứng, về thời gian
thực hiện cách ly phải quy định cụ thể cả trƣớc và trong khi xét hỏi để tạo ra sự linh hoạt.
Cụ thể khoản 2 Điều 304 đƣợc sửa đổi, bổ sung nhƣ sau:
“Điều 304. Cam đoan của ngƣời làm chứng, cách ly ngƣời làm chứng
2. Theo yêu cầu của Kiểm sát viên, người bào chữa, hoặc khi cần thiết chủ tọa
phiên tòa phải quyết định cách ly người làm chứng để cho họ không nghe được lời khai
của nhau hoặc tiếp xúc với những người có liên quan.
Nếu lời khai của người làm chứng và bị cáo có ảnh hưởng lẫn nhau thì chủ tọa
phiên tòa phải cách ly bị cáo trước khi hỏi người làm chứng.
Việc cách ly người làm chứng với nhau, hoặc giữa người làm chứng với bị cáo có
thể được thực hiện trước khi họ được hỏi về vụ án hoặc khi họ đang trong quá trình xét
hỏi tại phiên tòa”.
- Kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 311 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (Hỏi
ngƣời làm chứng) ở các nội dung: Một là, sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều luật này bằng
việc xác lập trƣờng hợp ngƣời làm chứng là ngƣời chƣa thành niên, ngƣời làm chứng có
nhƣợc điểm về thể chất (mà không tự mình khai báo đƣợc) hoặc có nhƣợc điểm về tâm
thần, có ngƣời đại diện của họ giúp họ trình bày lời khai. Quy định này để phù hợp với
thực tiễn tranh tụng tại PTHSST có ngƣời làm chứng chƣa thành niên bị hạn chế về thể
chất hoặc tâm thần, ngƣời có nhƣợc điểm về thể chất nhƣ bị câm, điếc .v.v, cần phải có
ngƣời đại diện của họ giúp đỡ trong việc đƣa ra lời khai; Hai là, sửa đổi, bổ sung khoản 3
132
Điều luật này theo hƣớng không bắt buộc trong mọi trƣờng hợp ngƣời làm chứng phải ở
lại phiên tòa khi họ đã trình bày xong để tạo ra sự linh hoạt, thuận lợi cho ngƣời làm
chứng. Cụ thể Điều 311 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đƣợc sửa đổi, bổ sung nhƣ sau:
“Điều 311. Hỏi ngƣời làm chứng
“1.
Người làm chứng là người chưa thành niên, người làm chứng có nhược điểm về
thể chất (mà không tự mình khai báo được) hoặc có nhược điểm về tâm thần có người đại
diện của họ giúp họ trình bày lời khai.
...
3. Người làm chứng đã trình bày xong nếu không cần phải trình bày gì thêm hoặc
lời khai của họ không có mâu thuẫn, giả tạo thì họ có thể được chủ tọa phiên tòa cho rời
phòng xử án khi phiên tòa đang tiếp tục”.
- Kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 308 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (Công bố
lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố) ở hai nội dung nhƣ sau: Một là, sửa đổi, bổ sung
khoản 1 Điều luật này theo hƣớng quy định HĐXX thực hiện việc công bố lời khai trong
giai đoạn điều tra, truy tố theo yêu cầu của KSV, ngƣời bào chữa hoặc ngƣời đƣợc xét hỏi
khác. Hội đồng xét xử không đƣợc công bố lời khai để chứng minh tại phiên xét hỏi mà
chỉ là ngƣời thực hiện theo yêu cầu nhƣ đã nêu là nhằm bảo đảm khách quan, bình đẳng
trong việc chứng minh tại phiên tòa, mặt khác sẽ giúp cho HĐXX tránh đƣợc định kiến
buộc tội, cũng nhƣ sự phàn nàn của ngƣời tham gia phiên tòa. Hai là, bổ sung trƣờng hợp
bắt buộc phải công bố những lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố khi bị cáo chối tội
và khi cần phải đối chất tại khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015- vì trên
thực tế xảy ra nhiều phiên tranh tụng bị cáo không nhận tội, hoặc không thừa nhận hành
vi nào đó xuyên suốt từ quá trình điều tra cho đến khi xét hỏi tại phiên tòa. Cụ thể nhƣ
sau:
“Điều 308. Công bố lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố
1. Hội đồng xét xử chỉ thực hiện việc công bố lời khai trong giai đoạn đoạn điều
tra, truy tố khi có yêu cầu của Kiểm sát viên, người bào chữa và người được xét hỏi.
133
Nếu người được xét hỏi có mặt tại phiên tòa thì không được công bố lời khai của
họ trong giai đoạn điều tra, truy tố, trừ các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Chỉ đƣợc công bố những lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố trong những
trƣờng hợp sau đây:
...
đ) Bị cáo chối tội hoặc không thừa nhận hành vi phạm tội, hoặc xét thấy cần phải
đối chất tại phiên tòa”.
- Kiến nghị mở rộng đối tƣợng của vật chứng và vật thể đƣợc đƣa ra xem xét tại
phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 312 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (Xem xét
vật chứng), gồm băng ghi âm, ghi hình, phim và các dự kiện điện tử nhằm đáp ứng với
yêu cầu thực tiễn. Cụ thể khoản 1 Điều 312 đƣợc thiết lập nhƣ sau (bao gồm đặt tên gọi
mới của điều luật là “Xem xét vật chứng và vật thể liên quan đến vụ án” thay cho tên gọi
cũ là “Xem xét vật chứng”).
“Điều 212. Xem xét vật chứng và vật thể liên quan đến vụ án
1. Vật chứng, ảnh chụp vật chứng hoặc biên bản xác nhận vật chứng, băng ghi âm
hoặc ghi hình, phim và dự kiện điện tử phải đƣợc đƣa ra để xem xét tại phiên tòa”. ...
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về các quy định tranh luận tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm
- Kiến nghị bổ sung khoản 2 Điều 320 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (Trình tự
phát biểu khi tranh luận) về thủ tục trình bày lời bào chữa đối với nhiều ngƣời bào chữa
bào chữa cho một bị cáo. Thủ tục này đƣợc quy định để phù hợp với thực tế tại PTHSST
có trƣờng hợp nhiều ngƣời bào chữa cho một bị cáo. Cụ thể nhƣ sau:
“Điều 320. Trình tự phát biểu khi tranh luận
...
2. Bị cáo trình bày lời bào chữa, nếu bị cáo có ngƣời bào chữa thì ngƣời này bào
chữa cho bị cáo. Trường hợp bị cáo có nhiều người bào chữa thì chủ tọa phiên tòa yêu
cầu người bào chữa cử một người trình bày lời bào chữa, người bào chữa khác có thể
trình bày bổ sung. Bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa”.
134
- Kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 321 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
(Luận tội của KSV) ở hai nội dung nhƣ sau: Một là, quy định rõ bản luận tội phải đƣa ra
“kết luận” của KSV chứ không chỉ là nội dung chi tiết của bản luận tội và đề nghị kết tội
bị cáo. Tính chất của “kết luận” nó khác với tính chất của “đề nghị”. Việc kết luận sẽ cho
chúng ta biết khẳng định đúng sai, quan điểm của KSV tại PTHSST về tội danh và khung
phạt mà bị cáo đã phạm, hoặc kết luận bị cáo phạm tội khác và khung hình phạt khác với
cáo trạng đã truy tố, hoặc bị cáo không có tội. Hai là, bỏ đi nội dung KSV đề nghị HĐXX
áp dụng hình phạt và mức độ của hình phạt đối với bị cáo, trách nhiệm bồi thƣờng thiệt
hại, việc xử lý vật chứng và các biện pháp tƣ pháp đối với bị cáo và ngƣời tham gia tố
tụng khác khi trình bày luận tội. Bởi vì luận tội của KSV đƣợc trình bày mở đầu cho
phiên tranh luận, các bên chƣa đƣa ra quan điểm, lập luận về chứng cứ và các tình tiết
trong vụ án mà KSV đã đề xuất nhƣ đã nêu sẽ gây áp lực cho việc thực hiện quyền bào
chữa của bị cáo và phiên tranh luận sẽ kém phần sinh động. Kiểm sát viên chỉ nên kết
luận về tội danh và khung hình phạt, còn việc đề xuất mức án cụ thể và các vấn đề cụ thể
khác của KSV trƣớc khi bƣớc vào tranh luận là chƣa hợp lý. Khoản 3 Điều 321 Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 đƣợc xây dựng nhƣ sau:
“Điều 321. Luận tội của Kiểm sát viên
3. Kiểm sát viên đưa ra kết luận về tội danh, khung hình phạt và hành vi bị cáo đã
thực hiện; Kiểm sát viên có thể kết luận bị cáo phạm tội khác và khung hình phạt khác với
quyết định truy tố, nhưng phải tuân thủ quy định về giới hạn của việc xét xử của Bộ luật
này; nếu thấy không có căn cứ buộc tội thì kết luận bị cáo không phạm tội và rút toàn bộ
quyết định truy tố”.
- Kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 323 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (Trở lại
việc hỏi). Theo đó thẩm quyền quyết định trở lại xét hỏi không nên chỉ do HĐXX đơn
phƣơng áp dụng, mà phải dựa vào đề nghị của các chủ thể đảm trách việc xét hỏi, tranh
luận nhƣ KSV và ngƣời bào chữa. Vì họ là các bên chịu trách nhiệm chứng minh tại phiên
tòa, do đó họ trực tiếp phát hiện và cần thiết phải trở lại xét hỏi hay không. Cụ thể Điều
323 đƣợc bổ sung nhƣ sau:
135
“Điều 323. Trở lại việc hỏi
Theo đề nghị của Kiểm sát viên, người bào chữa hoặc nếu qua tranh luận mà thấy
còn có tình tiết vụ án chƣa đƣợc hỏi, chƣa đƣợc làm sáng tỏ thì Hội đồng xét xử phải
quyết định trở lại việc hỏi. Xét hỏi xong phải tiếp tục tranh luận”.
- Kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 325 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (Xem xét
việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa”, bằng việc khắc
phục mâu thuẫn về thẩm quyền của Tòa án trong vấn đề rút quyết định truy tố. Đó là KSV
đã rút quyết định truy tố nhƣng HĐXX vẫn tiến hành xét xử là mâu thuẫn với chức năng
xét xử. Vì giới hạn xét xử và quyền công tố của VKS đặt ra yêu cầu nếu không có buộc
tội thì không phát sinh việc xét xử. Cụ thể Điều 325 đƣợc sửa đổi, bổ sung theo hƣớng:
Nếu KSV rút một phần quyết định truy tố thì Tòa án xét xử phần còn lại, nếu KSV rút
toàn bộ quyết định truy tố thì Tòa án phải tuyên bố bị cáo không phạm tội. Điều 325 đƣợc
thiết kế nhƣ sau:
“Điều 325. Xem xét việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại
phiên tòa
1. Khi Kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử xét xử
phần còn lại; nếu Kiểm sát viên kết luận về tội bằng hoặc nhẹ hơn tội đã truy tố bị cáo thì
Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án.
2. Trong trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì Hội đồng xét
xử yêu cầu những người tham gia phiên tòa trình bày ý kiến về việc rút truy tố đó; sau khi
những người này đưa ra ý kiến Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không phạm tội và giải
thích cho bị cáo và người tham gia tố tụng khác về quyền được kháng cáo quyết định
tuyên bố bị cáo không phạm tội”.
Ngoài ra để tăng tính tranh tụng, tác giả Luận án đề xuất hoàn thiện một số quy
định khác của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 liên quan đến thủ tục xét hỏi, tranh luận
tại PTHSST nhƣ sau:
Thứ nhất, hoàn thiện quy định về triệu tập ngƣời làm chứng ra trƣớc phiên tòa:
Kiến nghị bổ sung một điều luật vào Mục II, Chƣơng XXI của Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2015 (Chuẩn bị xét xử) về “Triệu tập ngƣời làm chứng”, nhằm khắc phục thực
136
trạng việc triệu tập ngƣời làm chứng ra phiên tòa do Tòa án quyết định, KSV và ngƣời
bào chữa chỉ có quyền đề nghị mà không có quyền triệu tập ngƣời làm chứng của riêng
mình, ảnh hƣởng đến việc chứng minh của họ. Giải pháp này mang yếu tố tranh tụng cao,
nó sẽ cân bằng lợi thế và tạo ra sự bình đẳng, khách quan giữa các bên trong phiên tranh
tụng. Lƣy ý là Điều luật mới bổ sung sẽ không còn giao quyền triệu tập ngƣời làm chứng
cho Tòa án, mà chuyển sang cho KSV và ngƣời bào chữa. Đồng thời mở rộng phạm vi về
thời gian triệu tập ngƣời làm chứng không những ở giai đoạn chuẩn bị xét xử, mà trong
thời gian đang diễn ra phiên tòa, nếu có yêu cầu thì HĐXX phải thực hiện việc hoãn phiên
tòa để thực hiện.
“Điều ... Triệu tập người làm chứng
Căn cứ vào lịch xét xử của Tòa án, Kiểm sát viên và người bào chữa xem xét quyết
định việc triệu tập người làm chứng ra phiên tòa để thực hiện việc chứng minh. Trong
quá trình diễn ra phiên tòa cho đến khi kết thúc việc tranh luận, Hội đồng xét xử xem xét
hoãn phiên tòa để triệu tập thêm người làm chứng theo đề nghị của Kiểm sát viên, người
bào chữa và người tham gia tố tụng khác”.
Thứ hai, mở rộng quyền thu thập chứng cứ của ngƣời bào chữa để bảo đảm cho
việc tranh tụng của chủ thể này:
Kiến nghị sửa đổi, bổ sung điểm a, khoản 1 Điều 73 và khoản 2 Điều 88 của Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015 theo hƣớng quy định cụ thể: Ngƣời bào chữa khi gặp ngƣời
mà mình bào chữa, bị hại, ngƣời làm chứng và những ngƣời khác biết về vụ án để hỏi và
nghe họ trình bày, có quyền đƣợc ghi lời khai hoặc ghi âm, ghi hình việc hỏi của những
ngƣời này. Mặt khác, những ngƣời đƣợc ngƣời bào chữa hỏi có nghĩa vụ xác nhận bằng
chữ ký của mình hoặc điểm chỉ vào văn bản do ngƣời bào chữa lập. Quy định bổ sung các
vấn đề nêu trên sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngƣời bào chữa trong việc thu thập và
chuẩn bị chứng cứ để tham gia tranh tụng tại phiên tòa. Cụ thể điểm a, khoản 1 Điều 73
và khoản 2 Điều 88 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đƣợc sửa đổi, bổ sung nhƣ sau:
“Điều 73. Quyền và nghĩa vụ của ngƣời bào chữa
1. Ngƣời bào chữa có quyền:
137
a) Gặp, hỏi và nghe ngƣời bị bắt, ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo trình bày; được
ghi lời khai hoặc ghi âm, ghi hình việc hỏi của những người này.
Người được người bào chữa hỏi có nghĩa vụ xác nhận bằng chữ ký của mình hoặc
điểm chỉ vào văn bản do người bào chữa lập”.
“Điều 88. Thu thập chứng cứ
2. Để thu thập chứng cứ, ngƣời bào chữa có quyền gặp ngƣời mà mình bào chữa,
bị hại, ngƣời làm chứng và những ngƣời khác biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về
những vấn đề liên quan đến vụ án. Người bào chữa có quyền ghi lời khai hoặc ghi âm,
ghi hình việc hỏi của những người này.
Người được người bào chữa hỏi có nghĩa vụ xác nhận bằng chữ ký của mình hoặc
điểm chỉ vào văn bản do người bào chữa lập; ...”.
3.3. Tăng cƣờng các biện pháp bảo đảm thực hiện quy định Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015 về thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Việc đề xuất các biện pháp bảo đảm thực hiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015 nhằm mục đích tăng cƣờng tính tranh tụng tại PTHSST theo tinh thần cải cách
tƣ pháp ở nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay. Cụ thể:
Một là, tăng cường các biện pháp triển khai thực hiện Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015 nói chung, thủ tục xét hỏi và tranh luận tại PTHSST nói riêng:
- Đề xuất các cơ quan VKSND, TAND, Bộ Tƣ pháp và Cơ quan điều tra các cấp
chịu trách nhiệm và kịp thời tập huấn, tuyên truyền thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015. Hoạt động tập huấn, tuyên truyền Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ở các trƣờng
đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và tƣơng đƣơng giao nhiệm vụ cho Sở Tƣ
pháp phối hợp với các trƣờng đào tạo luật và chuyên ngành pháp lý. Tránh thực trạng Bộ
luật chậm đi vào cuộc sống do chậm tuyên truyền, tập huấn.
- Đề xuất VKSNDTC, TANDTC kịp thời ban hành văn bản hƣớng dẫn thi hành Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, tránh thực trạng Bộ luật
chậm đƣợc hƣớng dẫn thi hành.
Hai là, về cơ sở vật chất phục vụ phiên toà:
138
- Đề xuất cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền kịp thời xây dựng trụ sở Tòa án, với
thiết kế phòng xử án đủ rộng, có phòng nghị án, phòng lƣu trữ vật chứng và phòng chờ
xét xử (gồm có mục đích cách ly bị cáo, cách ly ngƣời làm chứng). Đề xuất này rất quan
trọng, vì nó không những triển khai thực hiện có hiệu quả Điều 257 Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2015 về phòng xử án, mà còn khắc phục đƣợc thực trạng phiên tòa đƣợc tổ chức
thiếu tính trang nghiêm, chật hẹp, quá tải, thiếu cơ sở vật chất và phƣơng tiện để thực hiện
việc cách ly bị cáo, cách ly ngƣời làm chứng, giảm chất lƣợng, hiệu quả tranh tụng. Tuy
nhiên việc xây dựng lại trụ sở Tòa án các cấp với mô hình mới chƣa thực hiện ngay đƣợc,
đòi hỏi phải có lộ trình thực hiện là 5 năm (từ năm 2018 đến năm 2022).
- Đề xuất đổi mới hình thức PTHSST bằng việc bố trí lại phòng xử án, bố trí hợp
lý chỗ ngồi của các chủ thể tham gia phiên tòa và kết cấu lại các yếu tố khác của phiên
tòa; đi đôi với định hƣớng sửa đổi Điều 256 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (Nội quy
phiên tòa), theo đó quy định việc ghi âm, ghi hình tại phiên tòa, nhằm bảo đảm trên thực
tế xét xử đƣợc công khai, dân chủ, khách quan. Nó cũng sẽ hỗ trợ, tăng cƣờng hoạt động
tranh tụng của ngƣời bào chữa. Cụ thể đề xuất mô hình phòng xử án nhƣ sau:
139
Mô hình: Phòng xử án thông thƣờng trong điều kiện cải cách tƣ pháp
Mô tả: 1) Vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì HĐXX sơ thẩm có thể gồm 02 Thẩm phán và 03
Hội thẩm;
2) Không có vành móng ngựa; bị cáo có bàn, ghế đề ngồi thực hiện việc ghi chép.
3) Hội đồng xét xử ngồi trên bục cao nhất; Thƣ ký phiên tòa ngồi dƣới một cấp, quay lƣng vào
HĐXX; Kiểm sát viên và Luật sƣ bào chữa, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo, các đƣơng
sự ngồi đối diện nhau và ở phía dƣới HĐXX; thấp hơn nữa là vị trí của những ngƣời tham gia tố tụng,
ngƣời tham dự phiên tòa118.
118 Mô tả thứ ba này đƣợc vận dụng Công văn số 88/TANDTC-PC ngày 1/4/2016 của TANDTC về việc triển khai
góp ý thực hiện mô hình phòng xử án.
Thẩm phán
Chủ tọa
Hội thẩm 1
Hội thẩm 2
Lối vào Lối ra
Kiểm sát viên Ngƣời bào chữa
Bàn để vật chứng
Lối vào Lối ra
Ngƣời phiên dịch,
ngƣời giám định,
ngƣời làm chứng
lối ra lối vào
Bị cáo
Thƣ ký Tòa án
Bị hại,
nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự,
140
Ba là, về mặt đạo đức nghề nghiệp, chuyên môn nghiệp vụ và đào tạo các chức
danh Thẩm phán và Kiểm sát viên:
- Đề xuất các cơ quan tƣ pháp trung ƣơng liên tịch ban hành quy tắc ứng xử tại
phiên tòa đối với HĐXX, KSV và ngƣời bào chữa. Trong đó nghiêm cấm cách ứng xử,
phát ngôn và có hành vi thiếu văn minh tại phiên tòa, nếu vi phạm thì tùy mức độ phải xử
lý kỷ luật của ngành và theo quy chế nghề nghiệp.
- Đề xuất đổi mới công tác đào tạo các chức danh tƣ pháp, theo hƣớng đào tạo bài
bản, chuyên trách gắn với công việc chuyên môn đảm nhiệm. Đó là theo lĩnh vực chuyên
môn của KSV và Thẩm phán. Cụ thể nhƣ đào tạo KSV trong lĩnh vực kiểm sát án điều
tra, kiểm sát án dân sự, kiểm sát giam giữ cải tạo và thi hành án hình sự .v.v; đào tạo
Thẩm phán giải quyết án hình sự, giải quyết án dân sự, giải quyết án hành chính .v.v. Việc
đào tạo chuyên trách từng lĩnh vực giúp cho KSV và Thẩm phán đạt đƣợc chuyên môn
sâu, vững vàng trong nghề nghiệp. Khắc phục thực trạng hiện này KSV và Thẩm phán
đƣợc đào tạo giàn trải, khi ra trƣờng làm công tác thực tiễn mắc sai sót trong việc vận
dụng pháp luật. Đồng thời trong công tác đào tạo cán bộ tƣ pháp không những phải bảo
đảm vững về chuyên môn pháp lý mà cần chú ý đào tạo đạo đức nghề nghiệp, đạo đức
cách mạng và đi đôi với việc trang bị kiến thức cơ bản về các lĩnh vực xã hội.
- Đề xuất trong việc phân công công tác đối với chức danh tƣ pháp chuyên trách
từng lĩnh vực tố tụng. Kiểm sát viên, Thẩm phán phải đƣợc làm việc chuyên trách trong
từng lĩnh vực tố tụng, thì họ mới vững vàng về kiến thức pháp lý, sâu về chuyên môn, thu
lƣợm và phát triển đƣợc nhiều kinh nghiệm thực tiễn. Vì kinh nghiệm thực tiễn giải quyết
án hình sự đƣợc tích lũy càng nhiều thì chất lƣợng giải quyết án càng tốt. Giải pháp này
góp phần rất quan trọng khắc phục án bị oan, sai hoặc bị hủy, cải sửa trong những năm
qua.
- Đề xuất các cơ quan tƣ pháp trung ƣơng có cơ chế pháp lý và biện pháp thực tiễn
thu hút, tuyển dụng, bổ nhiệm và đào tạo ngắn hạn, bổ sung những ngƣời đã là luật sƣ,
công chứng viên trở thành Thẩm phán hoặc Kiểm sát viên; cán bộ làm công tác khác
trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội nhƣ kỹ sƣ, cán bộ thuế, cán bộ hải quan, kiểm lâm, quản
lý hành chính .v.v, có thể đƣợc tuyển dụng làm cán bộ Kiểm sát, Tòa án sau đó đào tạo
141
chuyên môn pháp lý, nghiệp vụ cho họ để làm KSV hoặc Thẩm phán; cán bộ đang làm
Kiểm sát viên, Thẩm phán có thể đƣợc điều chuyển sang công tác ở lĩnh vực quản lý nhà
nƣớc, sau đó trở lại làm nhiệm vụ KSV và Thẩm phán. Giải pháp này nhằm bổ sung, tận
dụng nguồn nhân lực có chất lƣợng cao và tạo ra sự linh hoạt trong công tác bổ nhiệm các
chức danh tƣ pháp. Luật sƣ có thể chuyển sang làm Kiểm sát viên, Thẩm phán vì họ là
ngƣời có trình độ pháp lý chuyên sâu; các cán bộ công tác ở lĩnh vực quản lý hành chính
là những ngƣời am hiểu khoa học, họ là những nhà chuyên môn giỏi ở các lĩnh vực khác
nhau, nếu công tác trong ngành tƣ pháp sẽ phát huy đƣợc lợi thế. Ví dụ nhƣ cán bộ cơ
quan thuế, thì giỏi về lĩnh vực thuế. Còn Kiểm sát viên, Thẩm phán có thể chuyển sang
làm cơ quan quản lý hành chính một thời gian để nắm đƣợc kinh nghiệm về lĩnh vực đó,
phục vụ giải quyết án trong từng lĩnh vực đƣợc thuận lợi.
- Đề xuất đổi mới quy trình bổ nhiệm KSV và Thẩm phán. Theo đó các chức danh
này đƣợc đƣa ra dân bầu ở từng địa bàn cấp huyện của nơi trụ sở Tòa án, theo nhiệm kỳ 5
năm. Nhƣ vậy sẽ nâng cao đƣợc ý thức, trách nhiệm của KSV và Thẩm phán.
- Đề xuất Bộ Tƣ pháp phối hợp với Bộ Y tế thành lập cơ quan giám định tƣ pháp ở
cấp huyện (gọi là Tổ chức giám định Tƣ pháp cấp huyện) để kịp thời giám định trong các
trƣờng hợp thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản, bệnh lý tâm thần, giám định cơ học
.v.v., phục vụ kịp thời và tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan điều tra, truy tố, xét xử ở địa
phƣơng. Nó cũng sẽ giảm tải cho cơ quan giám định ở cấp tỉnh hiện nay.
Bốn là, về nhận thức của các chủ thể tham gia xét hỏi và tranh luận, cũng như Hội
đồng xét xử:
Việc nhận thức đúng đắn về đƣờng lối cải cách tƣ pháp và việc đổi mới PTHSST
theo hƣớng tranh tụng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Việc nhận thức đúng đắn đó phải
xuất phát từ lợi ích chung của nhà nƣớc và xã hội, phải đổi mới tƣ duy theo hƣớng hoạt
động TTHS là nhằm bảo đảm pháp chế, xây dựng nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam và cụ
thể hơn nữa nhằm bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công dân trong hoạt động TTHS, chứ
không phải từ lợi ích cục bộ ngành và địa phƣơng. Nếu các chủ thể là ngƣời tiến hành tố
tụng không chịu đổi mới tƣ duy hoặc chậm đổi mới thì hậu quả là phiên tranh tụng sẽ
không đạt đƣợc yêu cầu theo hƣớng tranh tụng công bằng; quyền lợi của ngƣời tham gia
142
tố tụng không đƣợc bảo vệ kịp thời và đầy đủ. Bởi vì chỉ có thể nhận thức đúng đắn và
tích cực đổi mới tƣ duy thì hoạt động tố tụng sẽ khách quan, công tâm hơn, tránh đƣợc
định kiến buộc tội và thiên vị lẫn nhau trong hoạt động tranh tụng. Bên cạnh đó còn là
nhận thức về trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng- trong
đó Thẩm phán và KSV phải nâng cao ý thức trách nhiệm của mình trong việc giải quyết
VAHS, làm cho hoạt động thực tiễn tránh khỏi sự lạm quyền, tùy tiện, tùy nghi. Trong đó
hoạt động phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng là không thể thiếu, tuy nhiên nếu
chỉ dừng lại ở các văn bản ký kết giao ƣớc phối hợp với nhau là chƣa đủ mà cần phải định
kỳ tổng kết rút kinh nghiệm về vấn đề này. Cần nhận thức đúng đắn rằng trong quan hệ
phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng không đƣợc bao biện lẫn nhau, làm trái thủ
tục tố tụng, tránh sự hoài nghi của xã hội về tình trạng “án bỏ túi”. Đối với KSV trong
hoạt động tranh tụng tại phiên tòa cần chủ động xét hỏi và tích cực tranh luận. Tránh đùn
đẩy trách nhiệm xét hỏi cho HĐXX và tránh việc không đối đáp đầy đủ các ý kiến tranh
luận của ngƣời bào chữa và của bị cáo. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, thực hiện
việc buộc tội phải là ngƣời tích cực trong hoạt động chứng minh tại phiên tòa, còn HĐXX
cần phải tránh tƣ tƣởng định kiến buộc tội và thiên vị KSV và nên tập trung nhiều hơn
vào việc điều khiển phiên tòa và ra bản án.
Năm là, phát huy vai trò chủ động của luật sư:
Góp phần đạt hiệu quả, chất lƣợng cao trong hoạt động tranh tụng thì yếu tố chủ
động của luật sƣ đóng vai trò rất quan trọng. Muốn vậy HĐXX phải bình đẳng trong hoạt
động điều khiển phiên tòa, không đƣợc thiên vị KSV và tạo điều kiện thuận lợi cho luật
sƣ tranh tụng. Về phần mình luật sƣ phải chủ động xét hỏi, đƣa ra chứng cứ, cơ sở pháp lý
và lập luận để tranh luận với KSV; kịp thời trong việc đƣa ra các yêu cầu, kiến nghị tại
phiên tòa. Luật sƣ không những phải tích cực, chính xác hơn trong việc đƣa ra ý kiến lập
luận bào chữa mà còn phải trên tinh thần phối hợp với HĐXX và Kiểm sát viên. Các bên
tranh tụng phải trên tinh thần hợp tác, phối hợp và thể hiện sự văn minh, văn hóa pháp lý
tại phiên tòa. Muốn vậy luật sƣ phải chuẩn bị chứng cứ, tài liệu và nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ
án trƣớc khi ra phiên tranh tụng. Khi phiên tòa bế mạc, luật sƣ phải kiểm tra biên bản
phiên tòa ngay, nếu cần đƣa ra ý kiến ghi nhận vào biên bản. Mặt khác, luật sƣ cần tự rèn
143
luyện mình, học hỏi trao dồi kỷ năng nghiệp vụ; bên cạnh đó để có nhiều kinh nghiệm
trong hoạt động nghề nghiệp thì luật sƣ phải chủ động thu thập, tìm kiếm chứng cứ, ví dụ
nhƣ chủ động gặp Cơ quan điều tra và VKS để tham dự, chứng kiến một số hoạt động
điều tra, chứ không chỉ là thụ động khi dựa vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Mặt khác
kiến nghị Bộ Tƣ pháp hàng năm có kế hoạch cụ thể và mở các lớp bồi dƣỡng kỹ năng bào
chữa cho luật sƣ, trong đó coi trọng yếu tố thực hành nghề nghiệp và phổ biến văn bản
pháp luật mới và đào tạo ngoại ngữ cho luật sƣ; theo định kỳ cần phải sát hạch trình độ
nghiệp vụ của luật sƣ. Ở địa phƣơng, Sở Tƣ pháp hàng năm tổ chức cuộc thi “Luật sƣ tài
ba”, để các luật sƣ tham gia, nhằm nâng cao vai trò, kinh nghiệm nghề nghiệp cho họ.
Sáu là, về cách thức lập bản cáo trạng:
Đề xuất VKSNDTC ra văn bản hƣớng dẫn cách thức lập cáo trạng trong ngành
Kiểm sát, theo đó về nội dụng: Cáo trạng phải ngắn gọn, phần quyết định không còn đề
xuất HĐXX xử lý về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và các biện pháp tƣ pháp, bởi vì
muốn xử lý phần này thì phải thông qua hoạt động chứng minh, theo yêu cầu của bị hại, ý
kiến của bị cáo tại phiên tòa.
Kết luận Chƣơng 3:
Giải pháp đƣợc đƣa ra ở hai phƣơng diện về mặt lập pháp và thực thi pháp luật,
bảo đảm tính khoa học và có tính khả thi cao.
Giải pháp về mặt hoàn thiện pháp luật: Tập trung vào hoàn thiện các quy định của
pháp luật TTHS về thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Cụ thể nhƣ
kiến nghị bỏ đi thủ tục đọc cáo trạng để tránh lãng phí thời gian, thay thế bởi thủ tục trình
bày lời buộc tội và ý kiến của bị cáo về nội dung buộc tội do KSV đƣa ra và thủ tục bị cáo
đƣa ra ý kiến có nhận tội hay không; làm rõ hơn nhƣ thế nào là ý kiến bổ sung cáo trạng,
đó là KSV bổ sung luận điểm truy tố trong trƣờng hợp cần thiết để giải thích, làm rõ cáo
trạng; khẳng định quyền buộc tội của bị hại trong trƣờng hợp vụ án đƣợc khởi tố theo yêu
cầu của họ. Nhƣ vậy sẽ khẳng định dứt khoát rằng bị hại có vai trò là chủ thể của bên
buộc tội và có quyền đƣợc buộc tội tại phiên tòa hình sự sơ thẩm; kiến nghị đổi mới
phƣơng pháp xét hỏi và trình tự xét hỏi. Ở đây thành tựu đạt đƣợc rất quan trọng là mở
rộng quyền trực tiếp xét hỏi cho ngƣời tham gia tố tụng nhằm tạo ra sự linh hoạt và tăng
144
cƣờng tính tranh tụng; loại bỏ quy định về giới hạn nội dung xét hỏi .v.v. Các giải pháp cụ
thể nhằm hoàn thiện các thủ tục về xét hỏi, tranh luận theo hƣớng loại bỏ điểm bất cập, bổ
sung nội dung mới nhằm bảo đảm quyền cho bị cáo và ngƣời tham gia tố tụng và để hoạt
động xét hỏi mang tính toàn diện, khách quan hơn.
Giải pháp về tăng cƣờng thực hiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
về thủ tục xét hỏi, tranh luận tại PTHSST đƣợc chú trọng ở giải pháp triển khai thực hiện
nhƣ tuyên truyền, tập huấn, ban hành văn bản hƣớng dẫn, chuẩn bị cơ sở vật chất phục vụ
xét xử; nhóm các đề xuất về công tác đào tạo, tuyển dụng, về chuyên môn của Thẩm
phán, đƣợc thực thi khắc phục cơ bản trình độ chuyên môn yếu kém của KSV, Thẩm
phán, góp phần đƣa hoạt động tố tụng trở nên chuyên nghiệp, tăng cƣờng trách nhiệm,
hạn chế oan sai, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; để hỗ trợ đắc lực cho hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử ở địa phƣơng thì thành lập cơ quan giám định tƣ pháp ở cấp huyện
là rất cần thiết, để khắc phục tình trạng chậm giải quyết án do phải chờ kết quả giám định
.v.v; đề xuất VKSNDTC kịp thời hƣớng dẫn thống nhất việc lập cáo trạng bỏ đi phần đề
xuất của VKS về hình phạt, mức độ hình phạt, trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và
biện pháp tƣ pháp, vì nó gây áp lực cho việc thực hiện quyền bào chữa và phiên tranh
luận sẽ kém phần sinh động; đề xuất ban hành quy tắc ứng xử tại phiên tòa giữa HĐXX,
KSV và ngƣời bào chữa để khắc phục thực trạng phát ngôn, cƣ xử thiếu chuẩn mực, thiếu
văn minh tại phiên tòa, gây ra phản cảm trong nhân dân .v.v. Các giải pháp này nhằm bảo
đảm triển khai thực hiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục xét
hỏi, tranh luận và tăng tính tranh tụng đáp ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp.
145
KẾT LUẬN
Nghiên cứu thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm cho thấy vai
trò trọng tâm, cơ bản của nó trong quá trình tranh tụng. Luận án đạt đƣợc những giá trị cơ
bản nhƣ sau:
Một là, các điểm mới trong phần nghiên cứu lý luận của Luận án, đó là:
(i) khái niệm khoa học về thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm đƣợc chứng tỏ: trƣớc hết nó là một thủ tục tố tụng có tính bắt buộc, công khai, thể
hiện sự dân chủ, bình đẳng, đƣợc thực hiện bởi các chủ thể theo trình tự luật định. Thủ tục
xét hỏi, tranh luận không thể thiếu vai trò điều khiển của chủ tọa phiên tòa. Thủ tục xét
hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm có vai trò trọng tâm trong quá trình tranh
tụng, đều có mục đích chung là nhằm làm rõ sự thật khách quan vụ án, bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia tố tụng hình sự .v.v. Nếu nhƣ thủ tục xét hỏi
phản ánh đặc điểm mô hình tố tụng hình sự, thì trong thủ tục tranh luận các chức năng cơ
bản của tố tụng hình sự đƣợc thể hiện rõ nét nhất, phản ánh sự bình đẳng của các bên
tham gia tranh tụng. Thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm với mục
đích cụ thể là để làm rõ những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án, làm rõ các tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ và các tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án .v.v.
(ii) Luận án lần đầu làm rõ về mối quan hệ giữa thủ tục xét hỏi và thủ tục tranh
luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, mà nội dung cơ bản của nó cho thấy thủ tục xét hỏi và
thủ tục tranh luận có quan hệ tác động lẫn nhau, biện chứng với nhau và làm tăng tính
tranh luận; chúng xuất phát từ nền tảng truyền thống pháp lý của quốc gia và phản ánh
mối quan hệ giữa các chủ thể tiến hành tố tụng với nhau và với cả ngƣời tham gia tố tụng.
Về mối quan hệ giữa các chủ thể tiến hành tố tụng, có thể rút ra nhận định nhƣ sau: Quan
hệ giữa Hội đồng xét xử với Kiểm sát viên vừa là quan hệ phối hợp vừa là quan hệ chế
ƣớc; quan hệ giữa Hội đồng xét xử với ngƣời bào chữa là quan hệ chấp hành sự điều hành
và quan hệ giữa Kiểm sát viên với ngƣời bào chữa vừa là quan hệ phối hợp vừa là quan
hệ đối tụng. Các quan hệ này đƣợc hình thành và xuất phát từ các chức năng cơ bản của tố
146
tụng và nhằm đáp ứng với nhu cầu của thực tiễn xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự
sơ thẩm;
(iii) Luận án làm sáng tỏ cơ sở xác định thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm, với nội dung trọng tâm là mô hình tố tụng hình sự Việt Nam với yêu cầu
cải cách tƣ pháp và nguyên tắc tố tụng hình sự. Theo đó mô hình tố tụng thẩm vấn ở nƣớc
ta đang vận hành với những đặc trƣng của nó chi phối sâu sắc đến việc xây dựng và áp
dụng thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Về nguyên tắc tố tụng hình
sự, cho thấy nguyên tắc xét xử kịp thời, công bằng và công khai, nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của ngƣời bị buộc tội và nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử- đây
là các nguyên tắc định hình, tác động nhiều đến hoạt động xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm.
Hai là, Luận án làm rõ thực trạng xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Nổi bật ở các vấn đề:
(i) ở các thời điểm lập pháp khác nhau, thủ tục xét hỏi, tranh luận là công cụ hữu
hiệu để cơ quan tiến hành tố tụng làm rõ sự thật vụ án, nhằm ra bản án đƣợc khách quan,
toàn diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và xã hội. Trƣớc khi ban hành
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và năm 2013, hoạt động xét hỏi, tranh luận đƣợc điều
chỉnh bằng các thông tƣ và sắc lệnh, nhƣng cũng đã thiết lập đƣợc nhiều thủ tục về xét
hỏi, tranh luận hoặc có liên quan, làm nền tảng cho hoạt động tranh tụng; nhiều giá trị tiến
bộ của nó đƣợc luật tố tụng hình sự hiện hành kế thừa và phát triển. Tuy vậy ở đó quy
định về thủ tục xét hỏi nặng về thẩm vấn, chƣa coi trọng thủ tục tranh luận. Phiên tòa hình
sự sơ thẩm chƣa có sự bình đẳng thực sự, ngƣời tham gia tố tụng có rất ít quyền để bảo vệ
mình;
(ii) đánh giá sâu các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thủ tục xét
hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm cho thấy giá trị tiến bộ của nó, nhƣng lại bộc
lộ sâu sắc những vƣớng mắc, hạn chế làm ảnh hƣởng đến chất lƣợng tranh tụng và chất
lƣợng bản án. Các quy phạm về thủ tục xét hỏi, tranh luận còn chƣa hợp lý, bó hẹp quyền
chứng minh của các bên tranh tụng; chƣa tạo ra sự bình đẳng thực sự giữa các chủ thể
buộc tội và bào chữa; Hội đồng xét xử đảm trách việc xét hỏi và có thiên hƣớng buộc tội
147
là chƣa phù hợp với thực tiễn tranh tụng công bằng; quyền của ngƣời tham gia tố tụng,
đặc biệt là quyền bào chữa chƣa đƣợc mở rộng cho phù hợp với giai đoạn cải cách tƣ
pháp và xây dựng nhà nƣớc pháp quyền hiện nay, cũng nhƣ yêu cầu phải cụ thể hóa Hiến
pháp năm 2013 và nhu cầu hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự.
Luận án so sánh, đánh giá những điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
về thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Qua đó giúp cho việc nhìn
nhận, tổng hợp những vấn đề nào trong nghiên cứu cần phải đƣa ra giải pháp hoàn thiện
về mặt pháp luật, bảo đảm tính mới và phù hợp với thực tiễn.
(iii) Luận án làm rõ quy định về thủ tục xét hỏi và tranh luận ở một số nƣớc trên
thế giới, rút ra kinh nghiệm đối với Việt Nam. Qua nghiên cứu đi đến nhận định rằng:
Thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ở Hoa Kỳ, Pháp và Nhật Bản
đƣợc thiết lập có tính tranh tụng cao; đƣợc bảo đảm trên thực tế, gắn với việc bảo đảm các
quyền của bị cáo, và vai trò của ngƣời làm chứng, bị hại rất đƣợc coi trọng .v.v. Tuy
nhiên các thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ở các nƣớc nêu trên với
hạn chế là phiên tòa phải trải qua nhiều thủ tục rƣờm rà, kéo dài, hao tốn sức lực, chi phí
và sự bị động thái quá của bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc chứng minh.
(iv) Luận án đánh giá sâu sắc hoạt động thực tiễn, đã chứng tỏ hoạt động buộc tội,
bào chữa và xét xử ngày càng tiến bộ, nhƣng vẫn chƣa đạt yêu cầu cải cách tƣ pháp. Tình
trạng án xét xử sơ thẩm bị oan sai, án phải cải sửa, hủy vẫn xảy ra nhiều năm chƣa có giải
pháp khắc phục hữu hiệu. Các vi phạm pháp luật mang tính phổ biến của cấp xét xử sơ
thẩm bị kiến nghị, kháng nghị vẫn với số lƣợng lớn. Tình trạng hoạt động tố tụng hình sự
vẫn còn xảy ra tùy tiện ảnh hƣởng đến chất lƣợng bản án và việc bảo vệ quyền cho ngƣời
tham gia tố tụng. Bên cạnh đó, về phía các cơ quan tiến hành tố tụng chƣa thực hiện đầy
đủ, đúng đắn ý thức trách nhiệm của mình. Cơ sở vật chất phục vụ xét xử còn chƣa đáp
ứng đƣợc yêu cầu thực tiễn; trình độ chuyên môn và công tác phân công xét xử của Thẩm
phán còn hạn chế; vấn đề văn hóa pháp lý tại phiên tòa biểu hiện trong việc phát ngôn, cƣ
xử gây ra phản cảm trong xã hội chƣa đƣợc khắc phục. Đối với ngƣời tham gia tố tụng
khi tham gia phiên tòa với trình độ văn hóa, hiểu biết pháp luật không đồng đều hoặc là
thiếu sự hợp tác đã gây khó khăn cho quá trình tranh tụng .v.v.
148
Nguyên nhân của thực tiễn áp dụng pháp luật, trƣớc hết là do hạn chế về mặt lập
pháp. Đó là pháp luật tố tụng hình sự chƣa giải quyết đúng đắn, khoa học về các vấn đề
cơ bản của tố tụng hình sự, nhƣ các mối quan hệ giữa các chức năng tố tụng; thủ tục xét
xử còn chƣa hợp lý. Ví dụ nhƣ thiếu quy phạm và cơ chế bảo đảm về các quyền của bị
can, bị cáo và ngƣời tham gia tố tụng, trong đó về quy phạm pháp luật cụ thể về thủ tục
xét hỏi, tranh luận còn nhiều vƣớng mắc, bất cập, thiếu đồng bộ. Nguyên nhân thực tiễn
khác là trong nhiều năm qua công tác đào tạo, bổ nhiệm, tuyển dụng, sắp xếp công việc
chuyên môn của Thẩm phán còn chƣa hợp lý; cơ sở vật chất phục vụ xét xử và công tác tổ
chức phiên tòa còn nhiều bất cập .v.v.
Ba là, trên cơ sở xác định nhu cầu của việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật tố tụng
hình sự về thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, Luận đã đƣa các giải
pháp có tính mới và có tính khả thi cao:
(i) các giải pháp về hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và quy
định có liên quan về thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, đã kiến nghị,
đề xuất khắc phục những vƣớng mắc, hạn chế về các vấn đề: Thủ tục trình bày và bổ sung
cáo trạng, về trình tự xét hỏi và phƣơng pháp xét hỏi, về phạm vi xét hỏi, về thủ tục hỏi và
biện pháp cách ly ngƣời làm chứng, về thủ tục công bố lời khai, xem xét vật chứng và vật
thể liên quan đến vụ án tại phiên tòa; về trình tự phát biểu khi tranh luận, về thủ tục trở lại
việc xét hỏi và xem xét việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn, về việc
triệu tập ngƣời làm chứng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, mở rộng quyền bào chữa .v.v.
(ii) Luận án đề xuất các biện pháp tăng cƣờng thực hiện quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 về thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, chú
trọng các biện pháp triển khai thực hiện, khắc phục những bất cập về thực thi pháp luật.
Các giải pháp mang tính thực tiễn, có ý nghĩa tích cực, hƣớng cho hoạt động tố tụng đƣợc
chuyên nghiệp hóa và theo hƣớng đổi mới phiên tòa hình sự theo tinh thần cải cách tƣ
pháp hiện nay.
Nhƣ vậy có thể khẳng định rằng các kết quả nghiên cứu của Luận án có giá trị về
mặt lý luận, thực tiễn và khoa học. Cụ thể hơn kết quả nghiên cứu của Luận án làm rõ, bổ
sung và phát triển những vấn đề lý luận về lĩnh vực nghiên cứu của đề tài trong kho tàng
149
khoa học pháp lý Việt Nam; làm rõ thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam và thực tiễn thực hiện về thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm; và
với việc đƣa ra một hệ thống các giải pháp của Luận án có cơ sở khoa học và có tính khả
thi cao, đƣợc đề xuất theo hƣớng tăng tính tranh tụng. Qua đó giúp cho việc tăng cƣờng
nhận thức, thúc đẩy hoạt động thực tiễn tranh tụng, góp phần giải quyết đúng đắn vụ án
hình sự, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân và xã hội./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_de_xuat_giai_phap_bao_dam_thuc_hien_thu_tuc_xet_hoi.pdf