Giữa đạo đức và pháp luật có quan hệvới nhau, tác động lẫn nhau. Pháp
luật là hệthống những qui tắc xửsự(hệthống những qui phạm) do Nhà nước
đặtra và đảm bảo thực hiện, thểhiện ý chí của giai cấp thực hiện nhiệm vụ
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển phù hợp với lợi ích của giai cấp
mình. Nó là công cụhiệu quảcủa Nhà nước trong quản lý xã hội.
Ý thức đạo đức và ý thức pháp luật có mối quan hệbiện chứng với nhau và
đều có chức năng chung là điều chỉnh các quan hệxã hội nhằm bảo tồn, phát
triển xã hội. Pháp luật có vai trò quan trọng đối với đạo đức nói chung, đối với
phát huy các giá trịđạo đức truyền thống trong xây dựng lối sống nói riêng:
- Pháp luật bảo vệ, củng cố, nâng cao hiệu quảviệc giáo dục các giá trị
đạo đức truyền thống, tạo môi trường pháp lý đểbảo vệnhững phong tục tập
quán, truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
- Pháp luật tạo điều kiện định hướng hành vi con người theo những
yêu cầu từphía xã hội nhằm phát huy các giá trịđạo đức truyền thống trong
xây dựng lối sống cho sinh viên.
177 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2198 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ới để trở thành tấm gương
sáng cho sinh viên noi theo. Thực hiện có hiệu quả cuộc vận động lớn của
ngành giáo dục: “Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương sáng về tự học và
sáng tạo”, mỗi cán bộ, giảng viên trong nhà trường nhất thiết phải là tấm
gương sáng đối với sinh viên về mọi mặt.
4.2.3. Nâng cao vai trò của pháp luật trong việc phát huy các giá trị
đạo đức truyền thống nhằm xây dựng lối sống mới cho sinh viên
Giữa đạo đức và pháp luật có quan hệ với nhau, tác động lẫn nhau. Pháp
luật là hệ thống những qui tắc xử sự (hệ thống những qui phạm) do Nhà nước
đặt ra và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thực hiện nhiệm vụ
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển phù hợp với lợi ích của giai cấp
mình. Nó là công cụ hiệu quả của Nhà nước trong quản lý xã hội.
Ý thức đạo đức và ý thức pháp luật có mối quan hệ biện chứng với nhau và
đều có chức năng chung là điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm bảo tồn, phát
triển xã hội. Pháp luật có vai trò quan trọng đối với đạo đức nói chung, đối với
phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng lối sống nói riêng:
- Pháp luật bảo vệ, củng cố, nâng cao hiệu quả việc giáo dục các giá trị
đạo đức truyền thống, tạo môi trường pháp lý để bảo vệ những phong tục tập
quán, truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
- Pháp luật tạo điều kiện định hướng hành vi con người theo những
yêu cầu từ phía xã hội nhằm phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong
xây dựng lối sống cho sinh viên.
147
- Pháp luật giúp cho các chuẩn mực đạo đức mới hình thành trên nền
tảng giá trị đạo đức truyền thống gắn với tinh hoa nhân loại, phát triển ổn định
trong cuộc sống. Việc phát hiện và ủng hộ những chuẩn mực đạo đức mới tiến
bộ luôn là một biểu hiện của tiến bộ xã hội và định hướng cho lối sống mới
của sinh viên. Ví dụ như chuẩn mực bình đẳng nam nữ, khi luật hóa trong luật
về bình đẳng giới có thể củng cố, hoàn thiện trong xã hội hiện đại.
Từ căn cứ trên cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý
trong việc phát huy các giá trị đạo đức truyền thống nhằm xây dựng lối sống
mới cho sinh viên. Để đạt được mục tiêu trên cần thực hiện những vấn đề sau:
- Cần đẩy nhanh hơn nữa công tác rà soát văn bản xây dựng, các văn bản
hướng dẫn thực hiện trong giáo dục, xây dựng môi trường học tập lành mạnh.
- Cần đẩy mạnh giáo dục, hình thành nhu cầu chính đáng cho sinh viên
phù hợp luật giáo dục, luật công chức...
- Kế thừa truyền thống, học hỏi kinh nghiệm thế giới để từng bước
hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo điều kiện cho sinh viên học tập, xây dựng
lối sống mới.
- Phát huy tính tích cực tự giác của bản thân sinh viên trong việc chấp
hành pháp luật.
Cần định hướng giá trị cho sinh viên hiện nay. Trong xây dựng lối sống
mới cho sinh viên, cần chú ý xây dựng các chuẩn mực trong nhà trường vừa
kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc vừa tiếp thu văn minh nhân loại theo
hướng văn minh, công bằng, dân chủ tạo điều kiện cho phong trào dạy tốt học
tốt. Việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên được diễn ra thường xuyên
hướng tích cực theo đúng quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các
nguyên tắc đạo đức vốn phù hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc: yêu
công bằng, yêu lẽ phải, yêu cái đẹp, tôn sư trọng đạo...
Hiện nay, môi trường học đường ít nhiều đã bị các tiêu cực của mặt trái
nền kinh tế thị trường xâm nhập, làm tha hoá một bộ phận cán bộ, giảng viên,
sinh viên. Các hiện tượng tiêu cực như: lười học, ý thức học tập kém, tiếp thu
148
thụ động, gian dối trong học tập và thi cử… đang trở nên phổ biến. Phải “tăng
cường trật tự, kỷ cương, xây dựng, củng cố nền nếp, thực hiện trường ra
trường, lớp ra lớp, thầy ra thầy, trò ra trò, dạy ra dạy, học ra học. Phấn đấu để
mọi hoạt động của nhà trường đều có tác dụng giáo dục thiết thực và sâu sắc
đối với học sinh, sinh viên” [50, tr.13]. Một mặt, cần nêu cao tinh thần trung
thực, tự trọng của sinh viên, mặt khác cần có quy chế quản lý chặt chẽ, xử lý
nghiêm khắc những trường hợp vi phạm đối với cả giảng viên và sinh viên
theo pháp luật của nhà nước và quy định của nhà trường. Cải tiến công tác thi
cử, áp dụng phương pháp thi trắc nghiệm và làm bài tự luận theo hướng ra đề
mở, gắn lý thuyết với thực hành, gắn hiểu biết với kinh nghiệm cá nhân của
sinh viên để hạn chế tình trạng sao chép, học vẹt. Cần có chính sách khen
thưởng, động viên kịp thời, chính sách xã hội quan tâm đến những sinh viên
nghèo khó, sinh viên vùng sâu vùng xa, người dân tộc, gia đình chính sách, có
công... khuyến khích sinh viên học giỏi, học khá, tạo điều kiện thuận lợi, tạo
hành trang khoa học thuận lợi cho sinh viên khi ra trường.
Đối với sinh viên sống trong ký túc xá, các bộ phận làm công tác quản lý
sinh viên phải có sự phối hợp chặt chẽ với các tổ chức đoàn thể để quản lý,
giáo dục, định hướng các hoạt động vui chơi lành mạnh cho sinh viên. Đoàn
thanh niên, Hội sinh viên phải kịp thời động viên, tạo điều kiện thuận lợi để
sinh viên tham gia các câu lạc bộ, các phong trào, hoạt động do Đoàn, Hội tổ
chức. Đẩy mạnh cuộc vận động “Ký túc xá là nhà, sinh viên là chủ”, xây dựng
“Phòng ở kiểu mẫu”, Hội thi “Nét đẹp sinh viên nội trú”… Phát huy hiệu quả
hoạt động của tổ thăm dò dư luận sinh viên, đội an ninh xung kích, đặc biệt là
tổ phát thanh tuyên truyền trong khu nội trú nhằm đáp ứng nhu cầu cập nhật
thông tin thời sự của sinh viên, nêu gương người tốt việc tốt, đồng thời đó
cũng là phương tiện trao đổi tình cảm của sinh viên.
Hiện tại nhiều sinh viên đang gặp khó khăn về nhà ở do ký túc xá không
đủ. Việc một số sinh viên phải thuê nhà ở ngoài có thể dễ bị nhiễm thói hư, tật
xấu. Vì vậy, không chỉ các nhà trường mà cả xã hội cần phải quan tâm đến
149
vấn đề này. Cần có sự phối hợp đồng bộ giữa việc quản lý của nhà trường với
việc quản lý của công an khu vực, chính quyền địa phương với sinh viên thuê
trọ cũng như các chủ nhà có phòng cho thuê. Thành lập các nhóm sinh viên
ngoại trú theo các khu vực sinh viên thuê trọ, cử nhóm trưởng theo dõi
thường xuyên và tham gia các buổi giao ban với Nhà trường. Mỗi học kỳ Nhà
trường cử cán bộ quản lý đến thăm hỏi, khảo sát tình hình thực tế để có biện
pháp hỗ trợ giúp đỡ sinh viên khi gặp khó khăn.
4.2.4. Kết hợp việc giáo dục những giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc với tinh hoa đạo đức nhân loại trong xây dựng lối sống mới cho
sinh viên trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay
Một trong những phương hướng cơ bản của công tác giáo dục đạo đức,
xây dựng lối sống cho sinh viên hiện nay là: cùng với việc giáo dục đạo đức
mới, lối sống mới chúng ta phải biết kết hợp giáo dục những giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc với những giá trị đạo đức phổ quát của nhân loại và
của thời đại, để xây dựng trong mỗi sinh viên có được những phẩm chất đạo
đức trong sáng, những nhân cách, lối sống cao đẹp, thống nhất với dòng giá
trị nhân văn, nhân bản, nhân ái cao cả của loài người đã phát triển từ xưa đến
nay và cho cả mai sau.
Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên là phải làm cho họ
biết giữ gìn và tô thắm những giá trị đó của dân tộc, cái đã làm nên vẻ đẹp
Việt Nam, bản sắc dân tộc Việt Nam, nhân cách, lối sống con người Việt
Nam. Chúng ta biết rằng, những giá trị đạo đức truyền thống nếu không được
củng cố trong sự đổi mới, không được phát triển và nâng lên ở một tầm cao
mới để đáp ứng những đòi hỏi của lịch sử, sẽ gây cản trở, ách tắc, tạo nên sự
xung đột giữa sức nặng, uy lực của truyền thống với yêu cầu đổi mới, vươn
lên của cuộc sống hiện tại. Giữa khuôn thức, mẫu mực mà quá khứ trao lại
với khả năng sáng tạo, thích nghi, hướng tới tương lai.
Với chủ trương phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN,
toàn cầu hóa… đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội Việt Nam. Trong bối
150
cảnh toàn cầu hóa, chúng ta muốn nhanh chóng vươn lên cái mới, cái hiện đại
nhưng cũng dễ tự đánh mất mình, tự hủy hoại nền tảng bên trong của sự phát
triển bền vững và lâu dài, đó là văn hóa Việt Nam, đạo đức truyền thống Việt
Nam. Hội nhập mà không hòa tan, mở cửa mà vẫn giữ được bản sắc văn hóa
dân tộc, tiếp thu văn hóa, văn minh nhân loại để làm giàu kho tàng văn hóa
Việt Nam (trong đó có đạo đức Việt Nam), đó là một đòi hỏi, thách thức lớn
đối với dân tộc ta nói chung, sinh viên Việt Nam nói riêng. Đây là một yêu
cầu vừa cấp bách, vừa lâu dài, mang tính quy luật, là một trong những phương
hướng tốt nhất để phát huy những giá trị đạo đức truyền thống theo tinh thần
cách mạng và khoa học vốn có của đạo đức học mácxit. Nhằm góp phần xây
dựng con người Việt Nam về trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống có
nhân cách tốt đẹp, góp phần khắc phục tình trạng sa sút nghiêm trọng về mặt
quan hệ đạo đức đang diễn ra trong sinh viên hiện nay.
Giáo dục giá trị đạo đức cho các thế hệ sinh viên hôm nay và cả mai sau
là phải lấy tấm gương tiêu biểu, trong sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh làm
mục tiêu, lý tưởng để phấn đấu. Đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh của các
giá trị tinh thần của nhân dân ta suốt mấy nghìn năm lịch sử với chủ nghĩa
Mác - Lênin – đỉnh cao nhất của tư tưởng nhân loại trong thời đại mới. Bởi
đạo đức Hồ Chí Minh trong đó chứa đựng tính đậm đà dân tộc, nhân văn vừa
mang những yếu tố mới của thời đại, vừa thể hiện tư tưởng đạo đức truyền
thống được nâng lên và phát triển trong bối cảnh lịch sử mới. Đó còn là điểm
tựa tinh thần của dân tộc ta và là động lực to lớn giúp chúng ta vượt qua nhiều
thử thách, tiến lên giành những thắng lợi ngày càng to lớn hơn.
Chúng ta kết hợp giữa những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc với
những tinh hoa đạo đức nhân loại là vì:
Một là, phần lớn sinh viên là lớp người mới lớn lên, tuy đã được học lịch
sử, truyền thống văn hóa, văn minh của dân tộc và của nhân loại, nhưng nhìn
chung sự hiểu biết của họ về những vấn đề này chưa nhiều, chưa sâu sắc.
Phần lớn sinh viên chưa được thử thách trong thực tiễn, chưa được trải
151
nghiệm nhiều trong cuộc sống. Vì thế, khi gặp khó khăn hay đứng trước
những biến động của lịch sử - xã hội dễ làm họ trở nên hoang mang, dao
động, mất phương hướng. Do đó, việc giáo dục những giá trị đạo đức truyền
thống trên cơ sở phân tích một cách khoa học, kết hợp với những tinh hoa đạo
đức nhân loại có ý nghĩa hết sức quan trọng, giúp họ củng cố niềm tin trước
những khó khăn, thử thách hay những biến động lịch sử.
Hai là, giáo dục những giá trị đạo đức dân tộc cho sinh viên giúp họ
nhận ra được chân giá trị đích thực và sức sống bền vững của những giá trị
đạo đức tốt đẹp đã tồn tại qua những biến cố, thăng trầm của lịch sử. Khơi
dậy ở họ tình cảm và niềm tự hào dân tộc, qua sự tiếp nhận đó mà nâng những
giá trị ấy lên ở một tầm cao mới, đáp ứng những yêu cầu của lịch sử đặt ra.
Đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, việc chủ trương mở
cửa, hội nhập, giao lưu với nhiều nền văn hóa trên thế giới, bên cạnh mặt tích
cực, mặt trái của toàn cầu hóa cũng như phản giá trị đạo đức của văn hóa, lối
sống phương Tây, cùng với những âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch,
chống lại CNXH, chống lại sự nghiệp đổi mới của chúng ta – nhất là trên lĩnh
vực văn hóa, đạo đức, lối sống - thì việc giáo dục những giá trị đạo đức tốt
đẹp của Việt Nam cho sinh viên càng trở nên cấp bách và hết sức cần thiết.
Ba là, việc kết hợp giáo dục những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
với tinh hoa đạo đức của nhân loại như: lý tưởng nhân đạo; yêu tự do, yêu hòa
bình; bình đẳng và công lý; tình yêu thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh
thái… sẽ giúp sinh viên thấy được sự thống nhất giữa giá trị đạo đức chân
chính của dân tộc với những tinh hoa đạo đức nhân loại. Qua đó cũng giúp
sinh viên bổ xung, làm phong phú thêm những giá trị đạo đức của chính mình,
một lối sống mới, tạo cho mình khả năng không ngừng hoàn thiện và tự vươn
lên trong cuộc sống của mỗi người.
Bốn là, trong sự phát triển của tư tưởng nói chung, sự phát triển của các
giá trị đạo đức truyền thống nói riêng, bao giờ cũng có sự kế thừa. Theo quy
luật, trong quá trình phát triển thì kế thừa được xem như khâu trung gian, cầu
152
nối giữa cái cũ với cái mới, trong kế thừa đã có sự lọc bỏ những hạn chế, tiêu
cực và giữ lại những yếu tố của cái cũ có khả năng tạo điều kiện, làm tiền đề
cho sự nảy sinh và phát triển của cái mới. Với ý nghĩa đó, kế thừa những giá
trị đạo đức truyền thống dân tộc, cần phải lọc bỏ, vừa giữ lại những gì để góp
phần hình thành nên những giá trị đạo đức mới, phù hợp, thích ứng với yêu
cầu của sự phát triển xã hội.
4.2.5. Nâng cao tính tự giác, rèn luyện, học tập các giá trị đạo đức
truyền thống đối với việc xây dựng lối sống mới của sinh viên trong bối
cảnh toàn cầu hóa hiện nay
Lối sống mới không thể hình thành một cách tự phát mà là kết quả của
quá trình rèn luyện của mỗi con người. Là kết quả hoạt động giáo dục trong
xã hội, trong đó có sự kết hợp gia đình, nhà trường, xã hội.
Thông qua hoạt động giáo dục, tự giáo dục đạo đức, con người nói chung,
sinh viên nói riêng có khả năng biến đổi, hoàn thiện lối sống của mình một cách
có ý thức. Ở đây, vai trò chủ động, tích cực, năng động của sinh viên trong quá
trình giáo dục có ý nghĩa quyết định đối với sự lĩnh hội tri thức, phát triển trí tuệ
và hoàn thiện nhân cách của bản thân, xây dựng lối sống tốt đẹp.
Tự giáo dục là một quá trình tự thân vận động, đòi hỏi sinh viên phải tự
giác, có ý chí, nghị lực và quyết tâm cao trong việc rèn đức, luyện tài. Đây là
một đòi hỏi của quá trình giáo dục. Trong quá trình tự giáo dục, điều kiện và
tác động giáo dục từ bên ngoài là không thể thiếu, nhưng hiệu quả của quá
trình đó phụ thuộc một phần quan trọng vào tính tự giác của người được giáo
dục. Bản chất hoạt động của con người mang tính năng động, tự giác, cùng
với những kinh nghiệm thực tiễn được tích luỹ phong phú, tính năng động tự
giác này cũng ngày càng nâng lên. Đặc điểm này của con người đã quyết định
ngay từ đầu, đối với điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài, sự tiếp thu không phải
là hoàn toàn, y nguyên như nó có, mà là tiếp thu có lựa chọn, có lọc bỏ.
Do vậy, thiếu sự thúc đẩy của ngoại lực, của yêu cầu giáo dục, với đặc
điểm tâm sinh lý của tuổi trẻ, có thể khả năng tự giáo dục một cách nghiêm
153
túc của sinh viên sẽ bị hạn chế. Nhưng thiếu sự tự giác tự đào tạo, tự giáo dục
thì nền giáo dục quốc gia và gia đình sẽ khó có được hiệu quả cao.
Hiệu quả của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống nhằm xây dựng
lối sống mới cho sinh viên phụ thuộc nhiều vào quá trình tự giáo dục, tự rèn
luyện của từng cá nhân. Những phẩm chất đạo đức khi đã được hình thành,
được củng cố trở thành tính cách ổn định, thể hiện sự trưởng thành của con
người xã hội, là nền tảng phát triển và hoàn thiện nhân cách đạo đức sinh
viên, lối sống cho sinh viên. Vì vậy, quá trình tự hoàn thiện của các cá nhân
đóng vai trò quyết định trực tiếp. Có thể nói, nếu không có quá trình tự giác,
tự rèn luyện đạo đức, lối sống của bản thân sinh viên, thì mọi nỗ lực tác động
từ bên ngoài, dù tốt đến đâu cũng trở nên vô ích.
Sinh viên với đặc thù là nhân cách phát triển chưa đầy đủ, chưa hoàn
chỉnh, cho nên trong tự giáo dục, tự rèn luyện đạo đức, lối sống của họ rất cần
đến sự hướng dẫn của người thầy. Hơn nữa, thực chất của quá trình học tập ở
đại học, cao đẳng là quá trình học tập dưới sự hướng dẫn của giảng viên. Mặt
khác, cũng xuất phát từ những đặc điểm tâm lý lứa tuổi, từ những đặc trưng
của sinh viên (luôn muốn tự khẳng định mình, năng nổ, sáng tạo…) nên việc
tự giáo dục, tự rèn luyện phải được khích lệ, chú ý đề cao nhằm tạo dựng sự
tự tin và chủ động của sinh viên trong quá trình rèn luyện của mình.
Việc hình thành, phát triển lối sống mới trong sinh viên là sự thống nhất
giữa chủ quan và khách quan trong đó yếu tố chủ quan giữ vai trò quyết định
trực tiếp, sinh viên tự giác tiếp thu truyền thống tốt đẹp của cha ông: tinh thần
yêu nước, tính hiếu học, lòng nhân ái, bao dung,... sẽ là động lực quan trọng
giúp cho họ tự tin và quyết tâm cao trên con đường tiếp thu các tri thức khoa
học, phấn đấu thành người trí thức tương lai vừa hồng vừa chuyên.
Để thúc đẩy và tạo điều kiện cho việc tự giáo dục, tự rèn luyện đạo đức,
năng lực của sinh viên, giúp cho sinh viên có khả năng độc lập học tập,
nghiên cứu và tham gia các hoạt đông bổ ích, nhà trường cần có sự đầu tư tích
cực về cơ sở vật chất như hiện đại hoá các thư viện, các sân chơi thể thao,
154
thành lập các câu lạc bộ học thuật, câu lạc bộ sở thích. Nhà trường cần tăng
cường hơn nữa công tác tự quản của các tổ chức sinh viên như: Đội an ninh
xung kích, đội cờ đỏ, cùng với các tổ chức lớp, chi đoàn, chi hội sinh viên…
Một biện pháp tự giáo dục đạo đức cần rất mực coi trọng là sử dụng
thường xuyên là vũ khí phê bình và tự phê bình. Con người có khuyết điểm
thì phải khắc phục, có sai lầm thì phải sửa chữa. Việc phê bình và tự phê bình
cần triển khai một cách đúng đắn, nghiêm túc, thường xuyên, trung thực. Mỗi
sinh viên muốn có hy vọng nâng cao giác ngộ tư tưởng và trình độ đạo đức
của mình đều cần phải tự giác phê bình và tự phê bình.
Tính tự giác, tích cực học tập và rèn luyện của mỗi sinh viên phải được
thể hiện trước tiên là ở tinh thần ham học tập, cầu tiến bộ, Sinh viên cần nhận
thức rõ học tập để tiến bộ là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, suốt đời. Ý
nghĩa trực tiếp và chủ yếu của tinh thần ham học tập, cầu tiến bộ của sinh viên
hiện nay là nhằm nâng cao hiểu biết khoa học, nâng cao nghiệp vụ, phẩm chất
chính trị, đạo đức, lối sống để đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp giáo dục -
đào tạo trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tính tự giác học tập, rèn luyện của sinh viên đòi hỏi tính cầu thị, tự ghép
mình vào tổ chức, nghiêm túc trong tự phê bình, cố gắng hạn chế khuyết
điểm. Sự cầu thị của sinh viên thể hiện ở thái độ nghiêm túc lắng nghe ý kiến
của giảng viên, cán bộ quản lý và bạn bè trong lớp, trong trường, kịp thời điều
chỉnh thái độ hành vi cho phù hợp với lợi ích chung của tập thể. Sự ghép
mình vào tổ chức của sinh viên là họ luôn tôn trọng quy định của tập thể, thực
hiện tự giác các nội quy, quy chế của nhà trường.
Biểu hiện cao nhất của sự tự giác học tập, rèn luyện của sinh viên là sự
tích cực, chủ động kiểm tra nhận thức, thái độ, hành vi hàng ngày của mình,
tự đánh giá được những ưu, khuyết điểm của bản thân và kiên quyết sửa chữa
khuyết điểm để không ngừng tự hoàn thiện nhân cách.
Để có thể đóng góp và cống hiến trong cuộc sống hôm nay, vấn đề đặt ra
với sinh viên không dừng ở sự nhiệt tình, trách nhiệm mà đòi hỏi còn phải có
155
tri thức, trí tuệ, phải học tập không ngừng, phát huy trí thông minh, nâng cao
năng lực và hiệu quả sáng tạo, tiếp cận và tiếp thu được các tri thức tiên tiến
của nhân loại, đồng thời phải rèn luyện kỹ năng, trình độ tổ chức thực hiện,
biến ước mơ, nguyện vọng thành hiện thực trong cuộc sống.
Một động lực quan trọng khác có vai trò thúc đẩy phong trào thi đua của
sinh viên là công tác thi đua khen thưởng, kỷ luật. Công tác này cần tiến hành
kịp thời, đúng đối tượng, kết hợp khuyến khích khen thưởng bằng cả hiện vật
(vật chất) và tinh thần sẽ có tác dụng kích thích mạnh mẽ sự phấn đấu rèn
luyện của sinh viên.
Tăng cường giáo dục, cổ vũ, biểu dương, khen thưởng, bảo vệ sinh viên
chủ động phản ánh, tố giác, đấu tranh với những biểu hiện, hiện tượng tiêu
cực, nhất là trong sinh viên.
Cần phát huy vai trò tự học tập, tự du dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống
của sinh viên. Bởi sinh viên là lớp người trẻ, khoẻ, có nhiệt tình cách mạng,
nhạy cảm với cái mới, cái tiến bộ. Phát huy vai trò của sinh viên trong tự học
tập, tự tu dưỡng đạo đức lối sống là biện pháp quan trọng giúp họ nhanh
chóng tiến bộ, trưởng thành. Đó còn là điều kiện quyết định kết quả rèn luyện
của mỗi cá nhân. Trước hết phải hình thành cho sinh viên nhu cầu, động cơ
phấn đấu, rèn luyện đúng đắn, làm cho mỗi người có ý thức làm chủ, ham học
hỏi, cầu tiến bộ, vươn lên tự khẳng định mình. Cần tạo mọi điều kiện thuận
lợi để thanh niên phấn đấu, rèn luyện; đồng thời phải thường xuyên theo dõi,
kiểm tra, đánh giá kết quả, định hướng phấn đấu cho sinh viên. Quan tâm đáp
ứng những nhu cầu chính đáng của sinh viên về vật chất, tinh thần; giao
nhiệm vụ phù hợp với sở trường, năng khiếu đặc điểm tâm, sinh lý của họ sẽ
tạo điều kiện tốt để họ rèn luyện đạo đức, lối sống mới. Mỗi sinh viên phải
xác định rõ trách nhiệm trước Tổ quốc và nhân dân, sống có lý tưởng, có hoài
bão, khát khao vươn tới cái mới, cái tiến bộ. Bản thân mỗi người tự giác rèn
luyện, biết tự kiềm chế, biết vượt qua những cám dỗ và tiêu cực xã hội, những
biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, thực dụng, lợi mình hại người. Sinh
156
viên cần phải tự tin vào chính mình, giữ vững niềm tin trong cuộc sống, vào
các giá trị chân, thiện, mỹ; vượt qua mọi khó khăn gian khổ như Bác Hồ đã
dạy: “gian nan rèn luyện mới thành công”.
Tổ chức các phong trào tôn vinh, phát huy các giá trị văn hoá, lối sống
đẹp; phát hiện những nhân tố mới, điển hình để tuyên truyền giáo dục, đồng
thời đấu tranh phê phán các phản giá trị, lối sống thực dụng, nhân cách thấp
hèn, đạo đức, lối sống tha hoá vốn xa lạ với truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Tiểu kết chương 4
Phát huy các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc với việc xây dựng lối
sống mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay là việc
làm có tầm quan trọng đặc biệt. Đó là lối sống văn minh tiến bộ, tích cực, chủ
động và lành mạnh. Đó là lối sống có đạo đức, có lý tưởng cao đẹp, có sự kết
hợp hài hòa giữa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hóa văn hóa nhân
loại. Để thực hiện mục tiêu trên, phát huy tốt các giá trị đạo đức truyền thống
trong xây dựng lối sống mới cho sinh viên trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện
nay cần phải có phương hướng và thực hiện đồng bộ những giải pháp cơ bản
trên. Thực hiện tốt một số giải pháp phát huy giá trị đạo đức truyền thống
nhằm xây dựng đạo đức cách mạng, lối sống XHCN cho sinh viên trong thời
kỳ CNH, HĐH, toàn cầu hóa là góp phần đào tạo, giáo dục thế hệ sinh viên
vừa "hồng", vừa "chuyên", chủ nhân tương lai đưa nước nhà vững bước tiến
cùng các dân tộc tiên tiến, xứng đáng với mong ước của Bác Hồ kính yêu.
157
KẾT LUẬN
Việc phát huy các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc để xây dựng lối
sống mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay là một tất yếu khách quan. Giáo
dục tư tưởng, chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống thể hiện tính xã hội và
tính giai cấp, và cũng là đảm bảo sự trưởng thành toàn diện và lành mạnh của
sinh viên, bảo đảm chất lượng giáo dục và đào tạo trong các nhà trường.
Lối sống mới là lối sống xã hội chủ nghĩa. Phát huy các giá trị đạo đức
truyền thống giúp cho sinh viên nhận thức một cách đúng đắn các giá trị đạo
đức xã hội, hình thành tình cảm, niềm tin, lý tưởng đạo đức, lối sống tốt đẹp
và cao thượng. Những phẩm chất này một khi được nội tâm hoá trong nhân
cách mỗi sinh viên sẽ là động lực thúc đẩy việc thực hiện một cách tự nguyện,
tự giác hành vi đạo đức, lối sống vì lẽ phải, vì sự công bằng, bảo vệ cái thiện,
chống lại cái ác, điều chỉnh sự lệch chuẩn trong hành vi đạo đức, lối sống của
bản thân sinh viên.
Sinh viên là những người được đào tạo để trở thành những chủ nhân
tương lai của đất nước. Trong những năm qua, cùng với việc chú trọng nâng
cao chất lượng đào tạo, rèn luyện tay nghề cho sinh viên, việc giáo dục đạo
đức, xây dựng lối sống mới cho sinh viên đã từng bước được các nhà trường
quan tâm. Đảng uỷ, Ban Giám hiệu các nhà trường đã luôn gắn công tác đào
tạo với rèn luyện đạo đức, lối sống, tạo điều kiện để sinh viên phát triển toàn
diện. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc phát huy các giá trị
đạo đức nhằm xây dựng lối sống mới cho sinh viên cũng còn bộc lộ một số
hạn chế, bất cập đòi hỏi được giải quyết.
Để nâng cao hiệu quả của việc phát huy các giá trị đạo đức truyền
thống nhằm xây dựng lối sống mới cho sinh viên trong bối cảnh toàn cầu hóa
hiện nay, chúng tôi đề xuất một số phương hướng sau đây: Thứ nhất: bảo đảm
thống nhất giữa truyền thống và hiện đại, kế thừa và đổi mới đối với việc phát
huy giá trị đạo đức truyền thống nhằm xây dựng lối sống mới cho sinh viên
158
trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay; Thứ hai: phát huy giá trị đạo đức truyền
thống trong xây dựng lối sống mới cho sinh viên gắn liền với mục tiêu xây
dựng người sinh viên hiện đại, toàn diện; Thứ ba: phát huy giá trị đạo đức
trong xây dựng lối sống mới cho sinh viên gắn với việc tạo lập môi trường
học đường lành mạnh trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Để thực hiện tốt những phương hướng nêu trên cần thực hiện những giải
pháp sau: Một là, nâng cao vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong nhà
trường nhằm phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong xây dựng lối
sống mới cho sinh viên trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay; Hai là, đổi mới
nội dung, phương pháp giáo dục giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng
lối sống mới cho sinh viên trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay; Ba là, nâng
cao vai trò của pháp luật trong việc phát huy các giá trị đạo đức truyền thống
nhằm xây dựng lối sống mới cho sinh viên; Bốn là, kết hợp việc giáo dục
những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc với tinh hoa đạo đức nhân loại
trong xây dựng lối sống mới cho sinh viên trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện
nay; Năm là, nâng cao tính tự giác, rèn luyện, học tập các giá trị đạo đức
truyền thống đối với việc xây dựng lối sống mới của sinh viên trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay.
Những phương hướng và giải pháp nêu trên cần được thực hiện một cách
đồng bộ. Mỗi giải pháp có một vị trí nhất định trong việc xây dựng lối sống
mới cho sinh viên, các giải pháp có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau, hỗ
trợ nhau. Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ tạo ra các tác động tích cực
cùng chiều nhằm nâng cao hiệu quả của việc phát huy giá trị đạo đức truyền
thống trong xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay.
159
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
A. Các công trình đã đăng trên các tạp chí:
1. Nguyễn Thị Thanh Hà (2010), “Kế thừa và phát huy các giá trị truyền
thống trong giáo dục đạo đức cho sinh viên”, Tạp chí Lý luận chính
trị và truyền thông, (số 7), tr.42 - 46.
2. Nguyễn Thị Thanh Hà (2010), “Kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền
thống trong giáo dục sinh viên Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa
học và Công nghệ”, (số 8), tr.55- 59.
3. Nguyễn Thị Thanh Hà (2013), “Xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt
Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, (số 12),
tr.48 - 52.
B. Đề tài khoa học, kỷ yếu hội thảo
1. Nguyễn Thị Thanh Hà (Thành viên), (2013), Giáo dục đạo đức mới cho
sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay,
Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
2. Nguyễn Thị Thanh Hà (2013), Khái niệm lối sống trong Triết học Mác -
Lênin, Kỷ yếu hội thảo khoa học Giá trị học thuyết Mác - Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn giảng dạy ở Đại học Thái Nguyên,
tháng 5/2013, tr.24- 30.
3. Nguyễn Thị Thanh Hà (Thành viên), 2014), Giá trị văn hóa truyền thống
dân tộc với việc xây dựng nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay,
Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
160
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Anh (2012), Giáo dục với việc hình thành và phát triển nhân
cách sinh viên, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
2. Nguyễn Thúy Anh (2000), “Các nước đang phát triển trong quá trình
toàn cầu hóa kinh tế”, Tạp chí Cộng sản, (6).
3. Phạm Kim Anh (2008), “Đạo đức học sinh - sinh viên ở nước ta. Thực
trạng và giải pháp giáo dục”, Dạy và học ngày nay, (9).
4. Lê Trọng Ân (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức”, Tạp chí Triết
học, (1).
5. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2002), Tài liệu nghiên cứu các nghị
quyết Hội nghị lần thứ V, BCH Trung ương Đảng khóa IX, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2004), Tài liệu nghiên cứu Kết luận
Hội nghị lần thứ IX, BCH Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
7. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2004), Tài liệu nghiên cứu Kết luận
Hội nghị lần thứ X, BCH Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
8. G.Bandzeladze (1985), Đạo đức học, Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. G. Bandzeladze (1985), Đạo đức học, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
10. Báo An ninh thế giới (2006), số ra ngày 08/04.
11. Hoàng Chí Bảo (2001), “Nhân cách và giáo dục văn hóa nhân cách”,
Triết học, (1).
12. Nguyễn Khánh Bật, Bùi Đình Phong, Hoàng Trang (1995), Một số nội dung
cơ bản trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh, Nxb Nghệ An.
13. Nguyễn Đức Bình, Lê Hữu Nghĩa, Trần Hữu Tiến (Đồng chủ biên)
(2003), Góp phần nhận thức thế giới đương đại, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
14. Lê Thị Hải Bình (2006), Báo chí với quá trình hình thành nhân cách học sinh
- sinh viên, Luận văn thạc sĩ khoa học Báo chí, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền.
161
15. Trần Văn Bính (2013), “Xây dựng văn hóa đạo đức và lối sống văn hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế”, Tạp chí Lý
luận chính trị, (7).
16. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), "Số liệu thống kê năm học 2007-2012",
www.moet.gov.vn, cập nhật 13/11/2012.
17. Nguyễn Trọng Chuẩn (1998), “Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống
vì mục tiêu phát triển”, Tạp chí Triết học, (2).
18. Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Huyên (Đồng chủ biên) (2002),
Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (Đồng chủ biên) (2003), Mấy
vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Nguyễn Trọng Chuẩn (2004), “Hội nhập quốc tế: Cơ hội và thách thức
đối với giá trị truyền thống trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay”,
Tạp chí Triết học, (8).
21. Nguyễn Viết Chức (Chủ biên) (2001), Xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống
và đời sống văn hóa ở thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
22. Chương trình KHCN cấp nhà nước (1995), Con người Việt Nam - mục
tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, (KX.07),
“Nghiên cứu con người, giáo dục, phát triển và thế kỷ XXI”, Kỷ
yếu Hội nghị khoa học quốc tế, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số
định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay, Lưu hành nội bộ.
162
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Hội nghị lần thứ V BCH
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban
chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. .
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện Đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi
mới (Khóa VI, VII, VIII, IX, X), phần II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Đại học Quốc gia Hà Nội (2005), Giáo dục đại học - chất lượng và đánh
giá, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
35. Nguyễn Khoa Điềm (Chủ biên) (2002), Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (2007), Báo cáo chuyên đề “Định hướng giá
trị cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay” của Ban Thanh niên
trường học, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hà Nội.
37. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (2008), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
38. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (2012), Báo cáo của Ban Chấp hành Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh năm
2012, Hà Nội.
39. Trần Độ (Chủ biên) (1985), Bàn về lối sống và nếp sống xã hội chủ
nghĩa, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
40. Phạm Duy Đức (2001), Xây dựng lối sống và đạo đức xã hội ở Thủ đô
Hà Nội trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, "Xây dựng tư tưởng
đạo đức lối sống và đời sống văn hóa ở thủ đô Hà Nội trong thời kỳ
163
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước", Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội.
41. Trần Thị Minh Đức (1995), “Ảnh hưởng của môi trường ký túc xá sinh
viên với lối sống sinh viên nội trú”, Tạp chí Phát triển giáo dục, (6).
42. Phạm Văn Đức (2002), “Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Triết học, (1).
43. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
44. Trần Văn Giàu (Chủ biên) (1983), Về giá trị văn hóa tinh thần Việt
Nam, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.
45. Trần Văn Giàu (1993), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
46. Nguyễn Ngọc Hà (Chủ biên) (2011), Đặc điểm tư duy và lối sống của
con người Việt Nam hiện nay: một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
47. Phạm Minh Hạc - Nguyễn Khoa Điềm (Chủ biên) (2003), Về phát triển văn
hóa và xây dựng con người thời kỳ CNH, HĐH, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
48. Phạm Minh Hạc (Chủ biên) (2004), Tâm lý người Việt Nam đi vào công
nghiệp hóa, hiện đại hóa - Những điều cần khắc phục, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
49. Phạm Minh Hạc - Thái Duy Tuyên (chủ biên) (2012), Định hướng giá
trị con người Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập, Nxb Chính trị
quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
50. Chu Hảo (2008), “Việt Nam đang theo triết lý giáo dục nào”, Tạp chí Dạy và
Học ngày nay, (11).
51. Nguyễn Thị Hằng (2004), Tìm hiểu lối sống của sinh viên thành phố Hồ
Chí Minh qua việc sử dụng thời gian rỗi, Luận văn thạc sĩ Triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
52. Nguyễn Hùng Hậu (2001), Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam
trước xu thế hội nhập, toàn cầu hóa, Báo cáo tại Hội Thảo khoa
164
học Quốc tế “Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn
cầu hóa”, Hà Nội.
53. Nguyễn Hùng Hậu (2002), “Từ “cái thiện” truyền thống đến “cái thiện”
trong cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (8).
54. Nguyễn Hùng Hậu (2005), “Từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến
chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh”, Triết học, (9).
55. Lê Như Hoa (2003), Bản sắc dân tộc trong lối sống hiện đại, Nxb Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội.
56. Nguyễn Đình Hòa (2002), “Khoa học công nghệ và đạo đức trong điều
kiện kinh tế thị trường”, Tạp chí Triết học, (6).
57. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Triết học (2004), Giáo
trình đạo đức học Mác - Lênin, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
58. Đỗ Huy (2002), Giá trị truyền thống Việt Nam trước thách thức của
toàn cầu hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Nguyễn Văn Huyên (1995), "Một số chuẩn mực giá trị ưu trội khi nước ta
chuyển sang nền kinh tế thị trường", Tạp chí Triết học, (1).
60. Nguyễn Văn Huyên (1998), Giá trị truyền thống- nhân lõi và sức sống
bên trong của sự phát triển đất nước, dân tộc, Báo cáo Hội thảo
Truyền thống, giá trị và phát triển, Hà Nội.
61. Nguyễn Văn Huyên (2003), “Lối sống người Việt Nam dưới tác động
của toàn cầu hóa hiện nay”, Tạp chí Triết học, (12).
62. Nguyễn Thị Huyền (2007), “Toàn cầu hoá và nguy cơ suy thoái đạo đức,
lối sống con người Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (6).
63. Phạm Khắc Hùng, Phạm Hồng Quang (2001), “Thực trạng lối sống sinh
viên Đại học Thái Nguyên”, Tạp chí đại học và giáo dục chuyên
nghiệp, (8).
64. Trần Đình Hượu (1994), Đến hiện đại từ truyền thống, Chương trình
khoa học - công nghệ cấp nhà nước KX.07, Hà Nội.
65. Đặng Cảnh Khanh (2000), "Vấn đề toàn cầu hóa và thế hệ trẻ Việt Nam
hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (14).
165
66. Đoàn Văn Khiêm (2001), “Lý tưởng đạo đức và việc giáo dục lý tưởng
đạo đức cho thanh niên trong điều kiện hiện nay”, Tạp chí Triết
học, (2).
67. Vũ Khiêu (Chủ biên) (1974), Đạo đức mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
68. Vũ Khiêu (Chủ biên) (2000), Văn hóa Việt Nam - xã hội và con người, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
69. Nguyễn Thế Kiệt (1996), “Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc
định hướng các giá trị đạo đức hiện nay”, Triết học, (6).
70. Nguyễn Thế Kiệt (2006), “Từ đạo đức truyền thống đến đạo đức cách
mạng Hồ Chí Minh”, Nghiên cứu lý luận, (7).
71. Nguyễn Thế Kiệt (2006), “Một số giá trị đạo đức Việt Nam: Từ truyền
thống đến Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lý luận chính trị, (7).
72. Nguyễn Thế Kiệt (2012), Mấy vấn đề về đạo đức học mácxít và xây
dựng đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
73. Tương Lai (1983), Chủ động và tích cực xây dựng đạo đức mới, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
74. Đỗ Thị Lan (2004) Vấn đề xây dựng lối sống cho thanh niên trong giai
đoạn hiện nay ở tỉnh Yên Bái, Luận văn thạc sĩ Triết học, Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
75. Vũ Thị Thu Lan (2006), “Vấn đề giá trị đạo đức trong đạo đức học của
Cantơ”, Tạp chí Triết học, (5).
76. Phan Huy Lê - Vũ Minh Giang (Chủ biên) (1994), Các giá trị truyền
thống và con người Việt Nam hiện nay, Chương trình KHCN cấp
nhà nước KX.07, đề tài KX07-02, tập I, Hà Nội.
77. Phan Huy Lê - Vũ Minh Giang (Chủ biên) (1996), Các giá trị truyền
thống và con người Việt Nam hiện nay, Chương trình KHCN cấp
nhà nước KX.07, đề tài KX07-02, tập II, Hà Nội.
78. Phan Huy Lê (1996), “Truyền thống và hiện đại: vài suy nghĩ và đề
xuất”, Tạp chí Cộng sản, (18).
166
79. Thanh Lê (Chủ biên) (2001), Lối sống xã hội chủ nghĩa và xu thế toàn
cầu hóa, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
80. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Tập 31, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
81. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, Tập 37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
82. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
83. Lê Thị Loan (Chủ nhiệm) (2001), Vai trò của giáo dục đạo đức cho sinh
viên đối với việc phát huy nguồn lực con người trong các doanh
nghiệp thương mại ở Việt Nam hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ,
Mã số: B2001-39-15.
84. Nguyễn Ngọc Long (1987), “Quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa
kinh tế và đạo đức trong việc đổi mới tư duy”, Tạp chí Nghiên cứu
lý luận, (1+2).
85. Đỗ Long (1996), “Lối sống và nhân cách của thanh niên”, Tạp chí Tâm
lý học, (8).
86. Nguyễn Văn Lý (2000), Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền
thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
87. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
88. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
89. C.Mác và Ph.Ăngghen (1997), Toàn tập, Tập 46, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
90. Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
91. Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
92. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
94. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
95. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
167
96. Đỗ Mười (1997), Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
97. Nguyễn Chí Mỳ (Chủ biên) (1999), Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức
trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán
bộ quản lý ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
98. Nguyễn Thị Nga (2006), “Phát huy truyền thống yêu nước Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, (1).
99. Lê Hữu Nghĩa, Lê Ngọc Tòng (Đồng chủ biên) (2004), Toàn cầu hóa -
Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
100. Trần Sỹ Phán (1999), Giáo dục đạo đức với sự hình thành và phát triển
nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến
sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
101. Trần Sỹ Phán (2007), Bàn về lối sống thực dụng và lối sống xã hội chủ
nghĩa, Hội thảo quốc tế: “Những vấn đề triết học phương Tây thế
kỷ XX”, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
102. Nguyễn Hồng Phong (1963), Tìm hiểu tính cách dân tộc, Nxb Khoa học,
Hà Nội.
103. Trần Văn Phòng (2003), “Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo
chính trị hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (5).
104. Nguyễn Văn Phúc (2006), “Về việc tạo ra bước chuyển mạnh mẽ trong xây
dựng nền đạo đức mới ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (11).
105. Nguyễn Trường Phước (2003), Đạo đức sinh viên trong quá trình
chuyển sang nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam - Thực
trạng, vấn đề và giải pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học, Mã số
QG.01-18, Đại học quốc gia Hà Nội.
106. Trần Văn Phương, Đại hội Đại biểu toàn quốc Hội sinh viên Việt Nam,
http:tuoitrexudua.vn, cập nhật 12/11/2011, 09:00 (GMT+7).
107. Mai Thị Quý (2007), “Tác động của toàn cầu hóa đến truyền thống cần
cù, tiết kiệm của dân tộc Việt Nam”, Tạp chí Triết học, (5).
108. Hồ Sỹ Quý (2005), Động thái của một số giá trị truyền thống trong bối
cảnh toàn cầu hóa, Hội thảo Quốc tế “Toàn cầu hóa: Những vấn
đề triết học ở châu Á - Thái Bình Dương”, Hà Nội.
168
109. Nguyễn Duy Quý (Chủ biên) (2006), Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay
- vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
110. Nguyễn Duy Quý, Hoàng Chí Bảo (2003), Đạo đức xã hội dưới tác
động và ảnh hưởng của kinh tế và chính trị ở nước ta hiện nay,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm khoa học xã
hội và nhân văn quốc gia, Hà Nội.
111. M.M Rozenta (1986), Từ điển triết học, Nxb Tiến bộ Matxcơva và Nxb
Sự thật, Hà Nội.
112. A.Sixkin (1961), Nguyên lý đạo đức cộng sản, Nxb Sự thật, Hà Nội.
113. Tập thể các nhà khoa học Trung Quốc (1996), Những vấn đề đạo đức
trong điều kiện kinh tế thị trường, Viện thông tin khoa học xã hội
thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia xuất bản,
Hà Nội.
114. Tập thể tác giả (2004), Về giáo dục đạo đức cách mạng trong cán bộ,
đảng viên hiện nay - Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
115. Lê Thị Hoài Thanh (2003), Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và
hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay,
Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
116. Đặng Quang Thành (2005), Xây dựng lối sống có văn hóa của thanh
niên thành phố Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
117. Trần Thành (2005), “Quan điểm của V.I.Lênin về chủ nghĩa cơ hội”,
Triết học, (9).
118. Hà Nhật Thăng (2002), “Thực trạng đạo đức, tư tưởng chính trị, lối
sống của thanh niên, sinh viên”, Tạp chí Giáo dục, (3).
119. Lê Cao Thắng (2005), Xây dựng nếp sống văn hóa của sinh viên trên địa
bàn thủ đô Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
169
120. Võ Văn Thắng (2005), Kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc trong việc xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện
nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
121. Võ Văn Thắng (2006), Xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay (từ góc
độ văn hoá truyền thống dân tộc, Nxb Văn hoá thông tin và Viện
văn hoá, Hà Nội.
122. Võ Văn Thắng (2010), “Nâng cao nhận thức của sinh viên về vai trò của
giá trị văn hóa truyền thống dân tộc trong xây dựng lối sống hiện
nay”, Tạp chí Giáo dục, (234).
123. Bùi Thanh Thủy (2009), “Kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa”, Tạp chí Lý luận chính
trị, (8).
124. Lê Thị Thủy (2001), Vai trò của đạo đức với sự hình thành nhân cách
con người Việt Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay, Luận án tiến
sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
125. Lưu Thu Thủy (2000), Thực trạng tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
của học sinh, sinh viên qua kết quả khảo cứu tư liệu, Kỷ yếu Hội
thảo quốc gia “Thực trạng và giải pháp giáo dục đạo đức, tư tưởng
chính trị, lối sống cho học sinh, sinh viên Việt Nam”, Hà Nội.
126. Nguyễn Tài Thư (2001), Khả năng phát triển của giá trị truyền thống
Việt Nam trước xu thế toàn cầu hóa, Báo cáo tại Hội thảo Quốc tế
“Giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa”, Hà Nội.
127. Đặng Hữu Toàn (2006), "Toàn cầu hóa, “nguy cơ tha hóa” và vấn đề
định hướng giá trị văn hóa tinh thần", Tạp chí Triết học, (5).
128. Mạc Văn Trang (1995), Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và những
phương hướng, biện pháp giáo dục, Mã số B94-38-32, Viện
Nghiên cứu phát triển giáo dục - Bộ Giáo dục & Đào tạo.
129. Phạm Thị Ngọc Trầm (2001), "Các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống
Việt Nam trước xu thế toàn cầu hóa", Tạp chí Triết học, (7).
170
130. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (1994), Văn hóa và
phát triển kinh tế - xã hội, Chương trình KHCN cấp nhà nước KX-
06, Hà Nội.
131. Võ Minh Tuấn (2004), “Tác động toàn cầu hóa đến đạo đức sinh viên
hiện nay”, Tạp chí Triết học, (4).
132. Thái Duy Tuyên (Chủ biên) (1994), Tìm hiểu định hướng giá trị của
thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
133. Nguyễn Đình Tường (2002), “Một số biểu hiện của sự biến đổi giá trị
đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải
pháp khắc phục”, Tạp chí Triết học, (6).
134. Nguyễn Mạnh Tường (2001), Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
135. Nguyễn Mạnh Tường (2002), "Một số biểu hiện của sự biến đổi giá trị
đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải
pháp khắc phục", Tạp chí Triết học, (6).
136. Nguyễn Quang Uẩn (Chủ biên) (1995), Giá trị - định hướng giá trị nhân
cách và giáo dục giá trị, Chương trình KHCN cấp Nhà nước
KX07, Đề tài KX.07-14, Hà Nội.
137. Nguyễn Quang Uẩn (Chủ nhiệm) (1998), Xây dựng lối sống và đạo đức
mới cho sinh viên Đại học sư phạm phục vụ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, Mã số: QG/96/08, Báo cáo tổng hợp đề tài, Hà Nội.
138. Nguyễn Ngọc Vân (1995), “Giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”, Tạp
chí Thông tin khoa học xã hội, (11).
139. Viện Nghiên cứu Thanh niên (2010), Báo cáo khoa học đề tài: “Đoàn
thanh niên với việc xây dựng lối sống cho thanh niên trong giai
đoạn hiện nay”, Hà Nội.
140. Viện Nghiên cứu Thanh niên (2010), Báo cáo khoa học chuyên đề: “Một số
vấn đề về giáo dục đạo đức và lối sống cho thanh niên”, Hà Nội.
141. Viện KHXHVN (2004), Báo cáo tổng kết kết quả nghiên cứu đề tài “Đạo
đức xã hội ở nước ta hiện nay - Vấn đề và giải pháp”, Hà Nội.
171
142. Trần Nguyên Việt (2002), “Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam và
cái phổ biến toàn nhân loại của đạo đức trong nền kinh tế thị
trường”, Tạp chí Triết học, (5).
143. Huỳnh Khái Vinh (1998), “Bồi dưỡng đạo đức sinh viên trong kinh tế
thị trường”, Thông tin những vấn đề lý luận, (16).
144. Huỳnh Khái Vinh (Chủ biên) (2001), Một số vấn đề về lối sống, đạo
đức, chuẩn giá trị xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
145. Nguyễn Khắc Vinh (1999), “Xây dựng đạo đức lối sống và chuẩn giá trị
xã hội để phát triển toàn diện con người”, Tạp chí Thông tin lý
luận, (3).
146. Visnhiopxky (1982), Lối sống xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.
147. Website: Trung ương Đoàn, cập nhật ngày 25/7/2011.
148. Website:
172
PHỤ LỤC
Bảng 3.1: Các giá trị đạo đức truyền thống có được hấp thụ và truyền
dạy trong gia đình không
Được hấp thụ từ
gia đình (%)
Có thể truyền dạy
cho con cháu (%)TT Các giá trị đạo đức truyền
thống
Có Không Có Không
1 Lòng yêu nước 78,4 21,6 73,3 26,8
2 Tinh thần đoàn kết 86,4 13,6 80,8 19,3
3 Cần cù chịu khó trong lao động 92,4 7,6 76,6 23,4
4 Ý chí phấn đấu vươn lên 87,4 12,6 61,9 38,1
5 Lòng dũng cảm kiên cường 64,9 35,1 45,8 54,3
6 Tinh thần học tập ham hiểu biết 75,3 24,8 70,3 29,8
7 Lòng hiếu thảo với cha mẹ 94,6 5,4 88,5 11,5
8 Tôn sư trọng đạo 84,5 15,5 70,8 29,3
Nguồn: Viện KHXHVN [141, tr.219].
Bảng 3.2: Định hướng giá trị mục đích của thanh niên sinh viên
Lựa chọn (%)
TT Giá trị mục đích Rấtquan
trọng
Quan
trọng
Không
quan
trọng
1 Sức khỏe 88,4 11,4 0,2
2 Học vấn và tri thức 78,9 21,1 0
3 Việc làm và nghề nghiệp 60,5 39,0 0,5
4 Quan hệ cá nhân và xã hội 35,6 63,5 0,9
5 Quyền tự do cá nhân và cộng đồng 34,9 60,4 4,8
6 Giàu sang và danh vọng 13,7 57,2 29,3
7 Sự tôn trọng danh dự và nhân phẩm 74,7 25,1 0,2
8 Sống có ích cho xã hội 45,9 53,9 0,2
9 Sự vị tha, lòng nhân ái và độ lượng 42,6 56,0 1,4
10 Tính cộng đồng, tính đoàn kết và đấu tranh 37,6 61,3 1,1
11 Lý tưởng và hoài bão 53,8 44,9 1,4
12 Niềm tin, ý chí, nghị lực 82,5 17,3 0,2
13 Biết chọn mẫu hình nhân cách sống 24,9 63,9 11,2
Nguồn: Đoàn TNCS Hồ Chí Minh [36, tr.40].
173
Bảng 3.3: Bảng thống kê về một số hoạt động nghiên cứu khoa học
trong sinh viên
Hoạt động NCKH 2010 2011
6 tháng /
2012
Hội nghị khoa học 215 241 164
Đề tài nghiên cứu khoa học 1.929 2.870 3.376
Sáng kiến cải tiến kỹ thuật 1.357 1.212 726
Giải pháp hiến kế 276 520
Số SV tham gia 33.773 30.717
Các lớp tập huấn kiến thức và số thanh niên
tham gia
78/6.372 156/2547 63/1.408
Số thí sinh dự Hội thi tin học trẻ không
chuyên
366 335 246
Số đề tài đăng ký giải thưởng Khoa học SV -
Eureka
533 257 297
Nguồn: Đoàn TNCS Hồ Chí Minh [38].
Bảng 3.4: Các phẩm chất cần có của người lao động
STT ưu tiên Phẩm chất
1 Chuyên môn giỏi
2 Đạo đức nghề nghiệp
3 Năng động, đổi mới
4 Tính kỷ luật, tổ chức
5 Có năng lực tổ chức
6 Khả năng thích nghi nhanh
7 Tính tự chủ, tự tin
8 Có kế hoạch trong công việc
9 Nói đi đôi với làm
10 Hiệu quả trong công việc
11 Khả năng làm việc nhóm
Nguồn: Đoàn TNCS Hồ Chí Minh [36, tr.50].
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nguyen_thi_thanh_ha_la_7104.pdf