Chủ nghĩa hiện thực như một dòng chảy mạnh mẽ, luôn âm vang với những thành tựu
to lớn của mình. Chủ nghĩa tự nhiên là một nhánh rẽ cuối dòng khi gặp một khúc quanh để
rồi cuối cùng tất cả lại hội tụ về biển cả văn học mênh mông của loài người. Thế kỷ XIX với
bao biến động của lịch sử và tiến bộ của khoa học đã tạo nên một nhà văn hiện thực tự nhiên
Zola tài năng như thế.
Zola đã xa chúng ta tròn 101 năm, nhưng âm vang "Bánh mì! Bánh mì!" của đoàn
quân thợ thuyền đói khổ ở Montsou vẫn dậy sóng trong lòng người người đọc hôm nay.
Ta như thấy họ và nhà văn đang bước bên ta, ở thế kỷ XXI, với một nụ cười chiến thắng
rạng rỡ. Zola trân trọng trao lại cho đời một niềm tin, chúng ta trân trọng giữ gìn với niềm
biết ơn sâu sắc.
176 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 1348 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Hình tượng người thợ trong quá trình phát triển từ quán rượu đến nảy mầm của Émile Zola, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Zola, căn phòng cho thấy sự yêu
thích đồ cổ của ông ta, tuy nhiên tình yêu
này không đến mức cực đoan, bởi vì
những chiếc ghế dựa lưng cao, bất tiện của
tổ tiên 1Tchúng ta mà rất nhiều bạn sưu tầm
1Thoặc khách của ông thấy cần phải ngồi
vào, được thay thế bằng những chiếc ghế
bành rộng rãi, hiện đại.
Tôi không phải đợi lâu.
19T ốt, tôi rất hài lòng vì hôm nay 19Tlà
ngày ẩm ướt, nếu không thì có lẽ anh sẽ
tiếc vì mất cơ hội đi đến công viên!"
Ông chủ nhà nói như thế sau khi
nồng nhiệt bắt tay tôi.
"Như vậy anh muốn biết tất cả vê tôi.
Bây giờ để tôi xem tôi có thể kể cho anh
điều gì đây mà không phải lập đi lập lại."
Và Zola ngồi xuống một cái ghế
bành nhỏ nhưng thoải mái, ấm áp, một bên
có một cái giá đựng cà phê và xì gà có hoa
văn theo kiểu Thổ Nhĩ Kỳ được che bằng
mấy cuốn sách, một bên có một lá chắn
xưa cổ bằng sắt được chạm trổ đặt trước
một lò sưởi lớn, rồi điềm tĩnh bắt đầu cuộc
độc thoại sau, cuộc độc thoại mà tôi cố
gắng thuật lại càng sát lời của ông càng
tốt.
"Bà nội tôi là người Corfiote [từ đảo
Corfu Hy Lạp], bố tôi là người Venise
(Ý), và mẹ tôi là người Paris. Cha mẹ tôi
gặp nhau ở Paris, vào một trong nhiều
cuộc viếng thăm của ông ở đây liên quan
đến việc ông muốn xây một đập nước ở
Aix in Provence. Trong thời gian rất ngắn
ngủi của cuộc gặp gỡ đầu tiên, họ cưới
nhau. Đó là cuộc hôn nhân vì tình yêu. Tôi
ra đời ở Pari vào năm 1840, và tôi giờ đây
năm mươi ba tuổi."
"Bố tôi mất năm 1874, để lại rất ít
trừ những vụ kiện mà do thiếu kinh
nghiệm, bà tôi và mẹ tôi để bị thua kiện."
"Việc học của tôi chỉ bắt đầu sau đó,
nhưng mãi cho đến năm mười hai tuổi, khi
cuối cùng tôi phải vào trường trung học,
tôi mới thật sự tự học khá nhiều. Có nghĩa
là tôi đã học hành rất ít, dành phần lớn
thời gian ở ngoài trời, chạy lang thang trên
những cánh đồng miền Nam huy hoàng
rực rỡ, và học cách yêu và ngưỡng mộ
thiên nhiên."
"Ở trường kết quả học của tôi rất thất
thường."
"Tôi thích nhất toán và khoa học tự
nhiên. Tôi ghét tiếng Hy Lạp và La tinh."
"Chính trong suốt năm cuối trung
học mà tôi làm quen với hai người bạn. Có
lẽ họ đã làm cho tôi trở thành như hôm
nay. Chúng tôi hầu như có cùng sở thích.
Niềm say mê của chúng tôi, khi bất cứ lúc
nào chúng tôi có thể đắm chìm vào nó, là
chạy ra những cánh đồng, ngồi hàng giờ
bên bờ suối dưới bóng cây, đọc những
cuốn tiểu thuyết chúng tôi có. Sau khi đọc
xong mỗi cuốn, chúng tôi thảo luận về giá
trị của nó, từng chương một, nghiên cứu
đặc điểm nhân vật và cốt truyện; dựa trên
quan điểm siêu hình hơn là quan điểm văn
chương."
"Tôi rời trường trung học vào năm
1848, và đến Paris kiếm việc để giúp đỡ
mẹ tôi. Tôi tìm được một việc làm mà
chẳng lâu sau tôi phải bỏ, và đến năm
1861, tôi đã chịu đựng mọi gian khổ mà
một thanh niên thiếu thốn, nghèo túng có
thể trải qua ở Paris."
"Tôi thường dùng khoảng thời gian
tuyệt nhất của tôi trong ngày nằm trên
giường trong gác xép để giữ ấm."
"Anh thấy đấy, mặc dù bây giờ tôi đã
khá giả phong lưu hơn, tôi vẫn nhìn lại
thời gian đã qua và nuối tiếc rằng nó
không thể trở lại."
"Anh thấy không, sự thiếu thốn và
thống khổ là số mệnh của tôi nhưng tôi có
trong mình ngọn lửa của tuổi trẻ. Tôi có
sức khỏe, hy vọng, sự tự tin vô tận vào
bản thân, và tham vọng nữa."
"Vâng! Đó là một thời kỳ huy hoàng.
Tôi nhớ tôi thường viết hàng giờ trên
giường như thế nào, mọi điều đối với tôi
lúc ấy mới mẻ ra sao, sự thiếu kinh
nghiệm đã làm cho tôi nhìn về tương lai
một cách đầy hy vọng như thế nào. Cuối
cùng, cuộc đời dường như rạng rỡ, xinh
đẹp và tươi vui."
"Xét cho cùng, tôi thật sự nghĩ rằng
hy vọng mang lại cho ta sự thỏa lòng
nhiều hơn là của cải."
Tôi lái sang chủ đề khác.
"Để tôi xem nào, tôi nằm trên giường
để giữ ấm và đợi ai đến cho mấy đồng xu
đủ mua một bữa ăn tối."
"Cuối cùng vào năm 1861 tôi tìm
được một việc làm trả lương hậu ở nhà
xuất bản Hachette."
"Lương khởi điểm của tôi là 200
quan một tháng. Tôi làm việc hoàn hảo
đến nỗi chẳng bao lâu tôi được đề bạt. Sau
một thời gian tôi được chuyển vào bộ
phận quảng cáo, và ở đó tôi tiếp xúc với
các nhà văn, nhà báo, họ đã giúp đỡ tôi
trong nỗ lực văn chương đầu tiên của tôi."
"Khi tôi làm ở đó tôi chưa bao giờ
ngừng viết."
“Anh phải biết rằng suốt đời tôi đã
làm việc tích cực, tận tâm, chu đáo như
thế nào.”
“Sau một ngày làm việc ở cơ quan,
tôi thường viết hàng giờ ở nhà dưới ánh
nến. Thực ra, thói quen viết ban đêm trở
thành thâm căn cố đế đến nỗi thời gian dài
sau đó khi tôi rỗi vào ban ngày, tôi kéo
các màn cửa trong phòng tôi xuống và đốt
đèn lên để làm việc.”
"Vào thời kỳ này tôi gặp lại hai
người bạn thời trung học. Một người là
họa sĩ khá nổi danh, còn người kia là sinh
viên trường bách khoa. Chúng tôi lại tiếp
tục những cuộc ngao du vào rừng và lại
thảo luận. Tôi tin chắc rằng điều này vô
cùng hữu ích cho tôi, vì những cách nhìn
sự vật khác nhau làm tôi có thể xét đoán
những cá tính, tính cách và biết đánh giá
nhiều ý kiến khác nhau."
"Trước khi rời trường trung học lúc
mười bảy tuổi, tôi đã viết chuyện 12T"Contes
à Ninon" {12T 864; được dịch là Những câu
chuyện cho Ninon}. Tôi sửa lại những câu
chuyện này và quyết định dùng chúng để
thử vận may làm văn sĩ của mình."
"Cũng như với tất cả các nhà văn trẻ
và chưa nổi tiếng khác, các nhà xuất bản
tiếp tôi và lịch sự trả lại bản thảo cho tôi.
Tôi thử với ông chủ của tôi, nhưng mặc dù
ông ấy khuyến khích tôi, tỏ ý khen tôi
bằng cách cho tôi một vị trí có trọng trách
hơn, ông ta vẫn từ chối xuất bản truyện
của tôi. Cuối cùng, tôi trình bản thảo cho
ông Hetzel, và trước nỗi vui mừng không
sao tả xiết của tôi, ông ta chấp nhận nó."
"Cuốn sách được xem lại một cách
thiện chí, nhưng bán không được."
"Chẳng lâu sau tôi bắt đầu tham gia
vào tờ 12TVie Parisienne 12Tvà 12TPetit Journal, 12Tvà
bắt đầu dấn thân vào nghề viết báo như
thế đó."
"Bởi vì chỉ có những buổi chiều tối
thôi thì không cho phép tôi có đủ thời giờ
để làm hết mọi việc trong tay, nên tôi xin
thôi việc vào năm 1867, và hiến mình cho
văn chương độc chiếm."
"Việc này không cải thiện địa vị của
tôi và tôi lại phải chịu cực khổ và thiếu
thốn một lần nữa."
"Anh không cần phải biết từng giai
đoạn một trong sự nghiệp của tôi. Anh
biết tôi bây giờ như thế nào rồi mà - tôi đã
thành công!"
"Vâng, thưa ông, không mấy người
có thể kiêu hãnh là đã thành công được
như ông. Thật sự ra đã có đủ chứng cứ về
sự thành công đó ngay trong căn phòng
này."
"Dĩ nhiên điều đó ngụ ý rằng anh
nghĩ tôi có một tài khoản khổng lồ trong
ngân hàng. Anh nhầm rồi. Mỗi xu tôi kiếm
được là từ việc bán sách, từ quyền dịch,
vân vân. Tiền bản quyền tác giả của tôi là
sáu mươi xu một tập, mang lại cho tôi mỗi
năm 300.000 quan, và tôi không phải tiết
kiệm. Tất cả đồ đạc này, và những món đồ
anh thấy rải rác chung quanh là do tôi tích
lũy từ từ. Tôi bắt đầu mua chúng từ số tiền
dành dụm đầu tiên."
"Niềm đam mê này, niềm đam mê
buộc tôi phải thường xuyên đổi nhà để có
đủ chỗ cho số đồ đạc tôi kiếm được ngày
càng tăng dần, là do tôi đọc Victor Hugo
trong thời thơ ấu. Tôi lấy làm tiếc phải nói
rằng niềm đam mê ấy bây giờ không còn
mãnh liệt như xưa nữa."
19TKhi ông đứng lên đưa tôi 19Tđi tham
quan một vòng, ánh sáng soi rõ mặt ông
ta. Tôi nghĩ mình đã nhận ra sự sầu muộn
trong ánh mắt ấy và chú ý đến sự thay đổi
này.
Ông ta trả lời, với tiếng thở dài:
"Anh thân mến, tôi nhắc lại rằng tôi luôn
luôn vui sướng nghĩ về cái gác xép của
mình. Lúc ấy tôi chẳng lo âu gì cả. Lúc ấy
tôi hoàn toàn độc lập."
"Nhưng bây giờ ông bị lệ thuộc theo
nghĩa nào?"
"Còn hơn là anh nghĩ nữa. Hồi ấy tôi
là độc giả của chính mình và nhà phê bình
duy nhất của mình. Tôi sống trong tác
phẩm của mình và nghĩ rằng chúng hoàn
hảo. Rồi từ khi tôi thuộc về công chúng,
sự thành công của tôi phụ thuộc vào sự
phê bình đánh giá của họ, phần thưởng
của tôi chính là sự biết thưởng thức và
hiểu rõ giá trị tác phẩm của họ. Đừng
tưởng rằng tôi không thường đau khổ vô
cùng, rằng tôi không bị tổn thương và xúc
phạm, rằng tôi không cảm thấy xấu hổ,
nhục nhã, và nản lòng vì người ta hiểu sai
động cơ của mình. Những nỗi buồn ấy đã
qua nhưng tôi cam đoan với anh rằng
chúng chẳng thú vị gì.
19TChúng tôi đi xem căn hộ 19Ttrong khi
ông bày tỏ nỗi lòng. Không thể tả được nó
trong một cột báo ngắn, bởi vì tôi phải thú
nhận rằng tôi ít khi nào thấy nhiều đồ 18Tvật
sưu 18Ttầm đến thế, cũng như vẻ đa dạng
muôn màu muôn vẻ của chúng đến thế.
Thị hiếu, sở thích, và khiếu thẩm mỹ
thể hiện trong việc chọn lựa, sắp đặt bố trí,
sự hòa hợp màu sắc, sự tô điểm. Bản tính
người miền Nam của chủ nhà bộc lộ qua
việc chuộng những màu sáng; giáo dục và
sự tinh tế, tao nhã, sành sõi biểu hiện qua
phong thái dịu dàng và tổng thể hài hòa,
cân đối. Ông không do dự chỉ cho tôi xem
mọi thứ; nhưng tuy nhiên, thật là đáng tiếc
bởi vì giá mà tôi trông thấy ít hơn thì tôi
có lẽ sẽ nhớ được nhiều hơn.
Khi chúng tôi quay lại phòng làm
việc, tôi trở lại chủ đề trước đây, và hỏi
ông có phải rằng ông đã viết vội những
cuốn sách của ông, như người ta nghĩ, sau
một tác phẩm đầu được viết cẩn thận
không. Ông phủ nhận điều này.
"Đó là một sai lầm; tôi làm việc rất
cố gắng và vất vả."
"Vậy thì ông làm gì, ông thân mến?"
"À, tôi không bao giờ chuẩn bị tình
tiết, cốt truyện cả. Tôi không thể làm điều
đó. Tôi thường trầm ngâm hàng giờ, vùi
đầu trong hai tay, nhắm mắt lại, và phát
ốm vì nó. Nhưng chẳng ích gì. Cuối cùng
tôi bỏ nó. Điều tôi làm cho mỗi tiểu thuyết
là tiến hành ba loại nghiên cứu. Loại đầu
tiên tôi gọi là bản phác thảo, tức là tôi xác
định tư tưởng chủ đạo của cuốn sách, và
những yếu tố cần phải có để phát triển tư
tưởng này. Tôi cũng xác lập những mối
quan hệ hợp lý chắc chắn giữa một loạt sự
kiện này và loạt sự kiện khác. Hồ sơ kế
tiếp bao gồm sự nghiên cứu đặc điểm, tính
cách của mỗi nhân vật trong tác phẩm của
tôi. Đối với những nhân vật chính thì tôi
còn phải nghiên cứu nhiều hơn nữa. Tôi
điều tra tính nết, tính cách, cá tính, đặc
điểm của cả bố lẫn mẹ, cuộc sống của họ,
ảnh hưởng của mối quan hệ lẫn nhau của
họ lên tính khí đứa trẻ, cách đứa trẻ được
nuôi nấng giáo dục, thời đi học, môi
trường xung quanh và bạn bè của nó cho
đến tận lúc tôi đưa nó vào tác phẩm của
mình. Vì thế, anh thấy đó, tôi đến càng sát
với bản chất nhân vật càng tốt, và thậm
chí còn lưu tâm tới diện mạo cá nhân, vẻ
bề ngoài, phong thái, sức khỏe và tính di
truyền của họ nữa. Việc phải làm thứ ba là
tôi nghiên cứu môi trường mà tôi có ý
định đặt nhân vật của mình vào, địa
phương và nơi chốn mà một số phần nào
đó của cuốn sách diễn ra. Tôi điều tra thái
độ, cử chỉ, cách cư xử, phong tục tập
quán, thói quen, tính cách, ngôn ngữ, và
thậm chí học cả biệt ngữ của dân cư ở địa
phương đó.
Tôi thường phác thảo bằng viết chì
và đo kích thước những căn phòng, biết
chính xác đồ đạc được đặt như thế nào.
Cuối cùng, tôi biết được vẻ bề ngoài của
những khu phố như thế vào ban ngày cũng
như ban đêm. Sau khi thu thập tất cả
những tài liệu này, tôi ngồi làm việc đều
đặn mỗi sáng, và không viết hơn ba trang
mỗi ngày."
"Ông viết tác phẩm trong bao lâu?"
"Không lâu lắm. Chủ đề sống động
đến nỗi công việc tiến triển chậm nhưng
không bị gián đoạn. Thực ra, tôi hầu như
không tẩy xóa hoặc sửa chữa chút nào, và
một khi bài viết của tôi xong xuôi và được
đặt sang một bên, tôi không nhìn lại nó
nữa. Sáng hôm sau tôi hồi phục lại mạch
chuyện và câu chuyện tiếp tục cho đến hết
theo một sự tiến triển hợp lý."
"Tôi làm việc như một nhà toán học.
Trước khi bắt tay vào việc tôi biết tiểu
thuyết của tôi sẽ được chia làm mấy
chương. Những phần được miêu tả có một
khoảng được định sẵn, và nếu chúng quá
dài cho một chương thì tôi sẽ kết thúc
chúng ở chương khác. Tôi cũng cố gắng
làm cho đầu óc của độc giả được nghỉ
ngơi đôi chút bằng cách xen vào một điều
gì đó làm chệch hướng chú ý vào thời
gian."
“Cuối cùng, tôi lập lại rằng tôi không
định trước tình tiết hoặc cốt truyện. Tôi
không biết từ đầu chương nó kết thúc như
thế nào. Các tình cảnh phải theo nhau một
cách hợp lý. Thế thôi!”
Sau đó18T dĩ nhiên câu chuyện tiếp đến
một trong những tác phẩm chính của ông
ta, đặc biệt là 18TLA 41T8 41T8ERRE 18T{1987, được dịch
là 12T8Đất}.
18TĐể đáp trả lại sự chống đối cuốn
sách này, một trong những lý lẽ của ông ta
là sự tiến bộ và khoa học đã làm cho con
người khác biệt hơn so với thế kỷ trước,
và ông ta nhấn mạnh rằng ngày nay chúng
ta phải bãi bỏ việc nghiên cứu con người
siêu hình của bao năm qua để tìm hiểu về
con người sinh lý học thời nay. "Đó là ý
kiến của tôi, và để bảo vệ niềm tin vững
chắc này mà tôi đã làm việc nhiều năm."
18TChủ đề kế tiếp mà tôi nghĩ có thể
khai thác ông ta là DÉBÂCLE
18T"Tôi chuẩn bị tác phẩm 18T39Débâcle 18T39của
mình như thế nào à? À, cũng như tất cả
cuốn sách khác của tôi thôi. Anh biết rằng
tôi đã vượt qua tất cả trận chiến mà tôi
miêu tả. Hơn nữa, tôi đã nhận được vô số
thư từ về đề tài này. Những lá thư thú vị
nhất đến từ các giáo sư của các trường ở
Paris, họ đã bị thất nghiệp. Tất cả những
lá thư này, do những người có học viết,
đều chứa đựng những lời than vãn như
nhau, giải thích về sự đau khổ và thiếu
thốn giống nhau. Tất cả đều miêu tả họ đã
sống không có thực phẩm và rách rưới
như thế nào trong nhiều ngày và số đo của
họ đã giảm xuống nhanh như thế nào. Mỗi
người đều có hồi ký miêu tả và minh họa
sự dốt nát ngờ nghệch của những kẻ chỉ
huy! Tôi bị tấn công dữ dội khi 18T39Débâcle
18T39xuất hiện. Tất cả đều bị chỉ trích như
thường lệ, và nhiều chi tiết bị cho là
không chính xác. Nhưng tôi hỏi anh rằng
có phải lúc nào cũng có thể chính xác một
cách tuyệt đối trong từng chi tiết nhỏ trong
một cuốn tiểu thuyết như trong lịch sử
không?
18T"Một số ngày tháng bị đặt sai chỗ, và
một số chi tiết liên quan đến màu sắc của
cổ áo kỵ binh không đúng; nhưng chỉ trích
về những chi tiết ngu xuẩn, ngớ ngẩn như
thế không ảnh hưởng đến sự giải quyết, sự
phát triển, và kết luận của vấn đề. Người
ta nói với tôi rằng Nguyên Soái
MacMahon{Marie Edmé Patrice Maurice,
Bá tước MacMahon, Nguyên Soái trong
thời kỳ chiến tranh Pháp Phổ và Tổng
Thống Pháp từ 1873 đến 1879} điên tiết
với tôi, rằng ông ta đang chuẩn bị trả đũa
cuốn sách của tôi. Tránh những lời chỉ
trích cá nhân luôn là mục đích của tôi. Tôi
chưa bao giờ buộc tội MacMahon, nhưng
thực tế chứng minh là ông ta đã hành động
một cách thiếu hiểu biết. Lịch sử sẽ khắc
nghiệt hơn, và khi những người viết sử tra
cứu tham khảo tài liệu như tôi sẽ không cư
xử với ông ta một cách tôn kính như tôi
đối với ông ta đâu.
18T ướng Gallifet {Hầu tước Gaston -
Alxandre-Auguste de Gallifet, sĩ quan
trong chiến tranh Phổ-Pháp} cũng là kẻ
thù của tôi. Anh có biết tại sao không? Bởi
vì tôi không tuyên dương ông ta.
12T"Débâcle 12T8của ông bán ra sao, ông
thân mến?"
18T"Không chạy như lúc đầu vì vụ tai
tiếng Panama. {Vào năm 1892 các nhà
chính trị bị phát hiện đã ăn hối lộ để bưng
bít sự tham nhũng ở công ty Panama, việc
kinh doanh không thành sau cùng của
Pháp nhằm xây kênh đào đầu tiên xuyên
qua eo Panama}. Khi sự vô lương tâm của
một hạng người nào đó bị phô bày trần
ừụi, thì những người khởi xướng cuộc
điều tra bị một bộ phận dân chúng trong
nước cáo buộc là thiếu tinh thần yêu nước.
Kỳ lạ thay, sự cáo buộc y như thế lại nhắm
vào cuốn sách của tôi, vì thế, thay vì được
cảm ơn vì đã can đảm vạch trần cái xấu xa
tội lỗi, tôi lại bị trừng phạt vì điều đó.
Cũng chính những thế lực này đã chống
lại tôi trong những cuộc bầu cử vào viện
Hàn lâm vừa qua. Trước vụ Panama, tôi
chắc chắn có một ghế!
18T"Ông sẽ tiếp tục ứng cử không?"
18T"Chắc chắn rồi, cho đến khi tôi có
được một ghế. Chẳng có lý do gì khiến tôi
bị loại khỏi hội đồng. Nếu tôi không ra
ứng cử, điều đó có thể được hiểu hoặc giải
thích như là một sự thú nhận rằng tôi xem
hành động các Viện sĩ Hàn lâm chống lại
tôi là đúng!"
18T"Khi nào ông dự định cho ra mắt
cuốn tiểu thuyết về Lourdes của ông?"
18T"Lâu hơn là anh nghĩ. Hiện tôi đang
làm việc với 12T8Bác sĩ Pascal, 12T8cuốn này kết
thúc bộ tiểu thuyết Rougon-Macquart của
tôi."
18T"Có gì không thận trọng không 18Tnếu
tôi hỏi ông rằng lần này ông dự 18Ttính giải
quyết vấn đề gì?'"
18T"Không đâu. Đó là sự bào chữa, biện
hộ thông thái và khoa học của tác phẩm
chính của đời tôi - bộ tiểu thuyết Rougon-
Macquart hai mươi tập. Anh thấy đấy, tôi
xem điều này là quan trọng nhất, và vì vậy
tôi đặc biệt chú ý đến tác phẩm này, một
tác phẩm minh chứng cho lý thuyết và sự
dũng cảm táo bạo trong hành văn của tôi.
Sau đó, tôi sẽ nắm Lourdes trong tay. Sau
12T8Lourdes 12T8đến 12T8Rome, 12T8rồi đến 12T8Paris, 12T8Chúng
sẽ tạo thành bộ ba!"
18T"Ấy là?"
18T"À, trong tác phẩm đầu tôi sẽ cố
gắng chứng minh rằng sự phát triển to lớn
của khoa học trong thời đại chúng ta gieo
hy vọng trong tâm trí mọi giai cấp, những
hy vọng mà sự phát triển ấy không thực
hiện được đến mức thỏa mãn những tâm
trí dễ bị ảnh hưởng nhất, và vì thế những
tâm trí đó hay đòi hỏi quá quắt nhất và
không biết điều nhất. Làm thế nào mà
những tâm trí như thế trở lại, một cách
thuyết phục hơn, với niềm tin vào sự hiện
hữu của một điều gì đó mạnh mẽ hơn khoa
học, một điều gì đó có thể làm bớt đi
những xấu xa tội lỗi làm cho những tâm trí
đó đau khổ, hoặc điều gì đó có thể hình
dung ra rằng những tâm trí đó đau khổ."
18T"Trong những tác phẩm này thậm chí
có thể có những người nhân đức trong xã
hội và họ nghĩ rằng để chữa khỏi nỗi đau
cho loài người thì sự cầu nguyện hộ của
thần thánh hiệu nghiệm hơn những lý
tuyết vô chính phủ. Trong tác phẩm 12T8Rome
12T8của tôi, tôi sẽ bàn về đạo công giáo mới,
những tham vọng và những cuộc đấu tranh
của nó khác biệt với tình cảm tôn giáo
thanh khiết của những người hành hương
trong tác phẩm 12T8Lourdes."
18T"Cuối cùng, trong tác phẩm Paris tôi
sẽ cố gắng vạch trần sự tham nhũng, đồi
bại xấu xa, trụy lạc làm tàn phá thành phố
này. Toàn bộ thế giới văn minh đã góp
phần tạo nên chúng. Tôi không cần nói
rằng những điều này sẽ được viết dưới
hình thức tiểu thuyết."
18T"Tôi đã thu thập đủ tài liệu để viết
12T8Lourdes, 12T8Anh biết đấy, tôi đã theo một
đoàn hành hương và được giới tăng lữ
giúp đỡ rất tử tế. Họ cho phép tôi tham
khảo tất cả tài liệu, tư liệu mà họ có. Như
thường lệ, hằng ngày tôi nhận thư của
thường dân lẫn tu sĩ, và họ tự động cung
cấp thông tin cho tôi!"
18TNgay sau đó Zola đứng lên, mở một
ngăn kéo và chỉ cho tôi xem những chồng
thư như thế. Trong số đó tôi đọc một lá
thư của một tu sĩ, người dường như tin
chắc rằng chẳng bao lâu Zola sẽ là người
thay đổi chính kiến. Tôi hỏi ông ta đã thấy
gì ở Lourdes.
18T"Chẳng có điều gì mà tôi không chờ
đợi. Xét cho đến cùng, trước khi đến đấy,
tôi đã nói chuyện rất lâu với những
chuyên gia nổi tiếng về bệnh thần kinh.
Tôi thấy những cách chữa trị thường được
gọi là lạ thường do việc bác bỏ sức mạnh
của niềm tin có thể chữa những bệnh
cuồng loạn hoặc những bệnh tương tự.
Nhưng tôi không thấy tay chân được làm
cho thẳng hoặc được thay thế, cũng không
có ông thầy tu hoặc tu sĩ nào chỉ cho tôi
xem hoặc thậm chí ám chỉ cách chữa khỏi
như thế. "
18T"Nhưng điều làm tôi chú ý, trái với
sự mong đợi của mỗi người, là tôi không
tìm thấy sự nhập đạo năng nổ, phô trương
trong giới tăng lữ. Mọi thứ được điều
khiển với một phong thái đường hoàng,
trang nghiêm, trầm lặng và khiêm tốn."
18T ôi tiếp tục xem các lá thư và chọn
ra một lá từ một phụ nữ Anh. Lá thư diễn
tả hy vọng chân thành rằng 12T8Débâcle 12T8sẽ
mang lại kết quả, rằng nó sẽ là một bài
học cảnh báo nước Pháp, và cứu quốc gia
này tránh được những lỗi lầm nó phạm
phải trong thời Đế chế.
Khi tôi đọc xong lá thư, Zola cam
đoan với tôi rằng từ khi 12TDébâcle 12Tra đời,
ông rất vui sướng nói rằng ông nhận được
vô số thư như thế từ nước Anh. Điều này
chứng tỏ rằng sự thù địch chống đối ông
có khuynh hướng biến mất.
Trước khi rút lui, tôi hỏi nhà văn có
tin tức gì về tên trộm giả danh phóng viên
để ăn cắp mấy món đồ bằng đồng của ông
không.
"Biết tôi chuẩn bị viết cuốn sách đó,
tòa soạn báo tăng lữ gửi phóng viên đến
chỗ tôi. Tôi tiếp họ không một ngoại lệ
nào cả. Khi tôi đang nói chuyện với một
người bạn thì có người trình thẻ phóng
viên mang tên của một tờ báo nhỏ như thế.
Tôi bảo người giúp việc đưa hắn ta vào
phòng khách."
"Năm phút sau tôi tiếp hắn ta. Thay
vì lấy thông tin đầy đủ, những thông tin
mà tôi sẵn sàng cung cấp, hắn chỉ hỏi vài
câu rồi lễ phép rút lui. Chỉ ngày hôm sau
tôi mới phát hiện ra hắn đã lấy đi những
món đồ quí trị giá khoảng 700 quan.
19T ôi không biết đã đàm đạo 19Tvới nhà
viết tiểu thuyết vĩ đại, tử tế và đáng yêu
trong bao lâu; nhưng vào lúc này, khi
nghe ông ta nói được hơn một tiếng rưỡi,
tôi đứng lên ra về.
Cánh cửa nặng nề đã đóng lại sau
lưng tôi. Tôi có nên khắc họa lại hình ảnh
của Zola mà tôi đã thấy ở đó, trong phòng
ông, trong chiếc áo jacket Tyrolese ấm áp
có nhiều túi, viền xanh, cài nút lên sát cổ
không? Có lẽ không cần thiết, bởi vì cho
tới lúc này nét mặt nhà văn ắt hẳn đã thân
thuộc với hầu hết mọi người.
Giống như mọi người miền Nam,
thiện ý của Zola giúp ông ta bày tỏ ý kiến
của mình; nhưng ông ta chẳng có một chút
xíu tài hùng biện nào của chủng tộc mình
cả. Trong đoàn thể, ở một mức độ nào đó,
ông ta vẫn, và phải luôn luôn là nạn nhân
của sự rụt rè, bẽn lẽn; và mỗi một nỗ lực
nói trước đám đông của ông là một sự thấtP
Pbại hoàn toàn. Ở ông chẳng có một chút gì
là hài hước, và ông chỉ hạnh phúc khi làm
việc. Buộc phải nhàn rỗi là sự khổ sở đối
với ông ta.
NGUYÊN BẢN TIẾNG ANH BÀI BÁO PHỎNG VẤN E1MILE ZOLA
9TLấy từ nguồn The Penguin Book of Interviews. Silvester, Christopher, nhà xuất bản
Penguin Books, 1993.
58TAt the time of this interview in 1893, French novelist and critic Émile Zola was
completing the 20th and last novel in his epic cycle known as Les Rougon-Macquart. The
cycle follows the history of members of a single family, the Rougon-Macquarts, as they
react to the events and social pressures of the Second Empire in France (1852-1870). Zola
and his interviewer, V. R. Mooney, writing for the British periodical The Idler, discuss
Zola's most recently published novel in the cycle, La Débâcle (1892; translated as The
Debacle). This novel portrays France's defeat in the Franco-Prussian War (1870-1871).
INTERVIEW WITH E1MILE ZOLA
‘M. Zola?’
‘No, monsieur, this is not No. 21 bis
- this is No. 21’
By way of justification for the
asperity of the tones in which this reply is
given forth the concierge of No. 21
proceeds to inform me that everyone
makes the same mistake.
'It is a perpetual procession here,' she
goes on. 'It is nothing but M Zola? M.
Zola? M. Zola? without cease. I wish
people would learn the right address.'
Now I at least ought to have known
better, for I had visited M. Zola before, so,
feeling rather small, I beat a hurried
retreat, and betook myself to 9TNo. 9T21 bis.
Unike most Parisians, Zola has a
whole house to himself, and, as you
perceive at a glance on entering, a very
richly decorated house it is; tapestries,
bronzes, bas-reliefs, sculptures in stone
and marble, are studiously arranged about
the hall and the handsome staircase, the
general effect, in the subdued light of
windows of stained glass, being most
artistic.
On the first landing, lances and
swords and armour of different kinds
shine out from behind tropical plants. On
this landing is Zola's studio, which is full
of indications of his love for the antique -
a love that is not carried to extremes,
however, for the high-backed,
uncomfortable chairs of our forefathers, in
which so many of his fellow-collectors
find it necessary to seat themselves (or
their visitors), are here replaced by
spacious modern armchairs.
I am not kept long waiting.
Well, I am glad that this is a wet day,
or else you would very likely have
regretted losing the opportunity of going
to the Bois [park].
Such are the maitre's first words after
a hearty shake of the hand.
'So you want to know all about me.
Now let me see what I can tell you
without repeating myself.'
And Zola sinks down into a small
but comfortable armchair, with a small
Turkish inlaid coffee and cigarette stand
covered with books on one side, and on
the other an antique wrought iron fender
placed in front of an immense fireplace,
and commences placidly the following
monologue, which I give as nearly as
possible in his own words.
'My father's mother was a Corfiote
[from the Greek island Corfu], he himself
a Venetian, and my mother was a Parisian.
My father and mother met in Paris, during
one of my father's numerous visits here in
connection with an aqueduct which he
wanted to construct at Aix in Provence.
Within a very short time of their first
meeting, they were married. It was a love
match.I was born in Paris, in 1840, and to-
day I am, therefore, fifty-three.
'In 1847 my father died, and left very
little behind him, except lawsuits, which,
through inexperience more than anything
else, my mother and grand-mother
managed to lose.
'My education only then began, but
until twelve, when I had finally to enter
college, I had it pretty much my own way.
That means I worked very little, and spent
most of my time in the open air, running
about in our glorious southern fields, and
learning how to love and admire nature.
'At college I studied with varying
success.
'What I liked best were mathe-matics
and science. I hated Greek and Latin.
'It was during the last year of my
college life that I made the acquain-tance
of two young fellows who may have been
instrumental in making of me what I am
now. As we had pretty much the same
tastes it was our passion, whenever we
could indulge in it, to run out in the fields,
get on the banks of a stream, and for
hours, under the shade of some tree, read
the books of fiction which came to our
possession. After each book had been
gone through, we discussed its merits,
chapter by chapter, studied the characters
and the plot; all this more form a
metaphysical than a literary point of view.
'I left college in 1848, and came to
Paris to get work, in order to help my
mother. I found a situation which I soon
had to give up, and, till 1861, I went
through all the hardships that a destitute
young man can undergo in Paris.
'Often have I spent in my attic the
best part of the day, lying in bed to keep
warm.
'Although, as you see, I am better off
now, I often look back upon that time
regretting that it cannot return.
'Voyez vous, privations and suffering
were my lot, but I had in me the fire of
youth. I had health, hope, unbounded
confidence in myself, and ambition.
'Ab oui! It was a glorious time. I
remember how I used to write for hours
and hours in my bed; how everything was
then fresh to me, how my inexperience
made me look hopefully forward. Enfin,
life seemed bright, beautiful, and cheerful.
'After all, I really think hope is a
higher satisfaction than possession.
'But I stray from the subject.
'Let me see, you left me in bed trying
to get warm, and waiting for someone to
provide the necessary number of coppers
for a dinner.
'In 1861, I at last found a sufficiently
remunerative situation at Hachette's, the
publishers.
'I began at 200 francs a month. I did
my work so thoroughly that I was soon
raised. After a certain time I was placed in
the advertising department, and there
came in contact with the writers and
newspaper men, who, in my first literary
efforts, gave me a helping hand.
'During my stay in that office, I
never ceased writing.
'You must know that I was all my
life a very hard and conscientious worker.
'After my day's work at the office, I
used to read and write for hours at home
by candlelight. In fact, the habit of writing
at night became so inveterate that, long
afterwards, when I had time in the day, I
pulled down the blinds in my room and lit
the lamp in order to work.
‘Towards this epoch I met my two
college friends again. One had gained
some notoriety as a painter, the other was
a student at the école polytechnique. We
resumed our rambles in the woods and our
discussions. This, I am convin-ced, was of
great use to me, as our different ways of
looking at things enabled me to judge of
characters, and to appreciate differing
opinions.
‘Before I left college, viz., when I
was seventeen, I had written the 'Contes à
Ninon' [1864; translated as Stories for
Ninon]. These I retouched a little, and
determined to try my luck as a writer with
them.
'As usual, with young and unknown
writers, publishers received me and
politely returned my manuscript. I tried
my employer, but, although he encou-
raged me, and showed his sense of
appreciation, by giving me a more
responsible position, he refused to publish
my story. Finally, I presented it to Mr
Hetzel, and to my indescribable joy he
accepted it.
‘The book was very favourably
reviewed, but sold very poorly.
'Soon afterwards, I began contri-
buting to the Vie Parisienne and the Petit
Journal, and thus got launched in
journalism.
'As my evenings alone did not enable
me to do all the work I had in hand, I
resigned my situation in 1867, and
devoted myself exclusively to literature.
'This did not improve my position,
and I was obliged, for a certain time, to
suffer new hardships and privations.
'It is needless to follow my career
step by step. You know what I am now -
you see I have succeeded.'
'Well, mon cher maïtre, not many
men can boast of a success equal to yours.
Indeed, there is evidence enough in this
very room of that success.'
That implies, of course, that you
think I have an enormous account at the
bank. You are mistaken. Every centime I
get comes from the sale of my books, the
rights of translation, etc. My royalty is 60
centimes per volume. This brings me
about 300,000 francs a year, and I am not
a man to economize. All this furniture,
and the articles you see scattered about, I
have slowly accumu-lated. I began to
purchase with the first economies I ever
made.
This passion which obliged me
frequently to change residences in order to
find room for the ever increasing number
of objects was acquired by me through
reading Victor Hugo in my childhood. It is
not so ardent now, I regret to say.'
As he got up to show me round, the
light fell full on his face. I thought I
noticed a look of melancholy, and made a
remark to that effect.
With a sigh he replied, 'Mon cher
monsieur, I repeat I always think with
pleasure of my garret. I had then no cares.
I was, what I call, absolutely independent.'
'But in what way are you dependent
now?'
'More than you think. I was then my
own reader and my only critic. I lived in
my writings, and thought them perfect.
Since then I belong to the public, upon
whose judgment my success depends,
upon whose appreciation my reward lies.
Do not imagine that I do not frequently
suffer deeply, that I am not wounded, and
that I do not feel mortified and become
discouraged by the misinterpretation of
my motives. These are passing clouds, but
they are not pleasant, I can assure you.'
As he was unburdening his sorrows,
we visited the apartment. It would be
impossible to describe it in the short space
of an article, as I must admit I seldom
found such a mass, and at the same time
such a variety, of objects collected.
Taste presides in everything; choice,
disposal, grouping, and colouring. The
southern nature of the host reveals itself in
its love for bright colours; education and
refinement in the subdued tones and
harmonious ensemble.
He did not hesitate to show me
everything; unfortunately, however, had I
seen less, I would have remem-bered
more.
As we walked back to the studio I
returned to the previous subject, and asked
him whether, as was generally supposed,
he dashed through his books after a
painstaking preliminary work.
He denied this.
'It is an error; I work very hard.'
'What way do you proceed then, cher
maïtre?'
'Well, I never prepare a plot. I cannot
do it. I have frequently meditated for
hours, buried my head in my hands, closed
my eyes, and got in over it. But no use. I
finally gave it up. What I do is to make
three kinds of studies for each novel. The
first I call a sketch, viz., I determine the
dominant idea of the book, and the
elements required to develop this idea. I
also establish certain logical connections
between one series of facts and another.
The next dossier contains a study of the
character of each actor in my work. For
the principal ones I go even further. I
enquire into the character of both father
and mother, their life, the influence of
their mutual relations on the temperament
of the child. The way the latter was
brought up, his schooldays, the
surroundings and his associates up to the
time I introduce him in my book. You see,
therefore, I sail as close to nature as
possible, and even take into account his
personal appearance, health and heredity.
My third preoccupation is to study the
surroundings into which I intend to place
my actors, the locality and the spot where
certain parts may be acted. I enquire into
the manners, habits, character, language,
and even learn the jargon of the
inhabitants of such localities.
'I frequently take pencil sketches and
measurement of rooms, and know exactly
how the furniture is placed. Finally, I
know the appearance of such quarters by
night and by day. After I have collected
laboriously all this material, I sit down to
my work regularly every morning, and do
not write more than three pages of print a
day!
'How long does it take you to
produce that?'
'Well, not very long. The subject is
so vivid that the work proceeds slowly,
but without interruption. In fact, I hardly
ever make any erasures or alterations, and
once my sheet is written and laid aside, I
do not look at it again. The next morning I
resume the thread, and the story proceeds
to the end by logical progression.
'I work like a mathematician. Before
I begin I know into how many chapters the
novel shall be divided. The descriptive
parts have an allotted space, and if they
are too long for one chapter I terminate
them in another. I try also to give some
rest to the mind of the reader, or rather
remove the tension caused by too long and
stirring a passage, by interlarding
something which diverts the attention for a
time.
‘Finally, I repeat, I have no
preconceived plot. I do not know at the
beginning of a chapter how it will end.
Situations must logically follow one
another, that is all.'
Of course, after this, the
conversation rolled on some of his
principal works, particularly 32TLA TERRE
32T[1887, translated as 12T he Earth].
In reply to the objection taken to that
book, one of his arguments is that progress
and science have made of man a being
distinct from that of last century, and
insisted that nowadays we must abandon
the study of the metaphysical man of
years gone by for an enquiry into the
physiological creature of our days. That is
my opinion, and it is in defence of this
conviction that I worked for years.'
The next subject upon which I
thought I might tackle him was the
12TDébâcle.
'How did I prepare my 12TDébâcle?
12TWell, in the same way as all my other
books. You know I went over most of the
battle-fields described by me. Moreover, I
received innumerable letters on the
subject. The most interesting ones came
from the professors of Paris schools, who,
being left without employment, enlisted.
These letters, coming from educated men,
contain, without one exception, the same
lamentations, and give similar accounts of
privations and suffering. They all describe
how for days they had to go without food,
and ragged; and how fast their numbers
were thinned. Each had in his memoirs
accounts illustrating the blundering
ignorance of the commanders! I was
violently attacked when the Débâcle
appeared. Everything was criticized as
usual, and many details declared
inaccurate. But I ask you whether it is
ahvays possible to be as absolutely
accurate in small details in a novel as in a
history?
'Some dates have been misplaced,
and some details relating to the colour of
the troopers' collars were not right; but
criticism of such absurd details cannot
affect the treatment and the development
of the subject, and the conclusions arrived
at. I am told that Marshal MacMahon
[Marie Edmé Patrice Maurice, Comte de
MacMahon, marshal during the Franco-
Prussian War and president of France
from 1873 to 1879] is wild against me,
and that he is preparing a reply to my
book. It has always been my object to
avoid personalities. I never once accused
MacMahon, but the facts prove that he
acted ignorantly. History will be severer,
and when those who write it consult
documents as I did, they will not treat him
with the deference I used.
'General Gallifet [Marquis Gaston-
Alexandre-Auguste de Gallifet, officer in
the Franco-Prussian War] is also my
enemy. Do you know why? Because I
have not mentioned him.'
'How does your 12TDébâcle 12Tsell now,
cher maïtre?'
'Not so well as at the beginning, and
the cause of it is the Panama scandal. [In
1892 politicians were found to have taken
bribes to hush up corruption in the
Panama Company, an ultimately
unsuccessful French venture aimed at
building the first canal across the Isthmus
of Panama.] When the unscrupulousness
of a certain class of men was made bare,
the initiators of the enquiry were accused
by a section of the nation with want of
patriotism. Curiously enough, the same
accusation was levelled against my book,
therefore, instead of being thanked for the
courage I had of disclosing the evils, I am
punished for it. The same influences acted
against me in the last Academy elections.
Before the Panama affair, I was certain to
have a chair.'
'Will you continue presenting
yourself?'
'Certainly, until I get a seat. There is
no reason why I should be excluded from
that body, and if I abstain from presenting
my candidature, it might be construed as
an admission on my part that I considered
justified the action of the academicians
against me.'
'When is your novel about Lourdes
going to appear?'
'Later than you think. I am working
at present at Dr Pascal, which closes my
series of the Rougon-Macquart novels.'
'Would it be indiscreet to ask you
what subject you intend treating this
time?'
'No. It will be a philosophical and
scientific defence of the principal work of
my life-the twenty volumes of the
Rougon-Macquart. You see I attach the
greatest importance to this, and therefore
give special attention to my work, which
is meant to be a justification of my
theories and hardiesses [boldness]. After
this I’ll take Lourdes in hand. Lourdes will
be followed by Rome, and then by Paris.
They will form a triptych.'
‘Namely?’
'Well, in the first I shall try to prove
that the great scientific development of
our time has inspired hopes in the mind of
all classes, hopes which it has not realized
to the satisfaction of the most
impressionable, therefore the most
exacting and unreasonable minds. How
such minds have returned with greater
conviction to the belief in the existence of
something more powerful than science, a
something which can alleviate the evils
from which they suffer, or imagine they
do.
'Among these there may even be
social philanthropists, who may think that
divine intercession is more efficacious to
cure the suffering of the people than
anarchist theories. In my Rome I shall
treat of the Neo-Catholicism, with its
ambitions, its struggle, etc., as distinct
from the pure religious sentiment of the
pilgrims of Lourdes.
‘Finally, in Paris I shall endeavour to
lay bare the corruption and vice which
devour that city; vice and corruption to
which the whole civilized world brings its
share. I need not say that these will be
written in the shape of novels.
‘For Lourdes I have collected all my
material. As you know, I followed a
pilgrimage, and was given the kindest
assistance by the clergy, who allowed me
to consult every document in their
possession. As usual, I receive every day
letters from laymen and priests, who
spontaneously supply me with
information.'
Zola thereupon got up, opened a
drawer, and showed me piles of such
letters. Among these I read one from a
priest, who seemed convinced that before
long Zola would be a convert. I asked him
what he had seen at Lourdes.
'Nothing that I did not expect,
considering that before going there I had
had long conversations with eminent
specialists in nervous diseases. I saw cures
which would be called extraordinary by
such as ignore the curative power of faith
in hysteric complaints and its derivatives.
But I did not see limbs straightened or
replaced, nor has any monk or priest
showed me or even alluded to such cures.
'But what struck me was that,
contrary to what one is made to expect, I
did not find among the clergy that
aggressive and ostentatious proselytism.
Everything is conducted in a dignified,
quiet, unassuming manner.'
Continuing to look among the letters,
I picked one from an English lady,
expressing the sincere hope that the
Débâcle would bear fruit, that the lesson it
taught would be a warning to France, and
save the nation from the errors it had
fallen into during the Empire.
When I had done, Zola assured me
that since the Débâcle he was happy to say
that he receives numerous such letters
from England. This shows him that the
hostile feeling against him tends to
disappear.
Before withdrawing, I asked him
whether he had heard any more of the
thief who, assuming the title of a
journalist, had stolen some of his bronzes.
With a laugh, Zola replied in the
negative, and explained that he had to
thank Lourdes for the theft.
'Since it has become known that I
prepare that book, the clerical papers send
me their reporters. I receive them without
exception. On this occasion, I was talking
to a friend when a card was presented
bearing the title of a small such paper. I
requested the servant to show the bearer in
the drawing-room.
‘Five minutes later I was with the
fellow, who asked a couple of questions.
Instead, however, of waiting for complete
information, which I volunteered to give,
he very politely withdrew, and only the
next day did I discover that he had
removed valuables for about 700 francs.'
19TFor how long I might have 19Tengaged
the great and amiable novelist in
conversation I don't know; but at this
point, having listened to him for more than
an hour and a half, I rose to leave.
And now that the heavy door has
closed behind me, shall I attempt to
compose a picture of Zola as I have seen
him there in his room in his warm, many-
pocketed Tyrolese jacket, braided with
green, and buttoned up to the throat?
Perhaps it is unnecessary, for his features
must by this time be fami-liar to almost
all.
Like all Southerners, Zola helps out
his voice with frequent gestures; but he
has none of the exuberant eloquence of his
race. In society he is still, to a certain
degree, and must always remain the victim
of bashful-ness; and his one attempt at
public speaking was a complete failure.
He has in him nothing of the boulevardier,
and he is happy only when at work.
Enforced idleness would mean misery to
him.
58TSource: The Penguin Book of interviews. Silvester, Christopher, ed. Penguin Books, 1993.
Bài báo TÔI TỐ CÁO (J’ACCUSE), đăng trên tờ Rạng Đông ngày 13 tháng giêng
năm 1898
18T hưa ngài Tổng Thống,
18TLiệu ngài có cho phép chúng tôi, với lòng biết ơn đã được ngài khoan dung đón tiếp, được
lo ngại cho thanh danh chính đáng của ngài và được nói với ngài rằng ngôi sao chiếu mệnh
của ngài, cho tới nay rất rạng rỡ, đang bị đe doa bởi một trong những vết nhơ nhục nhã nhất,
khó rửa sạch nhất ?
120T[...]
18T ôi chỉ có một niềm say mê, say mê ánh sáng, nhân danh nhân loại đã từng chịu quá nhiều
đau khổ và có quyền được hưởng hạnh phúc. Sự phản đối nảy lửa của tôi chỉ là một tiếng
kêu từ trong tâm hồn tôi. Vì vậy tôi mong rằng người ta dám đưa tôi ra tòa đại hình, và rằng
cuộc điều tra sẽ thật công khai!
18T ôi chờ đợi. tôi tố cáo18T [33, 13, 47]
Phục lục 3: Một đoạn trích bài báo TÔI TỐ CÁO (J'ACCUSE)
Émile Zola, tờ Rạng Đông, ngày 13 tháng giêng năm 1898
Bản dịch Lê Thu Thúy,
Tôi tố cáo, Nxb Giáo Dục, Hà Nội (1999)[33]
58TBài báo 12T58"J'Accuse" 12T58tố cáo sự giả dối bất công của các các viên chức cao cấp ở bộ chiến
tranh Pháp, bảo vệ cho sự vô tội của Dreytus, một sĩ quan gốc Do Thái làm việc trong bộ
tổng tham mưu bị án đày vĩnh viễn. Sự việc này đã gây chấn động toàn nước Pháp. Bất chấp
mọi dư luận, không mệt mỏi vì đấu tranh cho lẽ phải, Zola đã dũng cảm lên tiếng chiến đấu
vì chân lý. Tiếng nói vì lương tâm của nhà văn đã làm cho nhân loại biết đến một nước Pháp
yêu tự do và sẵn sàng đấu tranh cho sự thật.
39T ÔI TỐ CÁO trung tá 12T39Party De Cl12T39am đã là một người kiến tạo 12T39khủng khiếp cái lỗi lầm tư
pháp này, một cách vô ý thức, tôi muốn tin điều đó, và tiếp theo đã bảo vệ cái việc làm tai
hại của ông ta, từ ba năm nay, bởi những mưu mô kỳ cục nhất và tội lỗi nhất.
12T ôi tố cáo tướng Mercier là người đồng mưu trong một sự bất công lớn nhất của thế kỷ ít ra
là vì đầu óc nhu nhược.
12T ôi tố cáo, tướng Billot đã có trong tay mình những bằng chứng 12T8rõ 12T8ràng về sự vô tội của
Dreyfus mà đã ỉm chúng đi, đã trở thành thủ phạm của sự vô nhân đạo và bất công, với mục
đích chính trị và để cứu bộ tham mưu bị liên lụy.
12T ôi tố cáo tướng Boisdeffre và Gonse đã đồng mưu trong tội ác này, một người rõ ràng là vì
lòng sùng đạo, một người có thể vì đầu óc bè phái mà làm cho các văn phòng của bộ chiến
tranh trở thành một con tàu thánh, bất khả tấn công.
12T ôi tố cáo tướng Pellieux và thiếu tá Ravary đã làm một cuộc điều tra gian ác, tôi cho đó là
một cuộc điều tra thiên vị quỉ quyệt nhất, cuộc điều tra mà, trong báo cáo của viên thiếu tá,
chứa đựng một công trình không thể diễn tả hết sự cả gan khờ khạo.
La Cloche illustrée
26 février 1898
60TCe n’est pas la même vision de la Justice que propose 60T123La Cloche illustrée, 60T123le 26 février... De toute
évidence, Albert René, le rédacteur en chef du périodique, qui signe le dessin de couverture,
approuve la décision qui vient d’être prise. A ses yeux, le parti dreyfusard est détinitivement vaincu.
La Justice qu’il évoque s'avance d'une marche inexorable, dans son immensité souveraine.
L'AFFAIRE DREYFUS
10THỌA BÁO TIẾNG CHUÔNG, 10Tngày 26/ 2/1898
Không cùng quan điểm công lý mà tờ Tiếng Chuông đề xướng ngày 26 tháng 2. Hoàn toàn hiển
nhiên, Albert René, tổng biên tập, người ký tên trên bức ảnh bia, tán thưởng cái quyết định vừa
được công bố. Dưới mắt ông ta, chiến tuyến của những người bênh vực Dreyfus là hoàn toàn thất
bại. Nền công lý mà ông ta đề xướng đang tiến bước nghiêm khắc giữa quyền lực vô biên cua nó.
12T ôi tố cáo ba giám định viên chữ viết, những ngài Belhomme, Varinard, và Couard, đã làm
những báo cáo dối trá và gian lận, trừ khi có một cuộc kiểm tra y tế tuyên bố rằng họ đã
mắc phải một chứng bệnh về mắt và về năng lực phán đoán.
12T ôi tố cáo những văn phòng bộ chiến tranh đã tiến hành trên mặt báo, nhất là trên báo
L’Éclair (Tia chớp) và trên báo L’Écho de Paris (Tiếng vang của Paris) một chiến dịch nhơ
nhớp để đánh lạc hướng dư luận và che dấu tội lỗi của họ.
12TCuối cùng, tôi tố cáo tòa án binh xử lần thứ nhất đã vi phạm pháp luật, vì đã kết tội bị cáo
theo một tài liệu bí mật, và tôi tố cáo tòa án binh xử lần thứ hai đã bao che cho sự bất hợp
pháp này, theo mệnh lệnh, rồi phạm tội về mặt pháp lý vì cố tình xử trắng án cho một tên tội
phạm.
12TKhi đưa ra những lời tố cáo này, tôi không phải không biết rằng tôi có nguy cơ phạm vào
điều 30 và 31 của luật báo chí ngày 29 tháng 7 năm 1881, qui định hình phạt đối với tội vu
khống. Nhưng chính tôi tự nguyện được bày tỏ.
12TCòn đối với những người mà tôi tố cáo, thì tôi không quen biết họ, tôi chưa bao giờ thấy họ,
tôi không thù hằn, căm ghét gì họ. Đối với tôi họ chỉ là những thực thể, những đầu óc có hại
cho xã hội. Và cái hành động tôi làm ở đây chỉ là một cách làm mang tính chất cách mạng
nhằm thúc đẩy sự bùng nổ của sự thật và công lý.
12T ôi chỉ có một niềm say mê, say mê ánh sáng, nhân danh nhân loại đã từng chịu quá nhiều
đau khổ và có quyền được hưởng hạnh phúc. Sự phản đối nảy lửa của tôi chỉ là một tiếng
kêu từ trong tâm hồn tôi, Vì vậy tôi mong rằng người ta dám đưa tôi ra tòa đại hình, và
rằng cuộc điều tra sẽ thật công khai!
12T ôi chờ đợi.
12TZOLA
ĩ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hinh_tuong_nguoi_tho_trong_qua_trinh_phat_trien_tu_quan_ruou_den_nay_mam_cua_emile_zola_7592.pdf