Về nguồn thu thông qua sắp xếp lại, xử lý nhà, đất: Qua 12 năm triển
khai thực hiện sắp xếp lại, xử lý nhà, đất (2007 - 2018), tổng số tiền thu được
từ bán, chuyển nhượng, chuyển mục đích sử dụng nhà, đất là 70.000 tỷ đồng,
bình quân đạt 5.833 tỷ đồng/năm. Số tiền thu được tương đối ổn định qua các
năm; hiện nay, việc sắp xếp lại nhà, đất tiếp tục được thực hiện theo Nghị
định số 167/2017/NĐ-CP với cơ chế bán, chuyển nhượng thông qua đấu giá
là chủ yếu; vì vậy, dự báo số tiền thu được từ sắp xếp lại nhà, đất đạt 36.000
tỷ đồng trong giai đoạn 2020 - 2025, bình quân 6.000 tỷ đồng/năm.
- Đối với tiền thu được từ bán, chuyển nhượng, thanh lý các TSC khác
(ngoài nhà, đất): Trong 5 năm (2014-2018), tổng số tiền thu được từ xử lý
các tài sản này là 7.837,38 tỷ đồng, bình quân khoảng 1.567 tỷ đồng/năm.
Trong các năm tới, Nhà nước sẽ thực hiện cắt giảm định mức sử dụng xe ô tô
khoảng 40% so với số xe ô tô hiện có. Như vậy, sẽ thực hiện bán, thanh lý
khoảng 14.500 ô tô, bình quân khoảng 2.070 xe/năm (tăng khoảng 1.000
xe/năm so với hiện nay), với giá bán bình quân khoảng 250 triệu đồng/xe.
Vậy, số thu từ bán, chuyển nhượng TSC (trừ nhà, đất) của giai đoạn 2020 -
2025 khoảng 10.800 tỷ đồng, bình quân là 1.800 tỷ đồng/năm.
181 trang |
Chia sẻ: tueminh09 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 369 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Khai thác nguồn lực tài chính từ tài sản công ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p có vốn nhà nước)
chuyển nhượng lại cho các đối tác khác; các đối tác khác xin gia hạn thời hạn
sử dụng đất theo thời hạn được giao, thuê đất mới. Thực chất, quyền sử dụng
đất đã được chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác mà Nhà nước không sử
dụng được công cụ đấu giá, NSNN không thu được thuế chuyển nhượng đối
với bất động sản, nguồn cung bất động sản của nhà nước bị thu hẹp.
147
Để khắc phục những bất cập nêu trên, các giải pháp cần thực hiện gồm:
Một là: Thu hẹp phạm vi các trường hợp người đang sử dụng đất được
chuyển mục đích sử dụng đất. Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho
thuê đất sử dụng vào mục đích nào thì chỉ được sử dụng vào mục đích đó.
Trường hợp không còn nhu cầu sử dụng vào mục đích đã được xác định thì
phải trả lại đất cho Nhà nước.
Hai là: Trường hợp việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất là bắt buộc
theo yêu cầu từ phía Nhà nước như phải di dời cơ sở SXKD do gây ô nhiễm
môi trường, chuyển đổi mục đích sang phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh
quốc gia, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì người đang sử dụng đất được
Nhà nước hỗ trợ di dời, tạo lập địa điểm SXKD mới nếu có nhu cầu hoặc
được Nhà nước bồi thường các thiệt hại do việc thu hồi đất đem lại.
Ba là: Các cơ sở nhà, đất cũ sẽ được đấu giá để giao đất hoặc cho thuê
đất theo mục đích sử dụng mới trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Các tổ chức, cá nhân sử dụng đất trước đây, nếu có nhu cầu được giao đất,
cho thuê đất để sử dụng theo mục đích mới có quyền tham gia đấu giá theo
quy định và có thể được ưu tiên trong quá trình đấu giá.
Cơ chế nêu trên vừa giải quyết được nhu cầu sử dụng đất của các tổ
chức, cá nhân, vừa bảo đảm tính công khai, minh bạch và hiệu quả khai thác
nguồn lực tài chính từ TSC.
Cơ quan thực hiện: Bộ TN&MT, UBND các cấp.
* Bãi bỏ hình thức sử dụng tài sản công để thanh toán cho nhà đầu
tư thực hiện dự án BT
Cơ sở lý thuyết của giải pháp: Sự đa dạng của các hình thức khai thác
là một trong những tiêu chí đánh giá quan trọng việc khai thác nguồn lực tài
chính từ TSC. Tuy nhiên, việc đưa một hình thức khai thác nào đó vào áp
dụng phải luôn gắn với cơ chế thực thi và các tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm
bảo đảm tính hiệu lực của việc khai thác, đồng thời với cùng một nguồn lực
148
nếu có nhiều hình thức có thể áp dụng thì luôn phải ưu tiên lựa chọn hình thức
đáp ứng được nhiều tiêu chí nhất.
Việc triển khai thực hiện các dự án BT và thanh toán cho nhà đầu tư
thực hiện dự án BT thời gian vừa qua có nhiều sai phạm, gây thất thoát, lãng
phí nguồn lực của Nhà nước (Xem Phụ lục 8).
Bên cạnh đó, Hợp đồng BT là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà
nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án (nếu có) để xây dựng
công trình hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư chuyển giao
công trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được thanh toán bằng
quỹ đất, trụ sở làm việc, tài sản kết cấu hạ tầng hoặc quyền kinh doanh, khai
thác công trình, dịch vụ để thực hiện Dự án khác. Như vậy, thực chất của dự
án BT là nhiệm vụ của đầu tư công, nguồn thanh toán là tiền bán TSC - nguồn
thu của NSNN. Lý do chủ yếu được đưa ra để áp dụng hình thức này là Nhà
nước không có nguồn lực để đầu tư, huy động vốn của tư nhân để đầu tư thay
cho Nhà nước và Nhà nước tạo điều kiện để nhà đầu tư hoàn vốn bằng việc
giao thực hiện dự án khác. Mấu chốt của vấn đề là việc các địa phương thiếu
nguồn vốn để thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng nhằm tạo
quỹ đất sạch phục vụ cho việc đấu giá. Với những giải pháp về đấu giá đất
nêu tại luận án này, vấn đề thiếu vốn sẽ được giải quyết. Khi đó không cần
thiết phải áp dụng hình thức BT vẫn đáp ứng được yêu cầu phát triển kết cấu
hạ tầng thông qua việc đầu tư công. Bên cạnh đó, hầu hết vốn để thực hiện dự
án BT là nguồn vốn vay, lãi suất của vốn vay được tính trong phương án tài
chính của dự án (có nghĩa là Nhà nước sẽ phải chi trả theo lãi suất vay của các
ngân hàng thương mại). Vì vậy, việc bãi bỏ hình thức sử dụng TSC để thanh
toán cho nhà đầu tư thực hiện dự án BT là cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Cơ quan thực hiện: Bộ KH&ĐT trình Chính phủ sửa đổi các quy định
về đầu tư theo hình thức PPP, trong đó bãi bỏ hình thức sử dụng TSC để
thanh toán cho nhà đầu tư thực hiện dự án BT; nghiên cứu xây dựng Luật Đầu
149
tư theo hình thức PPP. Các bộ, UBND cấp tỉnh rà soát để xử lý những dự án
đầu tư dở dang theo hợp đồng.
* Thu hẹp hình thức cho thuê đất trả tiền một lần khi sử dụng đất
vào mục đích sản xuất, kinh doanh
Cơ sở lý thuyết của giải pháp: Tính bền vững trong khai thác nguồn lực
tài chính từ TSC phụ thuộc vào cách thức thực hiện thu tiền. Thông thường với
những tài sản mà giá cả có xu hướng tăng thì việc thu tiền theo định kỳ sẽ có
lợi hơn cho chủ sở hữu tài sản. Đất đai là một loại tài sản như vậy.
Do tính hữu hạn của nguồn cung trong khi nhu cầu về đất luôn tăng nên
giá đất xét trong trung và dài hạn đều có xu hướng tăng, đặc biệt là tăng mạnh
đối với các nước đang trong quá trình phát triển nhanh như Việt Nam. Mặc
dù, Luật Đất đai năm 2013 đã bãi bỏ hình thức giao đất có thu tiền sử dụng
đất đối với đất SXKD nhưng vẫn cho phép người sử dụng đất được lựa chọn
hình thức thuê đất trả tiền thuê đất một lần hoặc trả tiền thuê đất hàng năm.
Nhiều doanh nghiệp lựa chọn hình thức trả tiền một lần để giữ đất và sau đó
chuyển nhượng vì họ vẫn có quyền chuyển nhượng, trong khi nhà nước chỉ
được thanh toán tiền thuê một lần ngay từ năm đầu cho thuê đất, tính chất của
nguồn thu không bền vững.
Từ sở sở trên, việc thu hẹp hình thức cho thuê đất trả tiền một lần là cần
thiết. Hình thức này chỉ nên duy trì với các cơ sở xã hội hóa hoạt động không
vì mục tiêu lợi nhuận để bảo đảm sự cam kết lâu dài của các nhà đầu tư vào
lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích.
Cơ quan thực hiện: Bộ TN&MT, UBND các cấp.
4.2.2.3. Hoàn thiện các công cụ khai thác nguồn lực tài chính từ tài
sản công
Cơ sở lý thuyết của giải pháp: Hiệu lực, hiệu quả và kết quả khai thác
nguồn lực tài chính từ TSC phụ thuộc rất lớn vào các công cụ khai thác được
áp dụng, đồng thời tính đa dạng của các công cụ cũng là một tiêu chí đánh giá
150
việc khai thác nguồn lực tài chính từ TSC. Tuy nhiên, để các công cụ thực
hiện tốt các chức năng của mình thì phải có những điều kiện bảo đảm nhất
định (như: quy trình, phương thức thực hiện).
Nước ta hiện đang sử dụng đầy đủ các công cụ mà các nước tiên tiến
đang sử dụng. Tuy nhiên, do mới được áp dụng trong thời gian ngắn và được
áp dụng trong bối cảnh nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi nên còn
có những hạn chế, yếu kém cần hoàn thiện. Các giải pháp chủ yếu bao gồm:
* Hoàn thiện các quy định và nâng cao năng lực định giá TSC
Thứ nhất, bỏ khung giá đất do Chính phủ quy định vì khung giá đất
(với mức giá tối đa và tối thiểu) làm ảnh hưởng đến giá quy định của địa
phương tại Bảng giá đất, làm cho giá đất do địa phương ban hành không sát
với giá thực tế (Theo báo cáo của Bộ TN&MT thì hầu hết các địa phương đều
quy định Bảng giá đất thấp (chỉ bằng khoảng 30- 50% giá đất thị trường) và
không điều chỉnh Bảng giá đất khi giá thị trường biến động quá 20% để giá
đất thấp nhằm thu hút đầu tư).
Thứ hai, quy định chi tiết hơn các loại giá tại Bảng giá đất với mục tiêu
dùng Bảng giá đất để thực hiện một số loại nghĩa vụ tài chính về đất đai như
thu tiền thuê đất hàng năm, công nhận quyền sử dụng đất Bên cạnh Bảng
giá đất thì hàng năm UBND cấp tỉnh ban hành hệ số điều chỉnh giá đất để tính
thu nghĩa vụ tài chính, bảo đảm giá đất tính nghĩa vụ tài chính phù hợp một
cách tương đối với giá thị trường.
Thứ ba, việc xác định giá đất cụ thể theo 4 phương pháp (so sánh trực
tiếp, thu nhập, chiết trừ, thặng dư) được áp dụng đối trường hợp xác định giá
đất khởi điểm khi giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất thu tiền một
lần cho cả thời gian thuê, chuyển mục đích sử dụng đất, cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước. Tuy nhiên cần phải bổ sung chế tài khi thực hiện xác định
giá đất trong trường hợp này theo hướng quy định chặt chẽ các bước trong
thực hiện xác định, quy trách nhiệm của đơn vị tư vấn giá đất, cơ quan xác
định giá đất, Hội đồng thẩm định giá đất, Đồng thời nghiên cứu bổ sung
151
việc quyết định giá đất của UBND cấp tỉnh được thực hiện sau khi có ý kiến
thống nhất của Hội đồng nhân dân cùng cấp đối với các dự án lớn nhằm hạn
chế việc định giá thấp gây thất thu NSNN, hạn chế bán chỉ định, chuyển mục
đích sử dụng đất (giao đất không thông qua đấu giá); đảm bảo công khai,
minh bạch và có sự giám sát của nhân dân mà đại diện là Hội đồng nhân dân.
Thứ tư, nghiên cứu thí điểm xây dựng bản đồ giá đất và định giá đất,
xây dựng vùng giá trị đất phục vụ công tác định giá đất nhằm hỗ trợ, đơn giản
hoá trong việc xác định giá trị quyền sử dụng đất khi thực hiện chuyển
nhượng; trên cơ sở đó xác định số tiền thuế phải nộp vào NSNN.
Thứ năm, hoàn thiện các phương pháp xác định giá đất thị trường theo
tiêu chuẩn quốc tế phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội nói chung
và sự phát triển thị trường bất động sản. Bổ sung quy định cụ thể về cách xác
định giá đất theo thời hạn sử dụng để làm căn cứ xác định tiền thuê đất của
các tổ chức, cá nhân được nhà nước cho thuê đất và các giao dịch về quyền sử
dụng đất thuê. Đơn giản hóa các quy định, lượng hóa các chỉ tiêu cơ bản để
xác định giá đất bảo đảm việc xác định giá bất động sản khách quan, công
bằng, dễ kiểm soát.
Thứ sáu, xây dựng và vận hành CSDL về giá, làm cơ sở cho việc lựa
chọn mẫu khi xác định giá tài sản, đối chiếu kết quả định giá.
Thứ bảy, nâng cao năng lực của đội ngũ thẩm định viên về giá, phân
hạng các doanh nghiệp thẩm định giá.
Cơ quan thực hiện: Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường.
* Nâng cao hiệu quả đấu giá tài sản công
Đấu giá TSC là công cụ quan trọng để minh bạch hóa việc khai thác
nguồn lực tài chính từ TSC, mang lại hiệu quả cao hơn so với các hình thức
khác. Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước và tổ chức thực hiện đấu giá còn
nhiều bất cập. Một số tổ chức hành nghề bán đấu giá tài sản và một số đấu giá
viên còn chạy theo lợi nhuận nên thực hiện công việc không theo đúng quy định
của pháp luật nhằm trục lợi.
152
Để khắc phục tình trạng nêu trên, cần thực hiện các giải pháp gồm:
Thứ nhất, cho phép áp dụng đấu giá quyền sử dụng đất đối với đất chưa
giải phóng mặt bằng. Theo phương án này, Nhà nước thực hiện thu hồi đất
của người đang sử dụng, lập và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư theo quy định; sau đó tổ chức đấu giá. Nhà nước sử dụng nguồn thu
được từ đấu giá quyền sử dụng đất để thực hiện bồi thường, giải phóng mặt
bằng và bàn giao đất cho nhà đầu tư trúng đấu giá theo thời hạn ghi trong
Thông báo bán đấu giá, Quy chế đấu giá và hợp đồng ký giữa cơ quan nhà
nước có thẩm quyền và người trúng đấu giá. Trường hợp không giải phóng
được mặt bằng hoặc việc giải phóng mặt bằng chậm, nhà nước sẽ phải bồi
thường cho người trúng đấu giá. Thực hiện theo phương án này sẽ giải quyết
được bất cập hiện nay là Nhà nước thiếu nguồn kinh phí để thực hiện bồi
thường, giải phóng mặt bằng, sớm đưa đất vào thực hiện dự án, công khai,
minh bạch.
Thứ hai, bãi bỏ quy định không phải đấu giá đối với các trường hợp
được miễn tiền thuê đất cho một số năm. Chỉ áp dụng hình thức cho thuê đất
chỉ định đối với các trường hợp được miễn tiền thuê đất cho cả thời gian thuê
để tránh tình trạng lợi dụng kẽ hở của pháp luật.
Thứ ba, thực hiện nghiêm quy định về việc niêm yết và thông báo
công khai việc đấu giá tài sản; kiểm soát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
của cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ xử lý TSC trong việc giám sát toàn
bộ quá trình đấu giá, kể cả trường hợp thuê các tổ chức đấu giá thực hiện.
Thứ tư, yêu cầu bắt buộc thực hiện đấu giá TSC thông qua hình thức
đấu giá trực tuyến theo lộ trình thích hợp.
Thứ năm, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên
môn, nghiệp vụ, ý thức pháp luật, nâng cao chất lượng đội ngũ đấu giá viên
nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu thực tiễn của hoạt động bán đấu giá.
Nghiên cứu, xây dựng quy tắc đạo đức nghề đấu giá. Tăng cường thanh tra,
153
kiểm tra, chấn chỉnh sai phạm và những biểu hiện tiêu cực trong hoạt động
bán đấu giá tài sản.
Cơ quan chủ trì thực hiện: Bộ Tư pháp, Bộ TN&MT, Bộ Tài chính.
4.2.2.4. Xây dựng, vận hành Hệ thống giao dịch điện tử về tài sản công
Cơ sở lý thuyết của giải pháp: Một trong những nguyên tắc khai thác
nguồn lực tài chính từ TSC là tính công khai, minh bạch, tạo điều kiện tối đa
cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu về TSC được tiếp cận thông tin và tham
gia các giao dịch về TSC, hạn chế tối đa sự can thiệp của con người vào quá
trình thực hiện các giao dịch về TSC. Thực hiện nguyên tắc này sẽ tác động
tới kết quả và hiệu quả khai thác nguồn lực tài chính từ TSC.
Thời gian vừa qua, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã xây dựng và đưa vào vận
hành Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia để phục vụ việc lựa chọn nhà thầu,
nhà đầu tư. Tuy nhiên, còn rất nhiều giao dịch khác liên quan trực tiếp tới việc
quản lý, khai thác nguồn lực tài chính từ TSC vẫn đang được thực hiện theo
phương thức truyền thống. Vì vậy, Luật Quản lý, sử dụng TSC đã giao Bộ Tài
chính xây dựng Hệ thống giao dịch điện tử về TSC.
Hệ thống giao dịch điện tử về TSC là hệ thống công nghệ thông tin do
Nhà nước tổ chức xây dựng, quản lý vận hành để thực hiện việc bán, chuyển
nhượng, cho thuê TSC, chuyển nhượng, cho thuê quyền khai thác TSC và các
giao dịch khác về TSC giữa nhà nước và tổ chức, cá nhân. Hệ thống giao dịch
điện tử về TSC cho phép đăng tải, công khai thông tin về TSC được phép đưa
ra giao dịch, lựa chọn ngẫu nhiên tổ chức, cá nhân được quyền mua, quyền
thuê, quyền nhận chuyển nhượng đối với TSC và quyền khai thác TSC theo
các điều kiện, tiêu chí, cách thức do pháp luật quy định. Cơ quan, tổ chức,
đơn vị, cá nhân sau khi đăng ký tham gia và được Hệ thống xác nhận sẽ được
tham gia với tư cách người có tài sản hoặc người tham gia giao dịch trên Hệ
thống. Người có tài sản đăng ký bán, chuyển nhượng, cho thuê TSC, chuyển
nhượng, cho thuê quyền khai thác TSC đăng nhập thông tin về tài sản lên Hệ
thống; người tham gia giao dịch đăng ký mua, thuê, nhận chuyển nhượng trực
tiếp trên hệ thống thông qua máy tính hoặc thiết bị điện tử có kết nối internet.
154
Như vậy, cả người có tài sản và người tham gia giao dịch có thể thực hiện
các giao dịch mà không bị giới hạn về thời gian và không gian. Tuy nhiên, để
bảo đảm an toàn cho Hệ thống và các giao dịch qua Hệ thống, Bộ Tài chính
phải áp dụng các biện pháp xác thực phù hợp. Chỉ những tổ chức, cá nhân đã
đăng ký tham gia Hệ thống và thực hiện các biện pháp xác thực theo quy định
mới được tham gia các giao dịch qua hệ thống này. Người tham gia giao dịch
trên Hệ thống sẽ được mã hóa để bảo mật thông tin, tránh việc thông đồng để
can thiệp vào kết quả giao dịch.
Hình 4.1. Mô hình tổng thể ứng dụng Hệ thống giao dịch điện tử về tài sản công
Giao dịch điện tử về TSC có nhiều ưu thế trong hỗ trợ cho việc quản lý,
khai thác nguồn lực tài chính từ TSC. Tuy nhiên, các giao dịch về TSC có số
lượng lớn, bao gồm nhiều hình thức khác nhau, đối tượng tham gia rộng; vì
155
vậy, quy trình triển khai cần có các giải pháp phù hợp. Nghiên cứu sinh đề
xuất như sau:
- Xây dựng lộ trình áp dụng Hệ thống để thực hiện các giao dịch về
TSC: năm 2020: Xây dựng và vận hành thử nghiệm hệ thống; năm 2021: Áp
dụng thí điểm cho một số Bộ, ngành, địa phương; năm 2022: Triển khai diện
rộng cho các Bộ, ngành, địa phương, phấn đấu 10% các giao dịch thực hiện
qua Hệ thống; năm 2025: 40% các giao dịch thông qua hệ thống; năm 2030:
80% các giao dịch thông qua Hệ thống.
- Trong bối cảnh NSNN có nhiều khó khăn, thực hiện đầu tư xây dựng,
vận hành Hệ thống theo hình thức PPP.
- Tổ chức đào tạo việc sử dụng Hệ thống cho các cơ quan, tổ chức, đơn
vị được giao nhiệm vụ bán, chuyển nhượng, cho thuê TSC và quyền khai thác
TSC cũng như các tổ chức, cá nhân có nhu cầu tham gia Hệ thống.
- Ban hành các văn bản quy định cụ thể việc thực hiện từng loại giao
dịch từ Hệ thống, quản lý, sử dụng các khoản tiền được thanh toán trên Hệ
thống giao dịch.
Cơ quan chủ trì thực hiện: Bộ Tài chính.
4.2.2.5. Tăng cường đánh giá, giám sát, kiểm tra và xử lý vi phạm
trong khai thác nguồn lực tài chính từ tài sản công
Cơ sở lý thuyết của giải pháp: TSC có phạm vi rất rộng, đa dạng về
chủng loại, lớn về số lượng và giá trị, được giao cho nhiều đối tượng quản lý,
sử dụng, khai thác, được phân bố ở khắp mọi nơi trong một quốc gia, thậm
chí có những tài sản được quản lý, sử dụng ở nước ngoài. Vì vậy, việc đánh
giá, giám sát, kiểm tra, thanh tra để kịp thời phát hiện những hành vi vi phạm
để ngăn chặn, xử lý kịp thời, đồng thời kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp
luật là hết sức cần thiết, tác động trực tiếp tới tính hiệu lực, hiệu quả và kết
quả khai thác nguồn lực tài chính từ TSC.
Ở Việt Nam, công tác đánh giá, giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán
TSC thời gian vừa qua đã từng bước được quan tâm nhưng chưa được thường
156
xuyên, kịp thời. Việc bán, chuyển nhượng 31 cơ sở nhà, đất thuộc sở hữu nhà
nước và giao đất chỉ định để thực hiện dự án ở Đà Nẵng nếu các cơ quan chức
năng vào cuộc kiểm tra sớm thì sẽ không có việc các vi phạm cứ tiếp diễn từ
năm này qua năm khác suốt hơn 10 năm từ năm 2006 đến năm 2016. Hậu quả
của những vi phạm diễn ra trong thời gian dài là hết sức nặng nề. Để khắc
phục tình trạng nêu trên, các giải pháp cần thực hiện là:
Thứ nhất, xây dựng bộ tiêu chí đánh giá việc khai thác nguồn lực tài
chính từ TSC trong Hệ thống tiêu chí đánh giá việc quản lý TSC và tổ chức
thực hiện việc đánh giá định kỳ hàng năm. Các tiêu chí bao gồm tiêu chí định
tính và tiêu chí định lượng, tiêu chí phản ánh kết quả khai thác và tiêu chí
phản ánh quá trình khai thác. Việc đánh giá được thực hiện ở phạm vi cả nước
và phạm vi của từng bộ, cơ quan trung ương, địa phương và đơn vị trực tiếp
được giao quản lý, sử dụng TSC. Việc đánh giá vừa do cơ quan nhà nước
thực hiện, vừa do các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội thực hiện thông qua
đánh giá của tổ chức, cá nhân chịu sự tác động của chính sách.
Thứ hai, đưa công tác giám sát việc quản lý, sử dụng TSC vào thực
chất và thường xuyên. Hệ thống pháp luật hiện hành đã tạo lập cơ chế giám
sát toàn diện từ giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội,
UBTV Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, Hội đồng
nhân dân và các Ban của Hội đồng nhân dân các cấp), giám sát của cán bộ,
công chức, viên chức và các ban thanh tra nhân dân trong cơ quan, tổ chức,
đơn vị, giám sát của cộng đồng do Mặt trận tổ quốc Việt Nam chủ trì có sự
phối hợp của các tổ chức thành viên của Mặt trận, giám sát của các cơ quan
thông tấn báo chí và giám sát của nhân dân. Tuy vậy, công tác này chưa được
thường xuyên. Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội mới tổ chức một số
cuộc giám sát với một số lĩnh vực như cổ phần hóa DNNN, quản lý, sử dụng
đất của các nông, lâm trường Hội đồng nhân dân và các Ban của Hội đồng
nhân dân chưa thực hiện được nhiều. Tại thành phố Hồ Chí Minh, năm 2018,
Hội đồng nhân dân thành phố đã giám sát việc quản lý nhà, đất của các công
157
ty kinh doanh nhà và đã phát hiện được nhiều vấn đề bất cập và vi phạm trong
quản lý nhà, đất thuộc sở hữu nhà nước. Công tác giám sát của Ban thanh tra
nhân dân và cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, tổ chức, đơn vị theo
quy định tại Quy chế dân chủ ở cơ sở chưa đi vào thực chất, hầu như chưa
phát hiện được các vi phạm trong quản lý, sử dụng TSC ở ngay chính cơ
quan, tổ chức, đơn vị mình. Công tác giám sát của cộng đồng chưa được thực
hiện do Luật Quản lý, sử dụng TSC mới có hiệu lực từ ngày 01/01/2018.
Trong thời gian tới cần triển khai đồng bộ cơ chế giám sát.
Thứ ba, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán của Thanh tra
Chính phủ, Thanh tra nhà nước, thanh tra chuyên ngành, Kiểm toán Nhà
nước Theo đó, khi thực hiện thanh tra, kiểm toán về tài chính công thì đồng
thời thanh tra việc giao, đầu tư xây dựng, mua sắm, sử dụng, khai thác, xử lý
TSC của đối tượng được thanh tra, kiểm toán. Đẩy mạnh thực hiện các cuộc
thanh tra, kiểm toán chuyên đề các nội dung dễ phát sinh vi phạm trong thực tế
như việc quản lý, sử dụng nhà, đất vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên
doanh, liên kết, khai thác tài sản kết cấu hạ tầng; sử dụng TSC để tham gia các
dự án đầu tư theo hình thức PPP; xử lý bán, chuyển nhượng, thanh lý TSC;
giao đất, cho thuê đất theo hình thức chỉ định; xác định giá trị quyền sử dụng
đất; quản lý, sử dụng tiền thu được từ khai thác nguồn lực tài chính từ TSC.
Thứ tư, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trong quản lý, sử dụng, khai
thác TSC. Các hành vi vi phạm diễn ra trong một thời gian dài nhưng chưa
được ngăn chặn kịp thời có nguyên nhân là tính răn đe của các chế tài xử phạt
còn thiếu hoặc còn nhẹ, việc xử lý chưa nghiêm. Thời gian tới, cần thực hiện
nghiêm túc các quy định của Nghị định số 63/2019/NĐ-CP về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng TSC; đối chiếu với các quy
định mới của hệ thống pháp luật hiện hành và diễn biến của tình hình thực tế
để bổ sung, sửa đổi theo hướng bao quát các hành vi vi phạm, mô tả rõ hành
vi vi phạm, tăng mức xử phạt và bồi thường thiệt hại, bảo đảm tính răn đe;
158
thiết lập các cơ chế để việc xử phạt được thực hiện nghiêm túc. Thực hiện
điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế liên quan
đến TSC. Kiên quyết thu hồi giá trị tài sản bị thiệt hại của các vụ án tham
nhũng, kinh tế liên quan đến TSC.
Cơ quan thực hiện: Bộ Tài chính; các cơ quan nhà nước có chức năng
giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức đoàn thể.
4.2.3. Nhóm giải pháp hỗ trợ việc khai thác nguồn lực tài chính từ
tài sản công
4.2.3.1. Nâng cấp Cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản công để từng
bước tổng hợp đầy đủ nguồn lực tài sản công của cả nước
Cơ sở lý thuyết của giải pháp: Để xây dựng quy hoạch, kế hoạch quản
lý, sử dụng TSC một cách khoa học và tổ chức khai thác nguồn lực tài chính
từ TSC có hiệu quả thì phải có thông tin về TSC. Đây cũng là cơ sở để tiến tới
đánh giá năng lực khai thác nguồn lực tài chính từ TSC trong tương lai thể
hiện ở tỷ trọng nguồn tài chính khai thác được với giá trị của TSC.
Trước đây, Nhà nước thường tổ chức các cuộc tổng kiểm kê và thực
hiện chế độ báo cáo bằng văn bản. Với phạm vi TSC rất rộng, đối tượng sử
dụng lớn, được phân bố khắp mọi miền của đất nước, việc tổng hợp thông tin
rất khó khăn và kéo dài, dẫn tới việc các thông tin ngay sau khi được tổng hợp
xong đã trở nên lạc hậu, lại không được cập nhật thường xuyên. Vì vậy, thông
thường phải 10 năm mới thực hiện một lần. Nhận thức được tầm quan trọng
của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào lĩnh vực quản lý TSC, năm 2009,
cùng với việc triển khai Luật Quản lý, sử dụng TSNN, Bộ Tài chính đã xây
dựng và đưa vào vận hành Phần mềm Quản lý đăng ký TSNN để tổng hợp
thông tin, hình thành CSDL quốc gia về TSC. Đến nay, CSDL quốc gia đã
quản lý được thông tin của các tài sản có giá trị lớn trong khu vực HCSN, tài
sản hạ tầng đường bộ, công trình cấp nước sạch nông thôn tập trung và tài sản
159
của các dự án, đóng góp tích cực vào công tác quản lý, sử dụng TSC, đặc biệt
là việc thực hiện chế độ báo cáo và ra quyết định liên quan đến TSC. Tuy vậy,
giá trị TSC đang được theo dõi trong CSDL mới chỉ chiếm khoảng 20% tổng
giá trị ước tính của TSC theo thông lệ quốc tế.
Luật Quản lý, sử dụng TSC đã xác định CSDL quốc gia về TSC gồm
có 6 CSDL thành phần: CSDL về TSC khu vực HCSN ( bao gồm cả tài sản
của các dự án sử dụng vốn nhà nước); CSDL về tài sản kết cấu hạ tầng;
CSDL về TSC tại doanh nghiệp; CSDL về tài sản được xác lập quyền sở hữu
toàn dân; CSDL về đất đai và CSDL về tài nguyên. Trong đó, Bộ Tài chính
trực tiếp xây dựng CSDL quốc gia và một số CSDL thành phần; hướng dẫn
việc trao đổi thông tin về TSC từ các CSDL do các Bộ khác xây dựng; quy
định nội dung, cấu trúc, kiểu thông tin về TSC để kết nối vào CSDL quốc gia
về TSC. Cách làm này sẽ tận dụng được các CSDL chuyên ngành đã và đang
được xây dựng, vận hành, tiết kiệm thời gian, chi phí xây dựng nhưng vẫn
đảm bảo được các thông tin để phục vụ công tác quản lý. Vì vậy, việc nâng
cấp CSDL quốc gia về TSC là yêu cầu cấp thiết cả trước mắt lẫn lâu dài.
Song song với việc xây dựng CSDL quốc gia về TSC, vấn đề khai thác,
sử dụng thông tin trong CSDL là hết sức quan trọng. Cả trong quy định và tổ
chức thực hiện phải coi thông tin trong CSDL quốc gia do cơ quan quản lý
CSDL cung cấp có giá trị pháp lý như thông tin trong hồ sơ giấy, có thể sử
dụng để thay cho hồ sơ giấy tờ. Phạm vi sử dụng thông tin lưu giữ trong
CSDL cần được mở rộng cho toàn bộ quy trình quản lý, sử dụng TSC từ khâu
hình thành, khai thác, sử dụng đến khâu xử lý tài sản, bao gồm các mục đích:
Thực hiện báo cáo tình hình quản lý, sử dụng TSC theo quy định và yêu cầu
của cấp có thẩm quyền; làm căn cứ để lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch,
kế hoạch quản lý, sử dụng TSC; lập, thẩm định, phê duyệt dự toán, xét duyệt
quyết toán, ra quyết định việc giao, đầu tư xây dựng, mua sắm, thuê, khoán
kinh phí sử dụng TSC; khai thác nguồn lực tài chính từ TSC và xử lý TSC;
phục vụ các mục đích khác theo quyết định của cấp có thẩm quyền. Nội dung
160
thông tin trong CSDL phải phản ánh được kết quả cụ thể trong khai thác
nguồn lực đối với từng TSC.
Nội dung và cơ quan thực hiện: Bộ Tài chính có trách nhiệm lập Đề án
và tổ chức thực hiện Đề án nâng cấp CSDL quốc gia về TSC; ban hành các
văn bản quy định về việc trao đổi thông tin giữa các CSDL thành phần và
CSDL quốc gia về TSC; hướng dẫn về nội dung thông tin, cấu trúc, kiểu
thông tin tích hợp vào CSDL quốc gia về TSC; trực tiếp tổ chức thực hiện Đề
án nâng cấp CSDL quốc gia, rà soát, sửa đổi, bổ sung các trường dữ liệu
(thông tin) của các CSDL hiện có cho phù hợp với các quy định mới về quản
lý, sử dụng, khai thác TSC trong khu vực HCSN, tài sản hạ tầng đường bộ,
công trình cấp nước sạch nông thôn tập trung; tổ chức xây dựng CSDL tài sản
được xác lập quyền sở hữu thuộc về nhà nước, TSC tại doanh nghiệp.
Bộ GTVT tổ chức xây dựng CSDL về hạ tầng giao thông. Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức xây dựng CSDL về hạ tầng thủy lợi.
Bộ TN&MT tổ chức xây dựng CSDL về đất đai, tài nguyên. Bộ Khoa học và
Công nghệ tổ chức xây dựng CSDL về tài sản khoa học và công nghệ.
4.2.3.2. Tổ chức rà soát, kiểm kê, sắp xếp lại, giao quyền quản lý, sử
dụng và xử lý tài sản công
Cơ sở lý thuyết của giải pháp: Nguyên tắc đầu tiên trong quản lý, sử
dụng TSC là mọi TSC đều phải được Nhà nước giao quyền quản lý, quyền sử
dụng cho các cơ quan, tổ chức, đơn vị, hộ gia đình, cá nhân. Hay nói cách
khác, mỗi TSC phải xác định được chủ thể chịu trách nhiệm trước Nhà nước
trong việc quản lý, sử dụng TSC. Đây là cơ sở để xác định trách nhiệm của
chủ thể được giao quản lý, sử dụng với Nhà nước trong việc khai thác nguồn
lực tài chính từ TSC.
Thời gian vừa qua, nhiều TSC không xác định được chủ thể quản lý, sử
dụng nên không tổ chức khai thác được hoặc các đơn vị tự ý khai thác để thu
lợi cho đơn vị, cá nhân dẫn đến thất thoát, lãng phí nguồn lực của nhà nước.
161
Để khắc phục tình trạng nêu trên, các công việc cần thực hiện như sau:
* Đối với TSC trong khu vực HCSN: Thực hiện kiểm kê toàn bộ các tài
sản hiện có tại cơ quan, tổ chức, đơn vị nhằm nắm chắc về số lượng, chất
lượng, chủ thể quản lý, sử dụng tài sản, đồng thời xác định chính xác giá trị của
tài sản theo giá thực tế, đặc biệt đối với giá trị quyền sử dụng đất; vì thực tế,
việc xác định giá trị quyền sử dụng đất đã được thực hiện từ những năm 2006 -
2010 và giữ nguyên cho đến hiện nay nên giá trị quyền sử dụng đất đang theo
dõi trên sổ kế toán của đơn vị và CSDL quốc gia về TSC thấp hơn so với mức
giá hiện nay rất nhiều, chưa phản ánh đúng giá trị thực tế của tài sản.
Xác định quyền quản lý, sử dụng đối với từng tài sản: Đối với tài sản
đơn vị đang sử dụng nhưng chưa xác lập quyền quản lý, sử dụng thì báo các
cấp có thẩm quyền quyết định giao đơn vị quản lý, thực hiện xác định giá trị
tài sản để thực hiện kế toán tài sản (hiện nay, các tài sản loại này khá nhiều,
đặc biệt là nhà đất của các cơ sở y tế, giáo dục của địa phương); trên cơ sở
TC, ĐM sử dụng TSC mới, thực hiện rà soát, bố trí sử dụng đúng quy định, số
dôi dư thực hiện điều chuyển cho các đơn vị có nhu cầu và còn thiếu tài sản
hoặc tổ chức bán, chuyển nhượng để thu tiền nộp NSNN.
Thực hiện di dời các cơ sở ô nhiễm môi trường, các cơ sở không còn
phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng ra khỏi nội thành,
nội thị và các khu dân cư tập trung. Giải pháp này vừa giảm tải áp lực cho hệ
thống hạ tầng (giao thông, điện, nước,) cho khu vực đô thị vừa tạo điều
kiện cải thiện cơ sở vật chất cho các cơ sở giáo dục, đào tạo và y tế. Quỹ đất
sau khi thực hiện di dời được đấu giá để tạo lập nguồn lực tài chính phục vụ
di dời, đầu tư xây dựng các công trình ở địa điểm mới.
* Đối với đất đai: Đẩy mạnh việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất. Mặc dù trong 10 năm
vừa qua, Nhà nước đã có nhiều biện pháp và nguồn lực để hoàn thành việc cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng đến nay vẫn còn khoảng 5% số tổ
162
chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất chưa được cấp giấy chứng nhận. Việc
hoàn thành cấp giấy chứng nhận cho các đối tượng này là cơ sở để người sử
dụng đất thực hiện các quyền theo quy định của pháp luật về đất đai và cũng là
cơ sở để người sử dụng đất thực hiện các nghĩa vụ tài chính về tiền sử dụng đất,
lệ phí trước bạ, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất với Nhà nước.
* Đối với tài sản kết cấu hạ tầng giao thông và thủy lợi: Căn cứ quy
định tại các Nghị định của Chính phủ về quản lý, sử dụng và khai thác từng
loại tài sản kết cấu hạ tầng, thực hiện việc thống kê, phân loại, xác định giá trị
tài sản để giao cho từng đối tượng quản lý; cụ thể:
- Tài sản hạ tầng giao thông đường bộ được giao cho cơ quan quản lý
nhà nước chuyên ngành đường bộ thuộc Bộ GTVT (Tổng cục Đường bộ Việt
Nam và các Cục Quản lý đường bộ khu vực), thuộc UBND cấp tỉnh (Sở
GTVT) và UBND cấp huyện, UBND cấp xã quản lý.
- Tài sản hạ tầng đường thủy nội địa được giao cho cơ quan quản lý nhà
nước chuyên ngành đường thủy nội địa thuộc Bộ GTVT (Cục Đường thủy nội
địa), thuộc UBND cấp tỉnh ( Sở GTVT) quản lý.
- Tài sản hạ tầng giao thông đường sắt được giao cho cơ quan quản lý
nhà nước chuyên ngành đường sắt thuộc Bộ GTVT (Cục Đường sắt Việt
Nam) quản lý; trước mắt, tiếp tục giao Tổng công ty Đường sắt Việt Nam
quản lý để bảo đảm khả năng vận hành thông suốt trong thời gian chuyển tiếp.
- Tài sản hạ tầng giao thông hàng không được giao cho cơ quan quản lý
nhà nước chuyên ngành hàng không thuộc Bộ GTVT (Cục Hàng không dân
dụng Việt Nam) quản lý.
- Tài sản hạ tầng giao thông hàng hải được giao cho cơ quan quản lý
nhà nước chuyên ngành hàng hải thuộc Bộ GTVT (Cục Hàng hải Việt Nam)
quản lý đối với tài sản kết cấu hạ tầng cảng biển, hệ thống giám sát và điều
phối giao thông hàng hải (VTS), đê chắn sóng, đê chắn cát, kè hướng dòng,
kè bảo vệ bờ, luồng hàng hải; giao cho doanh nghiệp cung ứng thông tin
duyên hải, doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bảo đảm an toàn hàng hải đối với
163
tài sản kết cấu hạ tầng mạng viễn thông hàng hải, đèn biển và nhà trạm gắn
với đèn biển; phao, tiêu và nhà trạm quản lý vận hành phao tiêu.
- Tài sản hạ tầng thủy lợi được giao cho cơ quan quản lý nhà nước
chuyên ngành thủy lợi thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Tổng
cục Thủy lợi và Phòng, chống thiên tai), thuộc UBND cấp tỉnh (Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn), UBND cấp huyện quản lý.
Đây là lần đầu tiên Nhà nước xác định cụ thể đối tượng được giao quản
lý đối với từng loại tài sản kết cấu hạ tầng gắn với quyền và nghĩa vụ rõ ràng.
Sự đa dạng, phong phú về chủng loại, tiêu chuẩn kỹ thuật về tài sản cũng như
thực tế các tài sản trước đây phần lớn chưa được hạch toán, theo dõi trên sổ kế
toán; vì vậy, các công việc phải triển khai là rất lớn. Điều đó đòi phải có kế
hoạch tổ chức thực hiện và nguồn kinh phí bảo đảm để đến năm 2020 hoàn
thành cơ bản việc giao tài sản lần đầu cho các đối tượng quản lý theo quy định.
* Đối với tài sản được xác lập quyền sở hữu thuộc về nhà nước: Tổ
chức rà soát toàn bộ các tài sản đã có quyết định tịch thu, quyết định xác lập
quyền sở hữu toàn dân, tổ chức phân loại, lập phương án xử lý, trình cấp có
thẩm quyền phê duyệt để tổ chức thực hiện điều chuyển, bán, chuyển nhương,
thanh lý thu tiền nộp NSNN.
Cơ quan thực hiện: Các bộ, cơ quan trung ương, UBND các cấp.
4.2.3.3. Tái cơ cấu mô hình quản lý tài sản công và nâng cao năng
lực khai thác nguồn lực tài chính từ tài sản công
* Tái cơ cấu mô hình quản lý tài sản công
Cơ sở lý thuyết của giải pháp: Mô hình quản lý TSC có tác động lớn tới
việc khai thác nguồn lực tài chính từ TSC. Nếu lựa chọn được mô hình phù
hợp thì sẽ nâng cao được hiệu lực, hiệu quả của việc khai thác và ngược lại.
Lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế cũng cho thấy, không có mô hình nào là tối
ưu cho tất cả các loại TSC; vì thế xu hướng chung của các nước hiện nay là đi
theo mô hình hỗn hợp thiên về tập trung.
164
Trong điều kiện cụ thể tại Việt Nam, việc áp dụng mô hình hỗn hợp
cho công tác quản lý TSC như thời gian gần đây là phù hợp, cần tiếp tục duy
trì. Song, cơ cấu mô hình hiện tại đang thiên về phân tán với phần lớn các
khâu trong quy trình quản lý, sử dụng TSC được thực hiện bởi các cơ quan, tổ
chức, đơn vị được giao quản lý, sử dụng TSC. Điều đó làm cho tính kết nối,
tính chuyên nghiệp trong quản lý TSC bị hạn chế. Trong thời gian tới, cần tái
cơ cấu mô hình quản lý TSC theo hướng:
Thứ nhất, mở rộng phạm vi các công việc do cơ quan quản lý TSC các
cấp thực hiện theo phương thức tập trung gồm: Mua sắm tập trung; thống nhất
quản lý việc vận hành các trụ sở làm việc của các cơ quan, tổ chức nhà nước;
xử lý tập trung đối với TSC không còn nhu cầu sử dụng hoặc đủ điều kiện
thanh lý theo quy định của pháp luật. Việc mua sắm và xử lý TSC tập trung sẽ
được thực hiện chủ yếu thông qua Mạng đấu thầu quốc gia và Hệ thống giao
dịch điện tử về TSC.
Thứ hai, mở rộng phạm vi áp dụng các hình thức PPP trong đầu tư
phát triển và quản lý vận hành TSC, đặc biệt là với các trụ sở làm việc, cơ sở
hoạt động sự nghiệp, tài sản kết cấu hạ tầng.
Thứ ba, thu hẹp dần phạm vi các công việc do đơn vị được giao quản
lý TSC tự thực hiện, chỉ giữ lại những công việc đơn giản, không có đòi hỏi
chuyên sâu về nghiệp vụ như mua, bán, thuê các tài sản có tính chất nhỏ, lẻ.
Thứ tư, đẩy mạnh việc sử dụng các dịch vụ của thị trường vào công
tác quản lý, sử dụng TSC như: Dịch vụ lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư, định
giá, thẩm định giá TSC, dịch vụ cho thuê, bán, chuyển nhượng, thanh lý, tiêu
hủy TSC, tư vấn và các dịch vụ khác về TSC.
Thứ năm, chuyển dần một số công đoạn trong quản lý, sử dụng TSC
cho các tổ chức, cá nhân có chức năng thực hiện, Nhà nước thực hiện vai
trò định hướng, lập quy hoạch, kế hoạch, tạo lập hành lang pháp lý và thực
hiện công tác kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm. Các công đoạn cần tập
trung thực hiện theo hướng này là: Quản lý vận hành TSC; khai thác tài sản
kết cấu hạ tầng.
165
Việc tái cơ cấu mô hình quản lý TSC phải gắn liền với việc bố trí lại
đội ngũ công chức, viên chức thực hiện nhiệm vụ quản lý TSC theo hướng
giảm số lượng ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao trực tiếp quản lý, sử
dụng TSC, tăng số lượng ở các cơ quan quản lý TSC ở cấp huyện, cấp tỉnh,
cấp Bộ và cấp quốc gia gắn với ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác
quản lý, sử dụng TSC.
Cơ quan thực hiện: Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, các bộ, cơ quan trung
ương, UBND các cấp.
* Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực hiện quản lý, khai thác
nguồn lực tài chính từ tài sản công
Cơ sở lý thuyêt của giải pháp: Yếu tố quyết định đến hiệu lực, hiệu quả
quản lý, khai thác nguồn lực tài chính từ TSC là yếu tố con người.
Nguồn nhân lực cho công tác quản lý, sử dụng TSC ở Việt Nam hiện
nay vừa thiếu vừa chưa đáp ứng được yêu cầu về chuyên môn nghiệp vụ, tính
chuyên nghiệp. Do đó, việc nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức ở cơ quan quản lý TSC các cấp, các cơ quan, tổ chức, đơn vị được
giao quản lý, sử dụng TSC đặt ra hết sức cấp bách. Để giải quyết vấn đề này
cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, đưa môn nghiệp vụ quản lý TSC vào chương trình đào tạo ở
bậc cao đẳng, đại học và sau đại học tại các cơ sở đào tạo về kinh tế, tài chính,
kế toán vì quản lý TSC có đối tượng nghiên cứu riêng, có tác động nhiều mặt
tới đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, của từng vùng, từng địa phương.
Cán bộ làm nhiệm vụ quản lý TSC hiện nay hầu hết không được đào tạo
chuyên sâu về lĩnh vực này mà chủ yếu là tự nghiên cứu, tìm hiểu, học tập,
tích lũy kinh nghiệm trong quá trình công tác, trừ một số cán bộ được đào tạo
chuyên ngành tại Đại học Kinh tế quốc dân, Học viện Tài chính.
Hai là, tăng cường công tác bồi dưỡng chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ
làm nhiệm vụ quản lý TSC. Nhiều trung tâm đào tạo, bồi dưỡng hoặc doanh
nghiệp thời gian vừa qua cũng đã tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn về chế
độ quản lý, sử dụng TSC. Riêng đợt tập huấn Luật Quản lý, sử dụng TSC và
166
các văn bản quy định chi tiết thi hành có khoảng 21.000 học viên tham gia các
lớp tập huấn nhưng chưa được chuẩn hóa về chương trình đào tạo, bồi dưỡng
và đội ngũ giảng viên nên kết quả chưa được như ý muốn; nhiều học viên đã
tham gia các lớp tập huấn nhưng vẫn chưa nắm được những kiến thức cơ bản
để áp dụng vào thực tế công việc, không cập nhật được những quy định mới
hoặc áp dụng quy định pháp luật không phù hợp khi giải quyết các công việc
thực tế. Mặt khác, để thực hiện được nhiệm vụ quản lý TSC, ngoài các kiến
thức về quản lý, sử dụng TSC, rất cần các kiến thức có tính chất bổ trợ như
kiến thức về định giá, đấu giá tài sản, kiến thức về đấu thầu Do đó, cần sớm
chuẩn hóa về chương trình bồi dưỡng cũng như đội ngũ báo cáo viên.
Ba là, xây dựng các cẩm nang hướng dẫn việc thực hiện từng loại
nghiệp vụ cụ thể và xử lý các tình huống thường gặp trong quản lý, khai thác
nguồn lực tài chính từ TSC áp dụng cho từng cấp trong quy trình quản lý, sử
dụng TSC để từ đó, các cán bộ, công chức, viên chức căn cứ thực hiện. Các
tài liệu này phải cập nhật được cả các quy định của pháp luật cả kỹ năng
nghiệp vụ về quản lý, sử dụng TSC và các nghiệp vụ bổ trợ cần thiết.
Bốn là, tăng cường trao đổi nghiệp vụ với những tình huống thực tế
giữa các cơ quan quản lý với đơn vị trực tiếp quản lý, sử dụng TSC.
Cơ quan thực hiện: Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các bộ,
ngành có liên quan, các cơ sở đào tạo.
4.3. Kiến nghị
4.3.1. Kiến nghị đối với Quốc hội
Một là: Giao Chính phủ nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm
2013 để khắc phục những bất cập về chính sách, pháp luật về đất đai, từ đó
nâng cao hiệu quả, hiệu lực trong khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai.
Hai là: Giao Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy
ban của Quốc hội, Kiểm toán Nhà nước tăng cường công tác giám sát, kiểm
toán việc quản lý, khai thác nguồn lực tài chính từ tài sản công.
4.3.2. Kiến nghị với Chính phủ
Một là: Chỉ đạo các bộ, cơ quan trung ương rà soát hệ thống các văn
bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Quản lý, sử dụng TSC để
167
ban hành mới, sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm
quyền để bảo đảm tính đồng bộ, đầy đủ các văn bản quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành Luật Quản lý, sử dụng TSC.
Hai là: Giao Bộ Tài chính nghiên cứu định hướng sửa đổi, bổ sung
Luật Quản lý, sử dụng TSC theo hướng hình thành Bộ luật Quản lý, sử dụng
TSC theo Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 15/01/2019 của Bộ Chính trị.
Ba là: Chỉ đạo các bộ, cơ quan trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
triển khai đầy đủ, nghiêm túc các nội dung của Luật Quản lý, sử dụng TSC và
các văn bản quy định chi tiết thi hành; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra
việc khai thác nguồn lực tài chính từ TSC. Các nội dung cần tập trung thanh
tra, kiểm tra là việc thực hiện kế hoạch quản lý, sử dụng TSC; quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất; việc giao đất, cho thuê đất, bán, chuyển nhượng TSC; sử
dụng TSC vào mục kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết; việc chuyển
công năng, mục đích sử dụng TSC.
Bốn là: Giao Bộ Tài chính chủ trì, xây dựng, trình Thủ tướng Chính
phủ ban hành Hệ thống tiêu chí đánh giá việc quản lý TSC; trong đó có bộ
tiêu chí đánh giá việc khai thác nguồn lực tài chính từ TSC. Trên cơ sở đó, Bộ
Tài chính, UBND cấp tỉnh phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ
chức thành viên của Mặt trận tổ chức đánh giá việc khai thác nguồn lực tài
chính từ TSC định kỳ hàng năm.
168
Kết luận Chương 4
Với mục tiêu đề xuất những giải pháp có cơ sở khoa học và thực tiễn
nhằm tăng cường khai thác nguồn lực tài chính từ TSC ở Việt Nam; trên cơ sở
lý luận, kinh nghiệm quốc tế và thực trạng khai thác nguồn lực tài chính từ
TSC ở Việt Nam giai đoạn 2009-2018, Chương 4 đã giải quyết các vấn đề cơ
bản như sau:
Một là: Dự báo nguồn thu từ khai thác nguồn lực tài chính từ TSC khu
vực HCSN, tài sản kết cấu hạ tầng, tài sản được xác lập quyền sở hữu thuộc về
nhà nước, đất đai đến năm 2025, tầm nhìn 2035. Những dự báo này được thực
hiện trên cơ sở Nghị quyết của Bộ Chính trị về nâng cao hiệu quả quản lý, khai
thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế, Quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất được cấp có thẩm quyền phê duyệt, Báo cáo Việt Nam 2035, thực
trạng khai thác nguồn lực tài chính từ TSC ở Việt Nam thời gian vừa qua.
Hai là: Trên cơ sở quan điểm, mục tiêu, giải pháp của Đảng về huy
động, sử dụng, khai thác nguồn lực, về tái cơ cấu NSNN, về hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường, nghiên cứu sinh đã xác định 4 quan điểm khai thác nguồn
lực tài chính từ TSC và phương hướng thực hiện các quan điểm đó.
Ba là: Đề xuất 3 nhóm giải pháp (hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp
luật về khai thác nguồn lực tài chính từ TSC; tổ chức thực hiện khai thác nguồn
lực tài chính từ TSC; hỗ trợ việc khai thác nguồn lực tài chính từ TSC ở Việt
Nam) với 17 giải pháp cụ thể. Đối với từng giải pháp đều luận giải cụ thể cơ sở
khoa học, cơ sở thực tiễn, xác định nội dung thực hiện và trách nhiệm thực hiện
cụ thể. Đồng thời, nghiên cứu sinh cũng kiến nghị với Quốc hội ba vấn đề, kiến
nghị với Chính phủ bốn vấn đề nhằm tăng cường khai thác nguồn lực tài chính
từ TSC. Các nhóm giải pháp, kiến nghị này là một chỉnh thể thống nhất, có mối
quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, có ý nghĩa, vai trò, tác dụng nhất định đối với
quá trình quản lý, khai thác nguồn lực tài chính từ TSC ở Việt Nam. Do vậy, cần
thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp, kiến nghị trên nhằm tạo ra sự chuyển
biến căn bản, tích cực trong khai thác nguồn lực tài chính từ TSC.
169
KẾT LUẬN
TSC có phạm vi rộng và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của một
quốc gia. TSC là cơ sở vật chất quan trọng để thực hiện công tác quản lý nhà
nước, cung cấp dịch vụ công, bảo đảm quốc phòng, trật tự an ninh xã hội,
nhưng đồng thời cũng là nguồn lực tài chính quan trọng để phát triển kinh tế -
xã hội. Thời gian vừa qua, việc khai thác nguồn lực tài chính từ TSC ở Việt
Nam đã đạt được những kết quả quan trọng nhưng cũng bộc lộ những hạn
chế, yếu kém, làm cho nguồn lực chưa được khai thác một cách đầy đủ, hiệu
quả, còn thất thoát, lãng phí. Với mục tiêu nghiên cứu để đề xuất những giải
pháp khoa học và khả thi nhằm tăng cường khai thác nguồn lực tài chính từ
TSC ở Việt Nam, luận án đã tập trung vào giải quyết các vấn đề cơ bản sau:
Một là: Khái quát tình hình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài
nước về khai thác nguồn lực tài chính từ TSC; tổng kết những điểm đạt
được, những khoảng trống của các công trình nghiên cứu đã có; trong đó
việc chỉ ra sự thiếu hụt một hệ thống tiêu chí đánh giá việc khai thác nguồn
lực tài chính từ TSC là đặc biệt quan trọng.
Hai là: Nghiên cứu lý luận về khai thác nguồn lực tài chính từ TSC; trong
đó, tác giả đã đưa ra khái niệm về nguồn lực tài chính từ TSC và khai thác nguồn
lực tài chính từ TSC; hệ thống hóa các đặc điểm, vai trò, nhân tố ảnh hưởng tới
khai thác nguồn lực tài chính từ TSC, các hình thức và công cụ khai thác nguồn
lực tài chính từ TSC. Đáng chú ý, sự thiếu hụt lớn nhất của các nghiên cứu đã có
đã được tác giả lấp đầy bằng việc xây dựng hệ thống các tiêu chí đánh giá việc
khai thác nguồn lực tài chính từ TSC gồm 5 tiêu chí định tính và 4 tiêu chí định
lượng. Các tiêu chí này không chỉ phản ánh kết quả khai thác nguồn lực tài chính
từ TSC mà còn phản ánh cả quá trình thực hiện khai thác gắn với công tác quản
lý TSC của Nhà nước.
Ba là: Khái quát kinh nghiệm của một số quốc gia và vùng lãnh thổ về
khai thác nguồn lực tài chính từ TSC khu vực HCSN, tài sản kết cấu hạ tầng,
tài sản được xác lập quyền sở hữu thuộc về nhà nước, đất đai và mô hình quản
lý TSC để tổ chức khai thác nguồn lực tài chính từ TSC. Từ đó, rút ra những
bài học vận dụng cho phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.
170
Bốn là: Phân tích thực trạng khai thác nguồn lực tài chính từ TSC ở
Việt Nam những năm gần đây trong mối quan hệ giữa Nhà nước với các chủ
thể được giao quản lý, sử dụng TSC từ khía cạnh xây dựng, hoàn thiện hệ
thống pháp luật làm cơ sở pháp lý cho việc khai thác và khía cạnh tổ chức
thực hiện khai thác nguồn lực tài chính đối với TSC; đánh giá những thành
tựu và những hạn chế cũng như nguyên nhân khách quan, chủ quan của
những hạn chế đó. Việc đánh giá và xác định nguyên nhân được gắn với hệ
thống các tiêu chí đánh giá việc khai thác nguồn lực tài chính từ TSC.
Năm là: Quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị về nâng cao hiệu quả
quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế, về tái cơ
cấu NSNN, về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường; trên cơ sở Quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất được cấp có thẩm quyền phê duyệt, Báo cáo Việt Nam 2035,
thực trạng khai thác nguồn lực tài chính từ TSC ở Việt Nam thời gian vừa qua,
nghiên cứu sinh đưa ra dự báo khả năng khai thác một số nguồn lực tài chính
chủ yếu từ TSC giai đoạn 2020 - 2025, tầm nhìn 2035; xây dựng hệ thống
quan điểm, giải pháp, kiến nghị tăng cường khai thác nguồn lực tài chính từ
TSC ở Việt Nam trong thời gian tới. Các giải pháp, kiến nghị này là một chỉnh
thể thống nhất, có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, có ý nghĩa, vai trò,
tác dụng nhất định đối với quá trình quản lý, khai thác nguồn lực tài chính từ
TSC ở Việt Nam. Do vậy, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp, kiến nghị trên
nhằm tạo ra sự chuyển biến căn bản, tích cực trong khai thác nguồn lực tài
chính từ TSC.
Trong phạm vi hiểu biết và trình độ của mình, trong bối cảnh nguồn dữ
liệu về TSC và kết quả khai thác nguồn lực tài chính từ TSC còn hạn chế, tác
giả đã cố gắng để hoàn thiện bản luận án một cách tối đa, song còn có những
nội dung tác giả chưa có điều kiện để luận giải một cách thấu đáo hoặc chưa
thể đề cập trong bản luận án này như: thực trạng nguồn lực TSC được sử
dụng để liên doanh, liên kết, góp vốn... Đây là cơ sở để xác định các định
hướng nghiên cứu tiếp theo./.
171
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
I. ĐỀ TÀI KHOA HỌC
1. Nguyễn Tân Thịnh (2016), Hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản kết cấu
hạ tầng thủy lợi, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bộ Tài chính.
2. Nguyễn Tân Thịnh (2019), Xây dựng Hệ thống giao dịch điện tử về
tài sản công, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bộ Tài chính.
II. BÁO KHOA HỌC
1. Nguyễn Tân Thịnh (2012), Đấu giá quyền sử dụng đất: Công cụ giải
quyết bức xúc về đất đai, Tạp chí Tài chính số 10/2012.
2. Trần Đức Thắng, Nguyễn Tân Thịnh (2016), Khai thác nguồn lực tài
chính từ tài sản công, Tạp chí Tài chính tháng 5/2016.
3. Nguyễn Tân Thịnh (2016), Để khai thác hiệu quả nguồn lực từ tài
sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập, Tạp chí Tài chính kỳ 1 - Tháng
5/2016.
4. Nguyễn Tân Thịnh (2016), Giải pháp quản lý, sử dụng tài sản công
tiết kiệm, hiệu quả, Tạp chí Tài chính kỳ 1 - Tháng 10/2016.
5. Trần Đức Thắng, Nguyễn Tân Thịnh (2016), Thực trạng quản lý, sử
dụng tài sản nhà nước tại đơn vị sự nghiệp công lập, Tạp chí Tài chính tháng
12/2016.
6. Nguyễn Tân Thịnh (2017), Nhận diện các hình thức khai thác nguồn
lực tài chính từ tài sản công, Hồ sơ Sự kiện, Chuyên san của Tạp chí Cộng
sản số 348 (10/4/2017).
7. Nguyễn Tân Thịnh (2017), Nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng tài
sản công trong các cơ sở giáo dục đại học, Tạp chí Tài chính kỳ 1 - Tháng
5/2017.
8. Nguyễn Tân Thịnh (2017), Đổi mới cơ chế quản lý, sử dụng tài sản
công tại đơn vị sự nghiệp công lập, Tạp chí Tài chính kỳ 1 - Tháng 12/2017.
172
9. Nguyễn Tân Thịnh (2018), Hướng đến mục tiêu quản lý, bảo vệ, sử
dụng tiết kiệm tài sản công, Tạp chí Tài chính kỳ 1 - Tháng 2/2018.
10. Nguyễn Tân Thịnh, Phan Hữu Nghị (2019), Nâng cao hiệu lực, hiệu
quả khai thác nguồn lực tài chính từ tài sản công, Tạp chí Tài chính kỳ 1+2 -
Tháng 01/2019.
11. La Văn Thịnh, Nguyễn Tân Thịnh (2019), Triển khai Luật Quản lý,
sử dụng tài sản công: Một năm nhìn lại, Tạp chí Tài chính kỳ 1 - Tháng
4/2019.
12. Nguyễn Tân Thịnh (2019), Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá
việc khai thác nguồn lực tài chính từ tài sản công, Tạp chí Tài chính kỳ 1 -
Tháng 4/2019.