Những kết quả thu được ở chương này cho thấy đối xứng gauge Lorentz
được coi như cách mô tả tương tác hấp dẫn kiểu Yang-Mills nó đóng góp
cho việc nghiên cứu và phát triển những lý thuyết để thống nhất các tương
tác cơ bản trong tự nhiên. Trong chương này chúng tôi đã tìm ra cách mở
rộng đối xứng địa phương unitary cho đối xứng không-thời gian một cách
khả dĩ. Phương pháp của chúng tôi là dựa trên phương trình Wong tương tự
như các điện tích chuyển động trong trường điện từ.
Đối với lý thuyết này, trường hấp dẫn đã được coi như trường gauge
Lorentz, một thành phần của trường đó là phần tự đối ngẫu liên quan tới spin
[78, 79, 80, 81, 82, 83]. Cách tiếp cận của chúng tôi như đã trình bày có thể
đưa đến gần đúng bài toán chuyển động của hạt trong trường hấp dẫn ở miền
gần điểm kỳ dị, còn ở ngoài miền này thì nó đã khá phù hợp với
các lý thuyết hấp dẫn riêng phần khác. Nhiệm vụ tiếp theo để nghiên cứu lý
thuyết hấp dẫn theo hướng này coi như vấn đề còn để ngỏ, đó là phải tìm
cách để tiến gần đến điểm kỳ dị. Chúng tôi coi đây là hướng tiếp cận
bài toán về chuyển động của hạt trong trường hấp dẫn bên cạnh nhiều hướng
nghiên cứu khác. Tuy nhiên, để có được kết luận đầy đủ về hướng nghiên
cứu này thì cần phải có nhiều nghiên cứu tỉ mỉ và công phu hơn.
117 trang |
Chia sẻ: tueminh09 | Ngày: 24/01/2022 | Lượt xem: 587 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Một số nghiệm soliton của các phương trình Yang - Mills và ứng dụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tọa độ suy rộng và vận tốc tuyệt đối của hạt.
Phương trình Euler-Lagrange đối với trường hợp này có dạng
{
(
̇
)
(
̇
)
(3.57)
Từ (3.55) và (3.56) ta có thể viết đạo hàm của Lagrange theo các thông
số nhóm và ̇ trong phương trình (3.57)-(b) như sau
̇
̇
̇
̇
̇
(3.58)
trong đó ta đặt
(3.59)
và thực tế trong biểu thức của chỉ có phụ thuộc vào thông số nhóm.
Với sự tham số hóa thông số nhóm (3.37), biểu thức của có dạng sau
̇ ̇ (3.60)
trong đó là hàm ma trận của {
}. Dạng tường minh của
được sử dụng từ tài liệu [66]. Từ các phương trình (3.58)-(3.60) ta rút
ra được phương trình sau
71
̇
̇
(3.61)
và
(3.62)
Từ giá trị của trong (3.59) và (3.62), ta đồng nhất chúng với moment nội
tại. Bởi vì ma trận đường chéo của trong (3.53) và từ định nghĩa (3.59)
ta thấy rằng là những thành phần của một 3-vector phức { ̅
} mà
nó đóng vai trò tương tự như một vector isospin (thực) trong phương trình
Wong [60].
Bây giờ ta hãy tính toán thành phần đạo hàm của Lagrangian theo biến
,
̇
(3.63)
Đối với giá trị của trong , ta có phương trình nhóm như sau
( ) ( )
{ [ ]}
(3.64)
trong đó ta đặt . Giao hoán tử trong (3.64) tính toán như sau
[ ] [ ] [ ]
(3.65)
Từ (3.64) và (3.65) ta suy ra đạo hàm của thành phần trong (3.63),
{
} (3.66)
Thay (3.66) vào (3.63) và sử dụng định nghĩa (3.59) của , và nhớ rằng
trong biểu thức của chỉ có phụ thuộc vào thông số nhóm, ta thu được
{
} (3.67)
Các phương trình (3.61) và (3.67) cho phép ta biến đổi (3.57)-(b) thành dạng
72
̇ ̇ {
}
̇
(3.68)
Ta sẽ chỉ ra rằng những số hạng giữa ở vế trái của (3.68) có thể bỏ qua. Thật
vậy, từ phương trình nhóm sau:
̇ ̇ ̇( )
[ ]
(3.69)
Do đó,
[ ] (3.70)
suy ra
Vì vậy, phương trình (3.57)-(b) được biến đổi thành dạng sau
̇ ̇
(3.71)
Bây giờ ta tiếp tục xét đến phương trình (3.57)-(a). Đối với Lagrangian
(3.56), những thành phần của xung lượng ở vế trái của (3.57)-(a) là
̇
̇
̇
(3.72)
trong đó ta đặt
(3.73)
đại lượng là những thành phần của xung lượng nội tại được xác định bằng
biểu thức (3.59).
Giá trị của được xác định bởi (3.73) là một tích phân chuyển động.
Điều này có thể thấy được từ những phương trình sau
̇
(
)
(
)
[
( )]
73
trong đó ta đã dùng tính chất (3.54) của ma trận . Ta gán cho là khối
với khối lượng của hạt.
Phương trình (3.57)-(a) trở thành
(
̇
̇
)
( )
̇
từ đó, dẫn đến
(
̇
̇
) ̇
(3.74)
trong đó có biểu thức như sau
( ) . (3.75)
Tensor có thể đồng nhất với cường độ trường gauge với các thành
phần như sau
{ ̅
} (3.76)
trong đó
( ) , (3.77)
̅
( ̅
̅
) ̅ ̅ ̅ ̅
̅
. (3.78)
Do đó, các phương trình Euler-Lagrange (3.57) cho hệ hạt và trường
gauge đã được biến đổi thành các phương trình (3.71) và (3.74). Giá trị của
các số hạng phức trong ba chiều của hệ này được viết lại như sau
(
̇
̇
) ̇
̇ ̇
̇
̇
(3.79)
74
các phương trình này được coi như phương trình Wong suy rộng, trong đó vế
phải của (3.79)-(a), ký hiệu là số hạng liên hợp phức của số hạng đầu
tiên và các chỉ số lấy các giá trị . Cũng chú ý thêm rằng, mặc dù
ta đã thêm vào trường gauge phức và vector isospin phức, nhưng vế phải của
(3.79)-(a) là đại lượng thực. Như vậy với cấu hình trường gauge đã đưa ra thì
chuyển động của hạt ở trường ngoài này đã hoàn toàn được xác định.
3.3 Đối xứng Lorentz địa phương và bài toán hạt trong trường
hấp dẫn
Ta đã biết rằng lý thuyết gauge Yang-Mills đã mô tả hoàn hảo các tương
tác điện từ, yếu và mạnh. Còn tương tác hấp dẫn được mô tả bởi thuyết
tương đối tổng quát của Einstein với nghiệm nổi tiếng Schwarzschild có ý
nghĩa vật lý là “Lỗ đen”. Trong xu hướng đi xây dựng một lý thuyết để
thống nhất các tương tác, đã có nhiều mô hình vật lý được nghiên cứu chẳng
hạn như lý thuyết dây “string”. Trong phạm vi luận án này, chúng tôi tìm
cách mô tả tương tác hấp dẫn bằng lý thuyết gauge, coi như đây là cách tiếp
cận Yang-Mills cho trường hấp dẫn bằng cách xét sự bất biến gauge đối với
nhóm Lorentz và phương trình mô tả chuyển động của hạt là phương trình
Wong suy rộng.
Nhắc lại, trong mô hình tương tác của trường gauge với một tam
tuyến vô hướng không khối lượng. Lagrangian của hệ được cho bởi
(3.80)
trong đó
(3.81)
và
(3.82)
75
Selington đã tìm được nghiệm chính xác tựa Schwarzschild
(Schwarzschild-like) cho trường hợp này vào năm 1995 [69] bằng cách sử
dụng các ansatz sau
[ ]
(3.83)
trong đó
(3.84)
là những hằng số, với và thỏa mãn , hằng số tùy ý
và nó xác định tính kỳ dị của trường. Chú ý rằng không có thứ nguyên,
còn có thứ nguyên (1/độ dài). Từ (3.83) và (3.84) ta thấy rằng cả trường
gauge và trường vô hướng có thể trở nên vô cùng tại bán kính .
Trong trường hợp thuần gauge, chẳng hạn khi không có trường vô
hướng, suy ra , thì sẽ dẫn tới các nghiệm sau
(3.85)
Nếu chỉ xét trong giới hạn lý thuyết Yang-Mills thì nghiệm này
có vẻ bất thường vì nó xuất hiện nghiệm thế gauge phức. Nhưng ở đây ta sẽ
xét vấn đề theo con đường khác, từ một trường gauge phức đối với nhóm
, ta có thể xây dựng một thế gauge đối với nhóm [70] (và
cũng là đối với nhóm ) [71]. Theo đó, ta chuyển nghiệm với thế
gauge phức được cho bởi (3.83) và (3.85) thành một nguồn của trường gauge
Lorentz tĩnh. Cường độ “điện trường” tương ứng là
[
] (3.86)
76
dấu trong (3.86) tương ứng với dấu trong (3.85). Từ trường được tính từ
công thức
, do đó
(3.87)
nó biểu thị tính tự đối ngẫu của nghiệm trường gauge.
Chương 4 tiếp theo, chúng tôi sẽ nghiên cứu chuyển động của hạt trong
trường gauge được xác định bởi các thế và cường độ trường như trong các
phương trình (3.83), (3.85)-(3.87).
3.4 Kết luận chương 3
Chương này chúng tôi đã nghiên cứu về cách mô tả chuyển động của hạt
màu trong trường chuẩn và trường gauge Lorentz. Nó đem đến một
bức tranh khá tổng quát về vật lý hạt cơ bản đó là chuyển động của hạt cổ
điển trong trường Yang-Mills (kể cả hạt mang điện trong trường điện từ cổ
điển) được mô tả bởi phương trình Wong, coi tương tác của hạt tích màu với
trường gauge thông qua vector isospin mô tả các bậc tự do nội tại của hạt.
Không chỉ dừng lại ở đó, chương này còn chỉ cho ta thấy rằng lý thuyết
gauge Yang-Mills có thể là ứng viên cho sự thống nhất các tương tác. Đó là
mở rộng nhóm đối xứng cho trường gauge sang nhóm đối xứng không-thời
gian của nhóm đối xứng Lorentz bằng cách tham số hóa vector đối
với nhóm Lorentz và phức hóa vector này, đồng thời sử dụng ngôn ngữ toán
học bó thớ để từ đó xây dựng phương trình mô tả chuyển động của hạt trong
trường gauge Lorentz được coi như sự mở rộng phương trình Wong cho
trường chuẩn (cũng là ). Điều đặc biệt là trường gauge
Lorentz này có thể coi như trường hấp dẫn (vấn đề này ta sẽ nghiên cứu kỹ
hơn ở chương sau trong mục: Chuyển động của hạt trong trường hấp dẫn với
tiếp cận Yang-Mills).
77
Chương 4
4 THẾ HIỆU DỤNG VÀ QUỸ ĐẠO HẠT TRONG TRƯỜNG
CHUẨN
Trong chương này, chúng tôi nghiên cứu chuyển động của hạt trong cấu
hình trường gauge Lorentz bằng cách dựa vào phương trình Wong tổng quát.
Từ đó tìm hiểu động lực học về chuyển động của hạt trong trường này.
Nghiên cứu chi tiết thế hiệu dụng và quỹ đạo chuyển động của hạt trong
trường đồng thời so sánh với thế hiệu dụng của trường hấp dẫn Newton và
thuyết tương đối rộng của Einstein. Các kết quả nghiên cứu của chúng tôi
được trình bày trong chương này đã được công bố trong các bài báo [II, V]
4.1 Hạt trong trường Wu-Yang
Việc biết được chuyển động của hạt trong một số cấu hình trường đơn
giản cho ta cơ sở vật lý về nghiệm của những bài toán phức tạp. Điều này
đúng cho cả điện động lực học cổ điển và động lực học cổ điển của một hạt
màu (hoặc spin đồng vị) trong những trường ngoài phi Abel. Ta đã biết rằng
phương trình mô tả chuyển động của một hạt màu trong trường Yang-Mills
là phương trình Wong
̇
(4.1)
̇
(4.2)
trong đó thế vector
và trường tensor
được cho bởi (2.2) nó xác định
một trường màu ngoài, mà hạt màu có khối lượng chuyển động trong đó,
78
với các biến động lực như bán kính 4-vector , vận tốc bốn chiều
,
và tích màu được xác định bởi vector trong không gian màu; là thời
gian riêng của hạt; dấu “ ̇ ” trong các phương trình (4.1), (4.2) chỉ việc lấy
đạo hàm theo thông số này. Phương trình (4.2) có thể coi như “sự bảo toàn
hiệp biến” [72] của dòng màu
∫
( )
của
hạt. Phương trình (4.1) có dạng hoàn toàn tương tự với phương trình trong
điện động lực cổ điển, mặc dù sự có mặt của các bậc tự do màu có thể ảnh
hưởng đến thuộc tính chuyển động của hạt.
Khi khảo sát bài toán chuyển động của hạt trong trường thì cấu hình
trường coi như đã cho trước. Các trường cho trước này được lấy từ các
nghiệm riêng của các phương trình chuyển động. Sau đây ta xét bài toán
chuyển động của hạt trong trong cấu hình trường là một trong những nghiệm
riêng như vậy, đó là trường Wu-Yang (hay các thế Wu-Yang)
[ ]
(4.3)
trong đó là vector bán bính đơn vị, . Hàm và
phải thỏa mãn phương trình chuyển động của trường.
Viết lại phương trình chuyển động, phương trình Wong (4.1) và (4.2)
trong hệ quy chiếu phòng thí nghiệm
(
√
)
(4.4)
(
√
)
(4.5)
̇ [
] (4.6)
dấu chấm ký hiệu việc lấy đạo hàm theo thời gian phòng thí nghiệm, cường
độ điện trường và từ trường cảm ứng trong (4.4) và (4.5) được xác định bằng
các hệ thức sau
79
(4.7)
(4.8)
Từ (4.6) và (4.7) ta suy ra
[
] (4.9)
So sánh (4.9) với (4.5), ta có
(
√
)
[
]
(4.10)
Vì thế, chuyển động của hạt màu trong thế màu là không phụ thuộc
tường minh vào thời gian và chúng ta có định luật bảo toàn năng lượng
√
(4.11)
Trong đó số hạng
là thế năng.
Từ (4.3) với giả sử khi đó (4.7) và (4.8) trở thành
[(
)
] (4.12)
[
] (4.13)
và lúc đó, tích của trường vector màu trong phương trình chuyển động (4.4)
có thể được viết lại là
80
{(
)
[ ]} (4.14)
{
[ ]} (4.15)
Tiến động của vector với cấu hình trường (4.3) được mô tả như sau
̇
[ ] (4.16)
Bài toán đặt ra là tìm “Lực” ở vế phải của (4.4) phụ thuộc tường minh
vào vector màu và thỏa mãn phương trình (4.14) và (4.15). Điều này có thể
tiến hành bằng cách tìm định luật bảo toàn moment xung lượng.
Nhân (4.4) với và sử dụng (4.14), (4.15) ta thu được
[
̇ ̇
̇ ]
(4.17)
trong đó ̇ , và là mô men xung lượng quỹ đạo
√ .
Từ ̇ ̇ , ta thu được từ (4.16) hệ thức sau
̇ (4.18)
Từ (4.18), ta rút gọn (4.17) thành
(
)
[ ]
(4.19)
Đưa vào vector
, chúng ta có thể viết định luật bảo toàn đối với
moment xung lượng tổng cộng thành dạng:
81
(4.20)
Chúng ta đã thu được phương trình (4.20) đối với chuyển động của hạt
màu trong một thế tùy ý có dạng (4.3) với hàm không phụ thuộc tường
minh vào thời gian. Chú ý rằng đối với một hạt spin đồng vị trong trường
monopole phi Abel ( ), định luật bảo toàn (4.20) đối với momen xung
lượng tổng cộng cũng đã tìm thấy. Từ (4.20) ta có thể kết luận rằng
và do đó có thể viết (4.20) lại thành
(4.21)
cho phép biểu diễn vector màu theo tọa độ và vận tốc của hạt. Lực tác
dụng lên hạt màu có thể biểu diễn dựa vào (4.14), (4.15) và (4.21) như sau
(4.22)
(
)
(4.23)
(
)
(4.24)
(4.25)
phương trình (4.24) và (4.25) chứa khối lượng tương đối tính
√
(4.26)
Chúng ta có thể miêu tả điện trường hiệu dụng (4.23) như gradient của thế
và định luật bảo toàn năng lượng có dạng
(4.27)
82
Đối với nghiệm của phương trình chuyển động, phép lấy tích phân chuyển
động cho ta hệ thức
(4.28)
Như vậy bài toán chuyển động của một tích màu trong một trường màu được
xác định bởi thế vector (4.3) và bằng những trường (4.12) và (4.13) đã rút
gọn thành bài toán chuyển động của hạt dưới tác dụng của lực (4.21), nghĩa
là rút gọn thành bài toán chuyển động của điện tích đơn vị trong trường điện
từ hiệu dụng được cho bởi (4.23) và (4.24) với giả thuyết là lực thêm vào có
dạng . Bằng sự thêm vào (4.22)-(4.25) chúng ta có hai tích phân
chuyển động (4.27) và (4.28). Nếu thì không có trường sắc điện
động lực học và cũng không có trường điện từ hiệu dụng. Trong khi đó, nếu
thì
và mặc dù không có trường sắc điện động chúng ta vẫn
có điện từ hiệu dụng.
Việc tìm quy luật chuyển động của hạt, có thể tiến hành bằng cách xác
định tiến trình của vector màu trong (4.21). Chẳng hạn sau đây, chúng ta xét
trường hợp trường sắc từ dạng điểm, , với hàm tùy ý, trong
trường hợp này, cường độ trường màu (4.12) và (4.13) là
(
)
(4.29)
(4.30)
Đối với , cấu hình trường (4.29) và (4.30) tương ứng với đơn cực
sắc từ "thuần" và ứng với một dyon. Có thể thấy từ (4.18), cho
, chúng ta có , và (4.20) thành
(4.31)
khi đó . Vì thế, định luật bảo toàn
momen xung lượng tổng cộng cho phép kết luận rằng hạt chuyển động trên
83
một bề mặt nón có trục và hợp với trục một góc , với .
Từ (4.4), (4.14) và (4.15), chúng ta tìm ra biểu thức của lực là
[(
)
]
và chúng ta có thể xem chuyển động của hạt màu như chuyển động của một
hạt tích điện với điện tích trong sự chồng chập của trường
(của một monopole) và điện trường trung tâm . Khi
điện trường hiệu dụng không có mặt. Và chuyển động của hạt trong một đơn
sắc từ "thuần" có thể được mô tả như chuyển động của một hạt mang điện
trong trường monopole. Nếu thì chuyển động riêng rẽ của hạt màu
phức tạp hơn.
Tiếp theo, chúng ta hãy khảo sát bán kính quỹ đạo chuyển động của hạt.
Từ phương trình ̇ bảo toàn, chúng ta có thể
sử dụng định luật bảo toàn năng lượng, xác định bán kính chuyển động.
Trong phép gần đúng phi tương đối tính
̇
đối với ̇ , chúng ta có:
∫
√
(
)
(4.32)
(4.33)
Do vậy, bán kính chuyển động trong cấu hình trường (4.29) và(4.30) là
chuyển động một chiều trong thế (4.33). Nếu thế này đạt mức tối thiểu tại
thì có thể có chuyển động tròn đều với , đó là phần bên
trong của mặt nón đã mô tả ở trên và một mặt cầu bán kính .
Tóm lại, trong phần này chúng ta đã xem xét chuyển động của một hạt
thử màu trong trường ngoài phi Abel được xác định bởi thế vector Wu-Yang
(4.3) và trường (4.12), (4.13) trong trường gauge của nhóm . Từ hệ
84
thức của lực phụ thuộc tường minh vào vector màu, chúng ta đã rút gọn
thành bài toán chuyển động của một hạt tích điện trong một trường điện từ
hiệu dụng.
Những phương trình (4.22)-(4.25) cho ta hệ thức về lực tác dụng lên hạt.
Điện trường hiệu dụng là gradient của thế
. Có hai trường hợp cần chú ý với các thế là:
Trước hết, nó phù hợp với tổng momen xung lượng là tích phân của
chuyển động và là một đặc trưng chuyển động của tích màu;
Thứ hai, thế phải phụ thuộc góc. Chú ý rằng sự vắng mặt của trường sức
điện không phải là hoàn toàn có nghĩa là không có từ trường hiệu dụng.
Hàm và xác định cấu hình trường của những trường ngoài, vì
vậy chúng phải là những nghiệm của bài toán chuyển động. Cần lưu ý là đối
với cấu hình trường , chúng ta đã chỉ ra rằng hạt chuyển động trên
một mặt nón, đồng thời chúng ta cũng đã tìm thấy bán kính chuyển động
(4.32), (4.33) và chứng minh về tính xác định của chuyển động.
4.2 Hạt trong trường đơn cực 'tHooft-Polyakov và trường
soliton BPS
4.2.1 Hạt trong trường gauge 'tHooft
Với bài toán chuyển động của hạt trong trường gauge ’t Hooft, chúng ta
nghiên cứu chuyển động cổ điển của hạt thử Yang-Mills trong trường ngoài
được cho bởi nghiệm monopole của ’t Hooft. Chúng ta sẽ nghiên cứu xem
không gian chuyển động của hạt với những khoảng cách lớn ra sao? và kết
quả đó đối với khoảng cách bé như thế nào ?
’t Hooft đã chứng minh rằng hệ trường gauge kết hợp với tam
tuyến vô hướng có monopole giống những nghiệm tĩnh cổ điển [73, 74]. Mật
độ Lagrangian được cho bởi biểu thức
85
( )
(4.34)
trong đó
(
)
(4.35)
với ansatz tổng quát (ansatz của Wu-Yang [20], Julia-Zee [21])
̂
[ ]
̂
̂
(4.36)
trong đó và là những hàm xác định bán kính . Để thảo
luận ý nghĩa vật lý của nghiệm (4.36) ’t Hooft đã định nghĩa một tensor bất
biến gauge như sau
( ̂
) ( ̂
)
̂
̂
̂
(4.37)
trong đó ̂ ̂
Đối với trường hợp , thay (4.36) vào (4.37), ta thấy chỉ số hạng thứ
hai của (4.37) nhận được đóng góp. Đóng góp này không phụ thuộc vào
và có dạng monopole
̂ . Vì vậy, một hạt thử tích
điện kết hợp với một thế vector Abel tương ứng với sẽ chuyển động như
một hạt màu trong trường đơn cực thuần nhất.
Khi nghiên cứu lý thuyết Yang-Mills, một câu hỏi đặt ra là hạt thử Yang-
Mills sẽ chuyển động như thế nào trong hệ trường (4.36), xem như đó là
trường ngoài cổ điển?
86
Trong công trình của Wong [60], bằng cách lấy trung bình cổ điển
phương trình Dirac của hạt tương tác với trường gauge, Wong đã tìm được
hệ phương trình sau
̈
̇
(4.38)
̇
̇
(4.39)
ở đây dấu chấm ̇ ký hiệu phép lấy đạo hàm theo thời gian riêng.
Để đơn giản ở đây ta sẽ xét trường hợp chuyển động phi tương đối tính
với là vector spin đồng vị cổ điển. Những trường trong vế phải của (4.38)
và (4.39) được suy ra từ (4.36) (với ). Chúng ta sẽ kiểm tra kết quả
chuyển động của hạt trong không gian và xác định trong không gian chuyển
động có hay không một hạt thử chuyển động theo một cách giống như một
điện tích trong trường monopole thuần nhất?
Trước hết, xét khai triển của vector spin đồng vị theo thời gian xuất
hiện trong (4.38) (chú ý, từ (4.39) ta có tích là hằng số theo thời gian) xác
định tại mỗi điểm dọc theo quỹ đạo của hạt, tập hợp các vector trực giao
̇
Từ đó ta có thể viết dưới dạng
̂ ̂ ̂ (4.40)
Các hệ số thỏa mãn hệ thức
(4.41)
Thay (4.40) và (4.36) vào (4.39) ta tìm được ba phương trình của
như sau
̇
(4.42)
87
̇
̇
(4.43)
̇
̇
(4.44)
trong đó và
Thay (4.40) và (4.36) vào (4.38), ta được phương trình chuyển động như
sau
̇
{ [
]
}
[ ̂ ̂ ̂ ]
(4.45)
trong phương trình (4.45), dấu ( ) ký hiệu phép lấy đạo hàm theo .
Bây giờ, ta hãy xét những phương trình trên với lớn: cũng xét với
trường hợp thì không phải là hàm mũ theo , vì thế ta có thể đặt
. Khi đó phương trình (4.42) trở thành
và (4.45) trở thành
̇
(4.46)
Phương trình (4.46) trùng với phương trình chuyển động của điện tích
chuyển động trong một trường monopole thuần nhất.
Tiếp theo, ta hãy xét những phương trình chuyển động trên với tùy ý
(và ). Dĩ nhiên là phương trình chuyển động không phải là phương
trình (4.46). Ta thử giả sử rằng phương trình chuyển động vẫn là (4.46) và ta
sẽ chỉ ra điều này không đúng. Thật vậy, để vế phải của (4.45) không chứa
những số hạng không trực giao với , ta phải có .
88
Từ (4.43) ta có , và từ (4.44) ta có . Thay
vào (4.45) ta có phương trình chuyển động
̇ (4.47)
kết quả này mâu thuẫn với giả thuyết. Do đó với những khoảng cách bé,
chuyển động của hạt sẽ khác với những khoảng cách lớn.
Với kết quả trên đây, chúng ta có thể khẳng định rằng hạt thử Yang-
Mills chuyển động theo cách giống như một điện tích trong trường đơn cực ở
những khoảng cách lớn; còn tại những khoảng cách bé, chuyển động của
chúng là khác nhau. Điều này tương tự với quan niệm của Wu-Yang về một
thế gauge mà có thể phù hợp với nhiều trường vật lý khác nhau với điều kiện
từ cực (net manegtic-pole) là xác định.
4.2.2 Hạt trong trường soliton BPS
Tương tác giữa một hạt và một trường vô hướng khi cả hai có một không
gian nội tại phi Abel vẫn là vấn để mở đang cần làm sáng tỏ. Một trong
những nghiên cứu đầu tiên của mình. Wong đề xuất một biểu thức suy ra từ
phương trình Dirac, đối với tương tác cổ điển giữa một hạt với nhóm đối
xứng nội tại và một trường vector là trường gauge Yang-Mills. Tuy
nhiên, không xét đến trường vô hướng. Fehér đã mở rộng phương pháp của
Wong cho trường hợp năm chiều với mong muốn tìm được sự tồn tại của
một trường vô hướng, nhưng Azizi [75] đã chỉ ra rằng sự mở rộng này
dường như không khả thi. Trong nghiên cứu của mình, Azizi dùng chiều
động lực thứ năm để mở rộng lại phương pháp của Wong, mặc dù biểu thức
mà ông thu được với tứ lực phù hợp trong giới hạn Newton nhưng nó không
phù hợp với hệ thống tương đối tính vì nó không trực giao với 4-vector của
hạt. Vì thế, Fernandes và Letelier [76] đã tìm ra cách thống nhất để đưa ra
một biểu thức của 4-lực mô tả tương tác của một hạt với một trường vô
hướng, từ đó khảo sát sự tiến động theo thời gian của vector nội tại bằng
89
cách xét sự mở rộng về bản chất của phương trình Wong. Sau đây, chúng ta
tìm hiểu phương trình chuyển của hạt màu trong trường soliton trong hệ
quan sát viên và khảo sát giới hạn Newton của chúng. Sau đó, đưa ra biểu
thức của cấu hình trường soliton của mẫu phi tuyến .
Để xây dựng tứ lực, trước hết chúng ta phải quan tâm đến tính chất
tương đối tính cơ bản, đó là tứ gia tốc (gia tốc bốn chiều – 4-gia tốc) phải
trực giao với tứ vận tốc, khi . Thêm vào đó, nếu hoán vị liên kết
tối thiểu giữa vector nội tại của một hạt và một trường vô hướng thì ta có thể
kết luận rằng có hai dạng cơ bản của tứ lực:
(i) Dạng thứ nhất thu được bằng cách sử dụng tensor phản xứng hoàn
toàn , đó là
̂
(4.48)
trong đó là hằng số liên kết, là trường vô hướng (tương tự
trong
), là vector nội tại của hạt, là đường trắc địa của hạt với là
thời gian riêng của hạt;
(ii) Dạng thứ hai của tứ lực được viết theo tensor thông thường để chỉ
vector bất kỳ trong không gian con trực giao với tứ vận tốc
(
)
(4.49)
trong đó là metric Minkowski.
Như vậy, bài toán khảo sát chuyển động của hạt màu trong trường
soliton của mẫu phi tuyến , tức là tương tác của hạt vô hướng với
trường cũng tương tự như bài toán khảo sát chuyển động của hạt
màu tương đối tính trong trường gauge và . Điểm khác là
phương trình chuyển động phải được xây dựng từ sự tiến động của vector
nội tại. Xét không gian nội tại của hạt là nhóm đối xứng (trong trường
90
hợp đó thì gọi là vector spin đồng vị của hạt – vector Isospin) và thay thế
trường vector
bằng
, ta có:
(4.50)
Xét trong hệ quan sát viên có liên hệ với hệ hạt bằng đồng nhất thức
. Giả sử rằng trường không phụ thuộc vào thời gian một cách tường
minh, ta có hệ thức sau
̇ ̇
̇ ( )
(4.51)
trong đó dấu chấm ký hiệu việc lấy đạo hàm theo thời gian.
Với hệ động lực (4.51) có tính chất mà ta cần chú ý là, nếu đại lượng thứ
ba không phụ thuộc vào một hệ tọa độ cố định thì sẽ không có sự gia tốc
theo hướng tương ứng. Chúng ta cũng cần chú ý rằng ở đây module của spin
đồng vị là hằng số chuyển động
(
)
(4.52)
trong đó là tổng động năng tương đối tính của hạt. Rõ ràng, nguồn
gốc của sự tiêu tán trong hệ liên quan đến spin đồng vị, mà nói chung là biến
thiên theo thời gian. Tuy nhiên, nếu có một trường hợp đặc biệt mà trong đó
nó là hằng số theo thời gian thì năng lượng được bảo toàn. Ta thấy rằng
trường hợp đó chỉ có thể xảy ra nếu spin đồng vị là tương đương với đạo
hàm theo thời gian của trường trong không gian nội tại. Để thấy điều này, ta
viết lại phương trình (4.50) trong hệ quan sát viên, ̇, từ đó ta có kết
luận rằng, nếu vector nội tại là hằng số thì đạo hàm theo thời gian của trường
và chính trường đó sau một khoảng thời gian cố định phải định hướng theo
một hướng giống nhau trong không gian nội tại. Vì thế, nếu xét cấu hình loại
91
soliton của trường thì điều kiện này phải được thỏa mãn bởi những soliton có
tích topo bằng không.
Một nhận xét quan trọng khi phân tích (4.49) và (4.50) là những trường
vô hướng với Lagrangian bất biến gauge (như những trường Higgs trong
Lagrangian Yang-Mills), có thể làm cho biểu thức bất biến bằng cách thay
đạo hàm thường bằng đạo hàm hiệp biến. Sau đây, ta áp dụng hình thức luận
về tứ lực và phương trình chuyển động đã nêu trên vào việc phân tích những
đặc tính cơ bản của hệ. Ta chọn một trường vô hướng nhân với đối xứng phi
gauge bằng cách lấy một cấu hình trường soliton của mẫu phi tuyến mà
Lagrangian mô tả mẫu ba chiều này được cho bởi
(4.53)
tuân theo hệ thức .
Phương trình chuyển động thu được thỏa mãn nghiệm tĩnh, tức là cấu
hình trường tĩnh với năng lượng hằng số và định xứ , trong đó là
tích topo của nó. Trong hệ tọa độ cực, những soliton này được cho bởi
(4.54)
Xét sự chuyển động của hạt màu trong sự hiện diện của trường tĩnh ở
trên với tích topo đơn vị . Áp dụng cấu hình trường này với phương
trình (4.50), ta có hệ động lực học sau:
92
̇ ̇
̇
(
)
[
√
]
̇
(
)
[
√
]
̇
{ [ √
]
[
√
]}
̇
{ [
√
]
[ √
]}
(4.55)
Trong đó , có từ sự chọn lựa hệ tọa độ Cartes ( ) để mô tả
không gian nội tại, √
. Vì thế sự lựa chọn này kéo theo,
không gian nội tại là một mặt cầu unita được chia thành hai bán cầu, đó là
bán cầu với và . Từ kết luận này, ta có quyền hy vọng rằng hệ
tọa độ cầu sẽ mô tả không gian này tốt hơn tọa độ Cartesian. Tuy nhiên,
những phương trình suy ra từ sự thay thế hệ tọa độ cầu biểu thị sự phân kỳ
trong những cực của mặt cầu nội tại và rất khó khăn khi tính số.
93
4.3 Chuyển động của hạt trong trường hấp dẫn với tiếp cận
Yang-Mills
4.3.1 Thế hiệu dụng trong chuyển động của hạt [V]
Thế các cường độ trường và các thế gauge (3.83), (3.85)-(3.87) vào
phương trình (3.79)-(a) ta được phương trình sau
[
√
] (4.56)
trong đó
[
]
[
]
với , vector là phần thực và phần ảo của isospin phức
; là những thành phần lực mà phụ thuộc tường minh vào vị trí và
vận tốc tương ứng.
Các phương trình (3.79)-(a) và (3.79)-(b) được viết theo các thành phần
và như sau
̇
(
) [ ]
̇
(
) [ ]
(4.57)
Biểu thức của năng lượng và moment xung lượng là tích phân chuyển
động, được suy ra từ các phương trình chuyển động (4.56), (4.57)
√
(4.58)
94
(
) (4.59)
trong đó
√
(4.60)
là momet quỹ đạo của hạt. Từ những biểu thức này ta nhận thấy rằng
và cũng là những tích phân chuyển động.
Những phương trình (4.56) và (4.57) cho thấy hạt chuyển động phẳng.
Chúng nhận các điều kiện sau: xung lượng ban đầu vuông góc với mặt
phẳng spin xác định bởi vị trí đầu và vận tốc đầu , vector cũng trong
mặt phẳng này. Vector liên quan đến sự bảo toàn moment xung lượng toàn
phần trong phương trình (4.59). Từ (4.59) ta có . Sử
dụng hệ tọa độ mà sự bảo toàn moment xung lượng dọc theo hướng trục
ta thấy tại điểm ban đầu cả và đều định hướng dọc theo trục này và
chuyển động trong mặt phẳng . Phương trình (4.57)-(a) chỉ ra rằng ̇
trực giao với mặt phẳng của chuyển động, có nghĩa là ̇ và hướng của
không thay đổi. Vì là hằng số của chuyển động, đối với trường hợp này
được bảo toàn và vuông góc với mặt phẳng chuyển động. Cũng bởi và
là những hằng số của chuyển động, nên vector isospin thứ hai là
cũng bảo toàn trong mặt phẳng chuyển động. Với hai vector Isospin đó ta
thấy rằng vector lực (số hạng ở vế phải của (4.56)) không có thành phần theo
trục , tức là chuyển động chính chỉ nằm trong mặt phẳng .
Ta xét chuyển động của hạt trong giới hạn phi tương đối tính trong một
vùng ở xa điểm kỳ dị , dẫn đến các phương trình (4.56), (4.57)
trở thành dạng sau
̇
(4.61)
95
trong đó ta đặt , vector tuân theo công thức
, vector nằm trong mặt phẳng và vuông góc với . Trong
tọa độ cực , phương trình (4.61) trở thành hệ sau
̈ ̇
̇
̈ ̇ ̇
̇
(4.62)
Khử ̇ trong (4.62) ta rút gọn thành một phương trình cho một chiều
̈
(4.63)
với
[(
) ]
[
] (4.64)
Trong phương trình này việc chọn dấu được lấy từ các phương trình
(3.85), (3.86). Nếu ta lấy dấu thì đối với khoảng cách bất kỳ ngoài vùng
kỳ dị , ta có khi đó tất cả các số hạng trong
(4.64) đều tương ứng với lực đẩy và như thế sẽ không có khả năng về giới
hạn của quỹ đạo. Còn trường hợp lấy dấu trừ cho phép cả khả năng cả
chuyển động giới hạn và vô hạn, nó phụ thuộc vào điều kiện ban đầu đối với
chuyển động của hạt. Do đó, ta sẽ loại bỏ trường hợp ứng với dấu trong
phương trình (4.64). Phương trình này xác định một thế hiệu dụng như là
một hàm của và phụ thuộc vào các tham số: (1) là tham số nghiệm của
trường gauge; (2) là những moment quỹ đạo của bậc tự do "nội tại"
của hạt; (3) là tổng moment quỹ đạo toàn phần bảo toàn của hạt, như là
điều kiện ban đầu của chuyển động.
Khảo sát thế hiệu dụng (4.64) cho ta biết thông tin định tính về chuyển
động của hạt. Xét đạo hàm của theo và coi đạo hàm đó như một biểu
thức bậc hai của ,
96
[ ][ ]
√
(4.65)
trong đó, ta đã đặt , . Ta thấy rằng đối với
thì cả trong (4.65) là những hàm thực và (tương ứng
với dấu trước căn thức) có giá trị âm. Do đó, chỉ triệt tiêu nếu thừa
số [ ] trong (4.65) triệt tiêu. Vì tăng một cách đơn điệu và sẽ
tiệm cận đến (√ ) khi , thế nên phương trình sẽ có
nghiệm đơn trị nếu √ và nằm trong khoảng
√ . Tình huống này được minh họa trong hình 4.1, ở đó chúng tôi
vẽ cho trường hợp và lấy một thí dụ cho thỏa mãn
√ . Đường cắt đường cong tại điểm ,
khoảng cách mà tại đó thế hiệu dụng đạt cực tiểu.
Hình 4.1. Đường biểu diễn tổng moment quỹ đạo toàn phần theo
Với cùng các giá trị của các thông số này chúng tôi vẽ đường biểu diễn thế
hiệu dụng theo trong hình 4.2. Từ đó chúng tôi đã nhận ra sự khác nhau
một cách định lượng những kiểu quỹ đạo chuyển động của hạt.
97
Hình 4.2. Đường biểu diễn thế hiệu dụng Schwarzschild-like theo
Nếu năng lượng tổng cộng của hạt lớn hơn ( trên hình 4.2)
chuyển động của hạt sẽ tiến ra vô cực, trái lại nếu năng lượng nằm trong
khoảng ( trên hình 4.2) chuyển động sẽ bị giam giữ.
Hình vẽ 4.2 giống như thế hiệu dụng trong trường lực hấp dẫn.
Để có sự so sánh giữa các thế hiệu dụng (4.64) với các thế tương ứng
trong lý thuyết hấp dẫn của Newton và Einstein ta sử dụng hệ đơn vị và các
ký hiệu theo như trong sách tài liệu [77]. Theo đó , khối lượng,
năng lượng và moment quỹ đạo chuyển thành độ dài. Dưới đây chúng tôi
minh họa việc so sánh thế hiệu dụng của hạt trong không thời gian
Schwarzschild của thuyết tương đối rộng (GR):
[(
)(
)]
(4.66)
trong giới hạn Newton
(4.67)
thông số được chọn là . Trong hình 4.3 chúng tôi vẽ đường cong
của thế Yang-Mills tựa Schwarzschild theo phương trình (4.64), các thông số
cho hạt thử đối với thế này được chọn là với , ,
, , , đơn vị trên trục hoành là .
98
Hình 4.3. Đường cong thế hiệu dụng Yang-Mills tựa Schwarzschild, thế hiệu dụng
trong giới hạn Newton và thế hiệu dụng trong lý thuyết tổng quát của Einstein theo
Hình vẽ cho thấy hầu hết phần đuôi của đoạn tiệm cận của các thế là như
nhau. Ngoài ra còn có điều thú vị là, với vùng , chẳng hạn ,
thì sự khác nhau của các thế là đáng kể, song tại khoảng cách thì
các thế hoàn toàn tương tự.
Đường (chấm đứt) cho thế hiệu dụng của hạt trong không thời gian
Schwarzschild; đường nét đứt cho thế trong giới hạn Newton; đường nét liền
cho thế hiệu dụng Yang-Mills tựa Schwarzschild.
4.3.2 Quỹ đạo chuyển động của hạt [II, V]
Để tìm quỹ đạo chuyển động của hạt, ta phải tìm nghiệm của phương
trình (4.62). Các thông số của phương trình (4.62) được coi là các
thông số tự do của lý thuyết mà nó được đưa vào để làm tăng tính tổng quát
cho mô hình lý thuyết. Cho các giá trị khác nhau và sử dụng
chương trình Mathematica 7.0 với gói phần mềm đối với phương pháp
Runge-Kutta cùng với điều kiện ban đầu ̇
. Chúng tôi đã vẽ được quỹ đạo chuyển động của hạt (không đưa ra hình
99
vẽ ở đây), nó có dạng tựa như tiến động của các hành tinh của định luật
Kepler và gọi quỹ đạo này là Kepler-like.
4.4 Kết luận chương 4
Những kết quả thu được ở chương này cho thấy đối xứng gauge Lorentz
được coi như cách mô tả tương tác hấp dẫn kiểu Yang-Mills nó đóng góp
cho việc nghiên cứu và phát triển những lý thuyết để thống nhất các tương
tác cơ bản trong tự nhiên. Trong chương này chúng tôi đã tìm ra cách mở
rộng đối xứng địa phương unitary cho đối xứng không-thời gian một cách
khả dĩ. Phương pháp của chúng tôi là dựa trên phương trình Wong tương tự
như các điện tích chuyển động trong trường điện từ.
Đối với lý thuyết này, trường hấp dẫn đã được coi như trường gauge
Lorentz, một thành phần của trường đó là phần tự đối ngẫu liên quan tới spin
[78, 79, 80, 81, 82, 83]. Cách tiếp cận của chúng tôi như đã trình bày có thể
đưa đến gần đúng bài toán chuyển động của hạt trong trường hấp dẫn ở miền
gần điểm kỳ dị, còn ở ngoài miền này thì nó đã khá phù hợp với
các lý thuyết hấp dẫn riêng phần khác. Nhiệm vụ tiếp theo để nghiên cứu lý
thuyết hấp dẫn theo hướng này coi như vấn đề còn để ngỏ, đó là phải tìm
cách để tiến gần đến điểm kỳ dị. Chúng tôi coi đây là hướng tiếp cận
bài toán về chuyển động của hạt trong trường hấp dẫn bên cạnh nhiều hướng
nghiên cứu khác. Tuy nhiên, để có được kết luận đầy đủ về hướng nghiên
cứu này thì cần phải có nhiều nghiên cứu tỉ mỉ và công phu hơn.
100
KẾT LUẬN
Trong luận án này, chúng tôi đã trình bày những nghiên cứu lý thuyết về
các mô hình trường chứa nghiệm soliton của lý thuyết phi tuyến Yang-Mills
và Yang-Mills-Higgs bằng cách xây dựng các chương trình tìm nghiệm, mô
phỏng kết quả và tìm hiểu ý nghĩa vật lý của nghiệm. Để từ đó làm sáng tỏ
một số vấn đề động lực học của tương tác của các hạt cơ bản. Đồng thời mở
rộng phạm vi nghiên cứu về tương tác gauge cho nhóm đối xứng không thời
gian (nhóm Lorentz) như là một cách tiếp cận với bài toán hạt trong trường
hấp dẫn. Các kết quả cụ thể thu được như sau:
1. Chúng tôi đã xây dựng được thuật toán và lập chương trình giải số để
tìm nghiệm của hệ các phương trình phi tuyến được rút ra từ tương tác
của trường Yang-Mills với nguồn ngoài bằng cách sử dụng tính chất
đối xứng của hệ vật lý và các ansatz tìm nghiệm. Chương trình cho
phép tìm được nghiệm với chỉ số topo tùy ý. Với các nghiệm tìm
được, đã tính toán và vẽ tường minh điện trường, từ trường phi Abel
cũng như mật độ năng lượng với các chỉ số topo khác nhau. Qua đó
chúng tôi tìm thấy một số tính chất vật lý của hệ tương tác này, đó là
những thay đổi về sự phân bố không gian của: Mật độ năng lượng
trường; của trường Yang-Mills; của điện từ trường phi Abel, theo chỉ
số topo. Một trong những kết quả thú vị đó là hiện tượng che chắn tích
và rẽ nhánh năng lượng của trường khi chỉ số topo cao và tích màu có
giá trị lớn.
2. Từ chương trình giải số đối với bài toán nguồn ngoài là hai tích màu,
chúng tôi đã mở rộng số nguồn ngoài lên và đặc biệt chúng
tôi đã khảo sát trường hợp cho các điểm nguồn ngoài nằm ở tất cả các
nút lưới trên một trục với cùng một giá trị. Lúc đó nguồn ngoài có thể
coi gần đúng như sợi dây vô hạn. Kết quả nghiệm mà chúng tôi thu
được đúng như dự đoán, đó là đặc tính của trường chỉ còn phụ thuộc
vào khoảng cách tới "dây". Chúng tôi đã mô phỏng các kết quả này và
101
tìm hiểu sự thay đổi về phân bố không gian của mật độ năng lượng, của
trường Yang-Mills vào chỉ số topo. Ngoài ra, chúng tôi đã tìm được lớp
nghiệm giải tích dạng vortex cho nguồn ngoài dạng dây này. Với
trường hợp nghiệm tĩnh đã chứng minh được hiện tượng rẽ nhánh của
đồ thị năng lượng phụ thuộc độ lớn tích màu, còn nghiệm phụ thuộc
thời gian có dạng sóng trụ và mang các đặc điểm như: có sự truyền tải
năng xung lượng, nhưng không phát xạ màu, do đó tích màu tổng cộng
của nguồn không đổi theo thời gian. Những kết quả nghiên cứu này
của chúng tôi đã được đăng trong các bài báo [III, IV, VI].
3. Từ việc nghiên cứu nghiệm của các phương trình trường chuẩn nói
trên, chúng tôi đã mở rộng mô hình cho tương tác hấp dẫn bằng cách
sử dụng các phương pháp mô tả tương tác từ các nhóm unita sang
nhóm đối xứng không-thời gian - nhóm Lorentz, kết hợp với việc dùng
ngôn ngữ toán học bó thớ, phép tham số hóa vector, phức hóa vector.
Chúng tôi đã tìm được hệ phương trình Wong mở rộng cho trường hợp
hạt chuyển động trong trường Yang-Mills của các nhóm và
.
4. Chúng tôi cũng đã tìm được nghiệm của hệ phương trình Wong mở
rộng trong trường hợp phi tương đối tính cho chuyển động của hạt màu
trong thế hiệu dụng Yang-Mills (khi không có trường Higgs) có dạng
tương tự thế Schwarzschild trong lý thuyết hấp dẫn, qua đó tìm được
cách mô tả tương tác của hạt trong trường hấp dẫn và thế hiệu dụng
cho tương tác của hạt. So sánh kết quả với những cách mô tả hấp dẫn
đã biết, đó là lý thuyết hấp dẫn của Newton, lý thuyết tương đối tổng
quát của Einstein. Kết quả khá thú vị là quỹ đạo của hạt có dạng tựa
Kepler, còn thế hiệu dụng có dạng tựa Schwarzschild. Tại vùng không
xa điểm kỳ dị lắm đã tìm thấy sự thống nhất các tương
tác trong tự nhiên, còn trong miền có sự khác nhau
giữa các thế và chuyển động của hạt màu bị giam giữ trong miền này.
Mặc dù để mô tả các tương tác đơn lẻ, đã có những lý thuyết riêng
phần khá chính xác, song việc tìm một lý thuyết đầy đủ để mô tả tất cả
các tương tác vẫn là bài toán thách thức các nhà vật lý. Vì vậy với cách
102
tiếp cận tương tác hấp dẫn kiểu Yang-Mills của chúng tôi trong phần
này, chúng tôi hy vọng có đóng góp vào hướng nghiên cứu của bài toán
lớn đó. Những kết quả nghiên cứu này của chúng tôi đã được đăng
trong các bài báo [II, V] và báo cáo tại Hội nghị Vật lý Quốc tế [I].
Các kết quả trên góp phần làm phong phú hơn các hiểu biết về cấu trúc
lý thuyết Yang-Mills, mà hiện nay đang được thừa nhận là lý thuyết đóng vai
trò nền tảng để xây dựng các mô hình lý thuyết mô tả các tương tác cơ bản
của tự nhiên.
103
Danh mục các công trình khoa học
của tác giả có liên quan đến luận án
[I] Nguyen Vien Tho and Nguyen Quoc Hoan (2009) A Test for the Local
Intrinsic Lorentz Symmetry. The 5th International Conference on Flavor
Physics, Hanoi, September 24-30, 2009.
[II] Nguyen Vien Tho and Nguyen Quoc Hoan (2010), On the Yang-Mills
gravity. Communications in Physics, Vol 20, №3, (2010) pp. 271.
[III] Nguyen Vien Tho, To Ba Ha and Nguyen Quoc Hoan (2010) Solutions
for Yang-Mills field with singular source terms and higher topological
indices. Proc. Natl. Conf. Theor. Phys., 35 (2010), pp. 80-85.
[IV] Nguyen Quoc Hoan (2012) Properties of Yang-Mills Field with Axially
Symmetric External Color Charge Sources. Proc. Natl. Conf. Theor.
Phys. 37 (2012), pp. 187-192.
[V] Nguyen Vien Tho and Nguyen Quoc Hoan (2012) A Test for the Local
Intrinsic Lorentz Symmetry. Journal of Physical Science and
Application. 2 (8) (2012), pp. 328-334.
[VI] Nguyen Vien Tho, To Ba Ha and Nguyen Quoc Hoan (2013) Vortex
Solutions of the Yang-Mills Field Equations with External Sources.
Journal of Physical Science and Application. 4 (1) (2014), pp. 50-59.
104
Tài liệu tham khảo
[1] C. N. Yang and R. L. Mills (1954) Conservation of isotopic spin and
isotopic gauge invariance. Phys. Rev. 96, pp. 191-195.
[2] S. L. Glashow (1961) Partial-Symmetries of weak interaction. Nucl. Phys.
22, pp. 579-588.
[3] A. Abada, A. J. R. Figueiredo, J. C. Romao and A. M. Teixeira (2011)
Probing the supersymmetric type III seesaw: LFV at low-energies and at
the LHC. arXiv: 1104.3962 [hep-ph].
[4] J. Abdallah (2005), Photon events with missing energy in collision at
√ Eur. Phys. J. C 38, 395 [arXiv: hep-
ex/0406019].
[5] F. Englert, R. Brout (1964) Broken Symmetry and the Mass of Gauge
Vector Mesons. Phys. Rev. Lett. 13, pp. 321-323.
[6] P. W. Higgs (1964), Broken Symmetries and the Masses of Gauge Bosons.
Phys. Rev. Lett. 13, pp. 508-509.
[7] G. S. Guralnic, C. R. Hagen and T. W. B. Kibble (1964) Global
Conservation Laws and Massless Particles. Phys. Rev. Lett. 13, pp. 585-
587.
[8] F. J. Hasert (1973) Search for elastic muon-neutrion electron scattering.
Phys. Lett. B 46, pp. 212.
[9] F. J. Hasert (1973) Observation of neutrino-like intractions without muon
or electron in the gargameelle neutrino experiment. Phys. Lett. B 46, pp.
138.
[10] F. J. Hasert (1974) Observation of neutrino-like intractions without muon
or electron in the Gargamelle neutrino experiment. Nucl. Phys. B 73, pp.
1.
[11] E. B. Bogomolny (1976) The stability of classical solutions. Sov. J. Nucl.
Phys. 24, pp. 499-454.
[12] A. A. Abrikosov (1957) On the magnetic Properties of Superconductors of
the Second Group. Sov. Phys. JETP. 5, pp. 1174.
105
[13] W. J. Zakrzewski (1989) Low Dimentional Sigma Models. Bristol,
Institute of Physics Publishing.
[14] A. M. Polyakov (1974) Particle spectrum in quantum field theory. JETP
Lett. 20, pp. 194-195.
[15] G. ’t Hooft (1974) Magnetic monopoles in unified gauge theories. Nucl.
Phys. B 79, pp. 276-284.
[16] T. H. R. Skyrme (1961) A nonlinear field theory. Proc. R. Soc. Lond.
A260, pp.127.
[17] T. H. R. Skyrme (1962) A unified field theory of mesons and baryons.
Nucl. Phys. 31, pp. 556.
[18] A. A. Belavin, A. M. Polyakov, A. S. Schwartz and Y. S. Tyupkin (1975)
Pseudoparticle solution of the Yang-Mills equations. Phys. Lett. B 59, pp.
85-88.
[19] S. Coleman (1977) Non-Abelian plane waves. Phys. Lett. 70B, pp. 59-60.
[20] T. T. Wu and C. N. Yang (1968) Properties of Matter Under Unusual
Conditions. edited by H. Mark and S. Fernbach (Intercience, New York)
[21] B. Julia and A. Zee (1975) Poles with both magnetic and electric charges
in non-Abelian gauge theory. Phys. Rev. D 11, pp. 2227-2232.
[22] J. P. Hsu and E. Mac (1977) Symmetry and exact dyon solutions for
classical Yang–Mills field equations. J. Math. Phys. 18, pp. 100.
[23] A. M. Polyakov (1975) Isomeric states of quantum fields. Sov. Phys. JETP
41, pp. 988-995.
[24] A. M. Polyakov (1975) Compact gauge fields and the infrared
catastrophe, Phys. Lett. B 59, pp. 82-84.
[25] E. B. Bogomolny and M. S. Marinov (1976), Calculation of the monopole
mass in gauge theory. Sov. J. Nucl. Phys. 23, pp. 355.
[26] M. K. Prasad and C. M. Sommerfield (1975) Exact Classical Solution for
the 't Hooft Monopole and the Julia-Zee Dyon. Phys. Rev. Lett. 35, p 760-
762.
[27] B. Kleihaus, J. Kunz (1999) Monopole-antimonopole solution of the SU(2)
Yang-Mills-Higgs model. Phys. Rev. D 61, 025003.
106
[28] J. Jersák (1995) Numerical simulations in quantum field theory of
elementary particles. Journal of Computational and Applied Mathematics.
63, pp. 49-56.
[29] F. Karsch and E. Laermann (1993) Numerical simulations in particle
physics. Rep. Prog. Phys. 56. Printed in the UK, pp. 1347-1395.
[30] D. F. Litim, M. C. Mastaler, F. Synatschke-Czerwonka, and A. Wipf
(2011) Critical behavior of supersymmetric O(N) models in the large-N
limit. Phys. Rev. D 84, 125009.
[31] C. Wozar, A. Wipf (2011) Supersymmetry Breaking in Low Dimensional
Models. Annals Phys. 327, arXiv:1107. 3324 [hep-lat].
[32] H. Gies, F. Synatschke, A. Wipf (2009) Supersymmetry breaking as a
quantum phase transition Phys. Rev. D80: 101701.
[33] V. De Alfaro, S. Fubini, G. Furlan (1976) A new classical solution of the
Yang-Mills field equations. Phys. Lett. B 65, pp. 163-166.
[34] C. Rebbi, P. Rossi (1980) Multimonopole solutions in the Prasad-
Sommerfield limit. Phys. Rev. D 22, pp. 2010-2017.
[35] B. Kleihaus, J. Kunz, Y. Shnir (2003) Monopoles, antimonopoles, and
vortex rings. Phys. Rev. D 68 (2003) 101701(R).
[36] R. Jackiw, L. Jacobs and C. Rebbi (1979) Static Yang-Mills field with
sources. Phys. Rev. D 20, pp. 474-486.
[37] M. P. Isidro Filho, A. K. Kerman and H. D. Trottire (1989) Topologically
nontrivial solutions to Yang-Mills equations with axisymmetric external
sources. Phys. Rev. D 40, pp. 4142-4150.
[38] P. Sikivie and N. Weiss (1978) Screening Solutions to Classical Yang-
Mills Theory. Phys. Rev. Lett. 40, pp. 1411-1413; P. Sikivie and N. Weiss
(1978) Classical Yang-Mills theory in the presence of external sources.
Phys. Rev. D 18, pp. 3809.
[39] J. E. Mandula (1977) Total charge screening. Phys. Lett. B 69, pp. 495-
498.
[40] C. H. Oh (1993) Analytic solutions of the Yang-Mills field equations with
external sources of higher topological indices. Phys. Rev. D 47, pp. 1652-
1655.
107
[41] H. B. Nielsen and P. Olesen (1973) Vortex-line models for dual string.
Nucl. Phys. B 61, pp. 45-61.
[42] S. Mandelstam (1976) Vortices and quark confinement in non-Abelian
gauge theories. Phys. Rept. 23, pp. 245-349.
[43] A. J. Niemi, K. Palo and S. Virtanen (2000) (Meta) stable closed vortices
in 3+1 dimensional gauge theories with an extended Higgs sector. Phys.
Rev. D 61, 085020.
[44] A. Achucarro and T. Vachaspati (2000) Semilocal and electroweak strings.
Phys. Rept. 327, pp. 347-426.
[45] P. Forgács, S. Reuilon and M. S. Volkov (2006) Superconducting Vortices
in Semilocal Models. Phys. Rev. Lett. 96, 041601; P. Forgács, S. Reuilon
and M. S. Volkov (2006) Twisted superconducting semilocal strings.
Nucl. Phys. B 751, pp. 390-418.
[46] H. J. de Vega and F. A. Schaposnik (1986) Vortices and electrically
charged vortices in non-Abelian gauge theories. Phys. Rev. D 34, pp.
3206-3213.
[47] F. A. Schaposnik and P. Suranyi (2000) New vortex solution in SU(3)
gauge-Higgs theory. Phys. Rev. D 62, 125002.
[48] M. Shifman and A. Yung (2007) Supersymmetric solitons. Rev. Mod.
Phys. 79, pp. 1139-1196.
[49] J. E. Mandula (1976) Classical Yang-Mills potential. Phys. Rev. D 14, pp.
3497-3507.
[50] H. J. de Vega and F. A. Schaposnik (1976) Classical vortex solution of the
Abelian Higgs model. Phys. Rev. D 14, pp. 1100.
[51] E. J. Weinberg (1979) Multivortex solution of the Ginzburg-Landau
equations. Phys. Rev. D 19, pp. 3008-3012.
[52] C. H. Oh and R. R. Parwani (1987) Bifurcation in the Yang-Mills field
equations with static sources. Phys. Rev. D. 36, pp. 2527-2531.
[53] E. Rothwell and M. Cloud (2001) Electromagnetics. CRC Press, 2001
Chap. 2.
[54] C. H. Oh, C. H. Lai and R. The (1987) Color radiation in the classical
Yang-Mills theory. Phys. Rev. D. 36, pp. 2527-2531.
108
[55] S. G. Matinyan, E. B. Prokhorenko, and G. K. Savvidy (1986) Stochastic
nature of spherically symmetric solutions of the time-dependent Yang-
Mills equations, JETP. Lett. 44, pp. 138-141.
[56] M. Alford, K. Rajagopal and F. Wilczek (1998) QCD at finite baryon
density: nucleon droplets and color superconductivity, Phys. Lett. B 422,
pp. 247-256;
[57] R. Rapp, T. Scha efer, E. V. Shutyak and M. Velkovsky (1998) Diquark
Bose Condensates in High Density Matter and Instantons. Phys. Rev. Lett.
81, pp. 53-56.
[58] M. Alford, K. Rajagopal and F. Wilczek (1999) Color-Flavor Locking and
Chiral Symmetry Breaking in High Density QCD. Nucl. Phys. B 537, pp.
443-488.
[59] R. Rapp, T. Scha efer, E. V. Shutyak and M. Velkovsky (2000) High-
Density QCD and Instantons. Ann. Phys. (N.Y.) 280, pp. 35-99.
[60] S. K. Wong (1970), Fiels and particle equations for the classical Yang-
Mills field and particle with isotopic spin. Nuovo Cim. 65A, pp. 689.
[61] L. S. Brown, W. I. Weinberg (1979) Vacuum polarization in uniform non-
Abelian gauge field. Nucl. Phys, B157, pp. 285-326.
[62] S. Kobayashi, K. Nomizu (1969) Foundations of differential geometry.
Vol. 1, (Ed.) Wiley, NewYork.
[63] M. Daniel, C.M. Viallet (1980) The geometrical settings of gauge theory
of the Yang-Mills type. Rev. Mod. Phys. 52, pp. 175-197.
[64] A. Duriryak (2000) Classical mechanics of Relativistic Particle.
Proceeding of Institude of Mathematics of NAS of Ukraine, pp. 473
[65] N. V. Tho (2008) Interaction of imaginary-charge-carrying dyon with
particles. Journal of Mathematical Physics 49 (2008) 062301-1-10.
[66] V. I. Kuvshinov and N. V. Tho (1994) Local vector parameters of group,
Cartan forms, and application to theories of gauge and chiral field. Phys.
Part. Nucl. 25(3), pp. 253-271.
[67] F. I. Fedorov (1979) Lorentz Group. (Nauka, Moscow 1979); (Editorial
USSR, Moscow, 2003).
109
[68] V. I. Kuvshinov, N. V. Tho (1993) A new method for calculating the
Cartan forms and applications to gauge and chiral field theories. J. Math.
Phys. A 26 (1993) 631-645.
[69] D. Singleton (1995) Exact Schwarzschild-like solutions for Yang-Mills
theories. Phys. Rev. D 51, pp. 5911-5914.
[70] A. H. Chamseddine (2004) SL(2,C) gravity with complex vierbein and
its noncommutative extension. Phys. Rev. D 69 (2004) 024015.
[71] T. T. Wu, C. N. Yang (1976) Static sourceless gauge field. Phys. Rev. D
13, pp. 3233-3236.
[72] A. I. Alekseev and B. A. Arbuzov (1985) Interaction of color
charges. Teoret. Mat. Fiz., 65, pp. 202–211.
[73] R. M. Fernandes, P. S. Letelier (2005) Motion of a particle with Isospin in
the Presence of a Monopole. arXiv: hep-th/0508219, vl.
[74] J. Schechter (1976), Yang-Mills particle in ’t Hooft’s gauge Field. Phys.
Rev. D 14(2), pp. 524-527.
[75] A. Azizi (2002), Planar trajectories in a monopole field. J. Math. Phys.
43, pp. 299
[76] R. M. Fernandes, P. S. Letelier (2004) Motion of coloured particles in
soliton of the O(3) non-linear model. Proceeding of Science.
[77] C. W. Misner, K. S. Thorn, J. A. Wheeler (1973) Gravitation. (Ed.) W. H.
Freedman and Company, San Francisco, pp. 25.
[78] F. W. Held, P. Von de Heyde, D. Kerlick, J. Nester (1976) General
relativity with spin and torsion: Foundations and prospects. Rev. Mod.
Phys. 48, pp. 393-416.
[79] A. Ashtekar (1986) New variables for classical and quantum gravity.
Phys. Rev. Lett. 57, 18, pp. 2244-2247.
[80] A. Ashtekar (1987) New Hamiltonian formalism of general relativity.
Phys. Rev. D 36, pp. 1587-1602.
[81] G. ’t Hooft (1991) A chiral alternative to the vierbein fiel in general
relativity. Nucl. Phys. B 357 (1991), pp. 211-221.
110
[82] R. K. Kaul (2006) Gauge theory of gravity and supergravity. Phys. Rev. D
73, (2006) 065027-1-13.
[83] A. H. Chamseddine (2006) Applications of the gauge principle to
gravitational interactions. International Journal of Geometric Methods in
Modern Physics 03 (2006), pp. 149-176.