Để tìm hiểu về cơ chế làm hạ đường huyết của glucomannan thủy phân
chúng tôi tiến hành đánh giá tác dụng hoạt hóa của glucomannan và glucomannan
thủy phân đối với enzym AMPK. AMPK là một enzym quan trọng điều hòa năng
lượng của tế bào và được coi như một yếu tố chính tham gia điều hòa chuyển hóa
glucose và lipit ở nhiều cơ quan đặc biệt là cơ vân và gan [6]. Cơ vân là nơi tiêu thụ
glucose chủ yếu trong cơ thể.
Trên chuyển hóa glucose, AMPK tác dụng lên sự dung nạp glucose của cơ
vân thông qua cơ chế phụ thuộc và không phụ thuộc insulin (làm tăng biểu hiện của
gen mã hóa chất vận chuyển glucose vào tế bào cơ (GLUT-4) và hexokinase II, kích
thích tổng hợp glycogen trong cơ bằng cách hoạt hóa dị lập thể glucose–6–
phosphatase, hoạt hóa 2 enzym chính của chu trình axit citric là citrat synthase và
succinat dehydrogenase )
138 trang |
Chia sẻ: tueminh09 | Ngày: 25/01/2022 | Lượt xem: 520 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu tách, tinh chế và thủy phân glucomannan từ cây amorphophallus konjac k. koch ở lâm đồng và định hướng ứng dụng hạ đường huyết, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Temperature
X2 = D: E/S
Actual Factors
B: Time = 6
C: pH = 7
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
30
35
40
45
50
50
100
150
200
250
Y
(
m
p
a.
s)
A: Temperature (oC)D: E/S
b) Tỷ lệ E/S và nhiệt độDesign-Expert® SoftwareFactor Coding: Actual
Y (mpa.s)
Design points above predicted value
Design points below predicted value
61.15 250.15
X1 = A: Temperature
X2 = B: Time
Actual Factors
C: pH = 7
D: E/S = 0.4
4
5
6
7
8
30
35
40
45
50
50
100
150
200
250
300
Y
(m
p
a.
s)
A: Temperature (oC)B: Time (h)
c) Thời gian phản ứng và nhiệt độ
Design-Expert® Software
Factor Coding: Actual
Y (mpa.s)
Design points above predicted value
Design points below predicted value
61.15 250.15
X1 = B: Time
X2 = C: pH
Actual Factors
A: Temperature = 40
D: E/S = 0.4
5
6
7
8
9
4
5
6
7
8
50
100
150
200
250
300
Y
(m
pa
.s
)
B: Time (h)C: pH
d) Thời gian phản ứng và độ pH
Design-Expert® Software
Factor Coding: Actual
Y (mpa.s)
Design points above predicted value
Design points below predicted value
61.15 248
X1 = B: Time
X2 = C: pH
Actual Factors
A: Temperature = 40
D: E/S = 0.4
5
6
7
8
9
4
5
6
7
8
50
100
150
200
250
Y
(m
p
a.
s)
B: Time (h)C: pH
e) pH và thời gian
Design-Expert® Software
Factor Coding: Actual
Y (mpa.s)
Design points above predicted value
Design points below predicted value
61.15 248
X1 = C: pH
X2 = D: E/S
Actual Factors
A: Temperature = 40
B: Time = 6
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
5
6
7
8
9
50
100
150
200
250
Y
(m
p
a.
s)
C: pHD: E/S
f) E/S và pH
Hình 3.21. Đường mức và đáp ứng bề mặt 3D ảnh hưởng của các cặp yếu tố đến độ
nhớt của hỗn hợp phản ứng
96
3.3.2.3. Tìm chế độ thủy phân tối ưu
Sử dụng kế hoạch bậc 2 Box – Behnken ta đã nhận được phương trình hồi
quy mô tả ảnh hưởng của các yếu tố là nhiệt độ, thời gian, pH và tỉ lệ E/S đến
thông số tối ưu hóa là độ nhớt của sản phẩm cho quá trình thủy phân
glucomannan. Độ nhớt càng nhỏ thì sự cắt mạch càng tốt nghĩa là nhận được
oligoglucomannan có khối lượng nhỏ hơn. Bài toán tối ưu hóa ở đây được đặt ra
là tìm các điều kiện của các biến nhiệt độ, thời gian, pH và tỉ lệ E/S sao cho hàm
độ nhớt đạt giá trị cực tiểu.
Bài toán tối ưu hóa được thể hiện như sau:
Min (Y = 62,21 – 12,63X1 – 6,85X2 – 24,85X3–14.95 X4 + 20.02 X1X2 +
7,47X1X3 – 10.02 X1X4 + 3,78 X2X3 + 3,72 X2X4 – 17,32 X3X4 + 46,76 X12 +
27,29 X22 + 94,12 X32+ 38,54 X42)
với các điều kiện ràng buộc:
-1 ≤ x1 ≤ +1 -1 ≤ x3 ≤ +1
-1 ≤ x2 ≤ +1 -1 ≤ x4 ≤ +1
Phần mềm Design Expert cũng cho phép tìm điều kiện tối ưu và nhận
được kết quả được trình bày ởquả bảng 3.22.
Bảng 3.22. Kết tính tìm điều kiện tối ưu
Giá trị ban đầu
Số thí nghiệm
theo mô hình
Điều kiện tối ưu ŷ1(min)
30 ≤ T ≤ 50
4≤ t ≤ 8
5 ≤ pH ≤ 9
0,1 ≤ E/S ≤ 0,7
100
T(opt) = 42,376;
t(opt)=5,681
pH(opt) = 7,241
E/S(opt) = 0,536
57,51
Giá trị Ymin = 57,51
Ở điều kiện: X1(opt) = 0,14; X2(opt) = 0,05; X3(opt) = 0,15; X4(opt) = 0,24
97
Với hệ số mong muốn rất cao bằng 0,987 gần xấp xỉ bằng 1.
Để kiểm tra điều kiện tối ưu của phản ứng, chúng tôi đã sử dụng chương
trình tính FLEXI viết bằng ngôn ngữ thuật toán FORTRAN. Đây là chương trình tối
ưu hóa rất hiệu quả của quy hoạch phi tuyến tính thích hợp cho nhiều lớp bài toán
thông dụng. Kết quả nhận được giá trị Ymin = 57,514 ở điều kiện tối ưu:
X1opt = 0,139; X2opt = 0,048; X3opt = 0,148; X4opt = 0,243.
Như vậy hai kết quả khá trùng hợp
Điều kiện tối ưu của phản ứng với các biến thực là:ŷ(opt) = 57,51 cP, ở nhiệt
độ: T= 42,376oC; thời gian t = 5,681 giờ; pH = 7,241; tỉ lệ E/S = 0,536%
Kết quả thu được cũng phù hợp với tác giả Junfan Chen và cộng sự [20] khi
dùng enzym thương mại để thuỷ phân glucomannan ở nhiệt độ 41oC; độ pH = 7,1;
tỷ lệ E/S = 0,49 và thời gian phản ứng là 3,4 giờ.
Kiểm tra lại bằng thực nghiệm ở các điều kiện nhiệt độ, thời gian, pH và tỉ lệ
E/S tối ưu trên cho kết quả Y = 60,5 cPs.
Hiệu suất thu hồi sản phẩm %100
bđ
sp
m
m
H = 75,8%
Với msp là khối lượng sản phẩm sau thủy phân thu được
mbđ là khối lượng chất gốc glucomannan ban đầu.
3.3.3. Đặc điểm cấu trúc và tính chất của LKGM-E
3.3.3.1. Phổ IR của LKGM-E.
Sản phẩm LKGM-E sau được tiến hành ghi phổ hồng ngoại trên thiết bị
FTIR IMPAC-410 trong vùng bước sóng từ 4000-400cm-1. Kết quả phân tích được
trình bày ở hình 3.22.
98
Hình 3.22. Phổ IR của LKGM-E.
Từ hình 3.22, các pic phổ đặc trưng có thể quy kết như sau: vùng 3000-
3500cm-1pic có cường độ mạnh, chân rộng đặc trưng cho dao động hóa trị của
nhóm hydroxyl (-OH); liên kết cộng hóa trị (C-H) có dao động hóa trị tại pic
2932cm-1và dao động biến dạng tại pic 1413 cm-1 và 1316 cm-1. Đặc biệt, tại phổ IR
của LKGM-E vẫn xuất hiện pic tại 1720 với cường độ khá mạnh đặc trưng cho dao
động hóa trị của nhóm cacbonyl (-C=O); 1650cm-1 đặc trưng cho sự có mặt của
phân tử nước hấp thụ; 1150 cm-1đặc trưng cho dao động hóa trị của liên kết ete C-
O-C của liên kết glycosid giữa các mắt xích trong phân tử polysaccarit; 1071cm-1
và 1029cm-1 đặc trưng cho dao động hóa trị của liên kết C-O trong nhóm C-OH.
Các pic trong vùng 884÷818 cm-1 đặc trưng cho vòng pyranose của glucose và
mannose.
Thông qua phổ FTIR, sản phẩm thủy phân có các đặc điểm cấu trúc tương tự
với glucomannan gốc của nó. Pic ở 1720 cm-1 (nhóm acetyl) không biến mất trong
quang phổ của LKGM-E. Điều này có thể là do β-1,4-mannanase đã cắt chọn lọc
các liên kết glycosid bên trong chuỗi polyme của glucomannan, do đó sản phẩm
thủy phân giữ lại các đặc điểm cấu trúc của các nhóm chức glucomannan ban đầu.
Kết quả nghiên cứu phù hợp với kết quả của Xuegang Luo và cộng sự [18].
99
3.3.3.2. Phổ cộng hưởng từ hạt nhân của LKGM-E
Kết quả ghi phổ cộng hưởng từ hạt nhân 1H-NMR; 13C-NMR và 1H-13C-
NMR-HSQC của mẫu LKGM-E thủy phân trong D2O ở 80oC được thể hiện lần lượt
trên các hình 3.23; 3.24 và 3.25 tương ứng dưới đây:
Hình 3.23. Phổ 1H-NMR của LKGM-E ở 80oC trong D2O
Độ dịch chuyển hóa học (δ ppm) của proton (1H) trong phân tử glucomannan
thủy phân bằng enzym (LKGM-E) được quy kết như ở bảng 3.23
Bảng 3.23. 1H NMR độ dịch chuyển hóa học (δ ppm) của LKGM-E
Proton Mannose (δ ppm) Glucose (δ ppm)
H1 5,26 5,03;5,02
H2 4,41 3,87
H3 4,30 4,22
H4 4,32 4,16
H5 4,01 4,08
H6 4,28; 4,20 4,49
H của CH3CO- 2,70
100
Tỷ lệ mannose/glucose của LKGM-E có thể được tính bằng cách sử dụng các
tích phân của H1 trong phổ 1H NMR. Theo phương pháp này, tỷ lệ mol
mannose/glucose là:
=
1− ܯ
1− ܩ
=
6 ⺁
1
= 1 2
Như thể hiện trong hình 3.27, tín hiệu proton của nhóm acetyl được phân
tách tốt, do đó giá trị của hàm lượng axetyl thu được có thể khá chính xác, sử dụng
phổ dữ liệu 1HNMR, mức độ axetyl hóa LKGM-E được ước tính từ công thức:
DA = (ICH3 × 100%) / 3IΣH1 = (2,70 × 100%) / 3] / (6,48 + 5,41)= 7,56%,
Kết quả một lần nữa khẳng định rằng β-mannanase chỉ có thể tấn công các
liên kết glycosid bên trong của mạch đại phân tử glucomannan, giải phóng-1,4-
glucomanno-oligosacarit và một lượng nhỏ đơn vị manose, do đó tỷ lệ RM/G của
LKGM-E thấp hơn một chút so với glucomannan ban đầu. Giá trị của DA là 7,56
chứng tỏ rằng endo-1,4-mannanase không thủy phân các nhóm axetyl trong mạch
glucomannan. Điều này cho thấy phản ứng thủy phân glucomannan xúc tác enzym
có độ chọn lọc rất cao. Phản ứng chỉ cắt liên kết β-glycosid mà không cắt liên kết
nhóm axetyl.
Hình 3.24: Phổ 13C-NMR của LKGM-E ở 80 oC trong D2O
101
Độ dịch chuyển hóa học (δ ppm) trên phổ 13C NMR trong phân tử LKGM-E
được quy kết như ở bảng 3.24
Bảng 3.24. Độ dịch chuyển hóa học 13C - NMR (δ ppm) của LKGM-E trong D2O
Tín hiệu Mannose (δ ppm) Glucose (δ ppm)
C1 102,15;101,99 104,45
C2 72,52;72,18 75,35;75,11
C3 73,63; 73,15 76,19
C4 77,79÷78,90 80,86
C5 77,26 76,97;76,83
C6 62,92;62,78 62,57;62,45
C của CH3CO- 22,17; 176,80
β-Man(14)-β-Glc 71,77
β-Man(14)-β-Man 71,56
Hình 3.25. Phổ 1H-13C-NMR-HSQC của LKGM-E ở 80 oC trong D2O
Trên phổ 1H-13C-HSQC-NMR, mỗi tương tác C/H được đặc trưng bằng một
tín hiệu: tín hiệu đặc trưng cho tương tác C/H của nhóm axetyl (CH3CO-) xuất hiện
tại 22,38/2,69 ppm; các tương tác đặc trưng cho vòng pyranose các tín hiệu được
quy cho các nguyên tử hydro liên kết với C2 đến C6 của cả hai đơn vị glucose và
102
mannose không được phân tách tốt. Trong khi đó, các tín hiệu được quy cho hydro-
H1 liên kết với carbon-C1 của cả đơn vị glucose (5,03; 5,02 ppm) và đơn vị
mannose (5,30; 5,60 ppm) được phân tách tốt. Đây là đặc trưng chung cho các phổ
polysacarit. Từ phổ hai chiều HSQC các tương tác đặc trưng cho vòng pyranose
được quy kết chính xác như sau:
Mannose: C1/H1 (102,15; 101,99/5,26), C2/H2 (72,52; 72,18/4,41), C3/H3
(73,63; 73,15/4,30), C4/H4 (77,79;78,90/4,32), C5/H5 (77,26/4,01), C6/H6 (62,92;
62,78/4,28; 4,20).
Glucose: C1/H1 (104,45/5,03; 5,02), C2/H2 (75,35; 75,11/3,87), C3/H3
(76,19/4,22), C4/H4 (80,86/4,16), C5/H5 (76,97; 76,83/4,08), C6/H6 (62,57;
62,45/4,49).
Qua các phương pháp phổ cho thấy KGM-E có cấu trúc không thay đổi
nhiều so với glucomannan ban đầu. Phản ứng xảy ra chọn lọc ở liên kết β-glycosid.
3.3.3.3. Tính chất nhiệt của LKGM-E
Giản đồ phân tích nhiệt của LKGM-E được trình bày trên hình 3.26
Hình 3.26. Giản đồ phân tích nhiệt của LKGM-E.
Độ bền nhiệt độ của sản phẩm thủy phân glucomannan LKGM-E được thể
hiện trên Bảng 3.25.
103
Bảng 3.25. Kết quả phân tích TGA của LKGM-E
Mẫu vật liệu
Nhiệt độ bắt đầu
phân hủy (oC)
Nhiệt độ phân hủy
mạnh thứ nhất (oC)
Tổn hao khối lượng
đến 800oC (%)
LKGM-E 150,01 282,70 93,85
Từ hình 3.26 cho thấy, quá trình phân hủy nhiệt của glucomannan thủy phân
bằng enzym xảy ra ở 3 vùng nhiệt độ rõ rệt: vùng 33÷150oC ứng với mất nước nội
và ngoại phân tử, khối lượng mẫu mất 7,527% tương ứng với độ ẩm của mẫu là
7,53%. Nhiệt độ phân hủy mạnh nhất ở 282,7oC, thấp hơn nhiệt độ phân hủy mạnh
nhất của glucomanan 35,3oC (nhiệt độ phân hủy mạnh nhất của glucomannan là
318oC). Điều này chứng tỏ sản phẩm thủy phân có độ bền nhiệt kém hơn so với
glucomannan ban đầu. Sự giảm khối lượng mẫu ở vùng từ 150÷ 400 oC là 62,22%,
trong khoảng nhiệt độ này xảy ra sự phân hủy các liên kết glycosid trong mạch đại
phân tử hình thành các hợp chất có khối lượng phân tử thấp hơn. Đến 800oC mẫu
phân hủy hoàn toàn.
3.3.3.4. Khối lượng phân tử trung bình của sản phẩm thủy phân
Xác định khối lượng phân tử trung bình của hỗn hợp sản phẩm sau thủy phân
bằng phương pháp áp suất thẩm thấu. Giá trị CC
lim
0 được ngoại suy từ phương trình
biểu diễn mối quan hệ giữa C và π/C (hình 3.29).
Kết quả đo áp suất thẩm thấu của LKGM-E được thể hiện ở bảng 3.26
Bảng 3.26. Áp suất thẩm thấu của các dung dịch sau thủy phân bằng enzym
C(g/100ml) Π Π/C
0,025 2,82 112,8
0,05 9,02 180,4
0,1 32,6 326
0,2 103,2 516
0,3 210,5 701,6
0,4 341,2 853
0,5 452,5 905
104
Hình 3.27. Đồ thị biểu diễn mối quan hệ giữa nồng độ (C) và Π/C của LKGM-E
Khối lượng phân tử trung bình của LKGM-E được tính theo công thức 2.7.
Da
d
C
KT
M
C
n 28,2051
)(848
lim
0
c
Kết quả thực nghiệm cho thấy, sản phẩm thủy phân LKGM-E có khối lượng
phân tử thấp hơn nhiều so với glucomannan ban đầu. Khối lượng phân tử của KGM
giảm từ 1.598 kDa xuống còn 2.051,28 Da.
Điều kiện tối ưu cho phản ứng thuỷ phân tương tự như kết quả của Cheng-
YU Chen và cộng sự [23], tuy nhiên hiệu quả của quá trình thuỷ phân theo mô hình
thực nghiệm của chúng tôi thu được sản phẩm oligo-glucomannan có khối lượng
nhỏ hơn.
3.3.3.5. Độ tan và hiệu suất thu hồi LKGM-E
Konjac glucomannan có khả năng hòa tan trong nước (độ tan đạt 30%). Tuy
nhiên khi tan trong nước Konjac glucomannan có độ trương nở lớn tạo hỗn dịch có
độ nhớt cao vì vậy hạn chế nhiều ứng dụng của glucomannan. Độ tan theo quy trình
trong phần thực nghiệm là 92,5%, hiệu suất thu hồi 75,6%.
Độ tan và các tính chất của konjac glucomannan và sản phẩm thủy phân
được thể hiện ở bảng 3.27 .
105
Bảng 3.27. Độ tan và các tính chất của Konjac glucomannan và sản phẩm thủy phân
Loại mẫu (kDa) Độ tan (%) RM / G DA
Konjac glucomannan (KGM) 1.598 32 1,6 8
Konjac glucomannan thủy phân
bằng axit kết hợp siêu âm
(LKGM-1)
88,561 82,6 1,51 7,03
Konjac glucomannan thủy phân
bằng enzym (LKGM-E)
2,051 92,5 1,2 7,56
Như vậy, với điều kiện phản ứng tối ưu trên, phản ứng thủy phân
glucomannan với xúc tác enzym đã xảy ra, cắt đứt chọn lọc các liên kết glycosid thu
được sản phẩm oligo glucomannan có khối lượng không quá nhỏ (thu hồi được
75,6%). Kết quả thực nghiệm cho thấy sản phẩm thủy phân konjac glucomannan có
độ tan lớn hơn nhiều so với chất gốc ban đầu. Điều này có ý nghĩa trong việc ứng
dụng glucomannan trong các lĩnh vực thực phẩm và dược phẩm.
Giả thiết cơ chế thủy phân glucomanann được đề xuất như sau:
Sơ đồ: 3.2. Giả thiết cơ chế thủy phân glucomannan bằng endo-1,4-mannanase
106
Kết luận 3: Áp dụng phương pháp quy hoạch thực nghiệm loại kế hoạch bậc
hai Box-Behnken đã tìm được chế độ thủy phân tối ưu ở: nhiệt độ= 42,376oC, thời
gian = 5,681 giờ, pH = 7,241, tỉ lệ E/S = 0,536
LKGM-E được cấu tạo bởi các mắt xích D-mannose và D-glucose liên kết
với nhau bằng liên kết β-(1→ 4) glycosid, có khối lượng phân tử trung bình 2051,28
Da với hiệu suất thu hồi 75,6%. Tỷ lệ M/G là 1,2, độ acetyl hóa DA là 7,56 % và độ
tan 92,5%.
3.4. Hoạt tính hạ đường huyết của LKGM-E
3.4.1. Hoạt tính hạ đường huyết của LKGM-E trên mô hình in vitro
Để tìm hiểu về cơ chế làm hạ đường huyết của glucomannan thủy phân
chúng tôi tiến hành đánh giá tác dụng hoạt hóa của glucomannan và glucomannan
thủy phân đối với enzym AMPK. AMPK là một enzym quan trọng điều hòa năng
lượng của tế bào và được coi như một yếu tố chính tham gia điều hòa chuyển hóa
glucose và lipit ở nhiều cơ quan đặc biệt là cơ vân và gan [6]. Cơ vân là nơi tiêu thụ
glucose chủ yếu trong cơ thể.
Trên chuyển hóa glucose, AMPK tác dụng lên sự dung nạp glucose của cơ
vân thông qua cơ chế phụ thuộc và không phụ thuộc insulin (làm tăng biểu hiện của
gen mã hóa chất vận chuyển glucose vào tế bào cơ (GLUT-4) và hexokinase II, kích
thích tổng hợp glycogen trong cơ bằng cách hoạt hóa dị lập thể glucose–6–
phosphatase, hoạt hóa 2 enzym chính của chu trình axit citric là citrat synthase và
succinat dehydrogenase )
AMPK có liên quan đến rất nhiều yếu tố khác tham gia vào quá trình chuyển
hóa carbohydrat và lipit trong cơ thể. Nhờ vậy, hoạt hóa AMPK làm giảm tổng hợp
axit béo tự do và làm tăng quá trình oxy hóa trong ty thể do đó làm giảm nồng độ
axit béo tự do và cải thiện sự kháng insulin.
Để đánh giá tác dụng hoạt hóa AMPK của mẫu thử, các thí nghiệm thường
được thực hiện trên nguyên tắc đánh giá mức độ biểu hiện của pAMPK (AMPK đã
được phosphoryl hóa ở vị trí threonin 172) trên lô tế bào ủ với mẫu thử và so sánh
với lô chứng (không ủ với mẫu thử). Đây là một trong những phương pháp có độ
107
nhạy cao để đánh giá biểu hiện của một protein cụ thể trong tế bào được áp dụng
khá rộng rãi trong các nghiên cứu được công bố.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tác dụng hoạt hóa AMPK của glucomannan
thủy phân được tiến hành đánh giá trên tế bào cơ vân chuột nhắt nguyên phát
(C2C12) sau khi đã được biệt hóa thành tế bào trưởng thành bằng phương pháp
Western blot. Phương pháp Western blot (còn gọi l phương pháp thẩm tách miễn
dịch – immunobloting) là phương pháp định tính, định lượng protein dựa trên
nguyên tắc miễn dịch. Để xác định sự có mặt cũng như định lượng protein cụ thể
trong mẫu trước hết cần tiến hành điện di nhằm phân tách các protein thành các
băng protein trên bản gel. Các băng protein này được chuyển sang màng lai sau đó
xác định các protein dựa trên nguyên tắc miễn dịch. Đây là phương pháp hiện đại có
độ nhạy cao, phát hiện protein bằng phản ứng đặc hiệu kháng nguyên – kháng thể
tương ứng nên cho kết quả có độ tin cậy cao. Tỷ lệ tăng biểu hiện p-AMPK so với
beta-actin của lô tế bào ủ glucomannan so với lô chứng được thể hiện ở bảng 3.28.
Bảng 3.28: Tỷ lệ biểu hiện p-AMPK/ β-actin
Lô Mẫu
Số lần tăng biểu hiện p-AMPK của lô tế bào ủ
mẫu thử so với lô chứng
Lần 1 Lần 2 Lần 3 TB SD P
Chứng 1 1 1 1 1
AICAR AICAR 1,28 1,38 1,33 1,33 0,020 <0,01
m100 LKGM 100μg/ml 1,57 1,37 1,47 1,70 0,043 <0,05
m50 LKGM 50μg/ml 1,64 1,99 1,81 1,81 0,043 <0,05
m25 LKGM 25μg/ml 1,18 2,38 1,78 1,78 0,326 >0,05
m12,5 LKGM 12,5μg/ml 1,02 2,16 1,59 1,59 0,471 >0,05
p: so sánh với lô chứng tại cùng thời điểm
108
Hình 3.28: Số lần tăng mức độ biểu hiện p-AMPK của lô tế bào ủ với mẫu thử so
với lô chứng
(Phần đánh dấu * là mẫu có khác biệt thống kê so với lô chứng)
So sánh tỷ lệ mức độ biểu hiện p-AMPK/ β-actin của lô tế bào có ủ mẫu thử
với lô chứng (tế bào ủ với dung môi đã dùng để pha các mẫu thử: DMSO) để đánh
giá tác dụng hoạt hóa AMPK của mẫu thử.
Số lần tăng biểu hiện p-AMPK của lô tế bào ủ mẫu thử so với lô chứng được
tính bằng tỷ số giữa tỷ lệ mức độ biểu hiện p-AMPK/ β-actin của lô tế bào có ủ mẫu
thử và tỷ lệ mức độ biểu hiện p-AMPK/ β-actin của lô chứng. Chất đối chiếu được
sử dụng là Aicar.Thí nghiệm được lặp lại 3 lần. Hình ảnh mức độ biểu hiện p-
AMPK và actin thu được bằng kỹ thuật Western blot.
Hình ảnh mức độ biểu hiện p-AMPK và actin thu được bằng kỹ thuật
Western blot được thể hiện trên hình 3.29.
chứng Aicar m100 m50 m25 m12,5 m6,25
actin
p-AMPK
Hình 3.29. Hình ảnh mức độ biểu hiện p-AMPK và actin
109
Kết quả nghiên cứu cho thấy, ở cùng nồng độ mẫu thử 100 g/ml: tỷ lệ mức độ
biểu hiện của p-AMPK so với β-actin của mẫu thử LKGM-E và chất đối chiếu là
AICAR đều tăng cao hơn rõ rệt so với lô chứng (tế bào ủ với dung môi đã dùng để
pha mẫu thử là DMSO). Ở mẫu ủ với LKGM-E nồng độ 100μg/ml và nồng độ
50μg/ml có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê so với lô chứng (P<0,05). Ở các nồng
độ thấp hơn 25μg/ml và nồng độ 12,5μg/ml không có sự khác biệt thống kê so với
lô chứng (P>0,05). Điều đó chứng tỏ LKGM-E nồng độ 100μg/ml và nồng độ
50μg/ml có khả năng hoạt hóa enzym AMPK. Ở các nồng độ thấp hơn sự hoạt hóa
enzym AMPK là không rõ ràng.
Kết luận 4: LKGM-E ở các nồng độ 100μg/ml và nồng độ 50 μg/ml làm
tăng đáng kể mức độ biểu hiện của p-AMPK (lần lượt là 1,47 lần và 1,81 lần so với
lô chứng, p<0,05). LKGM-E ở nồng độ thấp hơn 25 g/ml, 12,5 g/ml và 6,25
g/ml không làm tăng mức độ biểu hiện của p-AMPK so với lô chứng. Điều đó
chứng tỏ LKGM-E nồng độ 100μg/ml và nồng độ 50μg/ml có khả năng hoạt hóa
enzym AMPK.
3.4.2. Tác dụng ức chế dung nạp glucose của LKGM-E trên mô hình in vivo
Từ kết quả in vitro cho thấy LKGM-E có khả năng hoạt hóa enzym AMPK.
Để đánh giá khả năng kích thích sự dung nạp và hấp thu glucose ở chuột nhắt trắng
của glucomannan thủy phân, chúng tôi đánh giá quá trình hấp thu và dung nạp
glucose của chuột nhắt trắng bằng nghiệm pháp dung nạp glucose đường uống. Thử
khả năng dung nạp glucose là một nghiệm pháp thường được dùng trong các nghiên
cứu gần đây ở Việt Nam và trên thế giới. Trong nghiên cứu này tập trung vào khả
năng dung nạp glucose của chuột nhắt trắng, một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá tác
dụng của thuốc điều trị tiểu đường.
Tác dụng giảm dung nạp glucose của LKGM-E
Ảnh hưởng của sản phẩm LKGM-E đến khả năng dung nạp glucose được thể
hiện thông qua sự biến đổi nồng độ glucose huyết của chuột ở thời điểm 30 phút, 60
phút, 90 phút sau khi uống glucose liều 2g/kg thể trọng. Glucose huyết trung bình ở
các thời điểm trước và sau cho uống glucose được trình bày trong bảng 3.29.
110
Bảng 3.29. Glucose huyết ban đầu và sau khi uống glucose
Tên lô Ban đầu
Thời điểm sau uống glucose
t = 0 t = 30 phút t = 60 phút t = 120 phút
Lô 1 (ĐC) 4,51 ± 0,51 3,98 ± 0,44 5,32 ± 0,14 5,02 ±0.25 4,12 ± 0,25
Lô2
LKGM-E (3g/kg)
4,42 ± 0,51
3,53 ± 0,34
P>0,05
5,58 ± 0,24
P>0,05
5,17 ± 0,31
p>0,05
4,04 ± 0,41
p>0,05
Lô3
LKGM-E (6g/kg)
4,28 ± 0,59
3,22 ± 0,43
P>0,05
5,35 ± 0,55
P<0,05
5,05 ± 0,43
P<0,05
4,18 ± 0,55
P>0,05
Lô 4 Glucomannan
(6g/kg)
4,38 ± 0,28
3,58 ± 1,14
P>0,05
5,55 ± 0,32
P>0,05
5,12 ± 0,23
P<0,05
4,10 ± 0,23
p>0,05
Lô 5 Glyclazid (10
mg/kg)
4,4 ± 0,62
3,17 ± 0,51
P<0,01
4,06 ± 0,11
P<0,01
3,74 ± 0,29
P<0,01
3,17 ± 0,66
P<0,01
p: so sánh với lô chứng tại cùng thời điểm
Tỷ lệ phần trăm tăng glucose huyết tại thời điểm uống glucose và sau khi
uống glucose 30 phút so với thời điểm ban đầu được trình bày trong hình 3.30
Hình 3.30. Tỷ lệ phần trăm tăng glucose huyết trước và sau 30 phút cho uống
glucose so với thời điểm ban đầu
(Phần đánh dấu * là mẫu có khác biệt thống kê so với lô chứng)
111
Từ kết quả bảng 3.29 và đồ thị hình 3.30 cho thấy, tại thời điểm mới cho
uống glucose, do đã được uống chế phẩm trước 2 giờ và để nhịn đói nên tất cả các
lô đều có hàm lượng glucose giảm. Lô uống gliclazide có độ hạ glucose huyết mạnh
hơn rõ rệt so với lô chứng (P<0,01) vì đây là thuốc hạ glucose huyết theo cơ chế:
kích thích tế bào beta đảo tụy tăng tiết insulin thông qua việc làm tăng độ nhạy cảm
của các tế bào này với glucose. Tác dụng hạ glucose của các lô cho uống chế phẩm
glucomannan và glucomannan thủy phân không khác biệt so với lô chứng. Thời
điểm 30 phút sau khi cho uống glucose, vì đã uống glucose được 30 phút (2g/kg thể
trọng) nên tỷ lệ % glucose huyết tăng ở tất cả các lô. Điều này là phù hợp với sự
hấp thu glucose của cơ thể. Sau khi uống glucose được hấp thụ qua thành ruột vào
máu rất nhanh nên hàm lượng glucose trong máu tăng dần và đạt nồng độ cao nhất
trong máu sau khi uống 30 phút ở tất cả các mẫu thử nghiệm.
Ở thời điểm này các lô thứ 3 thứ 4 và thứ 5 có tỷ lệ % tăng glucose huyết
thấp hơn so với lô 1 (lô đối chứng), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P≤ 0,05).
Điều này có thể thấy các chế phẩm glucomannan thủy phân với liều 6g/kg cân nặng
có khả năng giảm dung nạp glucose ở ruột. Điều này được giải thích do
glucomannan là chất xơ hòa tan có độ nhớt cao, khả năng trương nở lớn làm tăng
cảm giác no và làm giảm hấp thu đường huyết giúp ổn định đường huyết. Kết quả
nghiên cứu cho phép giải thích ứng dụng chủ yếu của glucomannan tại các nước
phát triển như Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ và các nước Châu Âu đã sử dụng
glucomannan như một loại thực phẩm ăn kiêng cho những người mắc bệnh về
chuyển hóa như tiểu đường, mỡ máu và béo phì.
Ảnh hưởng của LKGM-E trên khả năng dung nạp glucose
Sau khi uống glucose được hấp thụ trực tiếp vào máu qua thành ruột. Hàm
lượng glucose huyết tăng dần sau khi uống. Sau đó glucose được chuyển hóa một
phần dự trữ trong gan dưới dạng glycogen, một phần vận chuyển vào các tế bào để
chuyển hóa glucose tạo năng lượng cho hoạt động của tế bào theo ba con đường:
con đường đường phân biến glucose thành pyruvat, con đường hexose
monophotphat và con đường tạo axit glucuronic và axit ascorbic. Hàm lượng
glucose huyết giảm dần, tốc độ giảm phụ thuộc vào quá trình thoái hóa glucose. Để
112
hạ glucose huyết ngoài việc giảm hấp thu còn một biện pháp khác là tăng khả năng
dung nạp glucose ở tế bào. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của KGM và LKGM-E
đến khả năng dung nạp glucose được trình bày ở và hình 3.31.
Hình 3.31. Glucose huyết trước và sau khi cho uống LKGM-E và KGM
Thời điểm 60 phút và 120 phút sau khi uống glucose, ở tất cả các lô hàm
lượng glucose máu đều giảm so với ban đầu. Điều này là phù hợp với quá trình
chuyển hoá glucose, sau khi đi vào máu glucose được chuyển hóa một phần thành
glycogen dự trữ ở gan, một phần chuyển đến các tế bào để chuyển hóa thành năng
lượng vì vậy hàm lượng glucose máu đều giảm. Ở lô thứ 5, chuột được cho uống
thuốc glyclazide là thuốc hạ đường huyết nên tỷ lệ % hạ glucose huyết mạnh nhất.
Các lô thứ 3,4, được cho uống chế phẩm glucomannan và glucomannan thủy phân
hàm lượng 6g/kg có tỷ lệ % hạ glucose huyết lớn hơn so với lô 1, khác biệt có ý
nghĩa P<0,05. Điều này chứng tỏ các chế phẩm từ glucomannan với liều 6g/kg
ngoài việc có tác dụng làm giảm sự dung nạp glucose ở ruột còn có khả năng kích
thích sự chuyển hóa tiêu thụ glucose. Tại thời điểm 60 phút và 120 phút sau khi
uống glucose tỷ lệ % hạ glucose huyết ở lô uống glucomannan thủy phân với liều
3g/kg thể trọng không khác biệt so với lô chứng (P>0,05%), điều đó chứng tỏ khả
năng kích thích sự dung nạp glucose ở liều 3g/kg thể trọng của glucomannan thủy
phân không hiệu quả.
113
Tại thời điểm 60 phút và 120 phút sau khi uống glucose, tỷ lệ hạ glucose
huyết ở lô uống glucomannan thủy phân cao hơn so với lô uống glucomannan cùng
liều lượng 6g/kg cân nặng. Khác biệt này có ý nghĩa thống kê với P<0,05. Điều này
chứng tỏ sản phẩm thủy phân có khả năng kích thích sự dung nạp glucose tốt hơn so
với glucomannan ban đầu. Kết quả này phù hợp với kết quả thực nghiệm trên in
vivo. Vì LKGM-E có khả năng hoạt hóa enzym AMPK là enzym hoạt hóa kích
thích các quá trình sinh ra năng lượng như: tăng quá trình photphoryl hóa [84]–[88.
Chính vì vậy lượng glucose khi hấp thu vào máu được vận chuyển nhiều vào tế bào
và chuyển hóa thành Glucose-6-phosphat được đốt cháy tạo năng lượng cung cấp
cho các hoạt động của tế bào.
Bên cạnh đó, các nghiên cứu còn chỉ ra rằng, việc hoạt hóa enzym AMPK có
khả năng thúc đẩy quá trình tạo glycogen ở gan. Vì vậy, glucomannan thủy phân có
khả năng hoạt hóa enzym AMPK nên khi glucose được hấp thu vào máu, hàm
lượng glucose tham gia vào quá trình tạo glycogen dự trữ ở gan tăng lên làm lượng
glucose đi vào máu giảm làm giảm glucose huyết. Ngoài ra glucomannan còn có
tiềm năng trong việc hạ cholesterol máu. Điều này có ý nghĩa trong việc tạo ra các
chế phẩm cho người mắc các bệnh về chuyển hóa.
Kết luận 5: Bước đầu nghiên cứu ảnh hưởng của glucomannan và
glucomannan thủy phân đến khả năng hấp thụ và dung nạp glucose trên chuột nhắt
trắng. Glucomannan và glucomannan thủy phân được sử dụng với liều 3g/kg cân
nặng và 6g/kg cân nặng. Kết quả cho thấy ở lô chuột uống glucomannan và
glucomannan thủy phân với liều 3g/kg cân nặng khả năng hấp thụ và dung nạp
glucose đều không có khác biệt so với lô chứng.
Nồng độ glucose ở lô uống Glucomannan thủy phân với liều 6g/kg cân nặng
khác biệt có ý nghĩa thống kê so với lô chứng. Điều đó cho thấy glucomannan thủy
phân có khả năng làm giảm sự hấp thu glucose ở ruột. Trong đó glucomannan thủy
phân có khả năng kích thích sự dung nạp glucose tốt hơn so với glucomannan, khác
biệt này có ý nghĩa thống kê (P<0,05).
114
KẾT LUẬN CHUNG
Từ các kết quả thu được, chúng tôi rút ra các kết luận chung sau:
1. Đã tách, tinh chế và xác định được cấu trúc, tính chất của glucomannan từ
củ nưa A.konjac ( Amorphophallus Konjac K.Koch):
- Hàm lượng glucomannan trong củ A.konjac K.Koch tại Lâm Đồng, Việt
Nam là 12,26% trong củ tươi. Bột KGM đạt độ sạch 92%, hàm lượng tro 4,17%, độ
hút ẩm 9%, hàm lượng Asen 0,208 ppm, hàm lượng chì 0,184 ppm.
- Glucomannan tách từ cây A.konjac có cấu trúc vô định hình, được cấu tạo
bởi các mắt xích D-mannose và D-glucose liên kết với nhau bằng liên kết β-(1→ 4)
glycosid, phân nhánh tại vị trí C6, tỷ lệ manose/glucose là 1,6/1, độ axetyl hóa ≈8%,
độ tan 32%, khối lượng phân tử 1.598 kDa.
2. Đã nghiên cứu phản ứng thủy phân KGM xúc tác axit và xác định được
cấu trúc tính chất của sản phẩm LKGM-1:
- Phản ứng thủy phân glucomannan bằng hỗn hợp axit thực hiện ở điều kiện:
tỷ lệ KGM/dd axit: 1/10 (g/ml); [HCl] 0,15M; CH3COOH 10%; nhiệt độ phản ứng
50oC; thời gian phản ứng 6 giờ khi không kết hợp sóng siêu âm và trong 4 giờ khi
có kết hợp sóng siêu âm.
- LKGM-1 có khối lượng phân trung bình 88,561 kDa, độ tan trong nước
82,6%. LKGM-1 cấu tạo bởi các mắt xích D-mannose và D-glucose liên kết với
nhau bằng liên kết β-(1→ 4) glycosid , tỷ lệ M/G là 1,51, DA của LKGM-1 là
7,03%.
3. Đã nghiên cứu phản ứng thủy phân KGM xúc tác enzym β-mannanase và
xác định được cấu trúc tính chất của sản phẩm LKGM-E.
- Bằng phương pháp quy hoạch thực nghiệm loại kế hoạch bậc hai Box-
Behnken đã tìm được chế độ thủy phân tối ưu ở: nhiệt độ= 42,376oC, thời gian =
5,681 giờ, pH = 7,241, tỉ lệ E/S = 0,536.
115
- LKGM-E được cấu tạo bởi các mắt xích D-mannose và D-glucose liên kết
với nhau bằng liên kết β-(1→ 4) glycosid, có khối lượng phân tử trung bình 2051,28
Da với hiệu suất thu hồi 75,6%. Tỷ lệ M/G là 1,2, độ acetyl hóa DA là 7,56 % và độ
tan 92,5%.
4. Đã nghiên cứu được khả năng hoạt hóa enzym AMPK của LKGM-E:
LKGM-E ở các nồng độ 100μg/ml và nồng độ 50μg/ml có khả năng hoạt hóa
enzym AMPK. Mức độ biểu hiện của p-AMPK ở nồng độ 100μg/ml là 1,47 lần và
ở nồng độ 50μg/ml là 1,81 lần so với lô chứng (p<0,05)
5. Đã đánh giá được ảnh hưởng của KGM và LKGM-E đến khả năng dung
nạp glucose của chuột nhắt trắng.
LKGM-E với liều 6g/kg cân nặng có khả năng làm giảm sự hấp thu glucose
ở ruột (p<0,05). Glucomannan thủy phân có khả năng kích thích sự dung nạp
glucose tốt hơn so với glucomannan (p<0,05).
Với các kết quả nhận được của nghiên cứu cho thấy glucomannan từ cây
Amorphophallus konjac K.Koch và sản phẩm thủy phân của nó có nhiều tiềm năng
ứng dụng, đặc biệt là trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.
116
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN
ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
1. Do Truong Thien, Tran Thi Nu, Nguyen Hong Vinh, “Preparation of Low
Molecular Weight Glucomannan from A. Konjac K. Koch in Vietnam by Enzyme
Catalyzed Hydrolysis Reaction and its Prospective use to Lower Blood Sugar
Levels”, Academic journal of polymer science, Volume 2 - issue 2- January 2019.
2. Tran Thi Nu, Tran Thi Y Nhi, Do Truong Thien, “Chemical structure of Konjac
glucomannano oligosaccharides prepared by endo-1-4 β mannanase” Tạp chí Hóa
học, Vol 57 (4e3,4), p.291-295, 2019.
3. Tran Thi Y Nhi, Tran Thi Nu, Do Truong Thien, Lai Thi Thuy, Le Thi Thanh
Ha, Pham Thi Bich Hanh, Le Quang Tuan, Trinh Duc Cong, “Response surface
methodology for hydorolysis parameter optimization of Konjac glucomannan using
endo-1,4 β mannanase” Tạp chí Hóa học, Vol 57 (4e3,4), p.296-300, 2019.
4. Trần Thị Nữ, Trần Thị Ý Nhi, Đỗ Trường Thiện, Phạm Thị Bích Hạnh,
“Nghiên cứu phản ứng thủy phân glucomannan bằng axit kết hợp sử dụng sóng siêu
âm và khảo sát cấu trúc của sản phẩm”, Tạp chí Hóa học, 54 (6e1), trang 61-66,
2016
5. Nguyen Van Minh Khoi, Do Truong Thien, Le Minh Ha, Tran Van Thanh, Le
Ngoc Hung, Tran Thi Nu, “New lab-scale process for producing glucomannan flour
from Amorphophallus plant in Viet Nam and their characterization, part 2”,
proceedings of scientific workshop on progress and trends in science and
technology, p.225-232, 2016.
6. Trần Thị Ý Nhi, Trần Thị Nữ, Lại Thị Thúy, Đỗ Trường Thiện, Nguyễn Văn
Dư, Phạm Thị Bích Hạnh, “Nghiên cứu cấu trúc hóa học của glucomannan từ củ
cây Nưa Amorphophallus konjac K. Koch thu tại Hà Giang Việt Nam”, Tạp chí Hóa
học 52(6A), p.228-232, 2014
117
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[[1] K. Katsuraya, K. Okuyama, K. Hatanaka, R. Oshima, T. Sato, and K.
Matsuzaki, “Constitution of konjac glucomannan: Chemical analysis and 13C
NMR spectroscopy” Carbohydr. Polym., vol. 53, no. 2, pp. 183–189, 2003.
[2] S. S. Behera and R. C. Ray, “Konjac glucomannan, a promising
polysaccharide of Amorphophallus konjac K. Koch in health care” Int. J. Biol.
Macromol., vol. 92, pp. 942–956, 2016.
[3] M. Alonso-Sande, D. Teijeiro-Osorio, M. J. Alonso, “Glucomannan, a
promising polysaccharide for biopharmaceutical purposes” Eur. J. Pharm.
Biopharm., vol. 72, no. 2, pp. 453–462, 2009.
[4] M. Chua, T. C. Baldwin, T. J. Hocking, and K. Chan, “Traditional uses and
potential health benefits of Amorphophallus konjac K. Koch ex N.E.Br.” J.
Ethnopharmacol., vol. 128, no. 2, pp. 268–278, 2010.
[5] C. Zhang, J. Da Chen, and F. Q. Yang, “Konjac glucomannan, a promising
polysaccharide for OCDDS” Carbohydr. Polym., vol. 104, no. 1, pp. 175–181,
2014.
[6] N. V. Dư, “Nghiên cứu trồng và phát triển cây Nưa konjac (Amorphoph-allus)
và một số loài khác trong chi Nưa (họ Ráy – Araceae) ở Việt Nam hướng tới
việc lấy củ làm nguyên liệu sản xuất thực phẩm chức năng và thuốc điều trị
bệnh tiểu đường, mỡ máu và béo phì” Báo cáo tổng kết đề tài cấp Viện Hàn
lâm khoa học và Công nghệ Việt Nam, 2012.
[7] V. Dave, M. Sheth, S. P. Mccarthy, J. Ann, and D. L. Kaplan, “Liquid
crystalline, rheological and thermal properties of konjac glucomannan” vol.
39, no. 5, pp. 1139–1148, 1998.
[8] J. Liu et al., “Preparation, composition analysis and antioxidant activities of
konjac oligo-glucomannan” Carbohydr. Polym., vol. 130, pp. 398–404, 2015.
[9] R. F. Tester and F. H. Al-Ghazzewi, “Beneficial health characteristics of
native and hydrolysed konjac (Amorphophallus konjac) glucomannan” J. Sci.
Food Agric., vol. 96, no. 10, pp. 3283–3291, 2016.
[10] M. Jiang, H. Li, J.-S. Shi, and Z.-H. Xu, “Depolymerized konjac
glucomannan: preparation and application in health care *” J Zhejiang Univ-
Sci B (Biomed Biotechnol), vol. 19, no. 7, pp. 505–514, 2018.
[11] L. John and A. Jeffery, “Beneficial effects of viscous dietary fiber from
Konjac-mannan in Subjects With the Insulin Resistance Syndrome” vol. 23,
no. 1, pp. 9–14, 2000.
[12] J. Liu, Y. Zhang, Y. Yin, F. Peng, P. Cai, and S. Yang, “Controlled acid
hydrolysis and acetylation of glucomannans as drug carriers with designed
pharmacokinetic behaviors” J. Control. Release, vol. 152, no. 2011, pp. e61–
e62, 2011.
[13] C. T. Bishop, “Enzymic hydrolysis of a glucomannan from Jack Pine (Pinus
banksiana Lamb)’ For personal use only. The constitutions of glucomannans
118
from a variety of softwoods have been studied extensively during the past 10
years and much of this work has been summa” vol. 39, no. 6205, 1961.
[14] K. Kato and K. Matsuda, “Studies on the Chemical Structure of Konjac
Mannan: Part I. Isolation and Characterization of Oligosaccharides from the
Partial Acid Hydrolyzate of the Mannan” Agric. Biol. Chem., vol. 33, no. 10,
pp. 1446–1453, 1969.
[15] P. Cescutti, C. Campa, F. Delben, and R. Rizzo, “Structure of the oligomers
obtained by enzymatic hydrolysis of the glucomannan produced by the plant
Amorphophallus konjac” Carbohydr. Res., vol. 337, no. 24, pp. 2505–2511,
2002.
[16] G. Li, L. Qi, A. Li, R. Ding, and M. Zong, “Study on the kinetics for
enzymatic degradation of a natural polysaccharide, Konjac glucomannan”
Macromol. Symp., vol. 216, pp. 165–178, 2004.
[17] S. Albrecht, M. G. C. J. van, J. Xu, H. A. Schols, A. G. J. Voragen, and H.
Gruppen, “Enzymatic production and characterization of konjac glucomannan
oligosaccharides” J. Agric. Food Chem., vol. 59, no. Copyright (C) 2012
American Chemical Society (ACS). All Rights Reserved., pp. 12658–12666,
2011.
[18] X. Luo, X. Yao, C. Zhang, X. Lin, and B. Han, “Preparation of mid-to-high
molecular weight konjac glucomannan (MHKGM) using controllable
enzyme-catalyzed degradation and investigation of MHKGM properties” J.
Polym. Res., vol. 19, no. 4, 2012.
[19] F. H. Al-Ghazzewi and R. F. Tester, “Efficacy of cellulase and mannanase
hydrolysates of konjac glucomannan to promote the growth of lactic acid
bacteria” J. Sci. Food Agric., vol. 92, no. 11, pp. 2394–2396, 2012.
[20] J. Chen, D. Liu, B. Shi, H. Wang, Y. Cheng, and W. Zhang, “Optimization of
hydrolysis conditions for the production of glucomanno-oligosaccharides
from konjac using β-mannanase by response surface methodology”
Carbohydr. Polym., vol. 93, no. 1, pp. 81–88, 2013.
[21] J. Liu, N. Li, P. Cai, and S. Yang, “Kinetics of the enzymatic hydrolysis of
glucomannan from Bletilla striata by β-mannanase” J. Control. Release, vol.
172, no. 1, p. e40, 2013.
[22] A. Mikkelson, H. Maaheimo, and T. K. Hakala, “Hydrolysis of konjac
glucomannan by Trichoderma reesei mannanase and endoglucanases Cel7B
and Cel5A for the production of glucomannooligosaccharides” Carbohydr.
Res., vol. 372, pp. 60–68, 2013.
[23] C. Y. Chen, Y. C. Huang, T. Y. Yang, J. Y. Jian, W. L. Chen, and C. H. Yang,
“Degradation of konjac glucomannan by Thermobifida fusca thermostable β-
mannanase from yeast transformant” Int. J. Biol. Macromol., vol. 82, pp. 1–6,
2016.
[24] W. Jian et al., “Study on preparation and separation of Konjac
oligosaccharides” Carbohydr. Polym., vol. 92, no. 2, pp. 1218–1224, 2013.
119
[25] H. L. Chen, Y. H. Fan, M. E. Chen, and Y. Chan, “Unhydrolyzed and
hydrolyzed konjac glucomannans modulated cecal and fecal microflora in
Balb/c mice” Nutrition, vol. 21, no. 10, pp. 1059–1064, 2005.
[26] L. H. Cheng, H. Nur Halawiah, B. N. Lai, H. M. Yong, and S. L. Ang,
“Ultrasound mediated acid hydrolysis of konjac glucomannan” Int. Food Res.
J., vol. 17, no. 4, pp. 1043–1050, 2010.
[27] W. Jin et al., “Degraded konjac glucomannan by ??-ray irradiation assisted
with ethanol: Preparation and characterization” Food Hydrocoll., vol. 36, pp.
85–92, 2014.
[28] W. Jin et al., “Synergistic degradation of konjac glucomannan by alkaline and
thermal method” Carbohydr. Polym., vol. 99, pp. 270–277, 2014.
[29] R. P. Millane and T. L. Hendrixson, “Crystal structures of mannan and
glucomannans” Carbohydr. Polym., vol. 25, no. 4, pp. 245–251, 1994.
[30] L. Huang, R. Takahashi, S. Kobayashi, T. Kawase, and K. Nishinari,
“Gelation behavior of native and acetylated konjac glucomannan”
Biomacromolecules, vol. 3, no. 6, pp. 1296–1303, 2002.
[31] J. Y. Liu, H. C. Wang, Y. Yin, N. Li, P. L. Cai, and S. L. Yang, “Controlled
acetylation of water-soluble glucomannan from Bletilla striata” Carbohydr.
Polym., vol. 89, no. 1, pp. 158–162, 2012.
[32] B. Herranz, A. J. Borderias, B. Solo-de-Zald??var, M. T. Solas, and C. A.
Tovar, “Thermostability analyses of glucomannan gels. Concentration
influence” Food Hydrocoll., vol. 29, no. 1, pp. 85–92, 2012.
[33] B. Herranz, C. A. Tovar, B. Solo-de-Zaldívar, and A. J. Borderias, “Influence
of alkali and temperature on glucomannan gels at high concentration” LWT -
Food Sci. Technol., vol. 51, no. 2, pp. 500–506, 2013.
[34] X. Du, J. Li, J. Chen, and B. Li, “Effect of degree of deacetylation on
physicochemical and gelation properties of konjac glucomannan” Food Res.
Int., vol. 46, no. 1, pp. 270–278, 2012.
[35] C. Wang, M. Xu, W. Lv, P. Qiu, Y. Gong, and D. Li, “Study on Rheological
Behavior of Konjac Glucomannan” 2012 Int. Conf. Med. Phys. Biomed. Eng.,
vol. 33, pp. 25–30, 2012.
[36] B. Herranz, C. A. Tovar, B. Solo-de-Zaldívar, and A. J. Borderias, “Effect of
alkalis on konjac glucomannan gels for use as potential gelling agents in
restructured seafood products” Food Hydrocoll., vol. 27, no. 1, pp. 145–153,
2012.
[37] J. Wang, C. Liu, Y. Shuai, X. Cui, and L. Nie, “Controlled release of
anticancer drug using graphene oxide as a drug-binding effector in konjac
glucomannan/sodium alginate hydrogels” Colloids Surfaces B Biointerfaces,
vol. 113, pp. 223–229, 2014.
[38] K. Wang and Z. He, “Alginate-konjac glucomannan-chitosan beads as
controlled release matrix” Int. J. Pharm., vol. 244, no. 1–2, pp. 117–126,
2002.
120
[39] S. Gao, J. Guo, and K. Nishinari, “Thermoreversible konjac glucomannan gel
crosslinked by borax” Carbohydr. Polym., vol. 72, no. 2, pp. 315–325, 2008.
[40] M. Xu et al., “Comparative study on molecular weight of konjac
glucomannan by gel permeation chromatography-laser light scattering-
refractive index and laser light-scattering methods” J. Spectrosc., vol. 1, no. 1,
pp. 2–6, 2013.
[41] B. Li and B. J. Xie, “Single molecular chain geometry of konjac glucomannan
as a high quality dietary fiber in East Asia” Food Res. Int., vol. 39, no. 2, pp.
127–132, 2006.
[42] F. Liu, X. Luo, and X. Lin, “Adsorption of tannin from aqueous solution by
deacetylated konjac glucomannan” J. Hazard. Mater., vol. 178, no. 1–3, pp.
844–850, 2010.
[43] F. Liu et al., “Removal of copper(II) using deacetylated konjac glucomannan
conjugated soy protein isolate” Int. J. Biol. Macromol., vol. 86, pp. 338–344,
2016.
[44] B. Solo-de-Zaldívar, C. A. Tovar, A. J. Borderías, and B. Herranz, “Effect of
deacetylation on the glucomannan gelation process for making restructured
seafood products” Food Hydrocoll., vol. 35, pp. 59–68, 2014.
[45] X. Lin, Q. Wu, X. Luo, F. Liu, X. Luo, and P. He, “Effect of degree of
acetylation on thermoplastic and melt rheological properties of acetylated
konjac glucomannan” Carbohydr. Polym., vol. 82, no. 1, pp. 167–172, 2010.
[46] C. Niu, W. Wu, Z. Wang, S. Li, and J. Wang, “Adsorption of heavy metal
ions from aqueous solution by crosslinked carboxymethyl konjac
glucomannan” J. Hazard. Mater., vol. 141, no. 1, pp. 209–214, 2007.
[47] L. G. Chen, Z. L. Liu, and R. X. Zhuo, “Synthesis and properties of
degradable hydrogels of konjac glucomannan grafted acrylic acid for colon-
specific drug delivery” Polymer (Guildf)., vol. 46, no. 16, pp. 6274–6281,
2005.
[48] J. L. Slavin, “Dietary fiber and body weight” Nutrition, vol. 21, no. 3, pp.
411–418, 2005.
[49] C. D. Jensen, W. Haskell, and J. H. Whittam, “Long-term effects of water-
soluble dietary fiber in the management of hypercholesterolemia in healthy
men and women” Am. J. Cardiol., vol. 79, no. 1, pp. 34–7, 1997.
[50] S. Chearskul et al., “Immediate and long-term effects of glucomannan on
total ghrelin and leptin in type 2 diabetes mellitus” Diabetes Res. Clin. Pract.,
vol. 83, no. 2, pp. 2008–2010, 2009.
[51] H.-L. Chen, W. H.-H. Sheu, T.-S. Tai, Y.-P. Liaw, and Y.-C. Chen, “Konjac
supplement alleviated hypercholesterolemia and hyperglycemia in type 2
diabetic subjects--a randomized double-blind trial” J. Am. Coll. Nutr., vol. 22,
no. 1, pp. 36–42, 2003.
[52] B. Li et al., “Health benefits of konjac glucomannan with special focus on
diabetes” Bioact. Carbohydrates Diet. Fibre, vol. 5, no. 2, pp. 179–187, 2015.
121
[53] B. M. Zalewski, A. Chmielewska, and H. Szajewska, “The effect of
glucomannan on body weight in overweight or obese children and adults: A
systematic review of randomized controlled trials” Nutrition, vol. 31, no. 3,
pp. 437–442, 2015.
[54] M. F. Mccarty, “Glucomannan minimizes the postprandial insulin surge: a
potential adjuvant for hepatothermic therapy” Scand. J. Gastroenterol. Suppl.,
vol. 58, pp. 487–490, 2002.
[55] N. Sood, W. L. Baker, and C. I. Coleman, “Effect of glucomannan on plasma
lipid and glucose concentrations, body weight, and blood pressure: systematic
review and meta-analysis” Am. J. Clin. Nutr., vol. 88, no. 4, pp. 1167–1175,
2008.
[56] I. Peter et al., “Compositions containing alginate and gums to improve
bioadhesive properties for treatment of disorders of the esophagus” vol. 1, no.
12, 2003.
[57] Y. Q. Zhang, B. J. Xie, and X. Gan, “Advance in the applications of konjac
glucomannan and its derivatives” Carbohydrate Polymers. 2005.
[58] Trần Thị Ý Nhi, “Nghiên cứu quy trình tách chiết, cấu trúc hóa học và hoạt
tính sinh học của glucomannan từ cây Nưa-Amorphophallus sp. (họ ráy -
Araceae)”, Báo cáo tổng kết đề tài cấp Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ
Việt Nam, 2014.
[59] W. Xu et al., “A simple and feasible approach to purify konjac glucomannan
from konjac flour - Temperature effect” Food Chem., vol. 158, pp. 171–176,
2014.
[60] W. Fang and P. Wu, “Variations of Konjac glucomannan (KGM) from
Amorphophallus konjac and its refined powder in China” Food Hydrocoll.,
vol. 18, no. 1, pp. 167–170, 2004.
[61] F. Zhu, “Modifications of konjac glucomannan for diverse applications” Food
Chem., vol. 256, no. September 2017, pp. 419–426, 2018.
[62] M. Chua, K. Chan, T. J. Hocking, P. A. Williams, C. J. Perry, and T. C.
Baldwin, “Methodologies for the extraction and analysis of konjac
glucomannan from corms of Amorphophallus konjac K. Koch” Carbohydr.
Polym., vol. 87, no. 3, pp. 2202–2210, 2012.
[63] J. Zhao, D. Zhang, G. Srzednicki, S. Kanlayanarat, and C.
Borompichaichartkul, “Development of a low-cost two-stage technique for
production of low-sulphur purified konjac flour” Int. Food Res. J., vol. 17, no.
4, pp. 1113–1124, 2010.
[64] The Ministry of the People’s Republic of China, “Professional standard of the
People”, Republic of China for konjac flour, 2002.
[65] S. L. Yeh, M. S. Lin, and H. L. Chen, “Partial hydrolysis enhances the
inhibitory effects of konjac glucomannan from Amorphophallus konjac C.
Koch on DNA damage induced by fecal water in Caco-2 cells” Food Chem.,
vol. 119, no. 2, pp. 614–618, 2010.
122
[66] T. Pan et al., “Synergetic degradation of konjac glucomannan by γ-ray
irradiation and hydrogen peroxide” Carbohydr. Polym., vol. 93, no. 2, pp.
761–767, 2013.
[67] Y. H. Mao, A. X. Song, Z. P. Yao, and J. Y. Wu, “Protective effects of
natural and partially degraded konjac glucomannan on Bifidobacteria against
antibiotic damage” Carbohydr. Polym., vol. 181, no. August 2017, pp. 368–
375, 2018.
[68] Y. Ni, D. Liu, J. Pang, W. Lin, C. Wu, and L. Wang, “Physicochemical
properties of degraded konjac glucomannan prepared by laser assisted with
hydrogen peroxide”, vol. 129. Elsevier B.V, 2019.
[69] Trần Đình Toại, Nguyễn Thị Vân Hải, “Động học các quá trình xúc tác sinh
học”, NXB Khoa học và Kỹ thuật, 2016, Hà Nội.pdf..
[70] Nguyễn Hữu Chấn, “Enzym và xúc tác sinh học”, Nxb Y học, 1983.
[71] S. Dhawan and J. Kaur, “Microbial mannanases: An overview of production
and applications” Crit. Rev. Biotechnol., vol. 27, no. 4, pp. 197–216, 2007.
[72] P. S. Chauhan, N. Puri, P. Sharma, and N. Gupta, “Mannanases: Microbial
sources, production, properties and potential biotechnological applications”
Appl. Microbiol. Biotechnol., vol. 93, no. 5, pp. 1817–1830, 2012.
[73] S. G. Withers, “Mechanisms of glycosyl transferases and hydrolases”
Carbohydr. Polym., vol. 44, no. 4, pp. 325–337, 2001.
[74] P. S. Chauhan and N. Gupta, “Insight into microbial mannosidases: a review”
Crit. Rev. Biotechnol., vol. 37, no. 2, pp. 190–201, 2017.
[75] W. Xia et al., “A novel glycoside hydrolase family 113 endo-β-1,4-
mannanase from Alicyclobacillus sp. strain A4 and insight into the substrate
recognition and catalytic mechanism of this family” Appl. Environ.
Microbiol., vol. 82, no. 9, pp. 2718–2727, 2016.
[76] P. K. Srivastava and M. Kapoor, “Production, properties, and applications of
endo-beta-mannanases” Biotechnol Adv, vol. 35, no. 1, pp. 1–19, 2016.
[77] W. H. van Zyl, S. H. Rose, K. Trollope, “Fungal β-mannanases: Mannan
hydrolysis, heterologous production and biotechnological applications”
Process Biochem., vol. 45, no. 8, pp. 1203–1213, 2010.
[78] M. N. Domingues et al., “Structural basis of exo--mannanase activity in the
GH2 family” J. Biol. Chem., vol. 293, no. 35, pp. 13636–13649, 2018.
[79] Y. Nakatani, S. M. Cutfield, N. P. Cowieson, and J. F. Cutfield, “Structure
and activity of exo-1,3/1,4-β-glucanase from marine bacterium
Pseudoalteromonas sp. BB1 showing a novel C-terminal domain” FEBS J.,
vol. 279, no. 3, pp. 464–478, 2012.
[80] M. Jiang et al., “Subchronic toxicity and genotoxicity assessment of low
molecular mass konjac mannan oligosaccharide in vitro and in vivo” Prog.
Biochem. Biophys., vol. 43, no. 3, pp. 271–280, 2016.
[81] Nguyễn Nghiêm Luật, “Hóa sinh- sách đào tạo Bac sỹ đa khoa”, NXB Y Học,
123
2012, Hà Nội.
[82] Tạ Thành Văn, “Hóa sinh lâm sàng- sách đào tạo đại học Y”, NXB Y học,
2013, Hà Nội.
[83] H. M. O’Neill, “AMPK and exercise: Glucose uptake and insulin sensitivity”
Diabetes Metab. J., vol. 37, no. 1, pp. 1–21, 2013.
[84] N. Musi, T. Hayashi, N. Fujii, M. F. Hirshman, L. A. Witters, and L. J.
Goodyear, “AMP-activated protein kinase activity and glucose uptake in rat
skeletal muscle” Am. J. Physiol. Metab., vol. 280, no. 5, pp. E677–E684,
2017.
[85] T. L. Scheffler, “AMP-activated Protein Kinase and Muscle Metabolism” vol.
1, pp. 337–345, 2012.
[86] A. Gruzman, G. Babai, and S. Sasson, “Adenosine monophosphate-activated
protein kinase (AMPK) as a new target for antidiabetic drugs: A review on
metabolic, pharmacological and chemical considerations” Rev. Diabet. Stud.,
vol. 6, no. 1, pp. 13–36, 2009.
[87] E. A. Richter and N. B. Ruderman, “AMPK and the biochemistry of exercise:
Implications for human health and disease” Biochem. J., vol. 418, no. 2, pp.
261–275, 2009.
[88] S. B. Jørgensen et al., “Role of AMPKα2 in basal, training-, and AICAR-
induced GLUT4, hexokinase II, and mitochondrial protein expression in
mouse muscle” Am. J. Physiol. - Endocrinol. Metab., vol. 292, no. 1, pp. 331–
339, 2007.
[89] Trần Thị Thùy Linh, “Thăm dò cơ chế tác dụng hạ đường huyết của phân
đoạn n-hexan rễ cây Chóc máu Nam trên mô hình nuôi cấy tế bào cơ vân
C2C12”, Luận văn Thạc sỹ Dược học, 2013.
[90] M. Foretz, B. Guigas, L. Bertrand, M. Pollak, and B. Viollet, “Metformin:
From mechanisms of action to therapies” Cell Metab., vol. 20, no. 6, pp. 953–
966, 2014.
[91] N. K. LeBrasseur et al., “Thiazolidinediones can rapidly activate AMP-
activated protein kinase in mammalian tissues” Am. J. Physiol. - Endocrinol.
Metab., vol. 291, no. 1, 2006.
[92] Nguyễn Tiến An, “Nghiên cứu thành phần hóa học, quy trình tách chiết, biến
tính hóa học và khả năng ứng dụng của glucomannan từ cử một số loài nưa
(Amorphophallus SP Araceae) ở Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ, Viện Hóa học,
Viện Khoa học và công nghệ Việt Nam, 2012.
[93] Lê Ngọc Hùng, “Nghiên cứu kỹ thuật trồng, phát triển một số loài thuộc chi
Nưa (Amorphophallus Blume Ex Decne) và quy trình công nghệ chế biến
glucomannan tại Tây Nguyên”, Báo cáo tổng hợp kết quả đề tài, Chương
trình Tây Nguyên 3, Viện Hàn lâm Khoa học và công nghệ, 2016.
[94] A. Einbu, H. Grasdalen, and K. M. Vårum, “Kinetics of hydrolysis of
chitin/chitosan oligomers in concentrated hydrochloric acid” Carbohydr. Res.,
vol. 342, no. 8, pp. 1055–1062, 2007.
124
[95] Gonotec, “OSMOMAT 090 User Guide Version1.0” GSG-Hof Reuchlinstr. 10-11
10553, Berlin Germany pp. 1055–1062, 2007.
[96] Kamesh R Ayasolla, Shailendra Giri, Avtar K Singh and Inderjit Singh*, "5-
aminoimidazole-4-carboxamide-1-beta-4-ribofuranoside (AICAR) attenuates
the expression of LPS- and Aβ peptide-induced inflammatory mediators in
astroglia", Journal of Neuroinflammation, 2:21 doi:10.1186/1742-2094-2-21,
2005