Các kết quả nghiên cứu trong luận án cho thấy các loài Cleistanthus và
Macaranga thuộc họ Thầu dầu là nguồn giàu có các hợp chất thiên
nhiên có cấu trúc hóa học và hoạt tính sinh học thú vị. Do đó nghiên
cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của 2 loài trên là một
hướng nghiên cứu có nhiều triển vọng.
183 trang |
Chia sẻ: toanphat99 | Lượt xem: 2353 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của 3 loài cây thuộc họ thầu dầu của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cis của nối đôi được thể hiện qua hằng số
tương tác J = 12,0 của 2 proton α và β. So sánh dữ liệu phổ NMR của
MKF2.2 và 3,4-dimetoxy-cis-stilben cho thấy chúng trùng nhau [61].
Hình 4.41: Cấu trúc hóa học của MKF2.2
Hợp chất 3,5-dimetoxy trans stilben (MKF8.1)
Hợp chất MKF8.1 được phân lập từ cặn chiết etyl axetat dưới dạng chất
dầu. Phổ khối va chạm electron EI-MS cho pic ion phân tử ở m/z 240 [M]+.
Phổ 1H-NMR của MKF8.1 gần tương tự như của hợp chất MKF2.2. Điểm
khác biệt giữa 2 hợp chất này trên phổ 1H-NMR là tín hiệu của của 2 proton α
và β ở δH 7,12 (d, J = 16,5 Hz) và 7,07 (d, J = 16,5 Hz) trong hợp chất
MKF8.1, đặc trưng cho cấu hình trans. Như vậy hợp chất MKF8.1 được xác
định là 3,4-dimetoxy-trans-stilben. Dữ liệu phổ NMR của hợp chất này trùng
khớp với tài liệu đã công bố cho 3,4-dimetoxy-trans-stilben [62].
131
Hình 4.42: Cấu trúc hóa học của MKF8.1
Hợp chất β-amyrin (MKF8.4)
Hợp chất MKF8.4 được phân lập từ cặn chiết etylaxetat dưới dạng chất
bột trắng. Điểm nóng chảy 197-198 oC. Phổ khối ESI-MS cho pic ion phân tử
proton hóa ở m/z 427 [M+H]+. Phổ proton của hợp chất MKF8.4 cho các pic
đặc trưng của hợp chất tritecpen khung olean với các tín hiệu singlet của 8
nhóm metyl bậc 4 ở δH 0,85, 0,94, 0,99, 1,01, 1,10, 1,11, 1,14, 1,17 và 1
proton olefinic ở δH 5,63 (H-12). Ngoài ra, tín hiệu triplet của proton ở δH 3,46
(t, J = 3,0 Hz, H-3) chứng tỏ H-3 ở vị trí equatorial. Hợp chất MKF8.4 được
xác định là β-amyrin với việc so sánh dữ liệu phổ NMR với các dữ liệu đã
được công bố trong tài liệu [63].
Hình 4.43: Cấu trúc hóa học của MKF8.4
Hợp chất axit 3,4-dihydroxy benzoic (MKFM 1.1)
Hợp chất MKFM1.1 được phân lập từ cặn chiết MeOH dưới dạng chất
bột màu nâu nhạt. Hợp chất MKFM1.1 có điểm nóng chảy 195-196 oC và có
pic ion giả phân tử ở m/z 153 [M-H]- trên phổ ESI-MS (negative). Phổ proton
của MKFM1.1 cho thấy sự có mặt của hệ vòng thơm ABX với 3 proton ở δH
6,82 (d, J = 8,0 Hz); 7,45 (dd, J = 2,0 ; 8,0 Hz) và 7,47 (d, J = 2,0 Hz,). Phân
tích phổ NMR và so sánh với các chất chuẩn có sẵn trong phòng thí nghiệm có
thể kết luận của hợp chất MKF1.1 là axit 3,4-dihydroxy benzoic.
132
Hình 4.44: Cấu trúc hóa học của MKF1.1
4.4. Các hợp chất phân lập được từ quả cây Bạch đàn nam (M. tanarius)
Quá trình xử lý mẫu thực vật, chiết và phân lập các hợp chất từ quả cây
Bạch đàn nam đã được trình bày chi tiết trong chương 3 mục 3.4 (trang 52).
Từ quả cây Bạch đàn nam 8 hợp chất đã được phân lập và xác định cấu trúc
hóa học. Hầu hết các hợp chất này thuộc lớp chất flavonoid. Cấu trúc hóa học
của các chất phân lập được đã được xác định nhờ phân tích các dữ liệu phổ
như được trình bày dưới đây.
Hình 4.45: Các hợp chất phân lập từ quả cây Bạch đàn nam (M. tanarius)
Hợp chất macatanarin A (MTF10C)
Hợp chất MTF10C được phân lập từ dưới dạng chất bột màu nhạt (n-
hexan/ axeton), điểm nóng chảy 197-198 oC, độ quay cực [α]D
25
-1,48 (c, 1,15;
133
MeOH). Phổ khối phân giải cao HRESI-MS (negative) cho thấy pic ion giả
phân tử ở m/z 475,1214 [M-H]-. Phổ IR cho các đỉnh hấp thụ đặc trưng của
nhóm hydroxyl ở 3430 cm-1, của nhóm cacbonyl ở 1744 cm-1 và của nối đôi
C=C vòng thơm ở 1631, 1590 cm-1. Phổ 1D NMR cho biết sự có mặt của 30
cacbon, trong đó có 1 hệ vòng thơm A2B2 ở, 1 hệ tương tác ABX [δH 5,32 (H-
2), 2,78 (Ha-3), 3,07 (Hb-3)]; 1 proton singlet ở δH 5,99 (H-8); 3 proton olefinic
ở δH 5,26 (H-2’’), 5,07 (H-6’’) và 5,08 (H-10’’); 4 nhóm metylen alyphatic và
4 nhóm metyl singlet ở δH 1,58 (CH3-13’’), 1,59 (CH3-14’’), 1,67 (CH3-15’’)
và 1,81 (CH3-12’’). Ngoài ra trên phổ
1H NMR còn xuất hiện tín hiệu của
proton chelat ở δH 12,37 (OH-5), còn trên phổ
13C NMR có thể dễ dàng nhận
thấy sự có mặt của nhóm keton ở 196,2. Các phân tích trên cho thấy hợp chất
MTF10C có khung cơ bản thuộc lớp chất flavanon. Độ chuyển dịch hóa học
của C-4’, C-5 và C-7 chứng tỏ chúng liên kết với nguyên tử oxy. Phân tích
phổ 1H-1H-COSY với sự trợ giúp của phổ HMBC có thể xác định được mạch
nhánh là nhóm farnesyl. Sự kết nối của mạch nhánh này với khung flavanon
tại vị trí C-6 được thiết lập nhờ tương tác HMBC của C-6 (δC 107,0) với
proton của nhóm CH2-1’’ (δH 3,36) của mạch farnesyl. Proton H-2 cho 1 hằng
số tương tác anti (J = 13,0 Hz) và 1 hằng số tương tác gauche (J = 2,7 Hz),
chứng tỏ H-2 ở vị trí axial. Phân tích chi tiết phổ 2D NMR có thể xác định
được hợp chất MTF10C là 4’,5,7-trihydroxy-6-farnesyl-flavanon. Đây là hợp
chất mới và được đặt tên là Macatanarin A.
O
OH O
OH
OH
2
3
45
6
7
8
9
10
1'
2'
3'
4'
5'
6'
1''
2''
3''
4''
5''
6''
7''
8''
9''
10''
11''
12''13''
14''
15''
Hình 4.46: Tương tác HMBC chính của MTF10C
134
Bảng 4.19: Dữ liệu NMR của MTF10C (1H: 500 MHz, 13C: 125 MHz, CDCl3)
Stt δC δH m ( J, Hz) Stt δC δH m ( J, Hz)
2 78,8 5,32 dd (2,7; 13,0) 1” 21,1 3,36 d (7,0)
3 43,3 2,78 dd (2,7; 17,0)
3,07 dd (13,0; 17,0)
2” 121,3 5,26 t (7,0)
4 196,2 - 3” 139,4 -
5 161,3 - 4” 39,7 2,07 t (7,0)
6 107,0 - 5” 26,3 2,11 t (6,5)
7 161,1 - 6” 123,6 5,07 d (6,0)
8 95,6 5,99 s 7” 135,7 -
9 164,1 - 8” 39,6 1,96 t (7,0)
10 102,9 - 9” 26,7 2,04 t (7,0)
1’ 130,7 - 10” 124,4 5,08 d (6,0)
2’; 6’ 127,9 7,31 d (8,5) 11” 131,3 -
3’; 5’ 115,7 6,87 d (8,5) 12” 16,3 1,81 s
4’ 156,2 - 13” 16,1 1,58 s
OH-5 12,37 14” 17,7 1,59 s
15” 25,7 1,67 s
Hợp chất 3',4',5,7-tetrahydroxy-6-farnesyl-flavanon (MTF12.6A)
Hợp chất MTF12.6A được phân lập từ cặn EtOAc dưới dạng dầu
màu vàng. Phổ 13C-NMR và DEPT cho thấy tín hiệu của 30 cacbon. Phổ
1H NMR của MTF12.6A có tác tín hiệu gần tương tự như của hợp chất
MTF10C. Điểm khác biệt là tín hiệu của hệ A2B2 của MTF10C được thay thế
bằng tín hiệu của hệ ABX trong hợp chất MTF12.6A, với tín hiệu của 3
proton ở δH 6,86 (br.d, J = 8,0 Hz, H-2’); 6,87 (d, J = 8,0 Hz, H-3’); 6,97
(br. s, H-6’). Phân tích chi tiết phổ NMR và so sánh với tài liệu tham khảo
[64] cho phép xác định hợp chất MTF12.6A là 3,4’,5,7-tetrahydroxy-6-
farnesyl-flavanon.
135
Hình 4.47: Cấu trúc hóa học của MTF12.6A
Hợp chất macatanarin B (MTF8)
Hợp chất MTF8 nhận được dưới dạng chất bột màu vàng (n-hexan/
axeton), điểm nóng chảy 181-182 oC. Phổ khối phân giải cao HRESI-MS có
pic ion phân tử proton hóa ở m/z 421,1805 [M+H]+. Phổ IR cho các đỉnh hấp
thụ đặc trưng của nhóm hydroxyl ở 3309 cm-1, nhóm cacbonyl 1638 cm-1 và
nối đôi C=C vòng thơm ở 1598, 1562 cm-1. Phổ 1D NMR có các tín hiệu cho
phép nhận biết được MTF8 có khung cơ bản là flavonol tương tự như các hợp
chất đã phân lập được từ cây (Săng bù) Macaranga kurzii ở trên. Cùng với đó
còn sự xuất hiện của nhóm prenyl [δH 1,85 (CH3-15), 1,78 (CH3-14), 5,29
(H-12) và 3,47 (CH2-11)] và tín hiệu của vòng pyran [δH 1,48 (CH3-15 và
CH3-14), 5,69 (d, J = 10,0 Hz, H-8’), 6,42 (d, J = 10,0 Hz, H-7’)] như
trong trường hợp của hợp chất MKF 8.3. Sự kết nối của nhóm prenyl với
vòng A của khung flavonol tại vị trí C-6 được xác định nhờ tương tác của C-6
(δC 109,4) với proton của nhóm hydroxyl chelat ở δH 12,10 (OH-5) và nhóm
CH2-11. Mặt khác liên kết của C-7’ với C-3’ của vòng B được thiết lập dựa
trên tương tác HMBC của C-2’ (δC 125,9) với H-7’ (δH 6,42). Phân tích chi
tiết phổ 2D NMR cho phép xác định được cấu trúc của MTF8 như được chỉ ra
trong hình 4.48. Hợp chất này lần đầu tiên phân lập và được đặt tên là
Macatanarin B.
136
Bảng 4.20: Dữ liệu NMR của MTF8 (1H: 500 MHz, 13C: 125 MHz, CDCl3)
Stt δC δH m ( J, Hz) Stt δC δH m ( J, Hz)
2 145,5 - 15 17,9 1,85 s
3 135,4 - 1’ 123,3 -
4 175,2 - 2’ 125,9 7,85 d (2,5)
5 157,7 - 3’ 121,1 -
6 109,4 - 4’ 155,0 -
7 161,6 - 5’ 116,6 6,89 d (9,0)
8 94,2 6,47 s 6’ 128,9 7,97 d (2,5; 8,6)
9 155,0 - 7’ 122,0 6,42 d (10,0)
10 103,6 - 8’ 131,2 5,69 d (10,0)
11 21,5 3,47 d (7,0) 9’ 76,8 -
12 121,0 5,29 m 10’ 28,3 1,48 s
13 136,0 - 11’ 28,3 1,48 s
14 125,9 1,78 s OH-5 12,10
O
O
O
OH
OH
OH
2
3
45
6
7
8
9
10
1'
2'
3'
4'
5'
6'
11
7'
8'
1214
13
9'
10'
11'
15
A
B
C
Hình 4.48: Tương tác HMBC chính của MTF8
Hợp chất macatanarin C (MTF16A)
Hợp chất MTF16A nhận được dưới dạng chất bột màu vàng (n-hexan/
axeton), điểm nóng chảy 185-186 oC. Phổ khối phân giải cao HRESI-MS cho
pic ion phân tử proton hóa ở m/z 455,1790 [M+H]+. Phổ IR có các pic đặc
trưng cho nhóm OH ở 3395 cm-1, nhóm C=O ở 1731 cm-1 và 1643, 1613 cm-1
137
của nối đôi C=C vòng thơm. So sánh phổ 1H NMR của MTF16A và MTF8
nhận thấy phần khung flavonol và nhóm prenyl đều xuất hiện ở cả 2 hợp chất.
Tuy nhiên, tín hiệu nối đôi của vòng pyran được thay thế bởi tín hiệu của 2
proton ở δH 4,23 (H-8’) và 5,28 (H-7’). Phổ
13C NMR và DEPT cho thấy tín
hiệu của 25 cacbon. Ngoài các tín hiệu của khung flavonol và nhóm prenyl,
đáng chú ý là sự xuất hiện của 2 nhóm oxymetin (δC 71,1 và 97,3), 1 cacbon
bão hòa được liên kết với nguyên tử oxy ở δC 69,6 và tín hiệu của 2 nhóm
metyl dịch chuyển về trường cao hơn so với 2 nhóm metyl của vòng pyran
trong hợp chất MTF8. Phân tích phổ HMBC cho thấy tương tự như MTF8,
nhóm prenyl được liên kết tại vị trí C-6 của vòng A. Ngoài ra, trên phổ
HMBC, cacbon C-9’ (δC 69,6) cho tương tác một mặt với 2 nhóm metyl ở δH
1,14 (CH3-10’) và 1,18 (CH3-11’) mặt khác với proton ở δH 4,23 (H-8’) và
5,28 (H-7’). Các phân tích này cho thấy sự có mặt của mạch nhánh là dẫn xuất
của isopentyl. Liên kết của C-7’ và C-3’ được thiét lập dựa theo tương tác của
H-7’ với C-2’ (δC 125,2) trên phổ HMBC. Đồng thời, tương tác của C-4’ (δC
161,2) với H-8’ khẳng định liên kết giữa C-8’ và C-4’ thông qua nguyên tử
oxy. Phân tích cụ thể phổ 2D NMR xác định cấu trúc của hợp chất MTF16A
như trong hình 4.49. Đây là hợp chất mới và được đặt tên là Macatanarin C.
O
O
OH
OH
OH
O
OH
OH
2
3
45
6
7
8
9
10
1'
2'
3'
4'
5'
6'
11
7'
8'
1214
13
9'
10'
11'
15
A
B
C
Hình 4.49: Tương tác HMBC chính của MTF16A
138
Bảng 4.21: Dữ liệu NMR của MTF16A (1H: 500 MHz, 13C: 125 MHz, CDCl3)
Stt δC δH m ( J, Hz) Stt δC δH m ( J, Hz)
2 146,4 - 1’3’ 130,5 -
3 154,0 - 2’ 125,2 -
4 175,9 - 3’1’ 123,1 -
5 161,8 - 4’ 161,2 -
6 110,2 - 5’ 109,6 -
7 157,4 - 6’ 129,6 -
8 92,7 6,50 s 7’ 71,1 5,28 dd (4,5; 6,0)
9 135,7 - 8’ 97,4 4,23 d (4,5)
10 102,8 - 9’ 69,6 -
11 20,9 3,24 d (7,0) 10’ 25,2 1,14 s
12 122,2 5,19 t (7,0; 7,5) 11’ 25,6 1,18 s
13 131,1 - OH-5 12,70 s
14 25,4 1,63 s OH 10,8 s
15 17,6 1,74 s OH 9,38 s
Hợp chất glyasperin A (MTF10B)
Hợp chất MTF10B được phân lập từ cặn EtOAc, dưới dạng tinh thể
màu vàng đậm, điểm nóng chảy 154,5-156 oC. Trên phổ ESI-MS pic ion
phân tử proton hóa được quan sát thấy ở m/z 423 [M+H]+. Tương tự như
các hợp chất miêu tả ở trên, các tín hiệu của khung flavonol cũng được
nhận biết cho hợp chất MTF10B trên phổ 1D NMR. Ngoài ra còn ghi nhận
sự có mặt của 2 nhóm prenyl. Sự gắn kết của 1 nhóm prenyl tại vị trí C-6
của vòng A đước thể hiện qua tương tác của C-6 (δC 109,3) với CH2-11
(δH 3,48) và với proton của nhóm hydroxyl chelat OH-5 (δH 12,11) trên
phổ HMBC. Tương tự liên kết của nhóm prenyl thứ 2 với C-3’ của vòng B
được xác định từ tương tác HMBC của C-2’ (δC 129,7) với CH2-7’ (δH
3,48). Phân tích phổ 2D NMR cho thấy hợp chất MTF10B chính là
139
glyasperin. Dữ liệu phổ NMR của hợp chất MTF10B trùng khớp với
glyasperin A trong tài liệu đã công bố trước đây. Hợp chất này đã được phân
lập từ cây Glycyrrhiza aspera [65].
Hình 4.50: Cấu trúc hóa học của MTF10B
Hợp chất broussoflavonol F (MTF10)
Hợp chất MTF10 thu được từ cặn EtOAc, dưới dạng tinh thể màu
vàng, điểm nóng chảy 155-157 oC. Phổ ESI-MS cho pic ion giả phân tử ở
m/z 445 [M+Na]+. Phổ 13C-NMR và DEPT cho thấy tín hiệu của 25
cacbon. Phổ 1D NMR của MTF10 gần giống với MTF10B. Điểm đáng lưu
ý là độ chuyển dịch hóa học của proton chelat OH-5 ở δH 11,77. Sự có mặt
của 2 nhóm prenyl cũng được nhận biết: A) [δH 1,70 (s, H-14); 1,85 (s, H-
13); 3,59 (d, J = 7,0 Hz, CH2-11); 5,32 (t, J = 7,0 Hz, H-12)]; B) [δH 1,76
(s, H-11’); 1,80 (s, H-10’); 3,44 (d, J = 7,0 Hz, CH2-7’); 5,37 (t, J =7,0
Hz, H-8’)]. Vị trí gắn kết của nhóm prenyl tại vị trí C-8 đước xác định từ
tương tác của C-7 (δC 160,8), C-8 (δC 105,2), C-9 (δC 153,9) với CH2-11
trên phổ HMBC. Điều này còn được khẳng định từ độ chuyển dịch hóa học
của proton chelat OH-5 ở trường cao hơn (δH 11,77), trong khi tín hiệu của
proton này ở δH 12,11 (ở hợp chất MTF10B). Tương tự như hợp chất
MTF10B, nhóm prenyl thứ 2 được xác định liên kết tại C-3’ nhờ tương tác
HMBC của C-2’ (δC 129,5) với CH2-7’ (δH 3,44). Từ các dữ kiện phổ IR,
MS, NMR và so sánh với tài liệu tham khảo [66] cho phép xác định cấu
trúc chất MTF10 là broussoflavonol F.
140
Hình 4.51: Cấu trúc hóa học của MTF10
Hợp chất broussonol E (MTF12.5B)
Hợp chất MTF12.5B được phân lập từ dưới dạng bột màu vàng, điểm
nóng chảy 118-119 oC. Trên phổ ESI-MS xuất hiện pic ion giả phân tử ở m/z 439
[M+H]
+
. Phổ 1H-NMR của hợp chất MTF12.5B gần giống với chất MTF10B,
bao gồm tín hiệu của 2 nhóm prenyl và tín hiệu của proton thuộc nhóm OH liên
kết nội phân tử ở δH 12,10 (OH-5). Khác với chất MTF10B, 3 proton thơm hệ
ABX đã bị thay thế bởi tín hiệu của 2 proton thơm dạng singlet tù (broad singlet)
ở δH 7,60 (H-2’); 7,66 (H-6’), cho thấy khả năng chúng ở vị trí meta trên vòng B.
Dựa trên các dữ liệu phổ và kết hợp so sánh với tài liệu tham khảo [67, 68] hợp
chất MTF12.5B được xác định là broussonol E.
Hình 4.52: Cấu trúc hóa học của MTF12.5B
Hợp chất isolicoflavonon (MTF12.5A)
Hợp chất MTF12.5A được phân lập dưới dạng bột màu vàng, đnc
194-195
o
C. Trên phổ ESI-MS xuất hiện pic ion phân tử ở m/z 355
[M+H]
+
. Các dữ liệu phổ NMR cho thấy MTF12.5A cũng thuộc lớp chất
141
flavonol. Tuy nhiên, khác với các hợp chất MTF10 và MTF10B, trên phổ
1
H NMR của MTF12.5A chỉ ghi nhận sự có mặt của 1 nhóm prenyl. Ngoài
ra, còn có sự xuất hiện của 2 proton tương tác meta ở δH 6,29 (d, J = 2,0 Hz,
H-6) và 6,45 (d, J = 2,0 Hz, H-8) thay vì chỉ có 1 proton singlet trong các
hợp chất MTF10 và MTF10B, trong khi hệ vòng ABX vẫn được quan sát
thấy. So sánh với tài liệu tham khảo [69] có thể kết luận hợp chất
MTF12.5A chính là isolicoflavonon.
Hình 4.53: Cấu trúc hóa học của MTF12.5A
4.5. Tổng hợp các dẫn xuất của hợp chất Cleistantoxin CLQF11
Hợp chất Cleistantoxin (CLQ11) được phân lập từ cặn CH2Cl2 của quả
cây Cách hoa đông dương. Đây là hợp chất mới, có hoạt tính gây độc tế bào
trên dòng tế bào KB rất mạnh và là hợp chất chính trong quả cây này. Nhằm
tìm hiểu mối tương quan giữa hoạt tính – cấu trúc, 1 dãy các dẫn xuất amide
đã được tổng hợp từ nguyên liệu đầu là Cleistantoxin (CLQ11). Thực tế, hợp
chất Cleistantoxin (CLQ11) có khung cơ bản giống với Podophyllotoxin, là
hợp chất có hoạt tính sinh học đa dạng được phân lập từ nhiều loài thuộc chi
Podophyllum. Rất nhiều dẫn xuất của Podophyllotoxin đã được tổng hợp và
trong số đó hiện có dẫn xuất etoposide và teniposide đang được sử dụng làm
tác nhân chữa trị một số bệnh ung thư. Nhiều các nghiên cứu cho thấy cấu
hình của C-7 trong phân tử Podophyllotoxin rất dễ bị epime hóa trong môi
trường axit ngay cả axit loãng. Ngược lại C-8’ lại đễ bị epime hóa trong môi
trường kiềm. Do vậy các nghiên cứu dẫn xuất của Podophyllotoxin cho tới nay
142
vẫn thu hút sự quan của nhiều nhóm nghiên cứu trên thế giới nhằm tìm kiếm
các hợp chất có cấu trúc bền hơn và có hoạt tính sinh học cao.
OMe
OMe
O
O
O
OH
O
MeO
Podophyllotoxin
7
8'
Từ 700 g quả Cách hoa đông dương khô, 3,0 g hợp chất Cleistantoxin
(CLQ11) đã được phân lập. Mục đích trong khuôn khổ nghiên cứu này là tạo
được các dẫn xuất mới của Cleistantoxin (CLQ11) có có cấu trúc bền hơn với
việc tạo liên kết C-C thay vì liên kết C-O. Sơ đồ tổng hợp các dẫn xuất của
cleistantoxin (CLQ11) được trình bày trong hình 4.55. Theo đó, hợp chất
Cleistantoxin (CLQ11) được xử lý với tác nhân Me3SiCN trong sự có mặt của
InCl3 và Me3SiBr trong dung môi CH2Cl2 khan ở nhiệt độ 40
oC thu được hợp
chất 1 đạt hiệu suất 81% [70]. Cấu trúc hóa học của hợp chất 1 đã được xác định
bằng các phương pháp phổ, đặc biệt là phổ NMR phổ NMR. Trên phổ 13C NMR,
tín hiệu của nhóm CN được quan sát rõ ràng tại δC 115,3. Đồng thời, tín hiệu của
nhóm oxymetin CH-7 của Cleistantoxin (CLQ11) đã bị thay thế bới tín hiệu tại
δC 28,7 và δC 4,37. Điều đáng chú ý ở đây là H-7 trong hợp chất 1 có hằng số
tương tác nhỏ (J = 5,5 Hz), trong khi cấu hình của các trung tâm bất đối còn lại
(C-7’, C-8’ và C-8) không thay đổi so với Cleistantoxin (CLQ11). Điều này
chứng tỏ cấu hình của C-7 đã bị đảo ngược so với Cleistantoxin (CLQ11).
Đây là phản ứng thế SN2 (thế nucleophin lưỡng phân tử) trong đó có sự
đảo cấu hình.
143
Cơ chế phản ứng được giả thiết như sau: Đầu tiên là sự kết hợp của
InCl3 và Me3SiBr tạo thành hệ axit Lewis tăng cường. Hệ axit Lewis này hoạt
hóa 1 phần nhóm hydroxyl (-OH) bằng sự liên hợp mạnh đến trung tâm silic
để thúc đẩy sự tạo thành cacbocation. Tiếp đó là sự cộng hợp của Me3SiCN
với cacbocation để tạo thành sản phẩm nitril hóa và có sự tái sinh lại hệ xúc
tác [70]. Sơ đồ cơ chế phản ứng được thể hiện trong hình sau:
Hình 4.54: Sơ đồ cơ chế phản ứng thế nitril
Hợp chất 1 sau đó được thủy phân trong môi trường HCl 2N trong dung
môi dioxane ở 90 oC trong 5 giờ tạo thành hợp chất 2 đạt hiệu suất 70%. Việc
nhóm nitril đã được thủy phân tạo thành nhóm cacboxylic cũng được khẳng
định với việc biến mất tín hiệu của nhóm nitril tại δC 115,3 của 1 thay vào đó
là sự xuất hiện của nhóm cacboxylic tại δC 175,2 trên phổ
13C NMR của 2.
Phân tích phổ NMR của hợp chất 2 thấy rõ rằng trong điều kiện phản ứng này,
vòng lacton trong cấu trúc 1 đã được mở, sau đó nhóm hydroxyl tại C-9 đóng
vòng lại với nhóm cacboxylic được tạo thành từ việc thủy phân nhóm nitril:
trên phổ HMBC, cacboxylic C-7a (δC 175,2) cho tương tác mạnh với proton
144
CH2-9 [δH 4,15 (d, J = 9,5 Hz, Ha-9) và 4,53 (dd, J = 5,5, 9,5 Hz, Hb-9)], trong
khi C-9’ không thấy xuất hiện tương tác với các proton này. Từ hợp chất trung
gian 2, dãy dẫn xuất amide đã được tổng hợp thông qua việc xử lý hợp chất 2
với oxallyl chloride để chuyển hóa nhóm cacboxylic thành nhóm acid chloride
hoạt hóa hơn. Sau đó dẫn xuất acid chloride thu được đã được phản ứng với
các amine khác nhau (furfurylamine, imidazole, cyclopentylamine,
cycloheptylamine, N,N-dibenzylamine và 4-fluorobenzylamine, 3,4-
dichlorobenzylamine và piperidine) trong sự có mặt của Et3N trong dung môi
CH2Cl2 khan ở nhiệt độ phòng thu được các sản phẩm amide tương ứng 3a-h
với hiệu suất trong khoảng 40-75%. Như vậy thông qua các phản ứng này, 8
dẫn xuất amide của Cleistantoxin (CLQ11) đã được tổng hợp với việc tạo liên
kết C-C thay vì liên kết C-O và sự biến đổi vòng lacton. Cấu trúc hóa học của
các dẫn xuất amide này đã được khẳng định qua phân tích các dữ liệu phổ, bao
gồm phổ MS và NMR 1D và 2D.
145
Hình 4.55: Sơ đồ tổng hợp các dẫn xuất của Cleistantoxin (CLQ11)
4.6. Khảo sát hoạt tính sinh học của các dịch chiết, các phân đoạn các
hợp chất phân lập được từ cây Cách hoa đông dương, cây Săng bù và
cây Bạch đàn nam và các hợp chất bán tổng hợp từ Cleistantoxin
Như đã trình bày trong phần mở đầu, dịch chiết của 3 loài thực vật này
đã được thử nghiệm hoạt tính sinh học, bao gồm hoạt tính gây độc tế bào và
hoạt tính ức chế enzyme acetylcholinesterase tại Viện Hóa học các hợp chất
thiên nhiên (CNRS-CH Pháp).
Kết quả cho thấy hầu hết các dịch chiết này đều thể hiện hoạt tính gây độc
tế bào trên dòng KB tại nồng độ 1 µg/ ml. Trong đó đáng chú ý nhất là dịch chiết
quả cây cách hoa đông dương (C. indochinensis) và quả cây Bạch đàn nam (M.
tanarius), cho hoạt tính ức chế tương ứng là 94% và 62,7% ở nồng độ 1 µg/ ml.
Bảng 4.21: Kết quả thử hoạt tính sinh học sơ bộ các dịch chiết
Dịch chiết EtOAc
% ức chế tế bào KB,
nồng độ 1 µg/ ml
% ức chế enzyme
acetylcholinesterase
Lá cây Cách hoa đông dương 30 % 6 % (100 µg/ ml)
Quả cây Cách hoa đông dương 94 % 29 % (100 µg /ml)
Lá cây Săng bù 21,6 % 38 % (10 µg/ ml)
Quả cây Bạch đàn nam 62,7 % 65,5 % (10 µg/ ml)
Các phân đoạn của cột sắc ký đầu tiên của các dịch chiết lá cây Cách hoa
đông dương (C. indochinensis) đã được khảo sát lại trên dòng tế bào KB. Như
được trình bày trong bảng 4.22, các phân đoạn F17-F19 từ cặn chiết CH2Cl2 cho
hoạt tính tốt ở nồng độ 10 µg/ml, tuy nhiên khi thử nghiệm ở nồng độ 1µg/ml,
hầu hết các phân đoạn không thể hiện hoạt tính hoặc thể hiện rất yếu.
Bảng 4.22: Kết quả thử hoạt tính gây độc tế bào trên dòng KB của các phân đoạn của dịch
chiết CH2Cl2 và MeOH của lá cây Cách hoa đông dương (C. indochinensis).
Phân đoạn cặn % ức chế Phân đoạn cặn % ức chế
146
CH2Cl2 (10 µg/ml-1µg/ml) MeOH (10 µg/ml-1µg/ml)
CLF-CH2Cl2 19 - 5 CLF-MeOH 0 – 0
F1 0 - 0 F3 6 – 1
F2 24 - 0 F4-5 0 – 13
F3 31 - 7 F6 0 – 14
F4-5 42 - 15 F7 3 – 16
F6 11 - 6 F8 0 – 27
F7-9 24 - 4 F9 3 – 0
F10-11 0 - 0 F10 0 – 0
F12-15 0 - 5 F11 0 – 13
F16 91 - 0 F12 0 – 0
F17 88 - 34 F13 0 – 0
F18 94 - 9 F14 0 – 0
F19 69 - 12
Bốn hợp chất mới là cleistanone (CLF3.20), cis-p-cumaroyl
epifriedelanol (CLF4.6), trans-p-cumaroyl-β-sitosterol (CLF6.3), trans-p-
cumaroyl epifriedelanol (CLF6.4), được phân lập từ lá cây Cách hoa đông
dương (C. indochinensis) sau đó cũng đã được khảo sát lại hoạt tính trên dòng
KB. Tuy nhiên các hợp chất này cho hoạt tính rất yếu ở nồng độ 10 µg/ml.
Tương tự các phân đoạn của cột sắc ký đầu tiên của các cặn chiết quả
cây Cách hoa đông dương (C. indochinensis). Kết quả cho thấy các phân đoạn
F7-F13 của cặn chiết CH2Cl2 cho hoạt tính rất mạnh trên dòng tế bào KB ngay
cả ở nồng độ 1 µg/ml.
Bảng 4.23: Kết quả thử hoạt tính gây độc tế bào trên dòng KB của các phân đoạn
của quả loài Cách hoa đông dương (C. indochinensis)
Phân đoạn
cặn CH2Cl2
% ức chế
(10 µg/ml - 1 µg/ml)
Phân đoạn
cặn MeOH
% ức chế
(10 µg/ml-1 µg/ml)
F-CH2Cl2 95-90 F-MeOH 73-0
F1 0-10 F1 0-0
147
F2 0-0 F2 0-0
F3 25-2 F3 0-1
F4 27-4 F4 29-5
F5-6 14-5 F5 86-0
F7-8 92-84 F6 87-87
F9-10 95-64 F7 55-7
F11 96-95
F12-13 96-89
F14-15 82-0
F16 89-0
F17 0-8
Chín hợp chất lignan aryl-tetralin mới phân lập được cũng đã được thử
nghiệm lại hoạt tính trên dòng tế bào ung thư KB. Kết quả được trình bày
trong bảng 4.24 cho thấy, ở nồng độ 10 µg/ml, có 4 hợp chất thể hiện hoạt tính
mạnh bao gồm cleistantoxin (CLQF11), demethoxycleistantoxin
(CLQF12.3), podocleistantoxin (CLQF15.3) và cleindoside E (CLQF4.5).
Tuy nhiên khi được thử nghiệm tại nồng độ 1 µg/ml, chỉ còn lại hợp chất
cleistantoxin (CLQF11) cho hoạt tính ức chế mạnh (97%).
Bảng 4.24 : Kết quả thử hoạt tính gây độc tế bào trên dòng tế bào KB của các hợp
chất được phân lập từ quả Cách hoa đông dương (C. indochinensis)
Hợp chất
% ức chế
(10 µg/ml - 1 µg/ml)
Hợp chất
% ức chế
(10 µg/ml - 1 µg/ml)
CLQF11 97-97 CLQF17.2 3-10
CLQF12.3 96-22 CLQF4.3 0-9
CLQF15.3 96-38 CLQF4.4 8-13
CLQF16 14-11 CLQF4.5 95-19
CLQF17.1 9-5
Hợp chất CLQF11 (Cleistantoxin) sau đó đã được thử nghiệm ở
nồng độ thấp hơn để xác định giá trị IC50, đồng thời hợp chất này cũng đã
148
được thử nghiệm trên các dòng tế bào khác. Kết quả cho thấy hợp chất
CLQF11 (Cleistantoxin) cho hoạt tính ức chế rất mạnh trên các dòng tế bào
thử nghiệm (hình 4.55) với giá trị IC50 trong khoảng 14 – 36 nM (tương đương
với khoảng từ 0,006 – 0,014 µg/ml). (Theo Viện nghiên cứu ung thư quốc gia
Mỹ NCI, một hợp chất có hoạt tính gây độc tế bào mà có giá trị IC50 ≤ 4
µg/ml thì chất đó được coi là có hoạt tính) . Điều đặc biệt thú vị là hợp chất
này ức chế chọn lọc dòng tế bào ung thư vú kháng thuốc (MCF7R: IC50 14
nM) khi so sánh với dòng ung thư vú thường (MCF7: IC50 36 nM).
Cũng cần nhấn mạnh rằng, hợp chất CLQF 11 (Cleistantoxin) được
phân lập từ phân đoạn F11 của cặn chiết CH2Cl2 của quả loài Cách hoa đông
dương (C. indochinensis). Đây là 1 trong các phân đoạn có hoạt tính mạnh
nhất. Khảo sát trên bản mỏng cho thấy các phân đoạn từ F7-F13 thể hiện hoạt
tính cao khi được thử nghiệm đều chứa hợp chất CLQF11 (Cleistantoxin).
Như vậy có thể kết luận hợp chất CLQF11 (Cleistantoxin) chính là tác nhân
tạo ra hoạt tính ban đầu của dịch chiết tổng của quả loài Cách hoa đông dương
(C. indochinensis).
Hình 4.56: Hoạt tính gây độc tế bào của Cleistantoxin (CLQF 11) trên các
dòng tế bào ung thư khác nhau.
Khi so sánh cấu trúc hóa học của hợp chất CLQF11 (Cleistantoxin) và
hợp chất CLQF12.3 (Demethoxycleistantoxin) cho thấy hoạt tính gây độc tế
bào của CLQF12.3 yếu hơn rất nhiều lần so với CLQF11. Như vậy có thể
149
thấy nhóm metoxy tại vị trí C-6 của CLQF11 đóng vai trò quan trọng đối với
hoạt tính của hợp chất này.
Các phân đoạn của cột sắc ký đầu tiên của các cặn chiết của lá loài Săng bù
(M. kurzii) cũng được khảo sát hoạt tính gây độc tế bào trên dòng KB và hoạt
tính ức chế enzyme acetylcholinesterase. Kết quả cho thấy 3 phân đoạn, F9,
F12 và F13 cho hoạt tính gây độc tế bào tốt tại nồng độ 10 µg/ml. Tuy nhiên
cả 3 phân đoạn này đều không thể hiện hoạt tính tại nồng độ 1 µg/ml. Mỗi
phép thử được lặp lại 3 lần để đảm bảo độ chính xác. Mặt khác khi thử nghiệm
hoạt tính ức chế enzyme acetylcholinesterase, các phân đoạn F2-F5 và F9 cho
hoạt tính tốt tại nồng độ 10 µg/ml.
Bảng 4.26 Kết quả thử hoạt tính gây độc tế bào trên dòng KB và hoạt tính ức chế
enzyme acetylcholinesterase của các phân đoạn của cặn chiết lá loài Săng bù (M. kurzii)
Các phân
đoạn
% ức chế
(10 µg/ml, 3 lần)
% ức chế
(1 µg/ml, 3 lần)
% ức chế enzyme
acetylcholinesterase
(10 µg/ml, 2 lần)
MK-MeOH 0/8/0 6/9/10
MK-EtOAc 23/44/50 20/0/3
F1 0/28/19 7/27/8
F2-3 29/21/26 20/6/16 90/90
F4 22/29/40 12/9/8 90/90
F5 21/44/24 9/15/1 80/80
F6-8 57/69/51 4/0/5
F9 101/101/101 22/11/6 70/70
F10 58/55/36 11/18/0
F11 49/49/25 0/21/0
F12 91/90/87 6/20/0
F13 73/79/69 0/0/0
F14-15 48/53/48 0/0/0
F16 74/76/72 0/0/0
150
Các hợp chất sạch phân lập được từ dịch chiết lá cây Săng bù (M.
kurzii) sau đó đã được thử nghiệm lại hoạt tính. Kết quả cho thấy hợp chất
glepidotin A (MKF 10) và flavastin B (MKF 11.5.1) cho hoạt tính trên dòng
KB, trong đó MKF 11.5.1 cho hoạt tính rất mạnh tại nồng độ 10 µg/ml. Tuy
nhiên cả 2 hợp chất này đều mất hoạt tính khi thử nghiệm ở nồng độ 1 µg/ml.
Hoạt tính ức chế enzyme acetylcholinesterase cũng đã được khảo sát đối với
các hợp chất này. Trong số các hợp chất thử nghiệm có 5 hợp chất 3,5-
dimetoxy-trans-stylben (MKF8.1) macakurzin B (MKF8.3), flavastin B
(MKF11.5.1), 5,7-dihydroxy-6-prenyl-flavanone (MKF9.4) và glabranin
(MKF9.7) cho hoạt tính đáng quan tâm ở nồng độ 10 µg/ml.
Bảng 4.27: Kết quả thử hoạt tính gây độc tế bào trên dòng KB và hoạt tính ức chế
enzyme acetylcholinesterase của các chất từ lá loài Săng bù (M. kurzii)
Hợp chất
% ức chế KB
(10 µg/ml, 3 lần)
% ức chế KB
(1 µg/ml, 3 lần)
% ức chế enzyme
acetylcholinesterase
(10 µg/ml, 2 lần)
MKF 8.1 27/9/0 4/15/0 90/90
MKF 8.3 28/12/21 0/0/0 70/60
MKF 9 0/40/9 0/17/0 30/30
MKF 9.4 28/25/5 0/0/0 70/70
MKF 9.5 3/2/0 0/0/0 50/20
MKF 9.7 4/4/9 0/3/0 70/70
MKF 10 52/69/47 0/0/0 0/0
MKF 11.4 48/12/0 0/0/0 10/20
MKF 11.4.1 0/1/0 0/0/0 30/30
MKF 11.5.1 102/101/98 0/0/0 90/90
MKF 11.5.2 0/11/0 0/9/0 30/30
MKF 11.5.3 43/36/22 0/0/0 10/10
151
3 hợp chất mới được phân lập từ quả cây Bạch đàn nam (M. tanarius)
cũng được khảo sát hoạt tính trên dòng KB. Cả 3 hợp chất thử nghiệm đều cho
hoạt tính khá tốt tại nồng độ 10 µg/ml. Tuy nhiên cũng như nhiều hợp chất
trên, hoạt tính của các hợp chất này giảm mạnh, hầu như không có hoạt tính ở
nồng độ 1 µg/ml.
Bảng 4.28: Kết quả thử hoạt tính gây độc tế bào trên dòng tế bào KB của một số hợp
chất được phân lập từ quả cây Bạch đàn nam (M. tanarius)
Hợp chất % ức chế (10 µg/ml) % ức chế (1 µg/ml)
MTF 8 99 ± 1 0 ± 7
MTF10C 100 ± 1 9 ± 5
MTF 16A 92 ± 1 1 ± 8
Cuối cùng, các hợp chất bán tổng hợp từ hợp chất CLQF11
(Cleistantoxin) cũng được khảo sát hoạt tính trên dòng KB. Như được trình
bày tại bảng 4.28, hầu hết các dẫn xuất bán tổng hợp có hoạt tính gây độc tế
bào trên dòng KB yếu hơn rất nhiều so với hợp chất CLQF11 (Cleistantoxin).
Dẫn xuất có hoạt tính mạnh nhất là 1 (IC50 : 0,5 µg/ml), tiếp theo là 3d (IC50 :
14,39 µg/ml) và 3h (IC50 : 21,19 µg/ml). Tuy nhiên việc tổng hợp này đã mở
ra hướng tổng hợp các dẫn xuất có khung chất hoàn toàn mới từ khung lignan
aryl-tetralin phục vụ việc sàng lọc các hoạt tính sinh học khác.
Bảng 4.29: Kết quả thử hoạt tính gây độc tế bào trên dòng tế bào KB
của các dẫn xuất Cleistantoxin (CLQF11)
Hợp chất IC50 (µg/ml) Hợp chất IC50 (µg/ml)
CLQ F11 0,055 3d 14,39
1 0,50 3e >128
2 54,97 3f >128
3a >128 3g >128
3b 41,19 3h 21,19
3c >128 Ellipticin 0,51
152
153
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
Trong quá trình thực hiện luận án này, chúng tôi đã thu được các kết
quả nghiên cứu mới về loài Cách hoa đông dương (Cleistanthus
indochinensis), loài Săng bù (Macaranga kurzii) và loài Bạch đàn nam
(Macaranga tanarius) thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) của Việt Nam như
sau:
Lần đầu tiên loài Cách hoa đông dương (C. indochinensis) được nghiên
cứu về thành phần hóa học và hoạt tính sinh học và kết quả là:
- Từ dịch chiết lá loài Cách hoa đông dương, 13 hợp chất đã được phân
lập và xác định cấu trúc là: squalen (CLF2.1), epifriedelanon (CLF3.1),
lupeol (CLF3.14), cleistanone (CLF3.20), cis-p-cumaroyl
epifriedelanol (CLF4.6), trans-p-cumaroyl-β-sitosterol (CLF6.3),
trans-p-cumaroyl epifriedelanol (CLF6.4), axit 4-hydroxy cinamic
(CLFM4.1), sequoiaflavon (CLFM4.5.1), axit galic (CLFM8.1),
amentoflavon (CLFM8.1.1), 3-O-metylellagic-4’-α-rhamnopyranoside
(CLFM10.3) và axit ellagic (CLFM10.6). Trong đó có 4 hợp chất mới
lần đầu tiên được phân lập trong tự nhiên là cleistanone (CLF3.20), cis-
p-cumaroyl epifriedelanol (CLF4.6), trans-p-cumaroyl-β-sitosterol
(CLF6.3), trans-p-cumaroyl epifriedelanol (CLF6.4). Đáng chú ý là
hợp chất cleistanone (CLF3.20) có khung triterpenoid mới, cấu trúc của
hợp chất này đã được khẳng định bằng phương pháp X-ray.
- Từ quả loài Cách hoa đông dương, 11 hợp chất cũng đã phân lập và xác
định cấu trúc, trong đó có 9 hợp chất mới lầnđàutiên được phân lập
trong tự nhiên, là các hợp chất cleistantoxin (CLQF11),
demethoxycleistantoxin (CLQF12.3), podocleistantoxin (CLQF15.3),
cleindoside B (CLQF16), cleindoside A (CLQF17.1), cleindoside C
(CLQF17.2), cleindoside D (CLQFM4.4), cleindoside E
154
(CLQFM4.5), cleindoside F (CLQFM4.3), và hai hợp chất đã biết là
axit gallic (CLQFM2) và amentoflavon (CLQFM7).
- Các hợp chất phân lập được từ lá và quả cây Cách hoa đông dương (C.
indochinensis) đã được khảo sát hoạt tính gây độc tế bào. Kết quả cho
thấy có 4 hợp chất thể hiện hoạt tính mạnh bao gồm cleistantoxin
(CLQF11), demethoxycleistantoxin (CLQF12.3), podocleistantoxin
(CLQF15.3) và cleindoside E (CLQF4.5). Trong đó đặc biệt hợp chất
CLQF11 là hợp chất chính trong quả cây này và cho hoạt tính ức chế rất
mạnh trên 4 dòng tế bào ung thư thử nghiệm là KB, MCF7, MCF7R và
HT29 với các giá trị IC50 trong khoảng 14 – 36 nM. Đặc biệt hợp chất
này ức chế chọn lọc dòng tế bào ung thư vú kháng thuốc (MCF7R: IC50
14 nM) khi so sánh với dòng ung thư vú thường (MCF7: IC50 36 nM).
- Từ nguyên liệu đầu là hợp chất cleistantoxin (CLQF11), 8 dẫn xuất
amide đã được tổng hợp với việc tạo liên kết C-C thay vì liên kết C-O
và sự biến đổi vòng lacton. Các dẫn xuất bán tổng hợp cũng đã được
khảo sát hoạt tính trên dòng KB, hầu hết các dẫn xuất này có hoạt tính
gây độc tế bào trên dòng KB yếu hơn rất nhiều so với hợp chất
CLQF11 (cleistantoxin). Tuy nhiên việc tổng hợp này đã mở ra hướng
tổng hợp các dẫn xuất có khung chất hoàn toàn mới từ khung lignan
aryl-tetralin phục vụ việc sàng lọc các hoạt tính sinh học khác.
Lần đầu tiên loài Săng bù (M. kurzii) được nghiên cứu về thành phần hóa
học và hoạt tính sinh học.
- Từ lá loài Săng bù 17 hợp chất đã được phân lập và xác định cấu trúc
hóa học. Trong đó 4 hợp chất có cấu trúc mới lần đầu tiên được phân
lập trong tự nhiên là macakurzin A (MKF9.5), macakurzin B
(MKF8.3), macakurzin C (MKF11.5.3), macakurzin D (MKF11.4.1)
và 13 hợp chất đã biết là 3,5-dimetoxy-cis-stylben (MKF2.1), 3,5-
155
dimetoxy-trans-stylben (MKF8.1), β-amyrin (MKF8.4), 5,7-
dihydroxy-6-prenyl-flavanone (MKF9.4), glabranin (MKF9.7),
izalpinin (MKF9), glepidotin A (MKF10), 8-prenyl-galangin
(MKF11.4), flavastin B (MKF11.5.1), galangin (MKF11.5.2), axit
3,4-dihydroxy benzoic (MKFM1.1), axit gallic (MKFM1.2) và
luteolin-7-O-glucopyranoside (MKFM2).
- Các hợp chất sạch phân lập được từ dịch chiết lá cây này đã được thử
nghiệm hoạt tính sinh học. Kết quả cho thấy hợp chất glepidotin A
(MKF10) và flavastin B (MKF11.5.1) cho hoạt tính trên dòng KB,
trong đó MKF 11.5.1 cho hoạt tính rất mạnh tại nồng độ 10 µg/ml. Tuy
nhiên cả 2 hợp chất này đều mất hoạt tính khi thử nghiệm ở nồng độ 1
µg/ml. Mặt khác khi thử nghiệm hoạt tính ức chế enzyme
acetylcholinesterase có 5 hợp chất 3,5-dimetoxy-trans-stylben
(MKF8.1) macakurzin B (MKF8.3), flavastin B (MKF11.5.1) 5,7-
dihydroxy-6-prenyl-flavanone (MKF9.4) và glabranin (MKF9.7) cho
hoạt tính rất đáng quan tâm ở nồng độ 10 µg/ml, với giá trị % ức chế
trong khoảng 60 – 90%.
Nghiên cứu về thành phần hóa học và hoạt tính sinh học quả cây Bạch đàn
nam (M. tanarius) nhận được các kết quả như sau:
- Từ dịch chiết quả này, 8 hợp chất đã được phân lập và xác định cấu trúc
hóa học. Trong số các hợp chất này, 3 hợp chất mới lần đầu tiên được
phân lập trong tự nhiên là macatanarin A (MTF10C), macatanarin B
(MTF8), macatanarin C (MTF16A) và 5 hợp chất đã biết là
broussoflavonol F (MTF10), glyasperin (MTF10B), isolicoflavonon
(MTF12.5A), broussonol E (MTF12.5B), 6-farnesyl-3',4',5,7-
tetrahydroxy flavanone (MTF12.6A).
156
- Ba hợp chất mới phân lập từ quả cây Bạch đàn nam (M. tanarius) đã
được khảo sát hoạt tính trên dòng KB. Cả 3 hợp chất thử nghiệm đều
cho hoạt tính khá tốt tại nồng độ 10 µg/ml. Tuy nhiên hoạt tính của các
hợp chất này giảm mạnh và hầu như không có hoạt tính ở nồng độ 1
µg/ml.
KIẾN NGHỊ
- Các kết quả nghiên cứu trong luận án cho thấy các loài Cleistanthus và
Macaranga thuộc họ Thầu dầu là nguồn giàu có các hợp chất thiên
nhiên có cấu trúc hóa học và hoạt tính sinh học thú vị. Do đó nghiên
cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của 2 loài trên là một
hướng nghiên cứu có nhiều triển vọng.
- Việc bán tổng hợp các dẫn xuất cleistantoxin (CLQF11) là hướng tổng
hợp cần được khai thác nhằm tạo ra các hợp chất có khung hóa học mới
phục vụ việc sàng lọc sinh học.
- Các hợp chất bán tổng hợp từ cleistantoxin (CLQF11) sẽ được nghiên
cứu thử nghiệm hoạt tính kháng virus như H5N1, HIV
157
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
[1] Võ Văn Chi (1999), “Từ điển cây thuốc Việt Nam”, NXB Y học.
[2] Võ Văn Chi (2004), “Từ điển thực vật thông dụng”, NXB Khoa học và Kỹ
thuật Hà nội.
[3] Phạm Hoàng Hộ (1998), “Cây cỏ Việt Nam II”, NXB Trẻ.
Tiếng Anh
[4] Nguyen Nghia Thin (2007), “Taxonomy of Euphorbiaceae in Việt Nam”,
Vietnam Nation University Publisher, Hanoi.
[5] David J. Newman, Gordon M. Cragg, and Kenneth M. Suader, (2003),
“Natural products as sources of new drugs over the periode 1981-2002”,
J. Nat. Prod., 66, pp. 1022-1037.
[6] Paulo M.M. Pinho, Anake Kijjoa, (2007), “Chemical constituents of the
plants of the genus Cleistanthus and their biological activity”, Phytochem.
Rev., 6, pp. 175-182.
[7] Govindachari TR, Sathe SS, Viswanathan N, Pai BR, Srinivasan M
(1969), “Chemical constituents of Cleistanthus collinus (Roxb)”,
Tetrahedron, 25, pp. 2815-2821.
[8] Anjaneyulu ASR, Ramaiah PR Row LR, Venkateswarlu R, Pelter A,
Ward RS (1981), “New lignan from the heartwood of Cleistanthus
collinus”, Tetrahedron, 37, pp. 3641-3652.
[9] Sastry KV, Rao EV (1983), Isolation and structure elucidation of
Cleistanthoside A. Planta Med., 47, pp. 227-229.
[10] Sastry KV, Rao EV, Buchanan JG, Sturgeon RJ (1987), “Cleistanthoside
B, a diphyllin glycoside from Cleistanthus patulus heartwood”,
Phytochemistry, 26, pp. 1153-1154.
158
[11] Ramesh C, Ravindranath N, Ram TS, Das B (2003), “Arytnaphthalide
lignans fom Cleistanthus collinus”, Chem. Pharm. Bull. (Tokyo), 51, pp.
1299-1300.
[12] Lakshmi TG, Srimannaryana G, Subbarao HV (1970), “Diphyllin O –
glycoside from Cleistanthus collinus bark”, Curr Sci., 39, pp. 395.
[13] Anjaneyulu ASR, Ramaiah PR Row LR (1975b), “A new diphyllin
glycoside from Cleistanthus collinus”, Phytochemistry, 14, pp. 1875-1876.
[14] Satayanarayana P, Subrahmanyam P, Rao K (1984), “Chemical
constituents of Cleistanthus collinus roots”, Indian J. Pharm Sci., 46, pp.
95-96.
[15] Pinho P, Naengchomnong W, Kijjoa A, Nazareth N, Silva AMS, Eaton
G, Herz W (2006), “An unusual glucoside from Cleistanthus gracilis”
Phytochemistry, 67, pp. 1789-1792.
[16] Candy HA, Pakshong JM, Pegel KH (1970), “Primarane diterpenes from
Cleistanthus schlechteri”, J. Chem. Soc (C), pp. 2536-2538.
[17] McGarry EJ, Pagel KH, Phillips L, Waight ES (1971), “The constitution
of the aromatic diterpene Cleistanthol”, J. Chem. Soc (C), pp. 904-909.
[18] Pradheepkumar CP, Shanmugam G (1999), “Anticancer potential of
Cleistanthin A isolated from the tropical plant Cleistanthus collinus”,
Oncol Res., 11, pp. 225-231.
[19] Pradheepkumar CP, Pannerselvam N, Shanmugam G (2000), “Cleistanthin
A causes DNA strand breaks and induces apoptosis in cultured cells”
Mutation Res/Genet Toxicol Environ Mutat, 464, pp. 185-193.
[20] Kumar CPP, Pande G, Shanmugam G (1998), “Cleistanthin B causes G1
arrest and induces apoptosis in mammalian cells”, Apoptosis, 3, pp. 413-419.
[21] Jang DS, Cuendet M, Hawthorn Me, Kardono LB, Kawanishi K, Fong
HH, Mehta RG, Pezzuto JM, Kinghorn AD (2002), “Prenylated
159
flavonoids of the leaves of Macaranga conifera with inhibitory activity
against cyclooxygenase-2”, Phytochemistry, 61 (7), pp. 876-872.
[22] Jang DS, Cuendet M, Pawlus AD, Kardono LB, Kawanishi K, Fong HH,
Mehta RG, Pezzuto JM, Kinghorn AD (2004), “Potential cancer
chemopreventive constituents of the leaves of Macaranga triloba”,
Phytochemistry, 65 (3), pp. 345-360.
[23] Dinh V, Zhang HP, Duc NM, Tuu NV, Qin GW (2006), “A new geranyl
flavanone from Macaranga triloba”, J. Asian Nat. Pros. Res., 8 (1-2), pp.
155-158.
[24] Yoder BJ, Cao S, Nirris A, Miller JS, Ratovoson F, Razafitsalama J,
Andriantsiferana R, Rasamison VE, Kingston DC (2007), “Antiproliferative
prenylated stilbenes and flavonoids from Macaranga alnifolia from the
Madagascar rainforest”, J. Nat. Prod., 70 (3), pp. 342-346.
[25] Syah YM, Hakim EH, Achmad SA, Hanafi M, Ghisalberti EL, (2009),
“Isoprenylated flavanones and dihydrochalcones from Macaranga
trichocarpa”, Nat. Pro. Commun, 4 (1), pp. 63-67.
[26] Li X, Xu L, Wu P, Xie H, Huang Z, Ye W, Wei X, (2009),
“Prenylflavonols from the leaves of Macaranga sampsonii”, Chem.
Pharm. Bull (Tokyo), 57 (5), pp. 495-498.
[27] Tanjung M, H.akim EH, Mujahidin D, Hanafi M, Syah YM, (2009),
“Macagigantin, a farnesylated flavonol from Macaranca gigantean”, J.
Asian Nat. Prod. Res., 11 (11), pp. 929-932.
[28] Syah YM, Ghisalberti EL, (2010), “Phenolic derivatives with an irregular
sesquiterpenyl side from Macaranga pruinosa”, Nat. Prod. Commun., 5
(2), pp. 219-222.
[29] Beutler JA, Shoemaker RH, Johnson T, Boyd MR, (1998), “Cytotoxic
geranyl stilbenes from Macaranga schweinfurthii”, J. Nat. Prod., 61 (12),
pp. 1509-1512.
160
[30] Van Der Kaaden JE, Hemscheidt TK, Mooberry SL, (2001), “Mappain, a
new cytotoxic prenylated stilbene from Macaranga mappa”, J. Nat.
Prod., 64 (1), pp. 103-105.
[31] Ngoumfo RM, Ngounou GE, Tchamadeu CV, Qadir MI, Mbazoa CD,
Bequm A, Ngnimzeko FN, Lontsi D, Choudhary MI, (2008), “Inhibitory
effect of macabarterin, a polyoxygenated ellagitannin from Macaranga
barteri, on human neutrophil respiratory burst activity”, J. Nat.Prod., 71
(11), pp. 1906-1910.
[32] Tseng MH, Chou CH, Chen YM, Kuo YH (2001), “Allelopathic
prenylflavanones from the fallen leaves of Macaranga tanarius”, J. Nat.
Prod., 64 (6), pp. 827-828.
[33] Tseng MH, Kuo YH, Chen YM, Chou CH, (2003), “Allelopathic
potential of Macaranga tanarius (L.) muell.-arg”, J. Chem. Ecol., 29 (5),
pp. 1269-1286.
[34] Phommart S, Sutthivaiyakit P, Chimnoi N, Ruchirawat S, Sutthivaiyakit
S (2005), “Constituents of the leaves of Macaranga tanarius”, J. Nat.
Prod., 68 (6), pp. 927-930.
[35] Kawakami S, Harinantenaina L, Matsunami K, Otsuka H, Shinzato T,
Takeda Y, (2008), “Macaflavanones from the leaves of Macaranga
tanarius”, J. Nat. Prod., 71 (10), pp. 1714-1719.
[36] Matsunami K, Takamori I, Shinzato T, Aramoto M, Kondo K, Otsuka H,
Takeda Y, (2006), “Radical-scavenging activities of new megastigmane
glucosides from Macaranga tanarius (L.) Mull.-Arg”, Chem. Pharm.
Bull. (Tokyo), 54 (10), pp. 1403-1407.
[37] Robert E. Desjardins, Craig J. Canfield, J. David Haynes and Jeffey D.
Chulay, (1979), “Quantitative assessment of antimalarial activity in vitro
by a semicutomated microdilution technique”, Antimicro. Agents. Chem.,
16 (6), pp. 710-718.
161
[38] Mosmann T. Rapid (1983), “Colorimetric assays for cellular growth and
survival: Application to proliferation and cytotoxicity assays”, J.
Immunnol. Med., 65, pp. 55-63.
[39] A. P. Dantanarayana, N. S. Kumar, M. U. S. Sultanbawa, S.
Balasubramaniam, (1981), “Structures of four new oxygynated lupanes
from Pelurostylia opposite (Celastraceae)”, J. Chem. Soc. Perkin Trans.,
1, pp. 2717-2723.
[40] A. R. Bilia, I. Morelli, J. Mendez, (1996), “New lupane derivatives from
the leaves of Licania pyrifolia”, J. Nat. Prod., 59, pp. 297–300.
[41] I. Abe, Y. Sakano, H. Tanaka, W. Lou, H. Noguchi, (2004), “Enzymatic
cyclization of 22,23-dihydro-2,3-oxidosqualene into euph-7-en-3β-ol and
bacchar-12-en-3β-ol by recombinant β-amyrin synthase”, J. Am. Chem.
Soc., 126, pp. 3426-3427.
[42] Dahiya J. S., (1991), “Pentacyclic triterpenes from the fungus,
Leptosphaeria maculans”, Phytochemistry, 30: 1235-1237.
[43] Amico V, Napoli EM, Renda A, Ruberto G, Spatafora C, Tringali C,
(2004), “Constituents of grape pomace from the Sicilian cultivar ‘Nerello
Mascalese’, Food Chemistry, 88, pp. 599-607.
[44] Li SH, Zhang HJ, Niu XM, Yao P, Sun HD, Fong HHS, (2003),
“Chemical Constituents from Amentotaxus yunnanensis and Torreya
yunnanensis”, J. Nat. Prod., 66, pp. 1002-1005.
[45] Ohmoto T, Yoshida O, (1983), “Constituents of Pollen. XI. Constituents of
Cryptom.japonica D. Don.”, Chem. Pharm. Bull.(Tokyo), 31, pp. 919-24.
[46] Kosuge T, Ishida H, Yokota M, Yoshid M., (1984) “Studies on
antihemorrhagic substance in herbs classified as hemostatics in Chinese
medicine. III. On the antihemorrhagic principle in Sanguisorba
officinallis L.”, Chem. Pharm.Bull. (Tokyo), 32, pp. 4478-4481.
162
[47] Elkhateeb A, Takahashi K, Masuura H, Yamasaki M, Yamato O, (2005),
“Ani-babes ellagic acid rhamnsides from the bark of Elaeoarpus
parvifolius”, Phytochemistry, 66, pp. 2577-2580.
[48] Utsumi H., Fufii K., Irie H.,Furusaki A., Nitta I., (1967), “The crystal
structure of p-cumaric acid”, Bull. Chem. Soc. Jpn., 40, pp. 426.
[49] H. P. He, Y. Cai, M. Sun and H. Cork, (2002), “Extraction and
purification of squalene from Amaranthus grain”, J. Agric. Food Chem.,
50 (2), pp. 368-372.
[50] Price R. J., (1972), “Galic acid as natural inhibitor of flowering I
Kalanchie blossfediana”, Phytochemistry, 11, pp. 1911-1913.
[51] Klyne W., Stevenson R., Swan R. J., (1966), “Optical rotatory
dispertion.Part XXVIII. The absolute configuration of otobain and
derivates”, J. Chem. Soc. C, pp. 893-896.
[52] A. C. Jain, M. K. Zutsshi, (1973), “The synthesis of sericetin and related
flavonols”, Tetrahedron, 29 (21), pp. 3347-3350.
[53] Kusano G., Koguchi S., Shibano M., Takahashi K., Okada Y., Coskun
M., Ozgen U., Erdurak C. S., Okuyama T., (2002), “ Study on index
compounds for HPLC analysis of Glycyrrhiza flavescens growing in
Turkey”, Nat. Med. (Tokyo, Japan), 56(4), pp. 129-135.
[54] Abdallah Abu-Mellal, Nooshin Koolaji, Rujee K. Duke, Van H. Tran,
Colin C. Duke, (2012), “Prenylated cinamate and stibenes from
Kangaroo Island propolis and their antioxidant activity”, Phytochemistry,
77, pp. 251-259.
[55] Toshio Fukai, Taro Nomura, (1992), “1H-NMR chemical shif of the
flavonol 5-hydroxy proton as a characterization of 6-or-8 isoprenoid
subtitution”, Heterocycles, 34 (6), pp. 1213-1225.
163
[56] Yoshinori Asakawa, (1971), “Chemical constituents of Anus sieboldiana
(Betulaceae) II. The isolation and structure of flavonoids and stibenes”,
Bulletin of the Chemical society of Japan, 44, pp. 2761-2766.
[57] L. A. Mitscher, G. S. Raghav Rao, I. Khanna, T. Veysoglu and Steven
Drake, (1983), “Antimicrobial agents from higher plants: Prenylated
flavonoids and other phenols from Glycyrrhiza lepidota”,
Phytochemistry, 22 (2), pp. 573-576.
[58] F. Bohlmann, V. R. Abraham, (1979), “Neue prenyl flavone aus
Helichrysum hypocephalum”, Phytochemistry, 18, pp. 1851-1853.
[59] L. A. Mitscher, G. S. Raghav Rao, I. Khanna, T. Veysoglu and S. Drake,
(1983), “Antimicrobial agents from higher plants: Prenylated flavonoids
and other phenols from Glycyrrhiza lepidota”, Phytochemistry, 22 (2),
pp. 573-576.
[60] P. K. Agrawal, (1989), “Carbon-13 NMR of flavonoids”, Elservier, :297
[61] J. W. Rowe, Carol L. Bower, E. R.Wagner (1969), “Extractives of jack
pine bark: Occurrence of cis and trans-pinosylvin dimethyl ether
andferulic acid esters”, Phytochemistry, 8 (1), pp. 239-241.
[62] Zhi Song Piao, Lin Wang, Zhi Zhong Zhao, (2000), “Total synthesis of
the natural product – Pinosylvin and its analog”, Chiness Chemical
Letters, 11 (8), pp. 677-678.
[63] S. Lee, K. S. Kim, S. H. Shim, Y. M. Park, B. K. Kim, (2003),
“Constituent from the Non-polar fraction of Artemisia apiacea”, Arch
Pharm Res., 26 (11), pp. 902-905.
[64] Monira Ahsan, Alexander I.Gray, Peter G. Waterman and James A.
Armstrong, (1994), “Farnesyl acetophenone and flavanone
compounds from the aerial parts of Boronia Ramosa”, J. Nat. Prod.,
57(5), pp. 673-676.
164
[65] Lu Zeng, Toshio Fukai, Taro Nomura, Ru-Yi Zhang and Zhi-Cen Lou
(1992), “Four new prenylated flavonoids, glyasperins A, B, C and D from the
roots of Glycyrrihiza aspera”, Heterocycles, 34(3), pp. 575-587.
[66] Song-Chwan Fang, Bor-Jinn Shiek, Ru-Rong Wu and Chun-Nan Lin
(1995), “Isoprenylated flavonoids of Formosan Broussonetia
papyrifera”, Phytochemistry, 38(2), pp. 535-537.
[67] K. H. Son, S. J. Kwon, H. W. Chang, H. P. Kim, S. S. Kang (2001),
“Papyriflavonol A, a new prenylated flavonol from Broussonetia
papyrifera”, Fitoterapia, 72, pp. 456-458.
[68] Pei-Cheng Zhang, Si Wang, Yan Wu, Ruo-Yun Chen, and De-Quan
Yu (2001), “Five new diprenylated flavonols from the leaves of
Broussonetia kazinoki”, J. Nat. Prod., 64, pp. 1206-1209.
[69] Tsutomo Hatano, Harumi Kagawa, Taeko Yasuhara and Takuo Okuda
(1988), “Two new flavonoids and orther constituents in Licorice root:
Their relative astringency and radical scavenging effects”, Chem.
Pharm. Bull.(Tokyo), 36(6), pp. 2090-2097.
[70] Saito T., Nishimoto Y., Yasuda M., Baba A., (2006), “Direct Coupling
Reaction between alcohols and Silyl compounds: Enhancement of Lewis
acidity of Me3SiBr using InCl3”, J. Org. Chem., 71, pp. 8516-8522
165
CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Trinh Thi Thanh Van, Pham Van Cuong, Francoise Gueritte, Marc
Litaudon and NguyenVan Hung, “New β-sitosterol derivative from
Cleistanthus indochinensis (Euphorbiaceae)”, International Science
conference on “Chemistry for development and integration”, 12-14
September 2008, Hanoi VAST-Proceeding, pp. 266-271, Publishing hause for
scienceand technology.
2. Trịnh Thị Thanh Vân, Phạm Văn Cường, Đoàn Thi Mai Hương, Marc
Litaudon, Nguyễn Văn Hùng (2009) “Nghiên cứu thành phần hóa học cây
Săng bù (Macaranga kurzii – Euphorbiaceae)”, Tạp chí Hóa học, 47(4A),
tr.488 – 491.
3. Trịnh Thị Thanh Vân, Phạm Văn Cường, Đoàn Thi Mai Hương, Marc
Litaudon, Nguyễn Văn Hùng (2009), “Nghiên cứu thành phần hóa học cây
Săng bù (Macaranga kurzii – Euphorbiaceae)”, Tạp chí Hóa học, 47(6B), tr.
198 – 202.
4. Trịnh Thị Thanh Vân, Nguyễn Thùy Linh, Phạm Văn Cường, Đoàn Thi
Mai Hương, Marc Litaudon, Nguyễn Văn Hùng, Châu Văn Minh (2010),
“Nghiên cứu phân lập các chất flavonoit từ quả cây Bạch đàn nam
“Macaranga taranius”, Tạp chí Hóa học, 48(4B), tr. 418-423.
5. Châu Văn Minh, Nguyễn Văn Hùng, Phạm Văn Cường, Đoàn Thi Mai
Hương, Nguyễn Thị Minh Hằng, Trịnh Thị Thanh Vân, Nguyễn Thùy Linh,
Marc Litaudon, Đào Đình Cường (2010), “Một số kết quả tiêu biểu về nghiên
cứu thành phần hóa học chi Cleistanthus và chi Macaranga họ Thầu dầu, Hội
nghị Khoa học kỷ niệm 35 năm Viện Khoa học và Công nghệ Việt nam, tr.
109 – 114.
6. Van Trinh Thi Thanh, Van Cuong Pham, Hung Huy Nguyen, Huong
Doan Thi Mai, Hang Nguyen Thi Minh, Van Hung Nguyen, Marc Litaudon,
166
Francoise Gueritte ang Van Minh Chau (2011), “Cleistanone: A triterpenoid
from Cleistanthus indochinensis with a new carbon skeleton”, , Eur. J. Org.
Chem., pp. 4108-4111
7. Van Trinh Thi Thanh, Van Cuong Pham, Huong Doan Thi Mai, Hang
Nguyen Thi Minh, Van Hung Nguyen, Marc Litaudon, Francoise Gueritte
and Van Minh Chau (2012), “Cleistantoxin from fruits of and synthesis of its
derivatives”, Tetrahedron letters (đã chấp nhận đăng).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- trinh_thi_thanh_van_8117.pdf