Hiện tượng này có thể được giải thích bởi hiệu ứng nhớ của vật liệu sau khi bị
chiếu xạ. Sau khi được chiếu xạ, các phim này được bảo quản trong bình hút ẩm có
hút chân không nên đã loại bỏ quá trình oxy hóa sau bức xạ. Chính vì vậy hiện
tượng mật độ quang của phim sau thời gian lưu trữ lại tăng màu có thể được giải
thích bởi hiệu ứng nhớ của vật liệu sau khi bị chiếu xạ [7-8, 27].
Để tránh sai số kết quả sự suy giảm giá trị mật độ quang của phim sau khi chiếu
xạ, phim cần được đo ngay trong vòng 24 giờ đầu tiên sau khi chiếu. Vì lý do nào
đó mà việc đo giá trị mật độ quang của phim sau khi chiếu xạ không thể thực hiện
ngay, chúng ta cần phải khảo sát kỹ hệ số hiệu chỉnh kết quả cho từng loại phim
khác nhau thông qua hàm làm khớp mô tả xu hướng biến đổi màu của phim sau
chiếu.
103 trang |
Chia sẻ: tueminh09 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 632 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu và phát triển phương pháp đo liều bức xạ gamma và nơtron dùng liều kế màng mỏng nhuộm màu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.9) và độ thay đổi mật độ quang sau khi chiếu xạ (Hình 3.10) được làm từ
dung dịch có %PVA khác nhau.
Hình 3.9: Sự thay đổi giá trị mật độ quang trên các phim nhuộm màu có
chứa %PVA khác nhau trước khi được chiếu xạ gamma tại bước sóng 668 nm.
58
Hình 3.10: Sự thay đổi giá trị A/d trên các phim mỏng có %PVA khác nhau tại
bước sóng 668 nm.
Độ suy giảm mật độ quang trên một đơn vị bề dày của phim (còn gọi là độ suy
giảm mật độ quang riêng) sau chiếu được xác định bằng công thức:
0/ ( ) /A d A A d = − (3.3)
trong đó A0 và A lần lượt là giá trị hệ số hấp thụ quang của phim PVA được nhuộm
màu trước và sau khi được chiếu xạ bởi nguồn gamma tại bước sóng 668 nm, d là
bề dày của phim. Sai số phép đo giá trị mật độ quang của phim trên hệ thiết bị đạt
±2%. Bề dày phim được đo trên thước điện tử Absolute AOS-Mitutoyo với độ
chính xác đến ±1m.
Bảng 3.2: Giá trị mật độ quang của phim trước và sau khi chiếu xạ
với %PVA khác nhau.
%PVA d [mm]
Giá trị mật độ quang
Trước chiếu Sau chiếu
1,47 0,01 1,458±0,028 1,211±0,021
2,94 0,02 1,574±0,031 0,741±0,015
5,88 0,05 1,698±0,030 0,576±0,010
7,35 0,06 1,711±0,031 0,442±0,010
59
Như vậy, khảo sát sự thay đổi giá trị mật độ quang của phim cho thấy xu hướng
tăng giá trị mật độ quang khi %PVA trong dung dịch tăng. Tuy nhiên sau khi được
chiếu xạ thì giá trị A/d tại %PVA = 2,94 đạt giá trị cao nhất. Điều đó cho thấy loại
phim mỏng nhuộm màu PVA đạt khả năng làm việc tốt nhất khi đạt giá trị
2,94 %PVA so với các phim khác.
3.1.7 Khảo sát sự ảnh hưởng của các chất phụ gia lên giá trị mật độ quang của
phim trước và sau khi chiếu xạ gamma
Việc đưa thêm các chất phụ gia vào quá trình chế tạo loại phim màng mỏng
nhuộm màu với mục đích tăng chất lượng của phim như phim trong hơn, bền hơn,
ghi nhận bức xạ tốt hơn. Chúng tôi chọn một số chất phụ gia như Sulfate Cadmium
CdSO4, Lithium Hydroxide Monohydrate (LiOH.H2O), Axit Boric (H3BO3), Natri
Borat Decahidrat (Na2B4O7.10H2O) và Lithium Fluoride (LiF). Để đánh giá khả
năng tương tác của phim mỏng nhuộm màu có chứa các chất phụ gia khác nhau,
chúng tôi tiến hành khảo sát giá trị mật độ quang của phim trước và sau khi được
chiếu trên nguồn bức xạ gamm từ các phim ở liều 25 kGy.
Đánh giá độ đồng đều của phim khi được chế tạo bằng phương pháp nêu trên,
chúng tôi tiến hành khảo sát giá trị mật độ quang của phim ngay sau khi gia công
chế tạo. Chúng tôi tiến hành lấy mỗi loại phim có chứa chất phụ gia khác nhau 10
mẫu phim. Các loại phim được chọn là phim BMB0, BMB2, LMB1, LMB2, CMB
và NMB và có bề dày phim đều là 0,02 mm. Giá trị trung bình mật độ quang đo trên
10 phim của các loại phim chứa các chất phụ gia khác nhau được trình bày trong
Bảng 3.3 với sai lệch của phim là 2%. Kết quả cho thấy phương pháp làm mẫu đã
đảm bảo độ đồng đều màu của mẫu là cao.
Mô tả giá trị mật độ quang của các loại phim PVA nhuộm màu với các chất phụ
gia thêm vào khác nhau trình bày trên Hình 3.11. Các kết quả trình bày trên Bảng
3.3 và Hình 3.11 cho thấy rằng phim NMB có giá trị mật độ quang trước chiếu là
cao nhất rồi đến phim BMB2. Các phim NMB và BMB2 có giá trị mật độ quang
cao hơn phim MBM0, là phim không có chất phụ gia đưa thêm vào. Như vậy việc
đưa thêm Natri Borat Decahidrat và Axit Boric vào phim mỏng PVA nhuộm màu
đã làm tăng màu của phim BMB0 lên rõ rệt. Ngược lại, việc đưa thêm Sulfate
60
Cadmium và Lithium Hydroxide Monohydrate đã làm giảm màu của phim so với
trước khi được cho thêm.
Bảng 3.3: Khảo sát độ đồng đều của các phim trên mỗi loại phim có chứa
chất phụ gia khác nhau.
STT
Giá trị mật độ quang
BMB0 BMB2 LMB1 LMB2 CMB NMB
1 1,561 1,812 1,345 1,119 1,301 2,026
2 1,585 1,725 1,349 1,122 1,3 2,083
3 1,639 1,851 1,352 1,178 1,353 2,141
4 1,591 1,858 1,334 1,102 1,311 2,009
5 1,534 1,791 1,399 1,077 1,311 2,144
6 1,592 1,754 1,348 1,12 1,301 2,061
7 1,585 1,807 1,394 1,096 1,3 2,141
8 1,529 1,780 1,399 1,101 1,338 2,063
9 1,566 1,771 1,316 1,129 1,31 2,025
10 1,555 1,756 1,403 1,124 1,353 2,062
TB 1,574 1,791 1,364 1,115 1,318 2,076
Stdev 0,032 0,042 0,032 0,022 0,022 0,051
% 2% 2% 2% 2% 2% 2%
d(mm) 0,02 0,02 0,02 0,02 0,02 0,02
Hình 3.11: Giá trị mật độ quang trung bình của các loại phim trước và sau khi được
chiếu xạ gamma tại đỉnh hấp thụ có bước sóng 668 nm
61
Sau khi được chiếu xạ trên nguồn gamma thì giá trị mật độ quang của tất cả các
phim PVA nhuộm màu có chứa các chất phụ gia khác nhau đều giảm so với trước
khi chiếu và được minh họa trên Hình 3.11. Hình 3.12 đã mô tả mức độ thay đổi
của giá trị mật độ quang trước và sau khi chiếu gamma tại bước sóng hấp thụ đặc
trưng của phim PVA được nhuộm màu với chất phụ gia khác nhau.
Hình 3.12: Sự thăng giáng giá trị mật độ quang của các phim tại bước sóng 668 nm
sau khi được chiếu trên nguồn gamma ở liều 25 kGy.
Các kết quả A trên Hình 3.12 cho thấy rằng việc đưa thêm chất phụ gia vào
phim PVA nhuộm màu đã cải thiện độ nhạy bức xạ của phim so với phim PVA
không chứa chất phụ gia. Chỉ riêng phim có cho thêm chất phụ gia LiOH.H2O đã
làm giảm độ nhạy bức xạ của phim. Trong đó việc đưa Axit Boric vào phim đã làm
tăng độ nhạy của phim tốt nhất so với các chất khác.
3.1.8 Đánh giá sự ảnh hưởng của Axit Boric lên phim PVA nhuộm màu
Từ nghiên cứu khảo sát độ nhạy bức xạ trên các phim PVA nhuộm màu có chứa
chất phụ gia khác nhau, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu sự ảnh hưởng của chất phụ
gia Axit Boric lên phim PVA nhuộm màu. Nhiều nghiên cứu trước đây cho thấy
giữa pH của dung dịch làm phim và giá trị độ suy giảm mật độ quang sau khi chiếu
xạ gamma có mối quan hệ với nhau. Nghĩa là pH tăng thì giá trị A/d cũng có xu
hướng tăng [49, 53, 62-64]. Tuy nhiên lượng axit được đưa thêm vào phim cũng
ảnh hưởng đến chất lượng phim như độ trong, độ đàn hồi và độ đồng đều của phim
62
dẫn đến làm giảm độ nhạy bức xạ của phim. Vì vậy, việc đưa một lượng axit phù
hợp sẽ đảm bảo độ nhạy phóng xạ được tăng lên.
Để đưa lượng Axit Boric phù hợp vào phim, tiến hành khảo sát các phim có
chứa các khối lượng Axit Boric 0mg, 50mg, 100mg, 150mg, 180mg và 205 mg
trong dung dịch PVA. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng phim MB/PVA
2,94%PVA được chiếu nguồn gamma ở mức liều 25 kGy. Hình 3.13 mô tả giá trị
mật độ quang của phim MB/PVA 2,94%PVA với lượng Axit Boric khác nhau ở
bước sóng 668nm trước khi được chiếu xạ gamma.
Hình 3.13: Sự thay đổi giá trị mật độ quang trên các phim nhuộm màu với lượng
Axit Boric khác nhau trước chiếu xạ gamma tại bước sóng 668 nm.
Kết quả cho thấy khi lượng Axit Boric đưa vào tăng lên đến 150 mg thì giá trị
mật độ quang của phim trước chiếu cũng tăng lên. Giá trị mật độ quang của phim
giảm nhanh khi lượng Axit Boric đưa vào dung dịch là lớn hơn 150 mg. Đồng thời
các phim được tạo ra từ dung dịch có chứa Axit Boric đưa vào lớn hơn 150 mg
thường giòn hơn, độ trong của phim cũng kém hơn hẳn các loại phim khác. Điều đó
cho thấy khi đưa một lượng Axit Boric phù hợp vào phim đã làm tăng giá trị mật độ
quang của phim lên trước khi chiếu. Nếu đưa vào quá nhiều thì chính axit này đã
cản trở quá trình tạo màng keo, khiến cho các phim được tạo ra bị ăn mòn bởi môi
trường axit, làm cho phim dễ bị giòn gẫy, màu sắc trên phim bị loang lổ không đồng
đều, giảm màu sắc của phim.
63
Các phim với lượng Axit Boric đưa vào khác nhau sau khi tiến hành đo giá trị
mật độ quang ban đầu thì được đưa chiếu xạ gamma ở mức liều 25 kGy. Sự thay
đổi mật độ quang của các phim A/d sau chiếu được mô tả trên Hình 3.14. Các kết
quả đo đạc và khảo sát cho thấy giá trị biến đổi mật độ quang có xu hướng tăng khi
lượng Axit Boric đưa vào tăng lên đến 100 mg và giảm nhanh chóng khi lượng Axit
Boric đưa vào lớn hơn 100 mg. Điều này được giải thích bởi khi các phim PVA
được nhuộm màu chiếu xạ bởi gamma, một trong các cơ chế phá hủy màu trên phim
là chịu ảnh hưởng của độ pH trong phim. Quá trình chiếu xạ đã tạo ra môi trường
axit trong phim làm mất màu của phim. Khi lượng Axit Boric đưa vào phim lớn hơn
100 mg thì sau khi chiếu xạ, phim này đã tự thân bị axit hóa làm giảm chất lượng
của phim khiến cho chúng giảm độ nhạy màu với bức xạ, làm cho giá trị A/d của
phim cũng giảm nhanh.
Hình 3.14: Sự thay đổi giá trị A/d trên các phim mỏng có chứa lượng Axit Boric
khác nhau tại bước sóng 668 nm.
Như vậy, việc đưa Axit Boric lượng nhỏ hơn 100 mg vào dung dịch PVA tạo
phim màng mỏng đổi màu đã giúp làm tăng độ nhạy phóng xạ và cải thiện khả năng
ghi nhận bức xạ gamma đối với phim mỏng PVA được nhuộm màu.
3.1.9 Đánh giá sai số của liều kế màng mỏng PVA nhuộm màu kiểm soát liều
gamma dùng trong phép đo thường quy
64
Loại liều kế màng mỏng nhuộm màu PVA trong kiểm soát liều gamma có thể
gặp phải các nguồn sai số ảnh hưởng đến kết quả đo sau [10-13]:
+ Sai số do hệ liều kế chuẩn Frike
+ Sai số trong quá trình chế tạo các mẻ phim mỏng PVA
+ Sai số trong quá trình chiếu nguồn
Trong quá trình nghiên cứu sự biến đổi màu của phim PVA khi chiếu trên
nguồn gamma, hệ liều kế chuẩn cấp II Fricke được sử dụng làm hệ liều kế chuẩn.
Nguồn sai số gây ra từ hệ liều kế này được đánh giá có giá trị bằng 1,07% ứng với
mức tin cậy 68% và được coi là sai số loại B. Sai số liên quan tới nguồn phóng xạ
gamma sử dụng trong suốt quá trình chiếu xạ được xác định là 0,65% với khoảng
tin cậy bằng 68% là thành phần sai số loại A và bằng 0,43% thành phần sai số loại
B [5]. Trong quá trình chế tạo phim PVA nhuộm màu, sai số độ đồng đều màu giữa
các phim được xác định là 2% với độ tin cậy 68% tương ứng thành phần sai số loại
A. Như vậy, tổng hợp các sai số mà liều kế màng mỏng PVA nhuộm màu có thể có
là 2,40% với khoảng tin cậy bằng 68% hoặc tương ứng với 4,8% với khoảng tin cậy
95%. Sai số này nằm trong giới hạn cho phép đối với các phép đo liều thường quy
tại các thiết bị chiếu xạ công nghiệp là nhỏ hơn 10% [5]. Như vậy liều kế màng
mỏng nhuộm màu PVA hoàn toàn có thể sử dụng làm hệ đo liều kế thường quy
trong ngành công nghệ bức xạ.
3.2 Nghiên cứu một số tính chất của phim PVA nhuộm màu khi chiếu trên
chùm nơtron nhiệt tại kênh số 2 của Lò nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt.
3.2.1 Nguồn nơtron nhiệt tại kênh số 2, Lò nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt
Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt được xây dựng vào năm 1960 trải qua nhiều
lần nâng cấp hiện nay lò đang họat động với công suất danh định là 500 kWt bằng
nhiên liệu VVR-M2 với độ làm giàu U-235 là 19,75%. Chất làm chậm và chất tải
nhiệt bằng nước thường với cơ chế làm nguội vùng họat bằng đối lưu tự nhiên. Chất
phản xạ quanh vùng họat là beryllium và graphite. Nguồn nơtron được sử dụng ở
đây là nguồn nơtron nhiệt tại kênh số 2, Lò nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt và có vị trí,
cấu trúc trên lò phản ứng như minh họa trên Hình 3.15. Dòng nơtron phin lọc tại
kênh ngang số 2 có đặc trưng cơ bản sau: Dạng hình trụ, chiều dài 153 cm, đường
65
kính trong 9,4 cm. Ống đựng phim lọc được làm bằng nhôm dài 141,8 cm, đường
kính ngoài 9 cm, đường kính trong 8,4 cm. Tại vị trí tiếp giáp giữa mặt đáy trong
của hệ dẫn dòng và ống đựng phim lọc được lắp hai vành khuyên Boron-Barbibe
dày 2 mm x2 với đường kính ngoài 9, 35 cm, đường kính trong 6,5 cm và một vành
trụ bằng chì dày 5 cm có đường kính ngoài 9,35 cm, đường kính trong 6,5 cm [54-
55].
Hình 3.15: Cấu trúc kênh ngang tại Lò nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt [55].
Toàn bộ thiết kế tổng thể gồm hệ thống dẫn dòng nơtron, hệ kín nước và các
hệ che chắn bảo đảm an toàn bức xạ để lắp đặt trên kênh ngang số 2 được mô hình
hóa và mô phỏng bằng chương trình MCNP5 và CFNB (Hình 3.16). Thông lượng
nơtron nhiệt tại vị trí chiếu mẫu là 1,6x106 nơtron/cm2.s Các kết quả tính toán cho
thấy giá trị suất liều bức xạ trung bình nơtron và gamma xung quanh hệ che chắn tại
vị trí làm việc thường xuyên (ở khoảng cách > 1 m) trong khu vực xung quanh kênh
thấp hơn so với mức cho phép hiện hành là 10 Sv/h. Suất liều trung bình tại các vị
trí sát bề mặt hệ thống che chắn là < 3,0 Sv/h đối với nơtron và < 15 Sv/h đối với
bức xạ gamma; suất liều trung bình tại khoảng cách 1 m từ bề mặt hệ thống che
chắn lá < 2 Sv/h đối với bức xạ nơtron và < 6,5 Sv/h đối với bức xạ gamma. Với
66
độ dài phim lọc là 80 cm tinh thể silic và 4 cm tinh thể bismuth, thông lượng nơtron
có thể đạt giá trị > 5x107 n/cm2.s. Với các kết quả tính toán trên cho thấy hệ thống
dẫn dòng, chuẩn trực và che chắn bức xạ cho kênh ngang đáp ứng được yêu cầu về
an toàn [9, 75]. Hình 3.13 mô tả cấu trúc hệ che chắn và vị trí đặt mẫu đo trên kênh
số 2 của Lò nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt.
Hình 3.16: Cấu trúc hệ che chắn và dẫn dòng nơtron qua phin lọc trên kênh
số 2 của Lò nghiên cứu hạt nhân Đà lạt [54].
Để nghiên cứu sự biến đổi màu của phim PVA nhuộm màu khi chiếu trên Lò
nghiên cứu hạt nhân, chúng tôi tiến hành đánh giá giá trị liều nơtron nhiệt và liều
gamma tại vị trí chiếu mẫu.
Phương pháp thực nghiệm để xác định liều tại vị trí chiếu mẫu được thực hiện
bằng phương pháp kích họat nơtron sử dụng lá dò vàng và sử dụng hệ số chuyển đổi
trên cơ sở các tiêu chuẩn quốc tế về hệ số chuyển đổi thông lượng neutron thành
suất liều. Hai tiêu chuẩn sử dụng phổ biến hiện nay là chuẩn 10CFR trích từ code
của Federal Regulation (1993) bởi Ủy ban Pháp quy hạt nhân Mỹ (Us nuclear
Regulatory commission) và chuẩn NCRP của Hội đồng Đo lường và an toàn quốc
gia Mỹ. Trong nghiên cứu này, hệ số chuyển đổi (Neutron Flux- To - Dose) theo
tiêu chuẩn 10CFR-20 (USA) đã được sử dụng trong tính toán suất liều nơtron [54].
Bảng 3.4 mô tả kết quả tính liều nơtron thực hiện bằng phương pháp kích họat
nơtron sử dụng lá dò vàng và sử dụng hệ số chuyển đổi.
67
Dòng nơtron nhiệt từ kênh số 2 có phông gamma thấp và được chuẩn trực tốt với
đường kính của chùm từ 4-40 mm. Để đánh giá sự đóng góp của liều chiếu gamma
lên phim mỏng tại vị chí chiếu mẫu, chúng tôi tiến hành đánh giá suất liều gamma
thông qua phương pháp đo thực nghiệm bằng liều kế TLD là 2,7199 mGy/h, sai số
phép đo < 20%.
Bảng 3.4: Xác định liều nơtron bằng phương pháp kích họat nơtron sử dụng lá dò
vàng và sử dụng hệ số chuyển đổi
Thời gian
chiếu (giờ)
Thông lượng
nơtron nhiệt
(n/cm2/s)
Tốc độ liều
tương đương
( mrem/h)
Liều tương đương
(mrem)
Liều hấp thụ
(Gy)
1
1,60x106 5,88x103
5,88 x103 0,059
2 1,18 x104 0,118
4 2,35 x104 0,235
8 4,71 x104 0,471
12 7,06 x104 0,706
24 1,41 x105 1,411
3.2.2 Chế tạo phim màng mỏng
3.2.2.1 Chuẩn bị nguyên liệu và hoá chất
Bột PVA có khối lượng mol phân tử là Mw = 89 000-98 000 g/mol, thủy phân
đạt 99% và có nguồn gốc là cung cấp bởi hãng SIGMA. Bột PVA sẽ được hòa tan
trong dung dịch nước De-ion (DI) ở nhiệt độ thích hợp.
Chất chỉ thị màu được dung chế tạo phim màng mỏng là Methylene blue 10-3M
(C16H18ClN3SxxH2O, Mw = 319,86. Bước sóng tại đỉnh hấp thụ đặc trưng của các
màu này có giá trị 668 nm.
Các chất phụ gia được thêm vào phim nhuộm màu bao gồm: Sulfate Cadmium
CdSO4, Lithium Hydroxide Monohydrate, Axit Boric H3BO3, Natri Borat
Decahidrat và Lithium Fluoride.
3.1.2.2 Các bước gia công chế tạo
a) Chuẩn bị chất nhuộm màu
Chất nhuộm màu Methylene blue được chuẩn bị tương tự như trong Mục 3.1.2.1.
b) Chuẩn bị phim nhuộm màu
68
Phim nhuộm màu PVA dung chiếu trên nguồn nơtron nhiệt được chuẩn bị tương
tự như trong Mục 3.1.2.2
3.2.3 Khảo sát sự ảnh hưởng của các chất phụ gia lên giá trị mật độ quang của
phim sau khi chiếu xạ.
Các chất được đưa vào có chứa Bo, Li và Cd là những nguyên tử có phản ứng
với nơtron nhiệt tạo ra các hạt mang điện khác. Chính vì thế, việc đưa thêm các chất
này giúp tăng cường khả năng ghi nhận nơtron của các phim PVA nhuộm màu.
Để khảo sát trạng thái làm việc của các phim PVA nhuộm methylene có chứa
các chất phụ gia khác nhau khi chiếu trên nguồn nơtron nhiệt, các phim này được
đưa vào chiếu nơtron nhiệt trên Lò nghiên cứu Đà Lạt trong khoảng thời gian 10
giờ liên tục và tiến hành xác định sự thăng giáng giá trị mật độ quang của phim. Các
kết quả khảo sát độ thăng giáng giá trị mật độ quang của phim A sau chiếu được
trình bày trên Hình 3.17. Từ hình vẽ thấy rằng độ thăng giáng mật độ quang của
phim A trên phim BMB0 là cao nhất, rồi đến BMB2 và LBM1. Các phim CMB,
LMB và NMB đều có giá trị rất nhỏ. Kết quả cho thấy loại phim BMB0 không có
chứa chất phụ gia tăng cường lại có giá trị thay đổi mật độ quang trước và sau khi
chiếu xạ là cao nhất.
Các phim mỏng PVA khi bị chiếu xạ với gamma thì quá trình ngắt mạch chiếm
ưu thế khiến cho phân tử lượng của polyme này giảm đi. Phim mỏng PVA được
nhuộm màu sẽ bị mất màu bởi quá trình ion hóa bức xạ trong phim. Quá trình ion
hóa bức xạ đã dẫn đến quá trình phá hủy các tâm màu [7-8]. Tuy nhiên việc đưa
thêm các chất phụ gia này đã làm tăng độ bền bức xạ của polyme lên khi chúng
được chiếu với nơtron. Khi tiến hành chiếu nguồn nơtron lên phim có thêm chất phụ
gia dẫn đến sự hình thành thêm nhiều các gốc tự do, làm cho phân tử lượng của
polymer tăng lên và đó chính là hiệu ứng khâu mạch. Chính điều này dẫn đến sự
hình thành nên các tâm màu, khiến cho phim có hiện tượng tăng màu [18]. Như vậy
khi chiếu trên nguồn nơtron, quá trình truyền năng lượng ion hóa không chỉ diễn ra
trên PVA mà còn trên các chất phụ gia. Điều đó dẫn tới việc giảm quá trình phá hủy
các tâm màu trên phim. Vậy việc đưa thêm các chất phụ gia CdSO4, LiOH.H2O,
H3BO3, Na2B4O7.10H2O và LiF sẽ làm tăng độ dẻo dài, độ trong của phim cũng như
69
tăng độ màu của phim nhưng lại cản trở quá trình phá hủy các tâm màu của phim
khi chúng được chiếu trên nguồn nơtron nhiệt.
Hình 3.17: Sự thăng giáng giá trị mật độ quang của các phim tại bước sóng 668 nm
sau khi được chiếu trên nguồn nơtron nhiệt 10 giờ.
3.2.4 Khảo sát trạng thái của phim sau khi chiếu
Các phim PVA được nhuộm màu sau khi được chiếu trên nguồn nơtron nhiệt
được bảo quản trong bình hút ẩm chuyên dụng và để ở điều kiện nhiệt độ phòng thí
nghiệm. Sau đó phim sẽ được mang ra đo giá trị mật độ quang trong thời khoảng 30
ngày. Đối với nghiên cứu này đã tiến hành khảo sát giá trị mật độ quang của các
phim BMB0, BMB2, LMB1, LMB2, CMB và NMB sau khi được chiếu xạ trên
nguồn nơtron nhiệt trong khoảng thời gian 10 giờ. Kết quả khảo sát sự biến đổi giá
trị mật độ quang của các phim được nhuộm Methylene blue được minh họa trên các
Hình 3.18 đến Hình 3.23 dưới đây:
70
Hình 3.18: Sự thay đổi giá trị mật độ quang của phim PVA nhuộm Methylene blue
và không có Axit Boric, được chiếu trong 10 giờ.
Hình 3.19: Sự thay đổi giá trị mật độ quang của phim PVA nhuộm Methylene blue
với 100 mg Axit Boric và được chiếu trong 10 giờ.
71
Hình 3.20: Sự thay đổi giá trị mật độ quang của phim PVA nhuộm Methylene blue
có LiF và được chiếu trong 10 giờ.
Hình 3.21: Sự thay đổi giá trị mật độ quang của phim PVA nhuộm Methylene blue
có Lithium Hydroxide Monohydrate và được chiếu trong 10 giờ.
72
Hình 3.22: Sự thay đổi giá trị mật độ quang của phim PVA nhuộm Methylene blue
có Sulfat Cadmium và được chiếu trong 10 giờ.
Hình 3.23: Sự thay đổi giá trị mật độ quang của phim PVA nhuộm Methylene blue
có Natri Borat Decahodrat và được chiếu trong 10 giờ.
Từ các kết quả minh họa trên các Hình 3.18 đến Hình 3.23, chúng tôi thấy rằng
phim PVA được nhuộm màu Methylene blue sau khi được chiếu xạ thì giá trị mật
độ quang của chúng đều có xu hướng giảm trong vòng 24 giờ. Tuy nhiên, sau thời
73
gian 24 giờ sau chiếu thì giá trị mật độ quang của phim lại có xu thế tăng lên. Đặc
biệt với phim có đưa thêm chất phụ gia như Lithium Fluoride, Lithium Hydroxide
Monohydrate, Sulfat Cadmium và Natri Borat Decahodrat thì sau thời gian lưu giữ
phim ở điều kiện phòng thí nghiệm, giá trị mật độ quang của phim có xu hướng
tăng cao, lớn hơn giá trị ban đầu của phim trước khi được chiếu xạ. Trong khi đó,
phim PVA nhuộm màu không chứa chất phụ gia và phim có chứa thêm Axit Boric
có sự tăng giá trị mật độ quang sau thời gian lưu giữ sau khi chiếu, nhưng giá trị
này không lớn hơn giá trị ban đầu của phim trước khi được chiếu xạ. Với hai loại
phim này, trong vòng 5 ngày đầu tiên sau chiếu, giá trị mật độ quang của phim gần
như đã trở về trạng thái bão hòa. Trong khi đó các phim PVA nhuộm màu có chứa
các chất như Lithium Fluoride, Lithium Hydroxide Monohydrate, Sulfat Cadmium
và Natri Borat Decahodrat thì tính ổn định thấp hơn hẳn.
Hiện tượng này có thể được giải thích bởi hiệu ứng nhớ của vật liệu sau khi bị
chiếu xạ. Sau khi được chiếu xạ, các phim này được bảo quản trong bình hút ẩm có
hút chân không nên đã loại bỏ quá trình oxy hóa sau bức xạ. Chính vì vậy hiện
tượng mật độ quang của phim sau thời gian lưu trữ lại tăng màu có thể được giải
thích bởi hiệu ứng nhớ của vật liệu sau khi bị chiếu xạ [7-8, 27].
Để tránh sai số kết quả sự suy giảm giá trị mật độ quang của phim sau khi chiếu
xạ, phim cần được đo ngay trong vòng 24 giờ đầu tiên sau khi chiếu. Vì lý do nào
đó mà việc đo giá trị mật độ quang của phim sau khi chiếu xạ không thể thực hiện
ngay, chúng ta cần phải khảo sát kỹ hệ số hiệu chỉnh kết quả cho từng loại phim
khác nhau thông qua hàm làm khớp mô tả xu hướng biến đổi màu của phim sau
chiếu.
Để có thể xác định được hệ số hiệu chỉnh phù hợp với thời điểm đo mật độ
quang sau chiếu, chúng tôi sử dụng hàm e mũ có dạng như sau:
caxeabs bxday += − (3.1)
trong đó abs là giá trị mật độ quang ghi nhận được sau số ngày lưu giữ day (ngày),
Bảng 3.5 dưới đây tổng hợp kết quả làm khớp công thức của các phim PVA
nhuộm màu được chiếu trên nguồn nơtron nhiệt trong 10 giờ có chứa các chất phụ
gia khác nhau.
74
Bảng 3.5: Kết quả làm khớp sự biến đổi mật độ quang của phim sau khi được chiếu
xạ và được lưu giữ trong phòng thí nghiệm.
Ký hiệu a b c R2
BMB0 -0,336±0,216 0,680±0,317 1,560±0,003 0,9179
BMB2 -0,298±0,078 0,604±0,127 1,748±0,002 0,9778
LMB1 -0,307±0,040 0,221±0,042 1,481±0,008 0,9526
LMB2 -0,260±0,034 0,231±0,043 1,334±0,006 0,9581
CMB -0,372±0,114 0,239±0,101 1,488±0,020 0,7908
NMB -0,185±0,034 0,248±0,062 2,234±0,006 0,9154
Từ nghiên cứu thực nghiệm cho thấy rằng phim mỏng PVA nhuộm màu
Methylene blue có chứa Axit Boric sử dụng như một loại liều kế màng mỏng trong
chiếu xạ nơtron nhiệt có độ bền và độ ổn định cao hơn so với các loại phim sử dụng
chất phụ gia khác. Điều đó đảm bảo cho kết quả ghi nhận được có độ chính xác cao
hơn.
3.2.5 Khảo sát sự ảnh hưởng của khối lượng Axit Boric lên chất lượng phim
trước và sau khi chiếu trên nguồn nơtron nhiệt
Từ nghiên cứu khảo sát việc đưa thêm các chất nhằm tăng khả năng làm việc
của phim, thấy rằng việc đưa thêm Axit Boric vào phim nhuộm màu là ưu việt hơn
hẳn các chất khác nên chọn đưa Axit Boric vào phim. Tuy nhiên, để đưa lượng Axit
Boric vào phim phù hợp nhất có thể, cần phải tiến hành nghiên cứu các lượng axit
khác nhau đưa vào phim. Tiến hành khảo sát sự ảnh hưởng của Axit Boric lên chất
lượng phim trước chiếu xạ đã được trình bày chi tiết trong mục 3.7. Từ việc nghiên
cứu trên, các phim BMB0, BMB1, BMB2 và BMB3 là loại phim có chứa hàm
lượng acid boric đưa vào lần lượt từ 0 mg, 50 mg, 100 mg và 150 mg được đưa vào
chiếu trên nguồn nơtron nhiệt.
Các kết quả khảo sát cho thấy khi lượng Axit Boric đưa vào càng tăng thì giá trị
biến đổi mật độ quang sau khi chiếu trên nguồn nơtron càng giảm. Như vậy Axit
Boric đưa vào đã làm tăng sự bảo vệ bức xạ nơtron đối với polymer, làm giảm quá
trình phá hủy các tâm màu trên phim. Khi lượng Axit Boric đưa vào càng tăng thêm
75
thì lúc này chất lượng của phim trước chiếu cũng giảm đi dẫn đến độ nhạy màu với
bức xạ là giảm như đã minh họa trong Hình 3.24.
Hình 3.24: Sự thay đổi giá trị A/d trên các phim mỏng có chứa lượng Axit Boric
khác nhau tại bước sóng 668 nm.
3.2.6 Đường đặc trưng liều
Để nghiên cứu hiệu ứng bức xạ trên phim mỏng PVA nhuộm màu Methylene
blue, chúng tôi sử dụng gồm các phim BMB0, BMB1, BMB2 và BMB3 và xác định
hàm đặc trưng liều cho từng loại phim khác nhau và tiến hành chiếu mẫu trên nguồn
nơtron nhiệt tại kênh số 2, Lò nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt. Việc chọn loại phim này
dựa trên việc khảo sát ảnh hưởng của các chất phụ gia đưa vào, tính ổn định của
phim trước và sau khi chiếu trên nguồn được trình bày trong phần mục phía trên.
Để xác định được đường đặc trưng liều của từng loại phim, tiến hành đưa các
phim vào chiếu trong các khoảng thời gian 1 giờ, 2 giờ, 4 giờ, 8 giờ, 10 giờ, 12 giờ
và 24 giờ. Phim sau khi được chiếu nguồn nơtron thì chuyển ra Hà Nội thực hiện
việc xác định mật độ quang. Đánh giá sự thăng giáng giá trị mật độ quang của các
phim PVA trước khi chiếu Ao và sau khi chiếu A được xác định bởi giá trị
AAA −= 0 và kết quả được trình bày trong Bảng 3.6:
76
Bảng 3.6: Sự thăng giáng giá trị mật độ quang của phim PVA nhuộm màu
Methylene blue có chứa hàm lượng Axit Boric khác nhau.
Thời gian chiếu
(giờ)
Độ thăng giáng giá trị mật độ quang A
BMB0 BMB1 BMB2 BMB3
1 0,209 0,048 0,047 0,039
2 0,203 0,065 0,038 0,060
4 0,234 0,131 0,118 0,081
8 0,296 0,152 0,137 0,066
10 0,347 0,189 0,142 0,088
12 0,356 0,251 0,142 0,134
24 0,360 0,299 0,147 0,170
Kết quả nghiên cứu cho thấy loại phim BMB0 tương ứng với khối lượng Axit
Boric đưa vào bằng 0mg có độ thăng giáng A là cao nhất so với các phim BMB1,
BMB2 và BMB3 ở cùng một khoảng thời gian chiếu mẫu.
Như vậy, độ thăng giáng giá trị mật độ quang của từng loại phim A tăng lên
khi chúng được chiếu trong khoảng thời gian tăng lên. Tuy nhiên với các hàm lượng
acid boric đưa vào khác nhau thì thì quá trình thăng giáng mật độ quang của mỗi
loại phim cũng khác nhau. Nghĩa là khi hàm lượng Axit Boric được đưa vào các
phim tăng lên thì quá trình thăng giáng giá trị mật độ quang của các phim A lại
giảm xuống, nghĩa là độ nhạy ghi nhận bức xạ của các phim đối với bức xạ nơtron
đã bị giảm đi. Ban đầu, việc đưa thêm Axit Boric là nhằm tăng độ màu cũng như
làm tăng khả năng ghi nhận hiệu ứng tương tác của nơtron với vật liệu làm phim
như trình bày trong mục 3.1.8, nhưng kết quả lại cho thấy việc đưa thêm Axit Boric
lại làm giảm sự thăng giáng mật độ quang của phim khi chiếu trên nguồn nơtron
nhiệt. Như vậy Axit Boric đưa vào đã làm tăng sự bảo vệ bức xạ nơtron đối với
polymer, làm giảm quá trình phá hủy các tâm màu trên phim. Khi lượng Axit Boric
đưa vào càng tăng thêm thì lúc này quá trình khâu mạch trong polymer tăng lên, sự
hình thành tâm màu tăng lên.
Việc xác định đặc trưng liều của phim là một công việc quan trọng và cần thiết.
Bởi công việc này giúp xác định được xu hướng biến đổi của phim khi chúng được
chiếu xạ. Các dạng hàm đặc trưng liều thường gặp gồm: dạng hàm tuyến tính, dạng
77
đa thức, dạng hàm mũ, dạng hàm mũ bão hòa, dạng hàm mũ suy giảm và dạng hàm
tuyến tính suy giảm. Trong đó dạng hàm mũ mô hình truyền năng lượng được sử
dụng để xác định hàm đặc trưng liều của các phim mỏng nhuộm màu Methylene
blue.
Xác định đường đặc trưng liều từ sự thay đổi giá trị mật độ quang của phim theo
hàm mũ bão hòa của mô hình truyền năng lượng và chúng tôi thu được kết quả trình
bày trong Bảng 3.7 và Hình 3.25 dưới đây:
Bảng 3.7: Giá trị các tham số của đường cong đặc trưng liều trên các phim PVA
nhuộm màu có chứa hàm lượng Axit Boric khác nhau.
Film no ns k n0/ns R2
BMB0 1,540±0,043 1,234±0,026 7,077±2,729 1,248±0,043 0,897
BMB1 1,648±0,015 1,322±0,046 1,515±0,447 1,247±0,045 0,970
BMB2 1,791±0,013 1,636±0,011 4,491±1,248 1,095±0,011 0,956
BMB3 1,849±0,012 1,646±0,075 0,963±0,610 1,123±0,051 0,928
Hình 3.25: Sự thay đổi giá trị mật độ quang của phim PVA nhuộm màu Methylene
blue có chứa khối lượng Axit Boric khác nhau tại bước sóng 668 nm.
78
Như vậy hàm đặc trưng liều sử dụng mô hình truyền năng lượng là hòan toàn
phù hợp vì chúng cho giá trị làm khớp hàm R2 từ 0,897 đến 0,970. Các kết quả này
cho thấy xu hướng biến đổi màu của các loại phim khi chúng được chiếu ở các
khoảng thời gian chiếu khác nhau trên nguồn nơtron nhiệt.
79
Kết luận Chương III
Chương III đã trình bày kết quả nghiên cứu sự suy giảm giá trị mật độ quang
của phim mỏng nhuộm trên màu thuốc nhuộm crystal violet, methyl red, Methylene
blue và methyl orange. Trong chương này, chúng tôi đã xây dựng được đường đặc
trưng liều cho từng loại phim chứa các chất nhuộm màu khác nhau. Từ việc xác
định độ nhạy màu đối với bức xạ gamma cho thấy phim PVA nhuộm Methylene
blue có độ nhạy bức xạ là tốt nhất so với các màu còn lại. Chúng tôi cũng đã thực
hiện việc nghiên cứu cải tiến chất lượng, tăng độ nhạy phim PVA nhuộm màu bằng
việc khảo sát %PVA có trong phim cũng như đưa thêm Axit Boric vào phim. Các
kết quả nghiên cứu trên cho thấy phim PVA nhuộm màu với hàm lượng 2,94%
PVA với lượng chất phụ gia Axit Boric đưa vào nhỏ hơn 100 mg là loại liều kế
màng mỏng phù hợp cho việc phát triển và ứng dụng hệ liều kế đo liều cao dùng
trong công nghệ bức xạ ở Việt Nam.
Cũng trong chương này đã khảo sát đặc tính của loại màng mỏng PVA nhuộm
màu Methylene blue khi được chiếu trên nguồn nơtron nhiệt tại kênh ngang số 2, Lò
nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt. Các kết quả tiến nghiên cứu phim PVA nhuộm màu có
chứa các chất phụ gia khác nhau nhằm tăng thêm độ bền cơ học và độ nhạy màu với
bức xạ của phim cho thấy phim PVA nhuộm màu. Các nghiên cứu của chúng tôi
cho thấy việc đưa thêm chất phụ gia vào phim được chiếu xạ trên nguồn nơtron đã
làm tăng quá trình khâu mạch trong polymer, dẫn đến việc tăng các tâm màu trong
phim, giảm quá trình phá hủy các tâm màu. Quá trình này ngược lại với quá trình
ngắt mạch của phim PVA nhuộm màu khi được chiếu trên nguồn gamma. Và quá
trình tăng khối lượng chất phụ gia vào phim thì càng làm tăng quá trình tái tạo các
tâm màu mới, làm giảm quá trình mất màu sau khi chiếu xạ. Sử dụng mô hình
truyền năng lượng trong việc xác định hàm đặc trưng biến đổi mật độ quang của
phim khi chiếu trên nguồn nơtron là phù hợp.
80
KẾT LUẬN CHUNG
Kết quả của luận án
Trong luận án này, chúng tôi đã nghiên cứu phát triển phương pháp đo liều bức
xạ gamma trên phim mỏng PVA nhuộm màu và nghiên cứu một số tính chất của
phim mỏng PVA nhuộm màu khi chiếu trên chùm nơtron nhiệt tại kênh số 2 của Lò
nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt. Những kết quả chính của luận án được tóm tắt như
sau:
1. Đã nghiên cứu thành công phim màng mỏng PVA được nhuộm màu dùng
trong kiểm soát liều phóng xạ gamma ở khoảng liều rộng từ 0 đến 150kGy. Trong
nghiên cứu này, chúng tôi đã đánh giá được sự biến đổi màu của phim PVA nhuộm
màu khi chúng được chiếu xạ ở các mức liều khác nhau. Bên cạnh đó, chúng tôi đã
khảo sát và đánh giá độ nhạy màu với bức xạ trên các phim được nhuộm các màu
khác nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy phim nhuộm màu xanh methylence có độ
nhạy màu tốt nhất so với các thuộc nhuộm còn lại với bức xạ gamma ở khoảng liều
rộng từ 0 đến 150 kGy. Đã tiến hành khảo sát vai trò và sự ảnh hưởng của hàm
lượng dung dịch phần trăm PVA lên khả năng làm việc của phim và cho thấy phim
với hàm lượng 2,94% PVA thì độ suy giảm mật độ quang riêng của phim đạt giá trị
cao nhất, đồng nghĩa với việc phim có khả năng làm việc tốt nhất so với các hàm
lượng %PVA khác được khảo sát. Để tăng độ nhạy bức xạ của phim, chúng tôi đã
tiến hành nghiên cứu đưa thêm một lượng Axit Boric phù hợp vào trong phim.
Lượng chất Axit Boric được đưa thích hợp vào đã làm tăng giá trị mật độ quang của
phim trước chiếu và độ suy giảm mật độ quang riêng của phim cũng tăng lên cho
thất độ nhạy bức xạ gamma của phim cũng được cải thiện rõ rệt.
2. Đã bước đầu nghiên cứu một số tính chất của phim PVA nhuộm màu khi
chiếu trên chùm nơtron nhiệt tại kênh số 2 của Lò nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt.
Trong phần này, chúng tôi đã tiến hành khảo sát sự ảnh hưởng của các chất phụ gia
lên giá trị mật độ quang của phim sau khi được chiếu trên nguồn nơtron. Các kết
quả nghiên cứu cho thấy việc đưa thêm chất phụ gia vào đã làm giảm quá trình phá
hủy các tâm màu của phim khi chúng được chiếu trên nguồn nơtron. Điều này cho
81
thấy phi PVA được nhuộm màu đưa thêm chất phụ gia đã làm giảm độ nhạy màu
của phim với bức xạ nơtron.
3. Nghiên cứu và sử dụng thành công mô hình truyền năng lượng trong việc xác
định đường đặc trưng liều cho phim PVA nhuộm màu cho cả quá trình chiếu xạ
gamma và nơtron.
Các kết quả nghiên cứu này là đáng tin cậy, đã được công bộ trên các tạp chí
chuyên ngành có uy tín cho thấy loại phim màng phỏng PVA được nhuộm màu có
thể ứng dụng trong việc kiểm soát liều cao của chiếu xạ gamma và nơtron trên Lò
nghiên cứu. Tuy nhiên, để có thể đánh giá đầy đủ hơn về phim PVA nhuộm màu
trong quá trình kiểm soát liều nơtron trên Lò nghiên cứu, chúng tôi đề xuất nghiên
cứu tiếp một số vấn đề sau:
1. Phân tách được sự đóng góp của liều gamma và liều nơtron lên phim PVA
nhuộm màu khi chiếu trên Lò nghiên cứu thông qua giá trị mật độ quang.
2. Kiểm soát và giảm quá trình thay đổi mật độ quang của phim nhuộm màu
khi được lưu trữ sau khi chiếu trên nguồn nơtron Lò nghiên cứu.
82
DANH SÁCH CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƯỢC
CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Anh Thi Vo, Nghiep Dai Tran, Giap Van Trinh, Diep Bang Tran, Binh Van
Nguyen (2018) Investigation characteristics of polyvinyl alcohol films dyed
Methylene blue as a radiation dosimeter, Journal of Radioanalytical and
Nuclear Chemistry, https://doi,org/10,1007/s10967-018-5921-2
2. Anh Thi Vo, Nghiep Dai Tran, Giap Van Trinh, Son Ngoc Pham (2018)
Effect of thermal neutron irradiation at No. 2 channel of Dalat nuclear
research reactor on dyed polyvinyl, Journal of Radioanalytical and Nuclear
Chemistry, https://doi.org/10.1007/s10967-018-6177-6
3. Vo Thi Anh, Tran Dai Nghiep, Trinh Van Giap (2018) To Determine Dose
Response Curves of Dyed Polyvinyl Alcohol Films Irradiated with Gamma-
Rays, Open Journal of Safety Science and Technology, 8:13-19
4. Nguyễn Thành Công,Võ Thị Anh, Trần Đại Nghiệp (2016), Nghiên cứu sự
hấp thụ bức xạ gamma trong phim đổi màu do bức xạ, Tạp chí khoa học
Trường Đại học Vinh, 45 (1A): 13-16
5. Võ Thị Anh, Trịnh Văn Giáp, Trần Đại Nghiệp, Nguyễn Thành Công (2018)
Nghiên cứu sự nhậy màu của phim Poly(vinyl Alcohol) nhuộm màu bị chiếu
xạ gamma, Tạp chí khoa học Trường Đại học Vinh, 47 (1A): 14-20
6. Võ Thị Anh, Nguyễn Thành Công, Trịnh Văn Giáp, Trần Đại Nghiệp và
Phạm Ngọc Sơn (2018) Nghiên cứu sự nhậy màu của phim Poly(vinyl
Alcohol) nhuộm màu chiếu trên nguồn nơtron, Tạp chí Khoa học (Trường
Đại học Vinh), 46 (4A): 5-10
7. Võ Thị Anh, Trịnh Văn Giáp, Trần Đại Nghiệp (2015) Ảnh hưởng của các
tác nhân hoá học đối với quá trình truyền năng lượng của bức xạ gamma
trong các phim mỏng, Hội nghị khoa học và công nghệ Hạt nhân toàn quốc
lần thứ XI, 6-7/8/2015, Thành phố Đà Nẵng
83
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TIẾNG VIỆT
1. Đào Khắc An (2012), Một số phương pháp vật lý thực nghiệm hiện đại, NXB
Giáo dục Việt Nam.
2. Phan Tiến Dũng (2008), Chế tạo hệ thống thiết bị đo liều bức xạ ứng dụng trong
y tế và an toàn bức xạ, Báo cáo tổng kết đề tài cấp Bộ 2006-200, Bộ Khoa học và
Công nghệ.
3. Nguyễn Thị Định (2004), Nghiên cứu chế tạo liều kế màng mỏng PVA-
Bromocresol green dùng trong công nghệ bức xạ, Khoá luận tốt nghiệp, Khoa Vật
lý, Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. PGS. TS Ngô Quang Huy (2004); An toàn bức xạ ion hoá; NXB Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội.
5. Hoàng Hoa Mai (2002), Nghiên cứu ứng dụng các hệ liều kế dung trong công
nghệ bức xạ, Luận án tiến sỹ Vật lý, Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam, Hà Nội.
6. Đỗ Thị Nguyệt Minh (2005), Nghiên cứu hiệu ứng hoá lý trong tương tác của
bức xạ gamma với một số vật liệu nhạy bức xạ, luận án tiến sỹ Vật lý, Viện Năng
lượng Nguyên tử Việt Nam, Hà Nội.
7. Trần Đại Nghiệp (2002), An toàn Bức xạ, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
8. Trần Đại Nghiệp (2007), Xử lý Bức xạ và Cơ sở của Công nghệ Bức xạ, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội.
9. Vương Hữu Tấn (2016), Thực nghiệm vật lý hạt nhân sử dụng các kênh ngang
của lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội.
10. TCVN 9595-3:2013 (ISO/IEC Guide 98-3:2008) Độ không đảm bảo đo – Phần
3: Hướng dẫn trình bày độ không đảm bảo đo (GUM:1995).
11. TCVN 12021:2017 (ISO/ASTM 51707:2015) Bảo vệ bức xạ - Hướng dẫn đánh
giá độ không đảm bảo đo trong đo trong đo liều xử lý bức xạ.
12. TCVN 12019 (ISO/ASTM 51261) Bảo vệ bức xạ - Thực hành hiệu chuẩn hệ đo
liều thường quy cho xử lý bức xạ.
84
13. TCVN 7910:2017 (ISO/ASTM 51275:2013) Bảo vệ bức xạ - Thực hành sử
dụng hệ đo liều phim nhuộm màu bức xạ.
14. Chu Thị Xuân (2005), Nghiên cứu hàm đặc trưng liều của các màng mỏng
Chitosan nhuộm màu và PVA nhuộm màu trong trường bức xạ của 60Co và khả
năng ứng dụng trong xử lý bức xạ, Khoá luận tốt nghiệp, Khoa Vật lý, Trường ĐH
Khoa Học Tự nhiên, ĐH Quốc gia Hà Nội.
85
2. TIẾNG ANH
15. A. Abdel-Fattah, El-Sayed Ahmed Hegazy và H. Ezz El-Din (2002),
“Radiation-chemical formation of HCl in poly(vinyl butyral) films containing
chloral hydrate for use in radiation dosimetry”, International Journal of Polymeric
Materials 51(9), pp. 851-874.
16. American Society for Testing Materials (1988), Method for Using a
Polymethylmetharcrylate Dosimetry System, ASTM Standard E1276, Philadelphia,
17. A. Miller, W, Batsberg and W, Karman (1988), Method for Using a
Radiochromic Film Dosimetry System, ASTM Standard E1276, American Society
for Testing Materials, Philadelphia.
18. Abutalib M. M và Osiris W. Guirguis (2014), “Influence of fast neutron
irradiation on the optical properties of Poly(vinyl Alcohol)/Hydroxypropyl cellulose
blends”, British Journal of Applied Science & Technology 4(30), pp. 4316-4327.
19. Abd El-Kader K. M., Abd Hamied S. F, Mansour A. B., El-Lawindy A. M. Y.,
El-Tantaway F. (2002), “Effect of the molecular weights on the optical and
mechanical properties of poly (vinyl alcohol) films”, Polyme Testing 21, 847 -850.
20. Abd El-Kader K. M. và Abdel Hamied S. F. (2002), “Preparation of poly (vinyl
alcohol) films with promising physical properties in comparison with commercial
polyethylene film”, Journal of Applied Polymer Science 86, pp. 1219 -1226.
21. Abd El-Kader K. M., El-Lawindy A. M. Y., Mansour A. F., Abdel Hamied S. F
(2002), “Cut‐out filter for ultraviolet radiation from poly (vinyl alcohol)”, Journal
of applied polymer science 84, pp. 1295 -1299.
22. Abd El-Kader K, M., Orabi A, S. (2002), “Spectroscopic behavior of poly
(vinyl alcohol) films with different molecular weights”, Polyme Testing 21(5), 591 -
595.
23. Abdel-Fattah, M. El-Kelany (1998), “Radiation-sensitive indicator based on
radiation-chemical formation of acids in polyvinyl butyral films containing chloral
hydrate”, Radiation Physics and Chemistry 51(3), pp. 317-325, DOI:
10,1016/S0969-806X(97)00258-2.
86
24. Awad A, Al Zahrany, Khalid A, Rabaeh, Ahmed A, Basfar (2011), “Radiation-
induced color bleaching of Methyl red in polyvinyl butyral film dosimeter”,
Radiation Physics and Chemistry 80, pp. 1263–1267.
25. Chapiro A. (1962), Radiation Chemistry of Polymeric Systems, John Wiley &
Sons Inc, London.
26. Christie M, Hassan, Nikolaos A,Peppas (2000), Structure and Application of
Poly(vinyl alcohol) hydrogels Produced by Conventional Crosslinking or by
Freezing/Thawing methods, Advances in polymer Science, Sringer-Verlag Berlin
Heidelberg 2000, vol, 153, pp. 37-65.
27. D. F. Regulla và U. Deffner (1982), “Dosimetry by ESR spectroscopy of
alanine”, The International Journal of Applied Radiation and Isotopes 33(11), pp.
1101-1114.
28. Daniel López, Ione Cendoya, F. Torres, Javier Tejada và Carmen Mijangos
(2001), “Preparation and characterization of poly(vinyl alcohol)‐based magnetic
nanocomposites, 1, Thermal and mechanical properties”, Journal Applied Polymer
Science 82, pp. 3215 -3222.
29. G. Bigazzi, J.C. Hadler N, P. J Iunes, M. Oddone, S. R. Paulo, A. Zuniga G.
(1995), “Absolute thermal neutron fluence determination by thin film of natural
uranium”, Nuclear Instruments and Methods in Physics Research A 352, pp.
588-591.
30. Harald H. Rossi và Walter Rosenzweig (1955), “Measurements of Neutron
Dose as a Function of Linear Energy Transfer”, Radiation Research 2(5), pp.
417-425,
31, Hoang Hoa Mai, Nguyen Dinh Duong, T. Kojima (1998), Dose intercomparison
studies for standardization of high-dose dosimetry in Viet Nam, IAEA-SM-356/58,
pp. 345-350,
32. IAEA (1991), High Dose Dosimetry for Radiation Processing, Vienna, pp.
489-501.
33. IAEA (2008), Cyclotron Produced Radionuclides: Principles and
PracticeTechnical, Technical reports series No, 465, Vienna.
87
34. IAEA (2002), “Dosimeter for Food Irradiation”, Technical reports series No,
409, Vienna.
35. IAEA (1998), “Techniques for high dose dosimetry in industry, agriculture and
medicine”, Proceeding of an International Symposium organized by International
Atomic Agency (IAEA) held in Vienna, pp. 173-187.
36. Ichikawa T., and Yoshida H. (1990), “Mechanism of radiation-induced
degradation of poly(methyl methacrylate) as studied by ESR and electron spin echo
methods”, Journal of Polymer Science Part A: Polymer Chemistry 28, pp. 1185 –
1196.
37. J. W. Nam (1988), “Standardization of high doses in radiation processing”,
IAEA BULLETIN 4, pp. 41-43.
38. Johnny W. Hansen, Mikael Jensen và Robert Katz (1980), The Radiochromic
Dye Film Dose Meter As a Possible Test of Particle Track Theory, Riso National
Laboratory.
39. K. Becker (1973), Solid State Dosimetry, Cleveland, Ohio, CRC Press.
40. Khaled M. A. (1994), “Optical absorption and microhardness of gamma
irradiated poly(vinyl alcohol) doped with CuClz and CrCI3”; Polymer Degradation
and Stability 43, pp. 373 -377.
41. Kuncser V., Filoti G., Podgorsek R., Biebricher M., Franke H. (1998), “The
diffraction efficiency in Fe: PVA explained by Mössbauer spectroscopy”, Journal
of Physics D: Applied Physics 31, pp. 2315-2318.
42. Linda F. Gudeman và Nikolaos A. Peppas (1995), “Preparation and
characterization of pH-sensitive, interpenetrating networks of poly (vinyl alcohol)
and poly (acrylic acid)”, Journal of Applied Polymer Science 55, pp. 919-928.
43. M Krumova, D López, R Benavente, C Mijangos, J,M Pereña (2000), “Effect of
crosslinking on the mechanical and thermal properties of poly(vinyl alcohol)”,
Polymer 41(26), pp. 9265 –9272.
44. M. El,Kelany (2012), “Effect of γ-radiation on the physical properties of
poly(vinyl alcohol) dyed with tetrabromophenolphthalein ethyl ester”, Chemistry
and Materials Research 2(5), pp.71-80.
88
45. M. Suzuki, T. Yoshida, T. Koyama, M. Kimura, K. Hanabusa, H. Shirai (2000),
“Ionic Conduction in Partially Phosphorylated Poly(vinyl alcohol) as Polymer
Electrolytes”, Polymer 41, 4531–4536.
46. Mazzoldi, P. and Arnold G. W. (1987), Ion Beam Modification of Insulators,
United States.
47. J. H. Schulman and W. D. Compton (1963), Color centers In Solid, Oxford:
Pergamon Press.
48. Milena Cernilogar Radez, Marko Giacomelli (2005), “Development of Etched
Track detector system for low fluxes of thermal neutrons”, International
Conference “Nuclear Energy for new Europe 2005”, Slovenia, September 5-8.
49. Muhammad Attique Khan Shahid, Bushra Bashir, Bushra Bashir, Hina Bashir
and Arfa Mubashir (2014), “Dosimetric characterization of Henna dye polyvinyl
alcohol (PVA) films”, Journal of Physical and environmental Science Research 2,
pp 21-31.
50. N. V. Bhat, M. M. Nate, R. M. Bhat and B. C. Bhat (2007), “Effect of -
irradiation on polyvinyl alcohol films doped with some dyes and their use in
dosimetric studies”, Indian Journal of Pure and applied physics 45, pp. 545-548.
51. N. M. El-Sawy , M. B. El-Arnaouty and A. M. Abdel Ghaffar (2010), “γ-
Irradiation Effect on the Non-Cross-Linked and Cross-Linked Polyvinyl Alcohol
Films”, Journal Polymer-Plastics Technology and Engineering 49(2), pp. 169-177,
https:// doi,org/10,1080/03602550903284248.
52. N. T. Tu, N. V. Dung and T. D. Nghiep (2009), “Dose response of polyvinyl
alcohol films dyed by Methyl red under gamma irradiation”, Int, J, Low Radiation 6,
pp.177-184.
53. Nusrat G, Akram, Wasim Afridi Bhutto and Imran Nawaz Sharif (2016), “A
study on the response of natural dye to Gamma radiation as a dosimeter”, African
Journal of Chemistry 3 (3), pp. 182-187.
54. Pham Ngoc Son (2012), Development of filtered neutron beam based on the
horizontal channel No,2 of the Dalat nuclear research reactor; Ministry scientific
project report, code: DT.08/09/NLNT, Ministry of Science and Technology.
89
55. Pham Ngoc Son, Vuong Huu Tan, et al (2011), “Measurement of Thermal
Neutron Cross-section and Resonance Integrals of the 69Ga(n,)70Ga and
71Ga(n,)72Ga Reactions at Dalat Research Reactor”, Journal of the Korean Physical
Society 59(2), pp. 1761-1764.
56. R. Katz, G. L. Sinclair and M. P. R. Waligórski (1986), “The Fricke Dosimeter
as a 1-hit detector”, International Journal of Radiation Applications and
Instrumentation, Part D, Nuclear Tracks and Radiation Measurements 11(6), pp.
301-307.
57. Robert A., Dudley (1972), Dosimetry with photographic emulsions, Radiation
Dosimetry: Instrumentation, Volume 2 of Radiation Dosimetry, Eugene Tochilin,
Academic Press, the University of Michigan.
58. Robert J. Woods, Alexei K. Pikaev (1993), Applied Radiation Chemistry:
Radiation processing, A Wiley-interscience publication, John Wiley & Sons, Inc.
59. Robert Katz, S. C. Sharma and M. Homayoonfar (1972), The Structure of
particle tracks, Radiation Dosimetry, Eugene Tochilin, Academic Press, the
University of Michigan.
60. Rosenberg Y., Siegmann A., Narkis M., and Shkolnik S. (1992), “Low dose γ-
irradiation of some fluoropolymers: Effect of polymer chemical structure”, Journal
of Applied Polymer Science 45, pp. 783 –795.
61. Sayeda Eid, Wafaa Beshir and Seif Ebraheem (2017), “Optical Band Gap and
Radiation Chemical Formation of HCl in Polyvinyl Alcohol Films Containing
Chloral Hydrate for Use in Radiation Dosimetry”, Journal- Chemical Society of
Pakistan 39(1), pp. 11-16
62. Seif Ebraheem, Moushera El-Kelany (2013), “Dosimeter film Based on Ethyl
Violet-bromophenol blue Dyed Poly(vinyl alcohol)”, Open Journal of Polymer
Chemistry 3, pp. 1-5.
63. Shaheen Akhtar, Taqmeem Hussain, Aamir Shahzad and Qamar-ul-Islam
(2013), “The Feasibility of Reactive Dye in PVA Films as High Dosimeter”,
Journal of Basic & Applied Sciences 9, pp. 420-423.
64. Shaheen Akhtar, Taqmeem Hussain, Aamir Shahzad, Qamar-ul-Islam,
Muhammad Yousuf Hussain and Nasim Akhtar (2013), “Radiation Induced
90
Decoloration of Reactive Dye in PVA Films for Film Dosimetry”, Journal of Basic
& Applied Sciences 9, pp. 416-419.
65. Sharaf F., El-Eraki M, H, I., El-Gohary A, R., Ahmed F, M, A, (1996),
“Mechanical and relaxation properties of -irradiated PVA doped with ferrous
sulphate”, Polymer Degradation and Stability 47, pp. 343-348.
66. Tran Dai Nghiep (1998), “Correlation between low linear energy transfer and
interaction characteristics of gamma rays for dyed polyvinyl alcohol”,
Communications in physics, Vietnam 8(4), pp. 237-240,
67. Tran Dai Nghiep, Do Thi Nguyet Minh and Khuong Thanh Tuan (2001),
“Energy transfer model and radiation-induced decoloration of azo dye in aqueous
solution”, Communications in physics, Vietnam 11(4), pp. 213-216.
68. Tran Dai Nghiep, Do Thi Nguyet Minh and Le van Minh (2003), “Dose-
response of photographic emulsions Under gamma irradiation”, Nuclear Science
and Technology, Vietnam 2(2), pp. 59-63.
69. Tran Dai Nghiep, Do Thi Nguyet Minh and Nguyen Thanh Cong (2010),
“Formation and characterization of a hydrophilic polymer hydrogel under gamma
irradiation”, J, Radioanal Nucl Che 285(3), pp. 719-721.
70. Tran Dai Nghiep, Do Thi Nguyet Minh and T, Kojima (2002),
“Physicochemical effect in interaction of radiation with matter”, Nuclear Science
and Technology, Vietnam 1(1), pp. 36-42.
71. Tran Dai Nghiep, T, Kojima (1996), “An energy-transfer model for radiation
dosimetry”, Communications in physics, Vietnam 6(2), pp. 5-12.
72. Tran Dai Nghiep, T, Kojima, Nguyen Trieu Tu, and Tran Viet Ha (1997), “Dose
response characteristics of high-sensitive clear polyvinyl alcohol (PVA) film”,
Communications in physics, Vietnam 7(1), pp. 14-20.
73. Vuong Huu Tan, Pham Ngoc Son, Nguyen Nhi Dien, Tran Tuan Anh, Nguyen
Xuan Hai (2014), “Progress of filtered neutron beams development and applications
at the horizontal Channels No,2 and No,4 of Dalat Nuclear Research Reactor”,
Nuclear Science and Technology, Vietnam 4(1), pp. 62-69.
91
74. W. B. Beshir (2011), “Radiation Sensitive Indicator Based on Tetra
Bromophenol Blue Dyed Poly (Vinyl Alcohol)”, J. Rad. Res. Appl. Sci. 4(3A), pp.
839-853.
75. William L. McLaughlin, Wei-Zhen Ba and Walter J. Chappas (1988),
“Cellulose Diacetate film dosimeters”, International Journal of Radiation
Applications and Instrumentation, Part C, Radiation Physics and Chemistry 31( 4–
6), pp. 481-490
76. Y. S. Yoo, P. S. Kim, P. S. Moon (1975), “A study on the neutron dosimetry
with LiF Thermoluminescent dosimeters”, Journal of the Korean Nuclear Society
7( 3), pp. 191-198
77. Ya. I. Lavrentovich, A. I. Levon, G. N. Mel’nikova and A. M. Kabakchi(1965),
“Gamma and neutron dosimetry in nuclear reactors by means of colored polyvinyl
alcohol films”, Soviet Atomic Energy 19, pp.1189-1192.
78. Zhongwei Zhao, James D. Rush, Jerzy Holcman and Benon H. J. Bielski (1995),
“The Oxidation of chromium (III) by hydroxyl radical in alkaline solution, A
stopped-flow and pre-mix pulse radiolysis study”, Radiation Physics and Chemistry
45(2), pp. 257-263