Từ việc phân tích các triết lý nhân sinh trong lễ hội và tín ngưỡng
dân gian, cùng với việc chỉ ra những giá trị tích cực, những hạn chế của nhân
sinh quan truyền thống người Việt qua các loại hình đó, luận án đưa ra dự báo
về các xu hướng biến đổi của lễ hội và tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam hiện
nay, đồng thời, đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm phát huy những giá trị
tích cực, khắc phục những yếu tố tiêu cực trong nhân sinh quan người Việt.
Các xu hướng biến đổi của lễ hội và tín ngưỡng dân gian là: xu hướng “mê tín
hóa”; xu hướng thương mại hóa; xu hướng trần tục hóa; xu hướng áp đặt,
khuôn mẫu, đơn điệu hóa; xu hướng sân khấu hóa; xu hướng nảy sinh các tệ
nạn xã hội và các vấn đề xã hội mới. Các nhóm giải pháp là: (1) nhóm giải
pháp tăng cường các hoạt động tuyên truyền, giáo dục để nhân dân hiểu rõ
những giá trị văn hóa, lịch sử của lễ hội và tín ngưỡng dân gian;
191 trang |
Chia sẻ: toanphat99 | Lượt xem: 2656 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nhân sinh quan người việt qua Folklore Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
huy các giá trị văn
hóa sinh hoạt nghệ thuật, trò chơi truyền thống.
6/ Biến lễ hội trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội cho địa
phương, vùng và cả nước.
7/ Phát huy vai trò của người dân trong việc tổ chức và quản lý lễ hội.
Quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội và tôn giáo, tín ngưỡng phải đảm
bảo những nội dung cơ bản sau:
Tăng cường quản lý lễ hội dân gian và tín ngưỡng dân gian bằng cách
hòan thiện các thể chế luật pháp - chính sách. Hiện nay, có rất nhiều văn bản
pháp quy liên quan đến quản lý lễ hội và hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, tuy
nhiên chúng ta vẫn gặp khó khăn trong việc quản lý các hoạt động đó, vì trên
thực tế, một số văn bản không thống nhất với nhau. Chẳng hạn như Nghị định
133
số 56/2006/NĐ-CP ngày 06-6-2006 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động văn hóa - thông tin đã quy định chi tiết một số mức
phạt có liên quan đến việc sản xuất, đốt vàng mã, tuy nhiên, Luật Thuế của
Nhà nước quy định vàng mã ở biểu thuế đặc biệt, có nghĩa, chấp nhận sự tồn
tại của ngành hàng này... Đấy chính là sự chồng chéo dẫn đến mâu thuẫn
trong việc quản lý: trong khi Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấm sản xuất
và sử dụng đồ mã, thì Bộ Công Thương vẫn cho đó là một nghề, vì thế, việc
sản xuất và vận chuyển đồ mã lại là không vi phạm.
Ngoài ra, những quy định xử phạt thường tương đối rõ ràng hơn so với
các quy định khen thưởng, tôn vinh trong lĩnh vực hoạt động lễ hội và tôn
giáo, tín ngưỡng. Để những quy định trên có tác dụng trong đời sống, chúng
ta cần có quy định chi tiết hơn nữa đối với việc tôn vinh các cơ quan đoàn thể
và cá nhân thực hiện tốt việc bảo tồn và phát huy các giá trị của lễ hội và tín
ngưỡng dân gian. Những quy định này có thể gắn với quyền lợi của các tổ
chức và cá nhân tham gia trong công tác trùng tu, tôn tạo di tích, phục hồi và
phát huy các giá trị của lễ hội và tín ngưỡng như giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp, thu nhập cá nhân, tạo hành lang pháp lý cho phép được gắn tên lên
những vật cung tiến, công trình xây dựng do họ bỏ tiền ra, cơ chế khuyến
khích người trông coi di tích... Đồng thời, phải có chính sách khen thưởng đãi
ngộ xứng đáng với những người tham gia vào quá trình bảo tồn và phát huy
các giá trị như văn nghệ sĩ, các nghệ nhân, các nhà nghiên cứu văn hóa, văn
nghệ gắn bó với các loại hình văn hóa dân gian Việt Nam.
Quản lý hoạt động lễ hội hiện nay thường chú trọng đến thủ tục tiến
hành mở hội mà chưa chú ý đúng mức đến quản lý nội dung lễ hội, cách phát
huy tính tích cực cộng đồng trong việc tham gia tổ chức và quản lý lễ hội.
Trong giai đoạn hiện nay, khi Nhà nước đề cao vai trò làm chủ của người dân,
nguyên tắc dân chủ trong mọi sinh hoạt xã hội thì các văn bản pháp luật cũng
134
phải coi trọng đến yếu tố này. Tuy nhiên, thực tế ban hành văn bản cho thấy,
một Quy chế tổ chức lễ hội quá chi tiết sẽ không có tính khả thi, vì thế, ngành
văn hóa cần sự phối hợp của các cơ quan, ban ngành, địa phương trong việc
triển khai và chi tiết hóa các văn bản này ở các địa phương cụ thể.
Ngoài ra, việc thực thi các văn bản chỉ có hiệu quả nếu có sự hoạt động
đồng bộ giữa các cấp, các ngành, các địa phương. Nếu không, các văn bản chỉ
tồn tại trên giấy tờ. Ví dụ như các hoạt động bói toán, xóc thẻ, đốt vàng mã...
vẫn xảy ra thường xuyên ở các lễ hội và trong các nghi lễ tín ngưỡng dân gian
nhưng hầu như ít chịu sự xử phạt từ các cơ quan chức năng. Một trong những
lý do của thực trạng này xuất phát từ khâu phối hợp giữa ngành văn hóa và
các địa phương. Giải pháp là, hoặc chúng ta củng cố lại để tăng tính chế tài
của văn bản, hoặc chúng ta sửa đổi văn bản để hợp pháp hóa những hành vi
trên. Tất cả các hình thức xử lý này cần được xét trên một quan điểm linh
hoạt, theo đó, mục đích quản lý phải được cân nhắc xem là quan trọng hay thứ
yếu. Không phải mọi sự cấm đoán đều mang lại hiệu quả quản lý, đặc biệt là
trong các lĩnh vực có liên quan đến tín ngưỡng - tâm linh.
Chỉ có tăng cường quản lý lễ hội và tín ngưỡng dân gian bằng cách hòan
thiện các thể chế luật pháp - chính sách, chúng ta mới có thể có những chế tài
phù hợp, không gây tranh cãi để xử lý các vi phạm và tôn vinh những hoạt động
bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội và tín ngưỡng [86, tr. 142-143].
Chúng ta cũng đã có rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan
đến tổ chức, quản lý lễ hội, vấn đề là thực hiện như thế nào. Nếu tinh thần
thượng tôn pháp luật không được coi trọng, nếu các cơ quan chức năng không
xử lý nghiêm những hành động bát nháo, không tôn trọng truyền thống, nghi
lễ văn hóa dân tộc thì những hành động phản cảm, bạo lực, chuyện “buôn
thần bán thánh”, mê tín dị đoan, lợi dụng di tích, lễ hội để “kinh doanh” sẽ
tiếp tục “lây lan” trong mỗi lễ hội.
135
Về mặt pháp luật, văn bản pháp quy gần đây nhất là Quy chế tổ chức lễ
hội do Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin ban hành từ năm 2001 xem ra đã đến
lúc cần được điều chỉnh, nâng cao, cụ thể hóa hơn cho phù hợp với thực tế.
Tăng cường quản lý lễ hội, hoạt động tín ngưỡng bằng giám sát, kiểm
tra. Cùng với hòan thiện các thể chế, chính sách, công tác kiểm tra, giám sát
sẽ giúp ngành Văn hóa - Thể thao và Du lịch theo sát được những diễn biến
đang diễn ra trong thực tiễn. Về nguyên tắc, trước và sau khi tổ chức lễ hội,
các địa phương đều phải báo cáo văn bản lên cơ quan chức năng, tuy nhiên,
đa phần công việc này được thực hiện một cách hình thức, đặc biệt là khâu
báo cáo sau khi kết thúc lễ hội. Chính vì trong khâu giám sát, kiểm tra, ngành
văn hóa chưa bám sát hết tất cả các hoạt động của lễ hội đã dẫn đến việc xử lý
chưa dứt điểm các sai phạm trong tổ chức lễ hội. Những sai phạm này được
tiếp diễn năm này qua năm khác, trở thành chuyện “bình thường” mỗi dịp lễ
hội. Nếu những sai phạm được xử lý ngay và dứt khoát thì các sự việc biến
tướng nảy sinh từ lễ hội như bói toán, xem thẻ, xóc đĩa, “bắt chẹt” khách hành
hương... sẽ được giải quyết nhanh chóng.
Đến các lễ hội, lực lượng chức năng nên dùng các biện pháp nghiệp vụ
để mật phục, “lặng lẽ” thanh, kiểm tra. Có như vậy thì những sai phạm tiêu
cực ở lễ hội mới bị phát hiện và kịp thời bị xử lý. Nếu việc thanh kiểm tra,
giám sát này lại chỉ định công khai, có đón tiếp từ xa, “tiền hô hậu ủng” thì
hiệu quả sẽ không cao.
Lễ hội, tín ngưỡng dân gian là sản phẩm của quá khứ, nhưng được vận
hành trong xã hội hiện tại, được lựa chọn bởi những con người trong thời hiện
tại. Chính vì lẽ đó, lễ hội, tín ngưỡng luôn có những thay đổi nhất định. Vì
vậy, việc giám sát hoạt động của các văn bản liên quan đến lễ hội, tín ngưỡng
là một công việc rất cần thiết trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa của lễ hội, tín ngưỡng [86, tr. 144].
136
Tăng cường quản lý lễ hội và hoạt động tín ngưỡng bằng cách đào tạo
cán bộ quản lý văn hóa, quản lý tôn giáo.
Trong công tác quản lý nhà nước về lễ hội, vai trò của đội ngũ cán bộ
văn hóa cơ sở rất quan trọng vì họ là người trực tiếp vừa tuyên truyền vận
động nhân dân, thực thi quy định đề ra, vừa phải giải quyết những “điểm
nóng”, những tiêu cực phát sinh. Nhìn chung, cán bộ quản lý văn hóa hay tôn
giáo ở nước ta mới chỉ có khái niệm về quản lý nhà nước về văn hóa hoặc tôn
giáo chứ chưa được trang bị đầy đủ hệ thống tri thức về quản lý nói chung, lễ
hội, tôn giáo, tín ngưỡng nói riêng vì các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Do vậy, thường có tâm lý coi việc tổ chức lễ hội hoặc hoạt động của các loại
hình tín ngưỡng dân gian như một cái gì “cần đề phòng”, chứ không nhận
thấy đó là một cơ hội cho nhiều mục tiêu quản lý. Chính vì vậy, lễ hội ở nước
ta vẫn chủ yếu như một “lệ làng” chứ chưa phát triển thành sự kiện văn hóa
đa lợi ích, được tận dụng khai thác một cách triệt để, tích cực như nhiều quốc
gia trong khu vực và trên thế giới [74, tr. 54].
Để khắc phục tình trạng trên, ngành Văn hóa, ban Tôn giáo cần mở các
lớp đào tạo, nâng cao nghiệp vụ về quản lý văn hóa và quản lý tôn giáo ở cơ
sở. Nội dung các lớp đào tạo này, ngoài việc trang bị những quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực văn hóa, tôn giáo
nên chú trọng đến việc tổ chức và quản lý các hoạt động lễ hội và hoạt động
tôn giáo, tín ngưỡng như một hiện tượng văn hóa có nhiều mục đích, huy
động nguồn lực trong dân, phối hợp với các cấp, các ngành vì mục tiêu chung
phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội một cách đồng bộ. Hệ thống các trường
đại học, cao đẳng, trung cấp văn hóa nghệ thuật, du lịch các tỉnh cần có
chương trình giảng dạy về việc tổ chức quản lý lễ hội, nhằm đào tạo các cán
bộ quản lý văn hóa có trình độ và khả năng quản lý lễ hội, xử lý đúng các tình
huống xảy ra trong công tác quản lý ở địa phương.
137
Cần nâng cao nhận thức, năng lực tổ chức và quản lý lễ hội cho các cấp
chính quyền, cán bộ quản lý văn hóa các cấp và cộng đồng thông qua các hình
thức, biện pháp phong phú, đa dạng và hiệu quả hơn. Tôn trọng dân, để dân tự
do tổ chức các hoạt động tín ngưỡng, lễ hội nhưng vai trò người cầm trịch,
hướng dẫn không thể buông lỏng, phó mặc. Nếu người chịu trách nhiệm
không có nhận thức đúng, không có tri thức đến mức độ cần thiết về tín
ngưỡng, truyền thống quê hương, lệ tục xóm làng sẽ không thể thực hiện
vai trò nêu gương, không thể giảng giải, phân tích để vận động, hướng dẫn
nhân dân có ứng xử, hành vi phù hợp trong hoạt động tín ngưỡng, dịch vụ.
Thực tế cho thấy, để các cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên, các ban quản
lý di tích, điều hành lễ hội hoạt động đúng vai trò, chức trách, rất cần thiết
phải được sinh hoạt tư tưởng, bồi dưỡng nhận thức và tri thức bằng các hình
thức tổ chức bài bản.
Có thể nói, tăng cường công tác quản lý nhà nước về lễ hội và hoạt động
tôn giáo, tín ngưỡng là giải pháp quan trọng, thiết thực nhằm phát huy những
giá trị tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực trong nhân sinh quan truyền
thống từ các lễ hội và tín ngưỡng dân gian. Có sự quản lý, giám sát của các cơ
quan chức năng, lễ hội và hoạt động tín ngưỡng mới đi vào nề nếp, giảm thiểu
được những bất cập, vấn nạn phát sinh từ các loại hình này. Khi những biểu
hiện tiêu cực trong lễ hội và hoạt động tín ngưỡng như các hoạt động mê tín dị
đoan, tình trạng “thương mại hóa”, những tệ nạn xã hội tràn lan... được loại bỏ,
người dân tham gia lễ hội và các loại hình tín ngưỡng dân gian mới cảm nhận
được những giá trị tốt đẹp tích hợp trong các lễ hội và tín ngưỡng đó, tâm thế
tham gia lễ hội vì thế cũng sẽ quay trở về ý nghĩa đích thực của nó.
4.2.3. Nhóm giải pháp đầu tư cho nghiên cứu khoa học, xây dựng
chương trình bảo tồn, khai thác và phát huy các giá trị văn hóa và nhân
văn của lễ hội và tín ngưỡng dân gian
Trước mắt, chúng ta cần tiếp tục quan tâm đầu tư thoả đáng cho công
tác nghiên cứu khoa học, sưu tầm, biên soạn các điển tích, nghiên cứu các
138
lịch sử lễ hội và tín ngưỡng, xuất bản các bộ sách ghi chép các nghi lễ,
phong tục của các tộc người Việt Nam và các bộ sách về các loại hình
Folklore Việt Nam. Từ đó, góp phần định hướng, giáo dục cho nhân dân,
đặc biệt là thế hệ trẻ những tri thức dân gian, những truyền thống quý báu
của dân tộc.
Bên cạnh đó, cần phát huy hơn nữa vai trò phản biện của các nhà khoa
học và các tổ chức xã hội - nghề nghiệp có liên quan như Hội Di sản Văn
hóa Việt Nam, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, Hội khoa học Lịch sử Việt
Nam. Cần tiếp tục tổ chức các hội thảo chuyên đề về công tác lễ hội, để
bàn sâu về những vấn đề như: mối quan hệ giữa lễ hội và du lịch, thương
mại hóa trong lễ hội... Cục Văn hóa cơ sở, Hội Di sản, Hội Văn nghệ Dân
gian, Viện Khoa học xã hộicần tổ chức nhiều hội thảo khoa học để bàn về
quản lý lễ hội hiệu quả. Nghiên cứu là phần cốt lõi của nhận thức khoa học
nhưng nghiên cứu của chúng ta đa phần phụ họa chính sách, lý thuyết,
phương pháp và cách tiếp cận không đúng nguyên tắc khoa học, thiếu khách
quan, người này sao chép của người kia, lâu dần tạo ra một loại nghiên cứu
nhợt nhạt, thiếu tính phê phán, thừa số lượng nhưng thiếu chất lượng, không
áp dụng được vào việc hoạch định chính sách. Nhận thức khoa học phải
được tiến hành một cách bài bản, khách quan và có tinh thần phê phán.
Trong điều kiện các lễ hội đều có xu hướng biến đổi hoặc thích nghi với đời
sống đương đại hoặc xuất hiện nhiều loại hình mới chưa có trong xã hội
truyền thống thì yêu cầu nghiên cứu khoa học, tổng kết lý luận về lễ hội là
một yêu cầu cấp bách.
Hiện nay, nhiều lễ hội, tín ngưỡng được khôi phục sau nhiều năm gián
đoạn, tuy vậy, những sinh hoạt văn hóa mang sắc thái riêng, mang tính đặc
trưng của mỗi địa phương chưa được khôi phục lại. Cơ sở để phục hồi các
hoạt động này là lớp người cao tuổi, những nghệ nhân dân gian trong cộng
đồng. Tuy nhiên, đến nay, những người nắm giữ kho vốn di sản này đang
139
vắng dần do quy luật của tuổi tác. Nhà nước, mà trực tiếp là các cơ quan chức
năng và chính quyền địa phương cần sớm tạo điều kiện cho các nghệ nhân,
những người cao tuổi có cơ hội truyền lại những tri thức của mình cho lớp
hậu thế và cả cộng đồng. Sự tham gia chủ động và có hiểu biết của người dân
trong việc thực hành, truyền dạy và bảo vệ di sản văn hóa là chìa khóa bảo tồn
và phát huy di sản văn hóa trong quá trình hiện đại hóa đất nước.
Những năm gần đây, Nhà nước đã dành kinh phí (thuộc Chương trình
mục tiêu Quốc gia) để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể,
trong đó có hoạt động lễ hội và tín ngưỡng, nhưng thực chất, việc bảo tồn các
giá trị văn hóa phi vật thể so với đầu tư kinh phí bảo tồn, tôn tạo các giá trị
văn hóa vật thể chưa có sự tương xứng. Mặt khác, chương trình bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hóa của lễ hội và tín ngưỡng hiện nay mới chủ yếu tập
trung kinh phí cho việc sưu tầm tư liệu, quay phim để lưu giữ. Việc phát huy
các giá trị của lễ hội và tín ngưỡng như thế nào thì chưa được triển khai một
cách cụ thể.
Có người cho rằng hơn 8.000 lễ hội trong một năm là quá nhiều, nhiều
lễ hội na ná nhau, thậm chí lai căng, kéo theo đó là sự tốn kém tiền bạc, công
sức... Trong khi đất nước còn rất nhiều khó khăn, nên chăng bớt đi việc tổ
chức lễ hội? Điều này không phải không có lý. Tuy nhiên, như đã nói, lễ hội
là tập quán, là một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa tinh thần của
các cộng đồng dân cư. Thêm nữa, mỗi cộng đồng lại có những lễ hội riêng
mang dấu ấn bản sắc, do vậy, rất khó để nói rằng lễ hội nào nên bỏ, lễ hội nào
nên giữ. Điều đáng lưu tâm ở đây là phải nhận diện rõ những lễ hội thật sự
gắn bó mật thiết với đời sống người dân để đầu tư gìn giữ; đồng thời làm cho
các cộng đồng cư dân nhận thức rõ hơn về giá trị của lễ hội đang có, từ đó, có
cách thức thực hành và phương thức tự quản lý lễ hội của mình một cách có
văn hóa, thực sự hiệu quả, tiết kiệm. Vấn đề quan trọng là, cho tới thời điểm
này, chúng ta chưa làm rõ được cơ sở khoa học của những lễ hội nào là di sản
140
văn hóa, thực sự có giá trị lịch sử - văn hóa, đảm bảo các tiêu chí cần thiết
phục hồi và phát huy.
Chúng ta phải rà soát lại toàn bộ các lễ hội, nghi lễ, phong tục, tín
ngưỡng của đồng bào các dân tộc Việt Nam, xem cái nào còn, cái nào mất, cái
nào phù hợp với đời sống mới ngày nay, cái nào là lỗi thời, lạc hậu, mê tín, dị
đoan. Sau đó, hướng dẫn, giáo dục nhân dân để họ nhận thức ra được chân giá
trị của các lễ hội, nghi lễ, tín ngưỡng ấy mà bảo vệ, giữ gìn hay thay đổi nó
cho phù hợp với đời sống thực tại. Đồng thời, chúng ta cần nghiên cứu, phục
hồi một số hình thức sinh hoạt lễ hội đã biến mất, hoặc bị mai một nhưng có
giá trị nhân sinh tốt đẹp, mang ý nghĩa giáo dục cao...
4.2.4. Một số giải pháp cụ thể khác
Muốn đưa công tác quản lý lễ hội vào nền nếp mà vẫn bảo đảm văn
minh, an toàn và đáp ứng nhu cầu đời sống văn hóa, tinh thần, tâm linh của
người dân, thiết nghĩ các cơ quan chức năng và chính quyền địa phương
các cấp, các ban quản lý di tích phải thực hiện nghiêm túc, triệt để Chỉ thị
số 41-CT/TW ngày 05/02/2015 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác quản lý và tổ chức lễ hội; Công điện số 229/CĐ-
TTg ngày 12/02/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công
tác quản lý và tổ chức lễ hội. Trước mắt, cần phải giảm tần suất, thời gian
tổ chức lễ hội, chỉ nên tổ chức một cách chặt chẽ những lễ hội nào thực sự
cần thiết. Dưới góc nhìn bảo tồn di sản, một số nhà văn hóa phản đối sự
hạn chế số lượng cũng như quy mô tổ chức lễ hội vì họ cho rằng đó là văn
hóa truyền thống. Nhưng họ chưa nghĩ tới tính tổng thể không gian văn
hóa, bối cảnh, thời đại hôm nay. Mật độ quá dày, kinh tế còn nghèo, trình
độ dân trí không đều, có nơi không cao, nếu lễ hội không tổ chức tốt sẽ dễ
phản tác dụng, như gây ra sự ngộ nhận tạo thành nếp mê tín ở một bộ phận
dân cư.
141
Cần thống nhất nhận thức, lễ hội, trong đó có hoạt động văn hóa tâm
linh thuộc về lĩnh vực văn hóa tinh thần, liên quan đến nhận thức, tâm lý, tập
quán, phong tục của mỗi cá nhân, cộng đồng, dân tộc, nên đây là lĩnh vực tinh
tế, nhạy cảm. Vì vậy, việc chỉ đạo, quản lý nhà nước và vận động cán bộ,
đảng viên, nhân dân thực hiện nếp sống văn minh trong lễ hội còn gặp nhiều
khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải kiên trì, tiến hành thường xuyên, liên tục,
nhưng không nóng vội. Cán bộ, đảng viên phải đi đầu, gương mẫu trong việc
thực hiện những quy định về nếp sống văn minh. Lễ hội là việc lớn của làng,
với nhiều lễ hội lớn là việc lớn của cả cấp huyện, cấp tỉnh. Bởi vậy, nên coi
mỗi dịp chuẩn bị và tiến hành lễ hội là một dịp sinh hoạt tư tưởng, văn hóa
trong Đảng, trong bộ máy chính quyền và trong nhân dân cả ở nơi sở tại và
mọi cộng đồng dân cư. Việc học tập Chỉ thị của Ban Bí thư và liên hệ với
thực tế đời sống lễ hội chắc chắn sẽ tạo nên những chuyển biến trong nhận
thức và hành vi của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta cả trong lễ hội lẫn cuộc
sống thường ngày.
Một số lễ hội nào đó đến nay mở rộng ra phạm vi một vùng hay thậm
chí cả nước thì ban đầu cũng chỉ là hội làng mà thôi. Mà mỗi làng lại có số
phận, tính cách, truyền thống văn hóa, phong tục, nghi lễ riêng, theo kiểu
“trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”. Có thể nói, tính đa
dạng là bản chất của lễ hội, do vậy, trong việc phục hồi, phát triển lễ hội hiện
nay phải hết sức coi trọng tính đặc thù, độc đáo riêng của mỗi lễ hội, tránh
cào bằng, đồng loạt, dẫn đến sự đơn điệu, nhàm chán của sinh hoạt lễ hội.
Phải bằng mọi cách khôi phục, giữ lại nét riêng của mỗi lễ hội, gắn với truyền
thống văn hóa của mỗi vùng, miền, mỗi làng, xã.
Cần khắc phục cách xử lý lễ hội theo “kịch bản”, đưa vào lễ hội những ý
đồ chủ quan của con người. Nghi lễ, lễ hội cũng như bất kỳ một hình thức diễn
xướng dân gian nào vốn tự hình thành “cái khung” tự phát, con người dựa vào
142
“cái khung” ấy để thêm bớt sao cho phù hợp. Nếu sân khấu hoá, kịch bản hoá lễ
hội tức là đi ngược lại với bản chất và quy luật hình thành tự nhiên của lễ hội.
Bên cạnh việc khai thác, phát huy tinh thần tự nguyện của cộng đồng
tham gia lễ hội, tín ngưỡng, cần có chính sách quan tâm hỗ trợ kinh phí từ
ngân sách Nhà nước ở các cấp để tổ chức lễ hội có nhiều giá trị văn hóa đặc
sắc, có khả năng thu hút khách du lịch, mang lại lợi ích cho địa phương. Lâu
nay, chúng ta thường đầu tư nhiều cho các lễ hội đương đại mà chưa chú ý
đến nguồn kinh phí cho các lễ hội dân gian đơn lẻ. Cần quan tâm tạo nguồn
kinh phí để phục hồi, lưu giữ, phát huy giá trị văn hóa của lễ hội dân gian
mang nhiều ý nghĩa đạo đức, nhân văn, giáo dục... Trong bối cảnh cơ chế thị
trường hiện nay, cần đẩy mạnh công tác xã hội hóa lễ hội để làm khơi dậy
tiềm năng vật chất và tinh thần của cộng đồng dân cư, song không được nhân
danh xã hội hóa lễ hội nhằm mục đích trục lợi.
Căn cứ vào đặc trưng bản sắc lễ hội, cần trao quyền tổ chức điều hành,
nội dung cho chủ thể văn hóa, Nhà nước chỉ can thiệp bằng tính định hướng,
giám sát, chỉ đạo ở những lễ hội của một không gian văn hóa mang tính làng
xã. Nhưng ở những lễ hội quy mô lớn thì Nhà nước phải tổ chức theo nguyên
tắc Nhà nước và nhân dân cùng làm, vừa tạo ra cơ sở pháp lý vừa phát huy
sức mạnh của chủ thể văn hóa. Không nên có quan điểm cứng nhắc, lấy các
nguyên lý tổ chức lễ hội truyền thống làm khuôn mẫu cho việc tổ chức các lễ
hội dân gian đương đại. Ở đây, cần bám sát thực tiễn, tổng kết thực tiễn trên
cơ sở lý luận về quản lý văn hóa, trong đó, cần đặc biệt nhấn mạnh vai trò chủ
thể của cộng đồng người dân tổ chức lễ hội. Chỉ có sự kết hợp tốt giữa chính
quyền và người dân cộng đồng, có sự tham gia của du khách, mới giúp cho
việc tổ chức lễ hội được thuận lợi và đạt hiệu quả cao nhất.
Để đảm bảo cho các lễ hội thực sự có ý nghĩa, cần ngăn chặn triệt để
các hoạt động mê tín dị đoan, các tệ nạn cờ bạc biến tướng, chống mọi biểu
143
hiện thương mại hóa lễ hội bằng việc đặt hòm công đức bừa bãi. Quản lý,
theo dõi và không để làm phát sinh những khoản thu phí không hợp lý, trái
quy định. Khâu tổ chức các lễ hội phải có kịch bản được dàn dựng, thống nhất
kỹ lưỡng từ trước. Kết hợp hài hòa giữa phần lễ và phần hội, có sự kiểm duyệt
của các cơ quan văn hóa có thẩm quyền. Theo đó, phần “lễ” phải thể hiện
được tinh hoa, ý nghĩa, bản sắc, tạo được không khí thiêng liêng, trang trọng,
loại bỏ các hủ tục phiền hà. Phần “hội” cần có thêm nhiều trò chơi giải trí
lành mạnh, các hoạt động văn hóa, thể thao mang tính giáo dục, thẩm mỹ cao.
Ban tổ chức các lễ hội cần xây dựng được các phương án bảo vệ, đảm
bảo an ninh trật tự và giữ gìn vệ sinh môi trường, cảnh quan trong suốt thời
gian lễ hội diễn ra. Tổ chức và quản lý tốt các lễ hội được tổ chức trên địa bàn
cả nước là thiết thực bảo vệ và phát huy giá trị của các di sản văn hóa cổ
truyền các dân tộc. Đó cũng là hoạt động có ý nghĩa trong công tác giáo dục
truyền thống, giúp cho các thế hệ hôm nay và mai sau tự hào về quê hương,
đất nước và luôn biết hướng về cội nguồn.
Các cơ quan thông tin đại chúng cần làm tốt công tác tuyên truyền,
nâng cao nhận thức của toàn xã hội về thực hiện nếp sống văn minh trong lễ
hội; giới thiệu các giá trị lịch sử, văn hóa của lễ hội, tôn vinh người tốt, việc
tốt, các điển hình tiên tiến, đồng thời, tạo dư luận mạnh mẽ, phê phán các
hành vi tiêu cực, vụ lợi trong tổ chức và quản lý lễ hội.
Kết luận chương 4
1. Lễ hội dân gian, tín ngưỡng dân gian là những loại hình văn hóa gắn
với yếu tố “thiêng”, góp phần thỏa mãn nhu cầu tinh thần của đông đảo quần
chúng nhân dân lao động. Người ta tìm đến lễ hội và tín ngưỡng dân gian
ngày một đông, vừa để hướng tới những giá trị nhân sinh tốt đẹp được gửi
gắm, bảo lưu trong đó, vừa nhằm thỏa mãn những ước nguyện tâm linh của
mình. Lễ hội dân gian, tín ngưỡng dân gian thực sự trở thành “cầu nối” giúp
144
con người tìm về cội nguồn bản sắc dân tộc. Song, hiện nay, lễ hội và tín
ngưỡng dân gian đang có những biến đổi theo chiều hướng gia tăng các yếu tố
tiêu cực, khiến cho “tính thiêng”, ý nghĩa đích thực của lễ hội và tín ngưỡng
bị lu mờ. Có thể kể đến các xu hướng hoạt động của lễ hội và tín ngưỡng dân
gian ở Việt Nam hiện nay như: xu hướng “mê tín hóa”; xu hướng thương mại
hóa; xu hướng trần tục hóa; xu hướng áp đặt, khuôn mẫu, đơn điệu hóa; xu
hướng sân khấu hóa; xu hướng nảy sinh các tệ nạn xã hội và các vấn đề xã hội
mới... Các xu hướng này góp phần tạo điều kiện cho những yếu tố tiêu cực
của nhân sinh quan truyền thống phát sinh trở lại, đồng thời làm cho công tác
quản lý lễ hội, tín ngưỡng dân gian thêm khó khăn, phức tạp.
2. Lễ hội và tín ngưỡng dân gian ẩn chứa nhiều triết lý sống của cha
ông ta, được trao truyền qua bao thế hệ người Việt. Trước xu hướng biến đổi
của các loại hình văn hóa dân gian này, liệu những giá trị tích cực của nhân
sinh quan truyền thống trong đó có còn được bảo tồn và phát huy? Hay sự
biến đổi mạnh mẽ của lễ hội và tín ngưỡng dân gian lại là cơ hội cho những
yếu tố tiêu cực trong nhân sinh quan truyền thống phát sinh trở lại? Trong
khuôn khổ luận án, chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số nhóm giải pháp mang
tính gợi mở nhằm khắc phục những hạn chế, phát huy những mặt tích cực của
nhân sinh quan người Việt qua lễ hội và tín ngưỡng dân gian. Đó là các nhóm
giải pháp: (1) nhóm giải pháp tăng cường các hoạt động tuyên truyền, giáo
dục để nhân dân hiểu rõ những giá trị văn hóa, lịch sử của lễ hội và tín
ngưỡng dân gian; (2) nhóm giải pháp tăng cường công tác quản lý Nhà nước
đối với hoạt động lễ hội và tôn giáo, tín ngưỡng; (3) nhóm giải pháp đầu tư
cho nghiên cứu khoa học, xây dựng chương trình bảo tồn, khai thác và phát
huy các giá trị văn hóa và nhân văn của lễ hội và tín ngưỡng dân gian; (4) một
số giải pháp cụ thể khác... Thực hiện tốt các giải pháp này, công tác quản lý lễ
hội và tín ngưỡng dân gian sẽ nâng cao hiệu quả, từ đó, những giá trị nhân
sinh tốt đẹp của lễ hội và tín ngưỡng sẽ được phục hồi và lan tỏa, những mặt
tiêu cực sẽ dần được khắc chế.
145
KẾT LUẬN
Nhân sinh quan người Việt là một bộ phận của triết học Việt Nam.
Trước đây chúng ta thường chú ý nghiên cứu nhân sinh quan triết học ở các
tác phẩm thành văn mà bỏ qua kho tàng văn hóa dân gian/Folklore của dân
tộc. Nhiều triết lý ẩn tàng trong Folklore mà triết học không có, do vậy,
nghiên cứu Folklore để mở rộng triết học Việt Nam. “Nếu xét ở bình diện phổ
thông quần chúng thì nghiên cứu triết lý dân gian còn quan trọng hơn cả
nghiên cứu triết lý bác học, triết học, bởi lẽ từ đây rất có thể chúng ta lại tìm
ra, phát hiện được cái mạch ngầm sâu thẳm của dân tộc mà tư tưởng bác học
chỉ là sự thể hiện bề nổi, bên ngoài” [36, tr. 26]. Nghiên cứu nhân sinh quan
người Việt qua Folklore cũng nhằm củng cố giá trị, bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong phạm vi nghiên cứu, luận án đã làm rõ những nội dung sau:
1. Nhân sinh quan là những quan niệm, quan điểm mang tính định
hướng của con người về mối quan hệ của họ với gia đình, xã hội và môi
trường tự nhiên. Nhân sinh quan người Việt là những quan niệm về cuộc
sống, gắn với các điều kiện nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt Nam,
phản ánh mối quan hệ của người Việt trong các mối quan hệ: lao động - sản
xuất, môi trường thiên nhiên, môi trường xã hội, gia đình, dòng tộc, họ
hàng, trong đó, nổi bật là lối sống trọng nghĩa - tình, tinh thần hòa đồng,
bao dung... Nhân sinh quan người Việt được thể hiện một cách độc đáo qua
kho tàng Folklore/Văn hóa dân gian Việt Nam.
2. Folklore là một chỉnh thể bao gồm nhiều thành tố như ngữ văn dân
gian, nghệ thuật dân gian, tri thức dân gian, tín ngưỡng, phong tục, lễ hội.
Việc lựa chọn lễ hội dân gian và tín ngưỡng dân gian để khảo cứu vì đây là
những loại hình Folklore “động”, bao chứa cả các giá trị vật thể và phi vật
thể, là hai loại hình văn hóa dân gian mà trong đó “hội tụ” gần như đầy đủ
các loại hình văn hóa dân gian khác, do đó, rất điển hình cho Folklore. Thêm
146
nữa, lễ hội dân gian và tín ngưỡng dân gian là đối tượng nghiên cứu của
nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn như văn hóa học, dân tộc học, tôn
giáo học..., song lại là những loại hình Folklore ít được khai thác về mặt triết
học. Luận án nghiên cứu những triết lý nhân sinh của người Việt ẩn mình
trong lễ hội và tín ngưỡng, để qua đó, tìm ra được những tư tưởng triết học
bình dân của cha ông ta thời xưa, góp phần bổ sung cho kho tàng tư duy của
dân tộc.
3. Các giá trị bản nhiên của người Việt, các triết lý nhân sinh của cha
ông ta được thể hiện trong những loại hình văn hóa dân gian độc đáo, đó là
triết lý yêu nước qua lễ hội đền Gióng; tinh thần hiếu học qua lễ hội đền Tống
Trân; quan niệm về hôn nhân, gia đình hạnh phúc qua lễ hội Chử Đồng Tử; sự
tôn thờ, đề cao người phụ nữ qua tín ngưỡng thờ Mẫu; lối tư duy thực tế,
“phồn thịnh” qua tín ngưỡng phồn thực; lối sống “hài hòa” với tự nhiên qua
tín ngưỡng thờ nhiên thần... Những quan niệm sống, triết lý sống, nếp sống ấy
là truyền thống tốt đẹp mà cha ông ta đã lưu truyền qua nhiều thế hệ, qua bao
thăng trầm, biến thiên của lịch sử, tạo nên bảng giá trị cho người Việt Nam
hôm nay.
4. Việt Nam đang trên bước đường hội nhập và phát triển, tất cả những
giá trị tốt đẹp của nhân sinh quan truyền thống đã từng được người Việt phát
huy trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Giờ đây, những giá trị tích
cực đó vẫn giữ vị trí quan trọng trong đời sống tình cảm và quan hệ xã hội của
con người Việt Nam và tác động đối với sự phát triển của đất nước. Song,
trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, những hạn chế của
nhân sinh quan truyền thống sẽ là rào cản khiến chúng ta thêm khó khăn trên
con đường xây dựng đất nước.
5. Từ việc phân tích các triết lý nhân sinh trong lễ hội và tín ngưỡng
dân gian, cùng với việc chỉ ra những giá trị tích cực, những hạn chế của nhân
147
sinh quan truyền thống người Việt qua các loại hình đó, luận án đưa ra dự báo
về các xu hướng biến đổi của lễ hội và tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam hiện
nay, đồng thời, đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm phát huy những giá trị
tích cực, khắc phục những yếu tố tiêu cực trong nhân sinh quan người Việt.
Các xu hướng biến đổi của lễ hội và tín ngưỡng dân gian là: xu hướng “mê tín
hóa”; xu hướng thương mại hóa; xu hướng trần tục hóa; xu hướng áp đặt,
khuôn mẫu, đơn điệu hóa; xu hướng sân khấu hóa; xu hướng nảy sinh các tệ
nạn xã hội và các vấn đề xã hội mới... Các nhóm giải pháp là: (1) nhóm giải
pháp tăng cường các hoạt động tuyên truyền, giáo dục để nhân dân hiểu rõ
những giá trị văn hóa, lịch sử của lễ hội và tín ngưỡng dân gian; (2) nhóm giải
pháp tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động lễ hội và tôn
giáo, tín ngưỡng; (3) nhóm giải pháp đầu tư cho nghiên cứu khoa học, xây
dựng chương trình bảo tồn, khai thác và phát huy các giá trị văn hóa và nhân
văn của lễ hội và tín ngưỡng dân gian; (4) một số giải pháp cụ thể khác...
Cuộc đấu tranh để cải tạo, khắc phục những yếu tố tiêu cực từ nhân sinh quan
truyền thống nhằm xây dựng nhân sinh quan mới, lối sống mới phù hợp với
bối cảnh đất nước và thời đại cần một quá trình lâu dài, cùng với đó là sự nỗ
lực của cả cộng đồng (dưới sự dẫn dắt, định hướng và tầm nhìn chiến lược
của giới lãnh đạo quản lý xã hội; sự tiếp nhận những thành tựu tiến bộ và giáo
dục xã hội) và của mỗi cá nhân con người.
148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Phùng Thị An Na (2010), “Về vị trí của nền thần học triết học Tây Âu
trung cổ”, Tạp chí Triết học, (6), tr.67-70.
2. Phùng Thị An Na (2010), “Quan điểm của Lênin về nguồn gốc của tôn giáo
và ý nghĩa của quan điểm đó”, trong sách Di sản Lê nin trong thế giới
ngày nay và sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, tr.726-730.
3. Phùng Thị An Na (2011), “Lại bàn về ảnh hưởng của tôn giáo đến tư duy
của người Việt”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, (10), tr.10-15.
4. Phùng Thị An Na, Đỗ Lan Hiền (2011), Ảnh hưởng của tư duy tôn giáo đến
lối sống của người Việt, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 174 tr.
5. Phùng Thị An Na (2012), “Tín ngưỡng thờ Nữ thần ở Việt Nam từ góc
nhìn “bình đẳng giới”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (8), tr.53-58.
6. Phùng Thị An Na (2013), “Những cống hiến của Ph.Ăngghen trong việc xây
dựng Chủ nghĩa vô thần khoa học”, Tạp chí Lý luận chính trị, (3), tr.8-11.
7. Phùng Thị An Na (2013), “Dấu ấn phồn thực trong thơ Hồ Xuân Hương”,
Thông tin Chủ nghĩa xã hội, Lý luận và thực tiễn, (40), tr.33-36.
8. Phùng Thị An Na (2015), “Bình đẳng giới” nhìn từ góc độ tôn giáo, tín ngưỡng -
trường hợp thờ Mẫu ở Việt Nam”, trong sách Văn hóa tôn giáo với phát
triển bền vững ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.143-155.
9. Phùng Thị An Na (2015), “Đạo Tin lành trong cộng đồng người Thái vùng
Tây Bắc”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (1), tr.84-90.
10. Phùng Thị An Na (2015), “Mối quan hệ con người - tự nhiên qua tín ngưỡng
thờ nhiên thần ở Việt Nam”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (7), tr.42-47.
11. Phùng Thị An Na (2015), “Triết lý nhân sinh của người Việt qua một số lễ
hội dân gian”, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, (8), tr.55-59.
12. Phùng Thị An Na (2015), "Ngôi chùa trong đời sống người Khmer vùng
Tây Nam bộ", Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (11), tr.102-107.
149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1998), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Đồng Tháp.
2. Toan Ánh (2000), Tín ngưỡng Việt Nam (quyển Hạ), Nxb Văn nghệ Thành
phố Hồ Chí Minh.
3. Toan Ánh (2005), Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam (quyển Thượng), Nxb Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Toan Ánh (2005), Hội hè đình đám, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
5. Phan Kế Bính (2005), Việt Nam phong tục, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Bình (1999), “Cách xem xét, đánh giá con người thông qua
các mối quan hệ xã hội cơ bản của Nho giáo - một giá trị cần kế thừa
và phát triển”, Tạp chí Triết học, (3).
7. Lê Ngọc Canh (2000), Văn hóa dân gian Việt Nam - những thành tố,
Trường Cao đẳng Văn hóa Tp. Hồ Chí Minh xuất bản.
8. Nguyễn Văn Chiến (2011), "Lễ hội thôn An Cầu một lễ hội tôn vinh việc
học", tại trang
thon-cau-mot-le-hoi-ton-vinh.html, [truy cập ngày 5/4/2014].
9. Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức và Hồ Sĩ Quý (Đồng chủ biên)
(2001), Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên (Đồng chủ biên) (2002), Giá
trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hoá, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Nguyễn Trọng Chuẩn (Chủ biên) (2006), Lịch sử tư tưởng triết học Việt
Nam, Tập 1 (Từ đầu công nguyên đến thời Trần và thời Hồ), Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
12. Hồng Chuyên (2013), Chuyện tranh Nữ Oa vá trời, Nxb Kim đồng, Hà Nội.
13. Hoàng Đình Cúc (2008), “Vấn đề con người trong học thuyết Mác và
phương hướng, giải pháp phát triển con người cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (8).
150
14. Lý Khắc Cung (2010), Văn hóa phồn thực Việt Nam, Nxb Dân trí, Hà Nội.
15. Hoàng Tăng Cường (1996), “Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên
trong quan niệm của Nho giáo”, Tạp chí Triết học, (6).
16. Ngô Văn Doanh (2006), Lễ hội chuyển mùa của người Chăm, Nxb Trẻ,
thành phố Hồ Chí Minh.
17. Vũ Trọng Dung (2003), “Hiểu quan điểm của C.Mác về bản chất con
người như thế nào?”, Tạp chí Triết học, (8).
18. Nguyễn Đăng Duy (2001), Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam,
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần năm Ban Chấp
hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Dự thảo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Lê Tâm Đắc (2014), “Một số đặc điểm của thờ cúng Sơn Tinh - Tản viên
ở miền Bắc”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (12) (138).
24. Nguyễn Tấn Đắc (2005), Văn hóa Đông Nam Á, Nxb Đại học Quốc gia
thành phố Hồ Chí Minh.
25. Khai Đăng (Sưu tầm và biên soạn) (2009), Tản mạn về tín ngưỡng và
phong tục tập quán của người Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
26. Cao Huy Đỉnh (2009), “Người anh hùng làng Dóng”, trong Lễ hội Thánh
Gióng, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
27. Đỗ Hương Giang (2009), “Vấn đề nhân sinh quan trong triết học Phật
giáo thời Trần”, Tạp chí Khoa học xã hội, 11(135).
28. Trịnh Hiểu Giang, Nguyễn An (2009), Những hiểu biết về cuộc đời, Nxb
Hà Nội, Hà Nội.
151
29. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
30. Trường Hà (2012), "Phong tục thờ thần cây, thần rừng của người Tày - Nùng",
tại trang
cay-cua-nguoi-Tay-Nung/11370.bcb, [truy cập ngày 5/4/2014].
31. Thuận Hải (Biên soạn) (2007), Bản sắc văn hóa lễ hội: văn hóa dân gian
đặc sắc qua những lễ hội dân gian trong năm, Nxb Giao thông Vận
tải, Hà Nội.
32. Phạm Minh Hạc, Thái Duy Tuyên (Chủ biên) (2012), Định hướng giá trị
con người Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập, Nxb Chính trị quốc
gia - Sự thật, Hà Nội.
33. Cao Xuân Hạo (2003), Tiếng Việt, Văn Việt, Người Việt, Nxb Trẻ, thành
phố Hồ Chí Minh.
34. Cao Thu Hằng (2011), Kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống trong xây
dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết
học, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
35. Nguyễn Hùng Hậu (2004), Triết lý trong văn hóa phương Đông, Nxb Đại
học Sư phạm, Hà Nội.
36. Nguyễn Hùng Hậu (2010), Đại cương lịch sử triết học Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Nguyễn Văn Hậu (1999), “Biểu tượng phồn thực trong lễ hội nông nghiệp
cổ truyền ở Việt Nam và các nước Đông Nam Á”, Tạp chí Văn hóa
nghệ thuật, (183).
38. Đỗ Lan Hiền (2011), “Ảnh hưởng của tam giáo trong quan niệm của người
Việt về mối quan hệ Trời - Người”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, (8).
39. Đỗ Lan Hiền (2012), “Minh triết Việt qua dòng văn hóa dân gian”, Tạp
chí Triết học, 8(255).
40. Đỗ Lan Hiền, Phùng Thị An Na (2012), “Tín ngưỡng thờ Nữ thần ở Việt
Nam từ góc nhìn “bình đẳng giới””, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (8).
152
41. Thích Nguyên Hiền (2001), "Nguyên lý mẹ trong văn hóa và tín ngưỡng
Việt Nam", tại trang
nguyenlyme.htm, [truy cập ngày 20/5/2013].
42. Nguyễn Duy Hinh (1996), Tín ngưỡng thành hòang Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
43. Nguyễn Duy Hinh (2005), Văn minh Đại Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
44. Hồ Hoàng Hoa (1998), Lễ hội, một nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
45. Vũ Thị Hoa (1997), Lễ hội cầu mùa của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam,
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
46. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2003),
Từ điển Bách khoa Việt Nam, Tập 3, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
47. Nguyễn Việt Hùng (2004), “Tục thờ đá trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam”,
Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (1).
48. Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn
tham chiếu, Nxb Văn học, Hà Nội.
49. Nguyễn Văn Huyên (1992), “Từ những hình tượng nam nữ yêu nhau trên
thạp Đào Thịnh, nghĩ về ước vọng phồn thực lâu đời của nhân dân ta”,
Tạp chí Văn hóa dân gian, (2).
50. Nguyễn Văn Huyên (1995), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, Tập 1,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
51. Trần Minh Hường (2010), “Hình tượng rắn qua tục thờ và huyền thoại”,
Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, 5-6(311-312).
52. Trần Đình Hượu (2005), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Trí thức, Hà Nội.
53. Đinh Gia Khánh (1989), Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian Việt Nam,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
54. Nguyễn Xuân Kính, Lê Ngọc Canh, Ngô Đức Thịnh (1989), Văn hóa dân gian
Việt Nam những lĩnh vực nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
153
55. Đinh Gia Khánh (1992), “Tục thờ Mẫu và những truyền thống văn hóa
dân gian ở Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (5).
56. Đinh Gia Khánh (1995), Văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển của
xã hội Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
57. Đinh Gia Khánh (2000), “Hội lễ dân gian và sự phản ánh những truyền
thống của dân tộc”, Tạp chí Văn hóa dân gian, (2).
58. Đinh Gia Khánh, Lê Hữu Tầng (Chủ biên) (1993), Lễ hội dân gian trong
đời sống xã hội hiện tại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
59. Vũ Ngọc Khánh, Ngô Đức Thịnh (1990), Tứ bất tử, Nxb Văn hóa dân
tộc, Hà Nội.
60. Vũ Ngọc Khánh (1991), Dẫn luận nghiên cứu Folklore Việt Nam, Sở
Giáo dục Thanh Hoá xuất bản, Thanh Hóa.
61. Vũ Ngọc Khánh (1999), Tiếp cận kho tàng Folklore Việt Nam, Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội.
62. Vũ Ngọc Khánh (2001), Đạo Thánh ở Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
63. Vũ Ngọc Khánh (2005), Hành trình vào thế giới Folklore Việt Nam, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
64. "Khi lễ hội, di sản bị “sân khấu hóa”" (2013), tại trang
san-bi-san-khau-hoa-331013/, [truy cập ngày 15/7/2015].
65. Nguyễn Thế Kiệt, Phạm Bá Lượng (2009), “Đạo làm người trong truyền
thống Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị, (10).
66. Hà Lâm Kỳ (2001), “Lễ đón mẹ lúa của người Khơmú”, Tạp chí Văn hóa
nghệ thuật, (1).
67. Lê Văn Kỳ (2002), Lễ hội nông nghiệp Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
68. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
154
69. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
70. Lê Thị Lan (2002), “Quan hệ giữa các giá trị truyền thống và hiện đại
trong xây dựng đạo đức”, Tạp chí Triết học, (7).
71. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang (Chủ biên) (1994), Các giá trị truyền
thống và con người Việt Nam hiện nay, Chương trình Khoa học công
nghệ cấp nhà nước KX.07, Đề tài KX07-02, Tập 1, Hà Nội.
72. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang (Chủ biên) (1996), Các giá trị truyền
thống và con người Việt Nam hiện nay, Chương trình Khoa học công
nghệ cấp nhà nước KX.07, Đề tài KX07-02, Tập 2, Hà Nội.
73. Bùi Bá Linh (2003), Quan niệm của C. Mác, Ph. Ăngghen về con người và
sự nghiệp giải phóng con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
74. Nguyễn Thu Linh, Phan Văn Tú (2004), Quản lý lễ hội cổ truyền: thực
trạng và giải pháp, Báo cáo tổng quan đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
75. Nguyễn Đức Lữ (Chủ biên) (2007), Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân
gian ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
76. Nguyễn Văn Lý (2000), Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền
thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
77. Phùng Thị An Na, Đỗ Lan Hiền (2012), Ảnh hưởng của tư duy tôn giáo
đến lối sống người Việt, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
78. Ngô Thị Thu Ngà (2011), Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng đạo
đức mới cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
79. Nhiều tác giả (2008), Người Việt phẩm chất và thói hư - tật - xấu, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
80. Hòang Văn Páo (2011), Lễ hội Lồng thồng của dân tộc Tày ở Lạng Sơn,
Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
155
81. Bá Trung Phụ (2009), “Lễ hội Rija - tín ngưỡng phồn thực của người
Chăm ở Trung Bộ”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (7+8).
82. Đỗ Lan Phương (2010), Tục thờ Chử Đồng Tử, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
83. Trần Chí Quang (2005), “Lễ rửa lá lúa trong cư dân Mường”, Tạp chí
Dân tộc và Thời đại, (84).
84. Hồ Sỹ Quý (1999), “Về triết lý con người chinh phục tự nhiên”, Tạp chí
Triết học, (6).
85. Nguyễn Minh San (1998), “Lễ thức phồn thực trong sinh hoạt văn hóa
dân gian ở Phú Thọ”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (3).
86. Bùi Hoài Sơn (2007), Quản lý lễ hội dân gian của người Việt ở Châu thổ
Bắc bộ từ năm 1945 đến nay, Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Viện
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
87. Dương Đình Minh Sơn (2008), Văn hóa nõ nường, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
88. Minh Tân, Thanh Nghi và Xuân Lãm (1998), Từ điển Tiếng Việt, Nxb
Thanh Hóa.
89. Đào Thắm (2014), "Lễ hội đền Tống Trân - Lễ hội tôn vinh sự học", tại
trang
tong-tran-le-hoi-ton-vinh-su-hoc-461471/, [truy cập ngày 5/4/2014].
90. Lê Sỹ Thắng (1997), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 2, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
91. Võ Văn Thắng (2005), Kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc trong việc xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay,
Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
92. Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
93. Đỗ Trần Thi (2011), Thần thoại Hy Lạp, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
94. Nguyễn Tất Thịnh (2011), Hành trình nhân sinh quan: Phản tỉnh trên
đường trải nghiệm, Nxb Thông tin và truyền thông, Hà Nội.
156
95. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên) (1990), Quan niệm về Folklore, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
96. Ngô Đức Thịnh (2001), “Văn hóa dân gian và bản sắc văn hóa dân tộc”,
Tạp chí Khoa học xã hội và nhân văn, Trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh, (27).
97. Ngô Đức Thịnh (2001), “Những giá trị của lễ hội cổ truyền trong đời
sống xã hội hiện nay”, Văn hóa nghệ thuật, (3).
98. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên) (2001), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
99. Ngô Đức Thịnh (2007), Về tín ngưỡng và lễ hội cổ truyền, Nxb Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội.
100. Ngô Đức Thịnh (2009), Đạo Mẫu Việt Nam, Tập I, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
101. Ngô Đức Thịnh (2009), Đạo Mẫu Việt Nam, Tập II, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
102. Ngô Đức Thịnh, Đinh Gia Khánh và Nguyễn Đổng Chi (2004), Văn
hóa dân gian một chặng đường nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
103. Hoàng Thơ (2000), “Vấn đề con người trong đạo Phật”, Tạp chí Triết
học, (6).
104. Nguyễn Hữu Thụ (2013), Khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu
của người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ, Luận án Tiến sĩ Triết học,
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
105. Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 1: Tư tưởng
bình dân Việt Nam, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ
Chí Minh.
106. Đỗ Lai Thúy (1994), “Tín ngưỡng phồn thực nhìn từ góc độ văn hóa lịch sử”,
Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, 122(8).
107. Nguyễn Tài Thư (Chủ biên) (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 1,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
157
108. "Tín ngưỡng của người Mường ở Hòa Bình" (2014), tại trang
hoa-binh-d21342.html, [truy cập ngày 5/4/2014].
109. Nguyễn Thế Trắc (2008), Mạn đàm nhân sinh, Nxb Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
110. Trần Thị Trâm (2012), “Hiếu học - một truyền thống quý báu của dân
tộc Việt Nam”, Tạp chí Lý luận và truyền thông, (11).
111. Phạm Thị Ngọc Trầm (1992), “Những tư tưởng cơ bản của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về mối quan hệ giữa con người, xã hội và
tự nhiên”, Tạp chí Triết học, (1).
112. Phạm Thị Ngọc Trầm (2009), “Xây dựng đạo đức sinh thái - một
trách nhiệm xã hội của con người đối với tự nhiên”, Tạp chí
Triết học, (6).
113. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (1994), Lễ hội dân
gian trong đời sống xã hội hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
114. Chu Quang Trứ (1996), Di sản văn hóa dân tộc trong tín ngưỡng và tôn
giáo ở Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Huế.
115. Tạ Chí Đại Trường (2014), Thần, Người và Đất Việt, Nxb Tri thức,
Hà Nội.
116. Vũ Anh Tú (2008), “Tín ngưỡng phồn thực Việt Nam trong dòng chảy
văn hóa Đông Nam Á qua các lễ hội nông nghiệp”, Tạp chí Nghiên
cứu Đông Nam Á, (9).
117. Vũ Anh Tú (2010), Tín ngưỡng phồn thực trong lễ hội dân gian người
Việt ở Châu Thổ Bắc Bộ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
118. Lê Trung Vũ (1990), Lễ cầu ngư của làng ven biển, Văn hóa dân gian,
01 (29).
119. Trần Quốc Vượng (1996), Theo dòng lịch sử, những vùng đất tâm, thần
và vật, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
158
120. Trần Quốc Vượng (1996), “Nguyên lý mẹ của nền văn hóa Việt Nam”,
Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (12).
121. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1999), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội.
122. Nguyễn Hải Yến (Sưu tầm và biên soạn) (2008), Văn hóa lễ hội dân gian
cộng đồng các dân tộc Việt Nam, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
159
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PH NG THỊ AN NA
NH¢N SINH QUAN NG¦êI VIÖT
QUA FOLKLORE VIÖT NAM
PHỤ LỤC
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2015
160
Hội Gióng Phù Đổng
161
Ông Hiệu cờ tại Hội Gióng Phù Đổng
Rước ngựa tại Hội Gióng Phù Đổng
162
Hội Gióng Sóc Sơn
Ngựa Gióng tại Hội đền Sóc Sơn
163
Hoa tre tại Hội Gióng Sóc Sơn
Rước kiệu tại Hội Gióng Sóc Sơn
164
Đền Thờ Tống Trân tại thôn An Cầu, xã Tống Trân, Phù Cừ, Hưng Yên
Lễ hội đền Tống Trân
165
Kiệu của Trạng Nguyên Tống Trân
Lễ rước mực và rước nghiên bút tại hội đền Tống Trân
166
Lễ hội Chử Đồng Tử
Nghi thức rước nước tại lễ hội Chử Đồng Tử
167
Trống khai hội tại lễ hội đền Hóa (Dạ Trạch)
Rước kiệu Tiên Dung tại lễ hội đền Dạ Trạch
168
Mẫu Tam phủ (Mẫu Thượng Thiên - Mẫu Thượng Ngàn - Mẫu Thoải)
Mẫu Tứ phủ (Thượng Thiên - Thượng Ngàn - Mẫu Thoải - Mẫu Địa)
169
Thờ Tứ pháp tại chùa Dâu (Bắc Ninh)
Tín ngưỡng thờ Mẫu tại đền bà Chúa Kho (Bắc Ninh)
170
Phủ Giày (Nam Định) thờ thánh Mẫu Liễu Hạnh
Phủ Tây Hồ (Hà Nội) thờ thánh Mẫu Liễu Hạnh
171
Miếu Bà Chúa Xứ (Châu Đốc, An Giang)
Bà Chúa Xứ
172
Tháp thờ Thiên Y Thánh Mẫu (Tháp Bà Ponagar) tại Nha Trang
Chùa Bà Thiên Hậu (Bình Dương)
173
Nghi thức hầu đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu
174
Cặp sinh thực khí trong tín ngưỡng phồn thực
Nghi thức Lễ mật trong lễ hội “Linh tinh tình phộc” (Trò Trám)
175
Biểu tượng Linga trong tín ngưỡng phồn thực của người Chăm
Hình tượng điêu khắc trên nắp thạp đồng Đào Thịnh
176
Tượng nhà mồ Tây Nguyên
Điệu múa phồn thực của người Chăm (Bình Thuận)
177
Đền thờ Sơn Tinh (Ba Vì, Hà Nội)
Đến thờ thần rắn ở Cẩm Thủy (Thanh Hóa)
178
Lễ cúng thần đá của người Nùng
Lễ cúng thần rừng của người Nùng
179
Miếu thờ thần cây của người Tày
Tín ngưỡng thờ Cá Ông ở Ba Tri, Bến Tre
180
Xã hội đang quá “mê tín”?
Cướp hoa tre tại lễ hội đền Gióng
181
Cướp ấn đền Trần (Nam Định)
Tranh nhau cướp “lộc”
182
Hát quan họ “xin tiền”
Trả tiền “xin ấn”
183
Hiện tượng đốt vàng mã tràn lan
Tiền lẻ khắp nơi tại các cơ sở thờ tự tín ngưỡng dân gian
184
“Lộc” tại đền thờ bà chúa Kho
Đội ngũ “khấn thuê” tại đền bà Chúa Kho
185
Hoạt động bói toán: xem thẻ, bói quẻ
Trò chơi xóc đĩa tại các lễ hội dân gian
186
Hiện tượng ăn xin tràn lan tại các lễ hội
Xả rác bừa bãi, ô nhiễm môi trường tại các lễ hội
187
Bán sách bói toán ngay trong khuôn viên di tích
Bán thịt thú rừng tại các lễ hội
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_phung_thi_an_na_5459_0577.pdf