Trong số các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng, bảo đảm
thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh là một trong các biện pháp
phổ biến, mang tính xã hội và nhân văn. Bên cạnh tư cách là một biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, bảo lãnh cũng có thể được sử dụng trong
hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng và các tổ chức tín dụng với tư cách là một
hoạt động cấp tín dụng. Quá trình xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật về
vấn đề này đã có những thay đổi nhất định về tư duy lập pháp cũng như cách hiểu
về bản chất của biện pháp bảo lãnh. Điều này chi phối thực tiễn áp dụng pháp luật
về bảo lãnh để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng và đã phát sinh
những bất cập nhất định
159 trang |
Chia sẻ: phamthachthat | Lượt xem: 2119 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i nhân, bên nhận bảo lãnh không xác lập
một vật quyền nào trên tài sản cụ thể của bên bảo lãnh, do đó, không đặt ra vấn đề
xử lý tài sản của bên bảo lãnh hay thứ tự ưu tiên giữa bên nhận bảo lãnh với bên
nhận bảo đảm bằng tài sản. Việc đưa các biện pháp bảo đảm bằng tài sản và biện
pháp bảo đảm đối nhân (bảo lãnh) vào cùng một chế định là không hợp lý, vì
nhiều quy định đặc thù của biện pháp bảo đảm bằng tài sản không áp dụng cho
bảo lãnh. Khi xếp biện pháp bảo lãnh vào chế định này, có thể dẫn đến cách hiểu
không đúng về bản chất của bảo lãnh, cho rằng, bảo lãnh cũng xác lập một quyền
của bên nhận bảo lãnh trên tài sản của bên bảo lãnh và do đó, bên nhận bảo lãnh
cũng có quyền xử lý tài sản của bên bảo lãnh và hưởng thứ tự ưu tiên. Trong
trường hợp bên bảo lãnh cũng đưa tài sản của mình ra làm tài sản bảo đảm cho
việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, thì giao dịch này cần phải được hướng dẫn rõ là
sẽ chịu sự điều chỉnh của các quy định về cầm cố, thế chấp.
4.1.3. Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng
bằng biện pháp bảo lãnh cần xuất phát từ nguyên lý của trái quyền
65 Xem thêm: TS. Nguyễn Bích Thảo, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội – Các biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ trong Bộ luật Dân sự (sửa đổi), trên:
130
Trái quyền, còn gọi là quyền đối nhân, là quyền cho phép một người gọi là
trái chủ đòi hỏi một người khác, gọi là thụ trái, thực hiện một việc66. Trong ngôn
ngữ thông dụng, trái quyền còn được gọi là quyền đòi nợ. Điều đó có nghĩa rằng,
để quan hệ trái quyền vận hành hoàn hảo, nhất thiết phải có sự hợp tác của cả trái
chủ và thụ trái, chứ một mình trái chủ vào vai thì không đủ. Về mặt cấu trúc kỹ
thuật, trái quyền được hình thành từ ba yếu tố: trái chủ (chủ thể có), thụ trái (chủ
thể nợ) và đối tượng. Cũng như đối với vật quyền, trong khoa học pháp lý, có
nhiều cách phân loại trái quyền. Với cách phổ biến nhất, người ta chia các trái
quyền thành hai nhóm: trái quyền có đối tượng là làm hoặc không làm một việc
và trái quyền có đối tượng là chuyển giao một vật quyền.
Trái quyền có đối tượng “làm một việc” là một quan hệ nghĩa vụ trong đó
thụ trái cam kết thực hiện một công việc vì lợi ích của trái chủ: người chủ ga-ra
cam kết sửa chữa hoàn chỉnh một chiếc ô tô; kiến trúc sư cam kết hoàn thành đồ
án xây dựng một căn nhà; Trái quyền có đối tượng “không làm một việc” là
loại quan hệ nghĩa vụ trong đó thụ trái cam kết giữ thái độ thụ động về một
phương diện nào đó, vì lợi ích của trái chủ. Chẳng hạn, người bán một sản nghiệp
thương mại cam kết không mở một cơ sở kinh doanh cùng ngành nghề trong khu
vực lân cận trong một khoảng thời gian nào đó Trái quyền có đối tượng
“chuyển giao một vật quyền” là một quan hệ nghĩa vụ trong đó thụ trái cam kết
trao cho trái chủ một vật quyền vốn thuộc về mình, đặc biệt là quyền sở hữu đối
với một tài sản. Ví dụ, trong một vụ mua bán vật cùng loại với một số lượng nào
đó, người mua muốn nhận được tài sản, thì cần có sự hợp tác của người bán, thể
hiện qua việc người bán tiến hành cá thể hoá đối tượng mua bán bằng cách tách
đối tượng này ra khỏi khối các vật cùng loại, rồi đóng gói để sẵn sàng giao cho
66 PGS.TS. Nguyễn Ngọc Điện – Trường Đại học kinh tế – Luật, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh -
“Sự cần thiết của việc xây dựng các chế định vật quyền và trái quyền trong luật dân sự”,
111am-nghia-vu-tren-co-so-ly-thuyet-vat-quyen-va-trai-quyen
131
người mua. Về chế độ pháp lý, trái quyền không phải là quan hệ pháp lý giữa chủ
thể và vật, mà là quan hệ pháp lý giữa các chủ thể. Các quy tắc chi phối quan hệ
ấy đặc trưng bằng việc chỉ định hành vi ứng xử trong giao tiếp giữa hai bên. Để
quan hệ trái quyền vận hành suôn sẻ, sự hợp tác tích cực của trái chủ và thụ trái là
điều kiện cần thiết. Khuôn mẫu diễn tiến quan hệ trái quyền có thể được mô tả
như sau: Người có trái quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ; thụ trái thực hiện và
người có trái quyền tiếp nhận việc thực hiện.
Theo pháp luật một số quốc gia có nền tảng lâu đời về dân luật, lý thuyết về
vật quyền và trái quyền được quy định khá mạch lạc và nó chính là nền tảng để
điều chỉnh các quan hệ hợp đồng cũng như việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng. Theo pháp luật của Cộng hòa Liên bang Đức, trái quyền được hiểu là hành
vi của một người có năng lực pháp luật làm phát sinh một hậu quả pháp lý nhất
định. Luật Trái quyền của Cộng hòa Liên bang Đức67 chia làm 2 phần chính: Thứ
nhất, những quy định chung (thực hiện quyền như thế nào, trách nhiệm do không
thực hiện, thực hiện không đúng, chậm) áp dụng chung cho các quan hệ trái vụ
khác ở phần sau; Thứ hai, những quy định riêng (dạng quan hệ trái vụ cụ thể gồm
các hợp đồng cụ thể). Phần quy định riêng chỉ quy định những gì do tính chất đặc
thù của nó mà khác với những quy định ở phần chung. Có thể nói, trong tư duy và
phương thức lập pháp nói chung, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là mối quan hệ pháp
lý được thiết lập giữa một bên là người cam kết bảo đảm và bên kia là người thụ
hưởng biện pháp bảo đảm. Đó là một quan hệ nghĩa vụ đích thực, nghĩa là, ở góc
nhìn của pháp luật Latinh, có tác dụng tạo ra một trái quyền mà người thụ hưởng
biện pháp bảo đảm được phép thực hiện chống lại người cam kết bảo đảm.
67 ThS. Nguyễn Thị Hạnh, Vụ Pháp luật dân sự, kinh tế - Bộ Tư pháp, “Một số vấn đề về cấu trúc, vật
quyền và trái quyền trong Bộ luật Dân sự Đức mà Việt Nam có thể tham khảo trong quá trình sửa đổi
Bộ luật Dân sự năm 2005” - Tài liệu của Ban soạn thảo và Tổ biên tập Dự án Bộ luật Dân sự sửa đổi.
132
Tính chất đối nhân của quan hệ bảo đảm nghĩa vụ được ghi nhận cả trong
trường hợp biện pháp bảo đảm được xác lập trên các tài sản đặc định, gọi là thế
chấp hoặc cầm cố. Chủ nợ có bảo đảm bằng cầm cố, thế chấp được thừa nhận có
quyền ưu tiên được thanh toán nợ bằng giá bán tài sản cầm cố, thế chấp; tuy
nhiên, tính chất ưu tiên của của quyền không được làm rõ trong mối quan hệ với
người cầm cố, thế chấp, người mà theo giả thiết là chủ sở hữu tài sản. Riêng trong
trường hợp bảo đảm bằng thế chấp tài sản, thì để thực hiện quyền ưu tiên đó, chủ
nợ cần có sự hợp tác của chủ sở hữu tài sản. Một khi nợ được bảo đảm không
được trả, thì chủ nợ nhận thế chấp phải làm động tác yêu cầu chủ sở hữu giao tài
sản cho mình xử lý. Nếu chủ sở hữu không chịu giao, mà điều này lại thường xảy
trong thực tiễn, thì chủ nợ chỉ còn mỗi cách ứng xử phù hợp với pháp luật là gõ
cửa Toà án để yêu cầu cưỡng chế theo thủ tục chung về tố tụng dân sự, chứ không
có cách nào khác. Trong trường hợp bảo đảm nghĩa vụ bằng cầm cố tài sản, thì
pháp luật thừa nhận cho chủ nợ nhận cầm cố một số quyền có thể khiến người ta
liên tưởng đến người có vật quyền trong Luật Latinh. Chẳng hạn, nếu nợ không
được trả, thì chủ nợ nhận cầm cố có quyền yêu cầu xử lý tài sản cầm cố theo
phương thức đã thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật, điều này có nghĩa là
không cần đến vai trò của chủ sở hữu. Tuy nhiên, sự thừa nhận đó không hề
khẳng định rằng, chủ nợ nhận cầm cố có quyền năng tác động trực tiếp lên vật
như người có vật quyền. Đơn giản, trong tình huống đặc thù, chủ nợ đang nắm
giữ, kiểm soát tài sản về phương diện vật chất và việc nắm giữ đó là hợp pháp,
được nhà chức trách bảo vệ. Tình trạng đó làm hình thành lợi thế tự nhiên của chủ
nợ trong mối quan hệ với chủ sở hữu tài sản trong việc xử lý tài sản bảo đảm để
thực hiện việc thu hồi nợ. Người làm luật, về phần mình, chỉ làm mỗi việc là quy
định trao cho chủ nợ một số quyền để phát huy lợi thế tự nhiên đó, nhằm giải
133
quyết vấn đề thu hồi nợ theo cách giản đơn và ít tốn kém nhất68. Không thực hiện
đúng nghĩa vụ phụ cũng là một dạng thực hiện không đúng nghĩa vụ và người vi
phạm cũng phải chịu trách nhiệm. Để tạo thành nguyên tắc, Bộ luật Dân sự Việt
Nam cần quy định này theo hướng: Trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ phụ, thì
người vi phạm nghĩa vụ phụ, cũng phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm của
mình. Điều này có thể áp dụng trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ về bảo lãnh.
Nghiên cứu Bộ luật Dân sự Pháp cho thấy, các biện pháp bảo đảm cũng
được thiết kế theo triết lý vật quyền và trái quyền và được chia thành hai loại là
vật quyền bảo đảm và trái quyền bảo đảm. Trái quyền bảo đảm là bảo đảm theo
đó một trái quyền được tăng cường bởi một trái quyền khác. Tiêu biểu là biện
pháp bảo lãnh. Bảo lãnh là hợp đồng theo đó một người nhận bảo lãnh cho nghĩa
vụ của một người khác và cam kết thực hiện nghĩa vụ đó nếu người này không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đủ nghĩa vụ. Trên thực tế, ngoài hợp
đồng bảo lãnh, giữa người có nghĩa vụ và người bảo lãnh thường có một hợp
đồng trong đó, người bảo lãnh cam kết bảo lãnh cho người có nghĩa vụ. Một số
trường hợp bảo lãnh phổ biến69 như: Bảo lãnh do quan hệ bạn bè hoặc gia đình;
bảo lãnh có thu phí trong trường hợp ngân hàng bảo lãnh cho khách hàng của
mình và khách hàng phải trả phí bảo lãnh; bảo lãnh của lãnh đạo công ty đối với
các khoản nợ của công ty. Có thể bảo lãnh cho một nghĩa vụ hiện tại hoặc nghĩa
vụ hình thành trong tương lai hoặc có thể bảo lãnh đối với tất cả các khoản nợ của
con nợ hoặc chỉ bảo lãnh đối với một hoặc một số khoản nợ cụ thể. Cũng có thể
thực hiện bảo lãnh có giới hạn hoặc không giới hạn mức trần mà người bảo lãnh
68 Xem: Giáo sư Michel Grimaldi của Đại học Paris II, Cộng hòa Pháp đã có bài trình bày tổng quát về
pháp luật thực định của Cộng hòa Pháp về các biện pháp bảo đảm, trong đó có bàn đến các vấn đề về
bảo lãnh, Tài liệu Tọa đàm do Nhà Pháp luật Việt - Pháp tổ chức về sửa đổi Bộ luật Dân sự, tháng 11
năm 2011.
69 Tài liệu của Nhà Pháp luật Việt - Pháp: Tổng hợp một số quy định pháp luật Cộng hòa Pháp về các
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự,
doi.aspx?ItemID=4454
134
phải trả trong trường hợp người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ, bảo
lãnh liên đới. Quyền trả nợ sau của người bảo lãnh được quy định trong trường
hợp chủ nợ phải cố gắng khai thác hết khả năng thanh toán của người có nghĩa vụ
trước khi yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ. Điều đó có nghĩa là, trước
khi yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ, chủ nợ phải yêu cầu người được
bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ. Nếu như các yêu cầu này không có kết quả, thì phải
tiến hành kê biên, bán tài sản nếu người có nghĩa vụ có tài sản. Người bảo lãnh
chỉ phải thực hiện nghĩa vụ nếu người được bảo lãnh không có khả năng thanh
toán. Tuy nhiên, người bảo lãnh có thể từ bỏ quyền trả nợ sau của mình. Khuynh
hướng của pháp luật nói chung là phải bảo vệ người bảo lãnh (khác với pháp luật
hiện hành của Việt Nam là quan tâm nhiều đến quyền lợi của người nhân bảo
lãnh). Hợp đồng bảo lãnh phải được lập thành văn bản. Trong hợp đồng, người
bảo lãnh phải viết bằng tay một câu là “đã hiểu nội dung, phạm vi cam kết bảo
lãnh của mình”. Chủ nợ có nghĩa vụ thông tin, tư vấn và cảnh báo cho người bảo
lãnh, đặc biệt là về tình hình nghĩa vụ được bảo đảm.
Bảo lãnh không thiết lập quan hệ liên đới giữa người bảo lãnh và người
được bảo lãnh. Như đã nêu ở trên, người bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh trong trường hợp người được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ
của mình và người nhận bảo lãnh đã tiến hành các thủ tục cần thiết mà không có
kết quả. Vì nghĩa vụ bảo lãnh là nghĩa vụ bổ trợ cho nghĩa vụ được bảo lãnh, nên
người bảo lãnh có thể viện dẫn tất cả các căn cứ mà người được bảo lãnh có thể
viện dẫn để không phải thực hiện nghĩa vụ của mình. Các loại bảo lãnh chủ yếu
được áp dụng bao gồm:
- Bảo lãnh độc lập là biện pháp bảo đảm rất hiệu quả và phổ biến trong
thương mại quốc tế theo đó bên bảo lãnh cam kết trả cho bên có quyền (bên nhận
bảo lãnh) một số tiền xác định theo yêu cầu của bên có nghĩa vụ (bên ra lệnh
thanh toán). Trong trường hợp này, nghĩa vụ bảo lãnh độc lập với nghĩa vụ được
135
bảo lãnh. Vì nghĩa vụ bảo lãnh độc lập với nghĩa vụ được bảo lãnh, nên bên bảo
lãnh không có quyền viện dẫn các căn cứ mà bên được bảo lãnh có thể viện dẫn
để không phải thực hiện nghĩa vụ của mình. Bảo lãnh độc lập được lập dưới hình
thức thư bảo lãnh, trong đó nêu rõ số tiền mà bên bảo lãnh phải trả và thời hạn
bảo lãnh. Khi được yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, bên bảo lãnh phải thanh
toán ngay lập tức, kể cả khi chưa đến hạn thực hiện nghĩa vụ chính của bên được
bảo lãnh. Tuy nhiên, trong trường hợp gian lận hoặc nghĩa vụ được bảo đảm
không tồn tại nữa, thì bên bảo lãnh không phải thanh toán. Do tính độc lập của
biện pháp bảo đảm này nên nếu quyền yêu cầu được chuyển giao, thì nghĩa vụ
bảo lãnh không đi theo quyền yêu cầu đó, vì nó được xác lập căn cứ vào tư cách
cá nhân của bên có quyền.
- Thư bảo trợ là cam kết theo đó một người cam kết trợ giúp cho người có
nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của mình. Đó không phải là cam kết trả một khoản
tiền mà là cam kết giúp đỡ người có nghĩa vụ. Ví dụ, sự giúp đỡ này có thể được
thực hiện dưới hình thức tư vấn hoặc không tiến hành hoạt động cạnh tranh với
người có nghĩa vụ. Đó là nghĩa vụ thực hiện một hành vi ứng xử nào đó70. Biện
pháp bảo đảm này có nguồn gốc từ hệ thống pháp luật Anh - Mỹ và có thể được
áp dụng trong quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con. Ví dụ, công ty mẹ phát
hành thư bảo trợ cho ngân hàng, trong đó nêu rõ rằng công ty mẹ sẽ giúp đỡ công
ty con thực hiện các cam kết của mình. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không
thanh toán thì bên bảo trợ không phải thanh toán thay. Thư bảo trợ được quy định
trong một điều luật của Bộ luật Dân sự vì các nhà làm luật cho rằng đây là một
70 Xem: Giáo sư Michel Grimaldi của Đại học Paris II, Cộng hòa Pháp đã có bài trình bày tổng quát về
pháp luật thực định của Cộng hòa Pháp về các biện pháp bảo đảm, trong đó có bàn đến các vấn đề về
bảo lãnh, Tài liệu Tọa đàm do Nhà Pháp luật Việt - Pháp tổ chức về sửa đổi Bộ luật Dân sự, tháng 11
năm 2011.
136
biện pháp bảo đảm quan trọng. Tuy nhiên, cách thức thực hiện cụ thể việc bảo trợ
do các chủ thể tự xác định trong thực tiễn.
4.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC
HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG BẰNG BIỆN PHÁP BẢO LÃNH Ở VIỆT
NAM
4.2.1. Xây dựng Nghị định mới về giao dịch bảo đảm, trong đó có các
hướng dẫn cụ thể về biện pháp bảo lãnh
Chúng tôi cho rằng, việc xây dựng Nghị định mới để thay thế Nghị định số
163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm và Nghị
định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về
giao dịch bảo đảm đã đến lúc cấp bách. Trong Nghị định mới về giao dịch bảo
đảm, biện pháp bảo lãnh cần được hướng dẫn chi tiết hơn và làm rõ các vấn đề mà
Bộ luật Dân sự năm 2015 còn quy định mang tính khái quát:
Thứ nhất, cần có quy định giải thích để làm rõ hơn bản chất pháp lý của
biện pháp bảo lãnh và không nhắc lại hoặc sao chép các quy định đã có trong Bộ
luật Dân sự. Biện pháp bảo lãnh được xây dựng dựa trên những nguyên lý của
trái quyền. Trái quyền bảo đảm là việc bảo đảm theo đó, một trái quyền được tăng
cường bởi một trái quyền khác. Bảo lãnh phải được xác định bằng hợp đồng, theo
đó một người nhận bảo lãnh cho nghĩa vụ của một người khác và cam kết thực
hiện nghĩa vụ đó nếu người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng, không đủ nghĩa vụ.
Bảo lãnh là biện pháp đối nhân, vì vậy, thứ tự ưu tiên thanh toán (tính đối
kháng với người thứ ba) không đặt ra hoặc bắt buộc phải có quy định về giá trị tối
đa của nghĩa vụ bảo lãnh với nghĩa vụ được bảo lãnh. Mặc dù các quy định của
Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng như Bộ luật Dân sự đã có xu hướng tiếp cận biện
pháp bảo lãnh là biện pháp đối nhân, nhưng trong các hướng dẫn thi hành không
137
quy định cụ thể hoặc thiên hướng cài yếu tố “đối vật” để đảm bảo quyền lợi cho
bên nhận bảo lãnh, dẫn đến cách hiểu và áp dụng pháp luật thiếu chuẩn xác. Bên
cạnh đó, còn rất nhiều quy định mang tính tùy nghi, ví dụ như “các bên cũng có
thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo
lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình” (Điều 361 Bộ luật Dân sự
năm 2005 và khoản 2 Điều 335 Bộ luật Dân sự năm 2015) Quy định như vậy sẽ
đưa đến hệ quả là, bên bảo lãnh có thể thiếu tích cực trong việc thực hiện nghĩa vụ
và ai sẽ chứng minh được rằng, bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện
nghĩa vụ? Đồng thời, bên được bảo lãnh cũng không tích cực thực hiện nghĩa vụ
mà trông chờ vào việc thực hiện nghĩa vụ thay của bên bảo lãnh Về nguyên tắc,
bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp bên được bảo lãnh đã
dùng toàn bộ tài sản của mình để thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh
nhưng vẫn không đảm bảo trọn vẹn việc thực hiện nghĩa vụ. Các quy định về
trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh theo Điều 342 Bộ luật Dân sự năm 2015
cũng cần được hướng dẫn cụ thể hơn để bên được bảo lãnh cũng như bên bảo lãnh
phải có trách nhiệm trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ cũng như nghĩa vụ bảo
lãnh71. Trong trường hợp các bên không thoả thuận về sử dụng biện pháp bảo đảm
bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, thì cần có quy chế pháp lý
để đảm bảo cho bên nhận bảo lãnh có thể yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị
nghĩa vụ vi phạm và bồi thường thiệt hại một cách hiệu quả trong trường hợp bên
bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh.
71 Như đã nói ở trên, bản chất của bảo lãnh không phải là việc người bảo lãnh bằng danh dự, uy tín của
mình, mà thực chất bằng toàn bộ khối tài sản của mình để cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho người
được bảo lãnh nếu người sau này không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ. Trong bảo lãnh - bảo
đảm đối nhân, cái mà người nhận bảo lãnh quan tâm là người đứng ra bảo lãnh và khả năng tài chính
của anh ta (toàn bộ khối tài sản mà người bảo lãnh có) mà không hướng vào một tài sản cụ thể nào.
138
Thứ hai, cần hướng dẫn để phân biệt trường hợp sử dụng biện pháp bảo
đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh với trường hợp cầm cố,
thế chấp tài sản của người thứ ba
Khoản 3 Điều 336 Bộ luật Dân sự năm 2015 về phạm vi bảo lãnh quy định:
“Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh”. Như vậy, để đảm bảo nghĩa vụ bảo lãnh, bên bảo
lãnh có thể cầm cố hay thế chấp tài sản cụ thể thuộc sở hữu của mình. Tuy nhiên,
việc cầm cố thế chấp tài sản này hoàn toàn không giống với trường hợp cầm cố,
thế chấp tài sản của người thứ ba để bảo đảm nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh.
Với cơ chế cầm cố, thế chấp tài sản của người thứ ba, bên thứ ba dùng tài
sản của mình để bảo đảm trực tiếp nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ đối với bên có
quyền (bên nhận cầm cố, thế chấp) và nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện hay
thực hiện không đúng nghĩa vụ được bảo đảm, bên nhận cầm cố, thế chấp có
quyền xử lý tài sản cầm cố, thế chấp. Nếu giá trị tài sản cầm cố, thế chấp không
đủ để thanh toán nghĩa vụ được bảo đảm, bên thế chấp không phải thanh toán
phần còn thiếu. Còn việc cầm cố hay thế chấp tài sản cụ thể thuộc sở hữu của bên
bảo lãnh là để bảo đảm cho nghĩa vụ bảo lãnh. Khi người bảo lãnh không thực
hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh có quyền xử lý tài sản cầm cố,
thế chấp để thanh toán giá trị nghĩa vụ vi phạm, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt
hại, lãi trên số tiền chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Về nguyên tắc thì biện pháp bảo lãnh không thuộc đối tượng đăng ký để
xác định thứ tự ưu tiên thanh toán, trong khi biện pháp cầm cố, thế chấp lại thuộc
đối tượng đăng ký. Trong trường hợp bên bảo lãnh cầm cố hay thế chấp một tài
sản cụ thể để bảo đảm cho nghĩa vụ bảo lãnh, thì tài sản này cần được đăng ký
giao dịch bảo đảm và có thứ tự ưu tiên khi xử lý tài sản bảo đảm theo quy chế của
cầm cố hay thế chấp. Để giải quyết vấn đề này, trong quá trình xây dựng Nghị
định mới về giao dịch bảo đảm, cần tham khảo kỹ các quy định của Bộ luật Dân
139
sự Nhật Bản, Bộ luật Dân sự Pháp về thứ tự ưu tiên giữa các chủ thể có quyền lợi
được đăng ký với các chủ thể có quyền lợi không thuộc đối tượng đăng ký.
Thứ ba, cần có quy định hướng dẫn cụ thể hơn về xử lý tài sản của bên bảo
lãnh
Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bên nhận bảo lãnh, làm rõ hơn
trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của người bảo lãnh, Nghị định số 11/2012/NĐ-CP
của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-
CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm đã bổ sung quy định
giải thích về trường hợp người nhận bảo lãnh được quyền thực hiện việc xử lý tài
sản của người bảo lãnh khi người bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
theo thỏa thuận, cụ thể:
(i) Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về việc cầm cố, thế chấp tài sản
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì tài sản cầm cố, thế chấp được xử lý
theo quy định thực hiện nghĩa vụ của người bảo lãnh;
(ii) Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về việc cầm cố, thế chấp
tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì bên bảo lãnh phải giao tài sản
thuộc sở hữu của mình cho bên nhận bảo lãnh xử lý theo yêu cầu của bên nhận
bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Nếu bên bảo lãnh không giao tài sản,
thì bên nhận bảo lãnh có quyền khởi kiện theo quy định của pháp luật;
(iii) Tại thời điểm xử lý tài sản của bên bảo lãnh, nếu bên bảo lãnh không
có tài sản để xử lý hoặc khoản tiền thu được từ việc xử lý tài sản không đủ thanh
toán nghĩa vụ được bảo lãnh, thì trong phạm vi nghĩa vụ được bảo lãnh, bên nhận
bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh phải giao tài sản có được sau thời điểm
xử lý cho mình để tiếp tục xử lý.
Tuy nhiên, trên thực tế, chỉ khi các bên có thỏa thuận về việc cầm cố, thế
chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, thì việc xử lý tài sản cầm cố,
thế chấp mới có thể được thực hiện. Còn các trường hợp các bên không có thỏa
140
thuận về việc cầm cố, thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, thì
việc buộc bên bảo lãnh phải giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho bên nhận bảo
lãnh xử lý theo yêu cầu của bên nhận bảo lãnh là rất không có tính khả thi. Nên
chăng, cần phải hướng dẫn để bổ sung quyền của bên nhận bảo lãnh được yêu cầu
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong trường hợp bên bảo lãnh cố tình không giao tài sản để xử lý nhằm bảo đảm
nghĩa vụ bảo lãnh của họ đối với bên nhận bảo lãnh. Trong quá trình xử lý tài sản
nhằm bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh (các ngân hàng, tổ chức tín
dụng) được quyền thực hiện các biện pháp sau: Được trực tiếp hoặc ủy quyền cho
người khác tiến hành việc thu giữ tài sản bảo đảm; được thu thập, phân tích, đối
chiếu các thông tin liên quan đến tài sản bảo đảm; được yêu cầu chủ sở hữu và
người giữ tài sản bảo đảm cung cấp thông tin, thực hiện việc bảo quản, bàn giao,
thu giữ tài sản bảo đảm. Bên cạnh đó, bên nhận bảo lãnh cũng được đề nghị chính
quyền địa phương, cơ quan công an và các tổ chức, cá nhân liên quan hỗ trợ, giúp
đỡ để thực hiện việc thu giữ tài sản bảo đảm; được yết thị thông báo tại nơi có tài
sản bảo đảm; được thông báo cho các tổ chức, cá nhân hữu quan và đăng tải trên
phương tiện thông tin đại chúng về việc thu giữ tài sản; được sử dụng các biện
pháp để di chuyển tài sản bảo đảm đến nơi khác; được kê biên, phong tỏa, niêm
phong để áp đặt quyền quản lý, trông giữ, bảo vệ tài sản bảo đảm...
Thứ tư, bổ sung một số quy định để giải thích và hoàn thiện hơn chế định
pháp luật về bảo lãnh, bao gồm:
- Bổ sung các quy định nhằm bảo vệ người bảo lãnh; quy định về việc bên
nhận bảo lãnh phải có nghĩa vụ thông tin cho bên bảo lãnh về giá trị của nghĩa vụ
được bảo lãnh, khả năng tài chính của bên được bảo lãnh; quy định về việc bên
bảo lãnh có thể viện dẫn tất cả những vi phạm về hình thức, nội dung mà bên
được bảo lãnh có thể viện dẫn để không phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận
bảo lãnh;
141
- Bổ sung các quy định về điều kiện đối với bên bảo lãnh, trong đó đặc biệt
là khả năng thanh toán nợ; các trường hợp làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt đối
với biện pháp bảo lãnh; giới hạn của biện pháp bảo lãnh so với giá trị của nghĩa
vụ được bảo lãnh; hậu quả pháp lý trong trường hợp bên bảo lãnh không có tài
sản để bù trừ nghĩa vụ được bảo lãnh.
4.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bảo lãnh để bảo
đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ở Việt Nam hiện nay
Trong điều kiện kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng là hoạt động kinh
doanh quan trọng của ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Cho vay vốn được ví
như việc bán chịu một loại hàng hóa đặc biệt, đó là tiền tệ. Vì vậy, trong quan hệ
tín dụng, trước khi giải ngân, thì thế mạnh hoàn toàn thuộc về ngân hàng và ngân
hàng là người quyết định có hay không cho vay. Tuy nhiên, ngay sau khi thực
hiện hợp đồng, tức là sau khi ngân hàng giải ngân, thì xu thế lại hoàn toàn đảo
ngược. Khi ấy, bên vay là người nắm vai trò chủ động trong việc trả nợ. Mặc dù
ngân hàng có khá nhiều quyền chi phối theo quy định của pháp luật về hợp đồng
tín dụng, nhưng vẫn trở thành bên thụ động. Như vậy, bất kỳ một khoản tín dụng
(khoản tiền cho vay) nào cũng đều chứa đựng những rủi ro nhất định xuất phát từ
những sự kiện bất ngờ làm ảnh hưởng đến tình hình tài chính của khách hàng vay.
Cho nên, cần thiết phải có việc bảo đảm hợp lý với tư cách là sự bảo hiểm giúp
cho các ngân hàng và tổ chức tín dụng đối phó với mọi tổn thất, một khi các
khoản nợ trở nên khó đòi và khách hàng ở vào tình trạng không thể thanh toán
được các khoản nợ vay. Theo cách hiểu thông thường, bảo đảm tín dụng được
định nghĩa là một phương tiện đem lại cho chủ ngân hàng sự bảo đảm và tin
tưởng rằng, sẽ có một nguồn tài chính thay thế nhất định dùng để hoàn trả hay để
bao chi nếu như việc thực hiện nghĩa vụ của bên vay trong hợp đồng tín dụng
không thực hiện được. Nếu không có những thiết chế cơ bản để bảo đảm các
khoản tiền đi vay và cho vay hiệu quả, ngân hàng sẽ tự đặt mình trước những rủi
142
ro khó lường đối với một loại hàng hóa vốn dĩ đã chứa đựng rất nhiều rủi ro, đó là
“tiền tệ”.
Về bản chất, bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng chỉ là một trong những
biện pháp để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ đối với hợp đồng chính, nó không
phải là điều kiện bắt buộc, dù có các biện pháp này hay không đều không ảnh
hưởng đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các bên. Bên có nghĩa vụ
vẫn phải nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ và chịu các biện pháp xử lý về tài sản nếu
vi phạm (phong tỏa tài khoản, niêm phong tài sản, bị các cơ quan có thẩm quyền
áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác để đảm bảo trả nợ...). Tuy nhiên,
để đồng thời đạt được hai mục đích là phát triển thị trường, khách hàng và bảo
đảm an toàn đối với các khoản cho vay, thì việc áp dụng các biện pháp bảo đảm
được xem như công cụ hiệu quả và an toàn đối với các ngân hàng.
Bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm nghĩa vụ được Bộ luật Dân sự quy
định, nhưng bản chất của nó là biện pháp bảo đảm đối nhân. Vì vậy, các ngân
hàng, tổ chức tín dụng cần phải có những biện pháp cụ thể sao cho khi áp dụng
biện pháp bảo lãnh để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng phát huy được hết giá
trị đích thực của của nó nhưng vẫn an toàn cho các hoạt động tín dụng. Trên thực
tế, pháp luật cũng đã có những quy định cho vay không cần biện pháp bảo đảm
như: Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ quy định về
chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, trong đó quy định
cụ thể về mức cho vay tối đa trong trường hợp cho vay không có bảo đảm đối với
cá nhân, tổ chức; hoặc Quyết định số 92/2009/QĐ-TTg ngày 8/7/2009 của Thủ
tướng Chính phủ quy định về tín dụng đối với thương nhân hoạt động thương mại
tại vùng khó khăn, theo đó mức cho vay tối đa không có bảo đảm tiền vay... Điều
này được dẫn ra để minh chứng rằng, nếu biện pháp bảo lãnh được quy định cụ
thể, chặt chẽ, rõ ràng, “bản chất đối nhân” sẽ được phát huy và uy tín của bên bảo
lãnh vẫn đủ để bảo đảm an toàn cho các quan hệ tín dụng ngân hàng. Đặc biệt
143
trong xu thế hiện nay, nhằm khuyến khích sự phát triển của hệ thống doanh
nghiệp vừa và nhỏ, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ gia
đình tiếp cận nguồn vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, Nhà
nước ta đã tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng mở
rộng tín dụng đi đôi với an toàn, chất lượng tín dụng, đảm bảo cung ứng vốn cho
nền kinh tế. Ưu tiên tập trung tín dụng cho các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn,
xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp ứng dụng
công nghệ cao. Nới hạn mức cho vay không cần tài sản bảo đảm, mở rộng đối
tượng tham gia như các hợp tác xã, tổ hợp tác chỉ cần tham gia hoạt động sản xuất
kinh doanh là có thể được cấp tín dụng ngân hàng mà không cần ngay tại địa bàn
nông thôn. Đồng thời, các doanh nghiệp cung ứng đầu vào cho sản xuất nông
nghiệp, sản xuất, chế biến các phụ phẩm nông nghiệp cũng nằm trong đối tượng
thụ hưởng chính sách.
Nhằm áp dụng biện pháp bảo lãnh để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng
đạt hiệu quả, đảm bảo tính an toàn trong các quan hệ cho vay, các ngân hàng, tổ
chức tín dụng cần chú trọng thực hiện các giải pháp sau:
Một là, ban hành Quy chế về bảo đảm tiền vay, trong đó có các quy định về
biện pháp bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng, tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn của các ngân hàng, tổ chức tín dụng cụ thể
Trên thực tế, hầu hết các ngân hàng, tổ chức tín dụng đều đã ban hành Quy
chế về bảo đảm tiền vay, tuy nhiên trong đó chưa có những hướng dẫn cụ thể về
áp dụng biện pháp bảo lãnh để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng, chỉ có quy
định chung chung về bảo lãnh bằng tài sản của người thứ ba và cũng không có
hướng dẫn chi tiết nên trong thực tiễn đã phát sinh nhiều vướng mắc bất cập. Bởi
vậy, việc hướng dẫn áp dụng biện pháp bảo lãnh trong Quy chế bảo đảm tiền vay
cần quan tâm các vấn đề như:
144
(i) Việc lựa chọn bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo
lãnh cần phải căn cứ vào mục đích của khoản tiền vay theo hợp đồng tín dụng và
đối tượng khách hàng cũng như điều kiện của bên bảo lãnh để quyết định.
(ii) Cần có các quy định giải thích cụ thể hơn về điều kiện của người bảo
lãnh. Bên cạnh việc xác định các điều kiện về uy tín, cần xác định rõ các điều
kiện về tài sản của người bảo lãnh.
(iii) Quy định giải thích rõ hơn quyền và nghĩa vụ của bên nhận bảo lãnh
nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bên bảo lãnh; quy định về việc bên nhận bảo
lãnh phải có nghĩa vụ thông tin đối với bên bảo lãnh, nghĩa vụ này có thể là tư vấn
hoặc thậm chí là cảnh báo; bên bảo lãnh có thể viện dẫn tất cả những vi phạm về
hình thức mà bên được bảo lãnh có thể viện dẫn để không phải thực hiện nghĩa vụ
đối với người có quyền...;
(iv) Quy định rõ về các trường hợp làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt đối
với biện pháp bảo lãnh; giới hạn của biện pháp bảo lãnh so với giá trị của nghĩa
vụ được bảo lãnh;
(v) Trường hợp bên bảo lãnh không có tài sản để bù trừ nghĩa vụ được bảo
lãnh thì giải quyết hậu quả pháp lý như thế nào...;
(vi) Xác định rõ quyền của bên bảo lãnh được bồi hoàn và quyền được thế
quyền bên nhận bảo lãnh sau khi đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Hai là, khuyến khích các bên thoả thuận sử dụng biện pháp bảo đảm nghĩa
vụ bảo lãnh bằng tài sản cụ thể (dùng biện pháp đối vật để bảo đảm cho biện
pháp đối nhân)
Khi áp dụng biện pháp bảo lãnh để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng
đối với những khoản tiền vay có giá trị lớn, các bên trong quan hệ hợp đồng bảo
lãnh nên thoả thuận về biện pháp bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh bằng tài sản cụ thể.
Việc bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh bằng tài sản cụ thể được thực hiện theo các quy
145
định về cầm cố, thế chấp và cũng nên được thực hiện việc đăng ký giao dịch bảo
đảm để được đảm bảo ưu tiên thanh toán.
Trong quy trình cho vay và áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay của
ngân hàng, các tổ chức tín dụng cần đề cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng khi
thẩm định, xem xét việc cấp tín dụng và trong hồ sơ vay vốn phải có văn bản
cung cấp thông tin có xác nhận của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm; từng
bước nâng cao chất lượng công tác định giá tài sản đảm bảo; chủ động bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình thông qua việc đăng ký giao dịch bảo đảm tại
một trong các trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản.
Ba là, hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan, đảm bảo tính hiệu lực,
hiệu quả trên thực tế để bảo đảm an toàn cho các quan hệ tín dụng
Theo đó, hệ thống pháp luật về hợp đồng, về giao dịch bảo đảm cần có quy
định rõ để các cơ quan nhà nước có sự hỗ trợ các ngân hàng, tổ chức tín dụng
trong việc thực hiện các quyền được pháp luật quy định; pháp luật tố tụng dân sự,
cơ quan xét xử cần có sự thay đổi để xử lý nhanh chóng các vụ kiện liên quan đến
xử lý nợ của ngân hàng, góp phần thúc đẩy thu hồi nợ nhanh chóng, bảo đảm sự
tôn trọng pháp luật của các bên trong giao dịch; thay đổi văn hóa, nhận thức của
bên vay vốn, bên bảo đảm, cũng như cộng đồng trong việc thực thi trách nhiệm
trả nợ vay ngân hàng, tạo trào lưu xã hội phê phán, không chấp nhận các hình
thức chây ì trả nợ
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Có thể nói, các quy định pháp luật về biện pháp bảo lãnh nếu được thiết kế
hoàn hảo sẽ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng như một thiết chế hỗ trợ, cung cấp giải
pháp pháp lý tối ưu cho các quan hệ tín dụng ngân hàng, nhằm tối đa hóa giá trị
của tài sản (tiền tệ), thúc đẩy các các quan hệ tín dụng phát triển và nhờ đó, đưa
lại sự phát triển sôi động trong đời sống dân sự và kinh tế. Dựa trên nguyên tắc
146
bảo vệ tính tuyệt đối an toàn của các quan hệ tín dụng ngân hàng, tính hiệu quả
của hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm công khai và minh bạch sẽ giúp cho
người dân khai thác không chỉ giá trị vật chất tài sản, mà tối đa hóa giá trị pháp lý,
tiền tệ của tài sản. Bên cạnh đó, dựa trên nguyên tắc tự do hợp đồng, hệ thống
pháp luật hợp đồng nếu được thiết kế đúng với kỳ vọng của các chủ thể kết ước,
nó sẽ giúp cho các bên trong quan hệ tín dụng ngân hàng giảm thiểu chi phí giao
dịch trong việc tiếp cận, đàm phán, thực thi hợp đồng; nguyên tắc về trách nhiệm
do lỗi và hệ thống pháp luật bồi thường thiệt hại sẽ giúp cho các chủ thể yên tâm
và an toàn hơn khi quyền lợi bị hành vi xâm phạm.
Bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm nghĩa vụ được Bộ luật Dân sự quy
định, nhưng bản chất của nó là biện pháp bảo đảm đối nhân. Vì vậy, các ngân
hàng, tổ chức tín dụng cần phải có những biện pháp cụ thể sao cho khi áp dụng
biện pháp bảo lãnh để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng phát huy được hết giá
trị đích thực của của nó nhưng vẫn an toàn cho các hoạt động tín dụng.
147
KẾT LUẬN
Sau khi nghiên cứu đề tài “Pháp luật về đảm bảo thực hiện hợp đồng tín
dụng bằng biện pháp bảo lãnh”, cho phép rút ra một số kết luận sau đây:
1. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hoạt động
tín dụng ngày càng được phát triển một cách đa dạng với sự tham gia của nhiều
chủ thể kinh tế, theo đó, quan hệ tín dụng cũng được mở rộng cả về đối tượng và
quy mô làm cho hoạt động tín dụng ngân hàng càng đa dạng và phức tạp hơn.
Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu, mang lại lợi nhuận nhiều nhất cho ngân
hàng thương mại và các tổ chức tín dụng, nó quyết định sự tồn tại và phát triển
của một ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
Vì vậy, việc xây dựng hành lang pháp lý an toàn cho các hợp đồng tín dụng được
coi là yêu cầu cần thiết và cấp bách, nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh
mẽ hoạt động kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng
trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2. Chế độ pháp lý về các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng là
vấn đề quan trọng, có ý nghĩa to lớn cả về chính trị, kinh tế, xã hội. Việc thực thi
hiệu quả các quy định pháp luật trong lĩnh vực này góp phần đạt được hai mục
tiêu, đó là phát triển và mở rộng thị trường tín dụng, nhưng vẫn bảo đảm an toàn
đối với các khoản cho vay của ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Về bản chất,
các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng là những biện
pháp để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ đối với hợp đồng tín dụng, nó có thể là
điều kiện bắt buộc trong một số trường hợp theo quy định của pháp luật hoặc theo
thoả thuận của các bên. Tuy nhiên, dù thế nào chăng nữa, thì các biện pháp này
không ảnh hưởng đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp
đồng tín dụng. Hiện nay, hầu hết các ngân hàng thương mại đã xây dựng quy định
về các biện pháp bảo đảm hợp đồng tín dụng để áp dụng thống nhất trong toàn hệ
148
thống, nhưng trên thực tế, các ngân hàng vẫn đang gặp không ít khó khăn, vướng
mắc liên quan đến việc xử lý, định giá tài sản bảo đảm, dẫn đến việc đưa khoản
tín dụng của mình lâm vào tình trạng nợ xấu, nợ khó đòi, khi những giao dịch bảo
đảm không phát huy được giá trị của nó như mục đích của việc điều chỉnh pháp
luật mong muốn.
3. Trong số các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng, bảo đảm
thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh là một trong các biện pháp
phổ biến, mang tính xã hội và nhân văn. Bên cạnh tư cách là một biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, bảo lãnh cũng có thể được sử dụng trong
hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng và các tổ chức tín dụng với tư cách là một
hoạt động cấp tín dụng. Quá trình xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật về
vấn đề này đã có những thay đổi nhất định về tư duy lập pháp cũng như cách hiểu
về bản chất của biện pháp bảo lãnh. Điều này chi phối thực tiễn áp dụng pháp luật
về bảo lãnh để bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng và đã phát sinh
những bất cập nhất định. Xung quanh chế định này vẫn còn một số vướng mắc và
tiềm ẩn rủi ro dẫn đến tranh chấp. Pháp luật chưa có quy định về việc bên nhận
bảo lãnh phải yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản của
mình trước và việc cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ trước hết được tiến hành đối với
tài sản của người được bảo lãnh, sau đó nếu người được bảo lãnh không có tài sản
thì mới có quyền yêu cầu người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Các
quy định của pháp luật hiện hành quy định về nội hàm biện pháp bảo lãnh chưa
thực sự rõ ràng, dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau giữa các cơ quan
áp dụng và thực thi pháp luật như: Vướng mắc trong trình tự, thủ tục áp dụng biện
pháp bảo lãnh, nhiều người cùng bảo lãnh và vướng mắc liên quan đến biện pháp
bảo lãnh và các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (hay còn gọi là
việc thế chấp, cầm cố tài sản của bên thứ ba) Do vậy, việc nghiên cứu, dự liệu
và hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến bảo lãnh là một trong những
149
yêu cầu cần thiết để hoàn thiện hơn nữa hành lang pháp lý về các biện pháp bảo
đảm nói chung, bảo lãnh nói riêng đối với các hợp đồng tín dụng hiện nay.
4. Từ các nghiên cứu lý luận và thực tiễn cho thấy, việc hoàn thiện pháp
luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh cần thiết
phải xuất phát từ các định hướng cụ thể như: Thực hiện chính sách tiền tệ và bảo
đảm hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả; nâng cao hiệu quả thực thi các biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong Bộ luật Dân sự và đặc biệt là cần dựa trên
những nguyên lý của trái quyền, trái quyền bảo đảm, mang tính đối nhân... Cũng
từ các quan điểm mang tính nền tảng này, Luận án đưa ra các giải pháp bổ sung
và hoàn thiện pháp luật mà trước hết là việc hoàn thiện chế định bảo lãnh trong
Bộ luật Dân sự với tư cách là các quy định mang tính nền tảng, sau đó là việc
hoàn thiện các quy định về bảo dảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp
bảo lãnh.
Hy vọng rằng, kết quả nghiên cứu của Luận án này sẽ góp một phần nhỏ bé
vào việc nghiên cứu và hoàn thiện chế định bảo lãnh cũng như đảm bảo an toàn
cho các quan hệ tín dụng trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại.
150
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bộ Tư pháp, “Bộ luật Dân sự Campuchia”, (Tài liệu của Ban soạn thảo,
Tổ biên tập Dự án Bộ luật Dân sự sửa đổi).
2. Bộ Tư pháp, “Bộ luật Dân sự Vương quốc Thái Lan, (Tài liệu của Ban
soạn thảo, Tổ biên tập Dự án Bộ luật Dân sự sửa đổi).
3. Bình luận Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội,
năm 2002.
4. Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp, (Tài liệu dịch của Nhà Pháp luật Việt –
Pháp).
5. Nguyễn Xuân Bang, Trưởng Phòng Công chứng số 6 TP Hà Nội, Hiểu
thế nào về thế chấp và bảo lãnh theo quy định của Bộ luật Dân sự?”,
quy-dinh-cua-bo-luat-dan-su-49852.
6. Chính phủ, Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 về giao
dịch bảo đảm.
7. Chính phủ, Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 về bảo
đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng.
8. Chính phủ, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2007 về giao
dịch bảo đảm
9. Chính phủ, Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 về sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về
giao dịch bảo đảm
10. Cần nhìn nhận đúng bản chất của hợp đồng thế chấp quyền sử dụng
đất để bảo đảm nghĩa vụ của người thứ ba – (theo Thu Trang, Thanh tra Ngân
hàng),
11. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 198.
151
12. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Tài liệu của Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.278.
13. Phạm Văn Đàm, “Các biện pháp pháp lý bảo đảm thực hiện hợp đồng
tín dụng ngân hàng”. Luận văn Thạc sĩ luật học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và
Pháp luật (1998).
14. Trương Thị Kim Dung, “Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng
tín dụng ngân hàng ở nước ta hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ luật học, Đại học Luật
Hà Nội (1997).
15. Hoàng Duy – “Rủi ro nhận thế chấp tài sản của bên thứ ba”, trên:
thu-ba-16526.html
16. Trương Thanh Đức - Brandco Lawfirm - Pháp luật điều chỉnh hoạt
động bảo lãnh ngân hàng của tổ chức tín dụng (Phần 2). (Nguồn:
dangthanglawyer.wordpress.com).
17. Nguyễn Ngọc Điện – Trường Đại học Kinh tế – Luật TP. Hồ Chí Minh
– “Sự cần thiết của việc xây dựng các chế định vật quyền và trái quyền trong luật
dân sự”,
18. Nguyễn Ngọc Điện – Trường Đại học Kinh tế – Luật TP. Hồ Chí Minh
– “Xây dựng lại hệ thống pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ trên cơ sở lý thuyết vật
quyền và trái quyền” -
su/xay-dung-lai-he-thong-phap-luat-ve-bao-111am-nghia-vu-tren-co-so-ly-
thuyet-vat-quyen-va-trai-quyen
19. Ephimova. L.G, “Bảo lãnh – một biện pháp bảo đảm tiền vay”, Tạp
chí Kinh tế và Pháp luật, số 6, năm 1994.
20. Giáo trình Luật Ngân hàng, Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công
an nhân dân, Hà Nội năm 2006, tr. 47;
21. Giáo trình Luật Ngân hàng, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006, tr. 59.
152
22. Bùi Đức Giang, Công ty Luật Audier and Partners Vietnam LLC,
“Chế định bảo lãnh của Việt Nam – Nhìn từ góc độ luật so sánh” trên Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 16 (224), tháng 8/2012.
23. Bùi Đức Giang, “Một số hạn chế của quy định pháp luật về gọi bảo
lãnh” Tạp chí Ngân hàng số 23, tháng 12/2012.
24. Giáo sư Michel Grimaldi của Đại học Paris II, Cộng hòa Pháp đã có
bài trình bày tổng quát về pháp luật thực định của Cộng hòa Pháp về các biện
pháp bảo đảm, trong đó có bàn đến các vấn đề về bảo lãnh. Tài liệu Tọa đàm do
Nhà Pháp luật Việt - Pháp tổ chức về sửa đổi Bộ luật Dân sự.
25. Nguyễn Thị Hạnh, Vụ Pháp luật dân sự, kinh tế, Bộ Tư pháp, “Một số
vấn đề về cấu trúc, vật quyền và trái quyền trong Bộ luật Dân sự Đức mà Việt
Nam có thể tham khảo trong quá trình sửa đổi Bộ luật Dân sự năm 2005”, Tài
liệu của Ban soạn thảo và Tổ biên tập Dự án Bộ luật Dân sự sửa đổi.
26. Lê Hồng Hạnh – “Về các biện pháp bảo đảm hợp đồng tín dụng”, Tạp
chí Luật học, số 1 năm 1996.
27. Bùi Vân Hằng, “Điều chỉnh pháp luật về bảo lãnh trong hoạt động cho
vay của ngân hàng thương mại Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội (2008).
28. Lê Thu Hiền, “Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng
ngân hàng”, Luận văn Thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội (2003).
29. Nguyễn Am Hiểu, “Hoàn thiện pháp lý về biện pháp bảo đảm nhìn từ
quyền tự do hợp đồng”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số tháng 4 năm 2004.
30. Hồ Quang Huy, Bộ Tư pháp, “Hoàn thiện các quy định về bảo lãnh
trong Bộ luật Dân sự Việt Nam”, bài viết trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,
ItemID=404
31. Nguyễn Thị Thu Hường, “Pháp luật về bảo lãnh ngân hàng của các tổ
chức tín dụng, thực trạng và kiến nghị”, Khoá luận tốt nghiệp, Đại học Luật Hà
Nội (2009).
153
32. Phạm Công Lạc, “Bản chất các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ”, Tạp chí Luật học, số 34, năm 1996.
33. Phan Văn Lãng, "Bảo lãnh tài sản - cần bàn thêm", Tạp chí Ngân hàng,
số 7, năm 2006.
34. PGS.TS Hoàng Thế Liên (Chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Dân
sự năm 2005, Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, năm 2008
35. Nguyễn Thành Long, “Những vấn đề pháp lý về bảo lãnh ngân hàng”,
Luận văn Thạc sĩ luật học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội,
năm 1999.
36. Vũ Hồng Minh, “Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
bảo lãnh thanh toán của các ngân hàng thương mại trên địa bàn Hà Nội”, Luận
văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2009).
37. Lê Nguyên, “Bảo lãnh và tín dụng dự phòng”, Nxb Thống kê, Hà Nội,
năm 1997.
38. “Những quy định chung của Luật hợp đồng ở Pháp, Đức, Anh, Mỹ”,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1993
39. Ngân hàng Nhà nước, “Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với
khách hàng”, được ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày
31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
40. Olsanưi A.I., Tín dụng ngân hàng: Kinh nghiệm ở Nga và các nước
trên thế giới, Matxcơva, 1997.
41. Nguyễn Văn Phương, “Hoàn thiện pháp luật bảo đảm tiền vay trong
bối cảnh hội nhập” của Tạp chí Ngân hàng số11/2007.
42. Quốc hội, Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 1995.
43. Quốc hội, Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005.
44. Quốc hội, Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015.
45. Quốc hội, Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997.
46. Quốc hội, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010.
154
47. Quốc hội, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và
năm 2014
48. Rủi ro kép từ tài sản bảo đảm của bên thứ ba (theo Báo Đầu tư chứng
khoán) -
49. Trần Thị Minh Tâm, “Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của
các tổ chức tín dụng”, Luận văn Thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội (2003).
50. Đỗ Hồng Thái, “Hợp đồng bảo lãnh không thể xem là hợp đồng phụ
của hợp đồng tín dụng” - (saigonminhluat.com).
51. Đỗ Hồng Thái - “Tính lệ thuộc của nghĩa vụ bảo lãnh, một vấn đề
ngân hàng cho vay cần quan tâm,
52. Nguyễn Bích Thảo, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội – Các biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong Bộ luật Dân sự (sửa đổi), trên:
41723897712&MaMT55.
53. Lê Thị Thu Thủy, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, “Bảo đảm
tiền vay bằng các tổ chức tín dụng”, Kỷ yếu Hội thảo thực trạng pháp luật về vốn
và hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, năm 2002.
54. Võ Đình Toàn, “Một số vấn đề về quan hệ bảo lãnh ngân hàng ở nước
ta hiện nay” của Tạp chí Luật học, số 3 năm 2002.
55. Nguyễn Thùy Trang, “Một số nội dung pháp lý liên quan tới bảo lãnh
đối với hợp đồng tín dụng” Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số 5 (326)
tháng 3/2011.
56. Nguyễn Thùy Trang, Công ty Công nghiệp Hóa chất mỏ - TKV, “Biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng
thương mại: Một số nhận định từ góc độ pháp lý đến thực tiễn” -
57. Phạm Văn Tuyết và Lê Kim Giang, “Hợp đồng tín dụng và biện pháp
bảo đảm tiền vay”, đồng tác giả, NXB Tư pháp, Hà Nội – 2012.
155
58. Phạm Văn Tuyết, “Bàn về biện pháp bảo lãnh”, Tạp chí Luật học, số 1,
năm 1999.
59. Vũ Văn Tuyên - “Một số vấn đề của quan hệ bảo lãnh bằng tài sản của
bên thứ ba để đảm bảo nghĩa vụ vay vốn ngân hàng”
60. Nguyễn Văn Tuyến, “Những khía cạnh pháp lý cơ bản của giao dịch
bảo lãnh bằng tài sản trong quan hệ vay vốn ngân hàng”, Trường Đại học Luật
Hà Nội,
61. Từ điển Luật học, Nxb. Tư pháp và Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội,
2006, tr.43.
62. Nguyễn Như Ý, Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa - Thông tin xuất
bản năm 1999, tr.79.
Tiếng Anh
63. Georges Affaki, Roy Goode (2011), Guide to ICC Uniform Rules for
Demand Guarantees (UDRG 758),
64. ICC Publication, Paris.ICC Publication No.325 (1978), Uniform Rules
for Contract Guarantees.
65. ICC Publication No.458 (1992), Uniform Rules for Contract
Guarantees.
66. Rocland F.Betrams (1992), Bank guarantees in international trade.
156
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
1. “Các biện pháp pháp lý bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng”, đăng
trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật của Bộ Tư pháp, số tháng 11 năm 2011.
2. “Bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng và những vướng mắc khi công
chứng hợp đồng bảo đảm”, đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật của Viện
Nhà nước và Pháp luật, số tháng 1 năm 2012.
3. “Chế định bảo lãnh theo pháp luật của một số nước và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam”, đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật điện tử số tháng 5
năm 2015 (ngày 8/5/2015).
4. “Bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng những biện pháp bảo lãnh
từ những nguyên lý trái quyền”, đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật điện tử
số tháng 8 năm 2015 (ngày 28/8/2015).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phap_luat_ve_bao_dam_thuc_hien_hop_dong_tin_dung_bang_bien_phap_bao_lanh_6248.pdf