Vấn đề thứ nhất: cụ thể hóa các tiêu chuẩn của Thành viên BKS. Cũng tương
tự như khi xác định tiêu chuẩn của Tổng giám đốc đã phân tích ở trên, các tiêu
chuẩn áp dụng đối với chức danh thành viên BKS được quy định trong Thông tư 02
cũng thể hiện bằng những tiêu chí khá mơ hồ và lỏng lẻo109 nên cần phải có một sự
thay đổi nhằm tạo cơ sở pháp lý hợp lý và vững chắc cho các tổ chức TCVM xây
dựng BKS cho mình;
Vấn đề thứ hai: bổ sung thẩm quyền bãi nhiệm, miễn nhiệm chức danh
Trưởng BKS. Cụ thể, theo quy định tại Khoản 2 Điều 47 Luật các TCTD 2010,
chức danh được bầu các thành viên BKS. Tuy nhiên, điều luật này chỉ quy định
BKS có quyền bầu Trưởng ban mà không đề cập đến quyền bãi nhiệm hay miễn
nhiệm. Như vậy, đây được xem là một bất cập của pháp luật cần phải được khắc
phục. Theo tinh thần của Thông tư 02 (Điểm 38.3) thì quyền bãi nhiệm chức danh
Trưởng BKS thuộc về Hội nghị thành viên – cơ quan tương tự như HĐTV hiện nay
– trên cơ sở đề nghị của thành viên BKS. Chúng tôi cho rằng đây cũng không phải
là một cách tiếp cận hợp lý bởi cũng một chức danh nhưng cơ quan tiếp lập và cơ
quan bãi nhiệm lại là nhưng cơ quan hoàn toàn khác nhau, thậm chí cơ quan có
quyền bãi nhiệm lại chính là đối tượng bị kiểm tra, giám sát bởi BKS. Chính vì vậy,
chúng tôi kiến nghị cần có quy định bổ sung quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm chức
danh Trưởng BKS cho chính các thành viên BKS – những người đã bầu nên chức
danh này. Theo một logic chung đối với các chức danh của tổ chức TCVM, việc
miễn nhiệm, bãi nhiệm này cũng cần được Thống đốc NHNN phê chuẩn.
164 trang |
Chia sẻ: phamthachthat | Lượt xem: 1861 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Pháp luật về tổ chức tài chính vi mô ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hững
quy định xác định rõ trách nhiệm của cơ quan cấp phép – NHNN Việt Nam – đối
với vấn đề này. Cụ thể, chúng tôi kiến nghị bổ sung quy định theo đó yêu cầu
NHNN phải thực hiện việc cấp phép cho người đề nghị, mà không được phép từ
chối, khi họ đã đáp ứng đủ các yêu cầu mà pháp luật đòi hỏi. Trong trường hợp từ
chối phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do từ chối. Việc xác định rõ tránh nhiệm
của NHNN đối với việc cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho các tổ chức
TCVM vừa góp phần thể hiện sự chuẩn mực và chặt chẽ của pháp luật trong lĩnh
vực này đồng thời cũng góp phần hạn chế sự tùy tiện của cơ quan quản lý đối với
đối tượng đề nghị cấp phép.
Thứ sáu, sửa đổi quy định về các điều kiện khai trương hoạt động tổ chức TCVM.
Như chúng tôi đã trình bày tại mục 3.1.1.3, việc yêu cầu tổ chức TCVM
buộc phải tiến hành khai trương hoạt động trong một khoảng thời gian được ấn định
nào đó (hiện nay, khoảng thời gian đó được xác định là không quá mười hai (12)
tháng, kể từ ngày tổ chức TCVM được cấp giấy phép thành lập và hoạt động) là
hoàn toàn hợp lý và cần thiết bởi yêu cầu này góp phần hạn chế việc một tổ chức
TCVM được thành lập nhưng lại không đi vào hoạt động trên thực tế (hoặc chậm
chạp trong việc triển khai hoạt động) gây những ảnh hưởng không tốt đến xã hội.
Tuy nhiên, việc đưa ra những điều kiện mà tổ chức TCVM phải đáp ứng để có thể
136
khai trương hoạt động như quy định tại Điểm 15.1 Thông tư 02 thì khá hình thức
bởi có khá nhiều điều kiện được ghi nhận ở đây tổ chức TCVM đã hội tụ đủ khi
nhận được giấy phép thành lập và hoạt động tổ chức TCVM do NHNN cấp. Các
điều kiện này bao gồm: (i) Có điều lệ được NHNN chuẩn y; (ii) Có đủ vốn điều lệ
theo quy định; (iii) Nộp đủ lệ phí cấp Giấy phép theo quy định của Bộ Tài chính và
(iv) Chuyển giao quyền sở hữu tài sản góp vốn khác hoặc quyền sử dụng đất (nếu
có) cho tổ chức TCVM. Để tránh hiện tượng một quy định của pháp luật được ban
hành ra chỉ mang tính hình thức mà không có giá trị thực tiễn, chúng tôi kiến nghị
loại bỏ các nội dung nêu trên ra khỏi những điều kiện để tiến hành khai trương hoạt
động của tổ chức TCVM.
4.2.5 Kiến nghị đối với vấn đề tổ chức lại tổ chức tài chính vi mô
Theo những nội dung đã được nêu tại mục 3.1.2 có thể đưa ra một nhận xét
chung là pháp luật hiện hành về tổ chức TCVM chưa có quy định để điều chỉnh đối
với vấn đề tổ chức lại tổ chức TCVM bởi với một vài quy định hiện có thì vấn đề tổ
chức lại tổ chức TCVM cũng chưa hề được định hình rõ ràng dưới góc độ pháp lý.
Từ thực trạng này chúng tôi xin kiến nghị:
Thứ nhất, cần khẩn trương xây dựng và ban hành các quy định điều chỉnh
việc tổ chức lại tổ chức TCVM. Đây là vấn đề hết sức quan trọng và hiện nay pháp
luật về tổ chức TCVM Việt Nam đang thiếu. Mặc dù trên thực tế, vấn đề tổ chức lại
tổ chức TCVM chưa từng được đặt ra song điều đó không có nghĩa lĩnh vực này
không có nhu cầu đối với việc tổ chức lại. Nhằm đảm bảo khung pháp luật về tổ
chức TCVM thực sự chuẩn mực và phù hợp có thể thúc đẩy sự phát triển hệ thống
tổ chức TCVM ở Việt Nam chúng tôi cho rằng rất cần phải có các quy định của
pháp luật điều chỉnh đối với vấn đề này;
Thứ hai, pháp luật về tổ chức TCVM cần thay đổi cách tiếp cận đối với các
biện pháp tổ chức lại tổ chức TCVM trên cơ sở đảm bảo sự phù hợp với Luật doanh
nghiệp 2014 và đặc biệt là Luật các TCTD 2010. Không nên duy trì cách tiếp cận
như hiện nay tại Nghị định 28 bởi điều đó không hề giúp gì được các tổ chức
TCVM mà trái lại, tạo ra những sự khác biệt không cần thiết giữa tổ chức TCVM
với các doanh nghiệp cũng như các TCTD khác;
Thứ ba, về thủ tục thực hiện việc tổ chức lại chúng tôi cho rằng, để đảm bảo
sự thuận lợi đối với tổ chức TCVM cũng như phù hợp với sự quản lý nhà nước đối
137
với loại chủ thể này (một loại hình TCTD) nên xây dựng một thủ tục riêng dành cho
tổ chức TCVM. Không nên áp dụng máy móc thủ tục tổ chức lại của doanh nghiệp
(theo pháp luật về doanh nghiệp) hay của TCTD nói chung. Cơ sở cho kiến nghị
này xuất phát từ chính những đặc thù của loại hình chủ thể này so với các doanh
nghiệp hoạt động ở các lĩnh vực khác của đời sống xã hội cũng như với các loại
hình TCTD khác.
4.2.6. Kiến nghị đối với vấn đề giải thể và phá sản tổ chức tài chính vi mô
Hiện nay, vấn đề giải thể và phá sản tổ chức TCVM hiện nay đang được
pháp luật quy định khá sơ sài, thậm chí vấn đề phá sản tổ chức TCVM còn không
hề được đề cập bởi bất kỳ một quy định nào. Thực trạng này của pháp luật, mặc dù
chưa gây ra khó khăn hay hệ lụy gì cho các tổ chức TCVM trên thực tế105 song về
lâu dài, những nội dung này cũng là những vấn đề hết sức quan trọng cần được điều
chỉnh chặt chẽ và cụ thể. Qua những phân tích tại mục 3.1.3 và 3.1.4 chúng tôi xin
đưa ra một số kiến nghị đối với các vấn đề này như sau:
Thứ nhất, đối với vấn đề giải thể tổ chức TCVM, chúng tôi kiến nghị cần xây
dựng và ban hành thủ tục giải thể đối với các tổ chức TCVM. Đây là điều hết sức
cần thiết bởi trên thực tế hiện nay, vấn đề này được đề cập chưa thực sự rõ ràng nên
sẽ rất khó khăn cho các tổ chức TCVM khi áp dụng. Trên thực tế, thủ tục được
chúng tôi trình bày tại mục 3.1.3 là khá khiên cưỡng bởi được vận dụng từ các văn
bản pháp luật khác mà không dựa trên một căn cứ pháp lý vững chắc nào. Bên cạnh
đó, Thông tư 34 cũng không phải là văn bản điều chỉnh về vấn đề giải thể TCTD
nói chung mà chỉ là một vài nội dung trong tiến trình giải thể : vấn đề thu hồi giấy
phép và thủ tục thanh lý. Chính bởi lý do này nên cần phải có văn bản quy định cụ
thể về thủ tục giải thể TCTD nói chung và tổ chức TCVM nói riêng. Trong trường
hợp chúng ta chưa thể xây dựng và ban hành văn bản điều chỉnh vấn đề này thì
pháp luật về tổ chức TCVM cũng cần phải có những quy định để điều chỉnh trực
tiếp đến các tổ chức TCVM (thậm chí chỉ là những quy định mang tính dẫn chiếu
đến các văn bản pháp luật khác như Luật doanh nghiệp hay Thông tư 34...), nhằm
tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các văn bản này khi tiến hành thủ tục giải thể tổ
105 Tính đến thời điểm hiện tại, chưa từng xuất hiện nhu cầu giải thể hay phá sản đối với các tổ chức TCVM ở
Việt Nam.
138
chức TCVM;
Thứ hai, đối với vấn đề phá sản tổ chức TCVM. Để đảm bảo sự thống nhất
trong việc giải quyết phá sản đối với các TCTD, chúng tôi không đề xuất xây dựng
cơ chế giải quyết phá sản dành riêng cho các tổ chức TCVM nhưng nên có quy định
dẫn chiếu đến các quy định của pháp luật về phá sản hiện hành nhằm đảm bảo pháp
luật về tổ chức TCVM đã bao quát được tất cả các vấn đề từ việc tạo lập cho đến
khi chấm dứt sự tồn tại của chủ thể này.
4.2.7. Kiến nghị đối với các quy định về hoạt động quản trị, điều hành tổ
chức tài chính vi mô
Có thể thấy, vấn đề quản trị và điều hành một tổ chức nói chung và tổ chức
kinh tế như tổ chức TCVM là một trong những yếu tố đặc biệt quan trọng, có ảnh
hưởng lớn đến sự tồn tại và phát triển của chính bản thân tổ chức đó. Vì vậy, việc
xây dựng một cơ chế quản trị và điều hành hợp lý cho tổ chức TCVM chính là thiết
lập những nền tảng căn bản cho sự phát triển của chủ thể này. Thông qua những nội
dung đã được trình bày trong mục 3.2 xin có một số kiến nghị sau đây:
Thứ nhất, cần phải gấp rút ban hành các văn bản pháp luật cần thiết để thay
thế cho những văn bản đã thực sự lạc hậu như Nghị định 28, Nghị định 165 và
Thông tư 02. Chúng tôi đưa ra kiến nghị này vì những lý do sau đây:
Một là, các quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay được sử dụng để điều
chỉnh hoạt động quản trị, điều hành tổ chức TCVM đang thiếu tính hệ thống cần
thiết và khá tản mạn khi các quy định nằm rải rác trong nhiều văn bản khác nhau:
Luật Doanh nghiệp 2014; Luật các TCTD 2010; Nghị định 28; Nghị định 165 và
Thông tư 02. Trong số này thì ba văn bản dưới luật trực tiếp điều chỉnh đến tổ chức
TCVM là những văn bản ra đời trước khi có Luật doanh nghiệp năm 2014 và cả
Luật các TCTD 2010 và đương nhiên được xây dựng dựa trên cơ sở là một đạo luật
đã hết hiệu lực thi hành – Luật các TCTD 1997 (được sửa đổi bổ sung năm 2004).
Chính vì vậy, sự liên kết giữa các văn bản này trong việc điều chỉnh vấn đề quản trị
điều hành tổ chức TCVM là khá mờ nhạt. Thậm chí, những quy định mang tính dẫn
chiếu đến các văn bản liên quan cũng ít thấy xuất hiện, kể cả trong Luật các TCTD
139
2010106. Sự liên kết lỏng lẻo giữa các văn bản này làm cho việc áp dụng các quy
định của pháp luật có liên quan trở nên thiếu tính thuyết phục. Rõ ràng, thực trạng
pháp luật này đã gây ra những khó khăn nhất định đối với các tổ chức TCVM khi
xây dựng các cơ quan trong nội bộ của mình cũng như khi thực hiện hoạt động quản
trị, điều hành tổ chức;
Hai là, sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản hiện hành trong việc điều
chỉnh hoạt động quản trị, điều hành tổ chức TCVM là khá phổ biến107 mà điển hình
là hai văn bản – Thông tư 02 và Luật các TCTD 2010 - đã vẽ nên hai bộ máy quản
lý nội bộ của tổ chức TCVM khác nhau. Tất nhiên, sự mâu thuẫn và chồng chéo
giữa các quy định của pháp luật luôn là một trở ngại lớn đối với việc áp dụng trên
thực tế bởi khi đó, các chủ thể vận dụng các quy định pháp luật này không biết
mình phải xử sự thế nào mới được coi là đúng đắn. Thực trạng này cũng đặt ra nhu
cầu cấp bách là phải khắc phục, xóa bỏ những mâu thuẫn, chồng chéo này.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý, văn bản mới khi xây dựng cần phải đặc biệt chú
trọng đến sự liên kết với các văn bản có liên quan đang có hiệu lực nhằm tạo nên
một hệ thống thống nhất, qua đó hình thành một khung pháp luật cho các tổ chức
TCVM có thể vận dụng một cách hiệu quả và thuận tiện trong hoạt động xây dựng
cũng như vận hành bộ máy quản lý nội bộ của mình.
Thứ hai, cần xây dựng hệ thống tiêu chuẩn của các chức danh quản lý, điều
hành tổ chức TCVM.
Qua những phân tích tại mục 3.2.1 chúng ta thấy, vấn đề hết sức bật cập hiện
nay của pháp luật hiện hành về tổ chức TCVM chính là các quy định xác định tiêu
chuẩn, điều kiện để đảm nhiệm các chức danh quản lý, điều hành tại tổ chức
TCVM. Điều này gây ra khá nhiều khó khăn cho các tổ chức TCVM khi xây dựng
bộ máy quản lý nội bộ của mình và vì vậy, chúng tôi đề xuất cần gấp rút chuẩn hóa
vấn đề này trong văn bản hướng dẫn của NHNN nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các tổ
chức TCVM xây dựng bộ máy quản trị, điều hành và kiểm soát của tổ chức mình.
106 Luật các TCTD 2010 không xây dựng các quy định điều chỉnh hoạt động của HĐTV nhưng cũng không
có bất cứ chỉ dẫn nào về vấn đề này sang luật doanh nghiệp 2005 – văn bản đang có hiệu lực tại thời điểm
Luật các TCTD 2010 ra đời.
107 Những vấn đề này đã được nêu ra và phân tích trong mục 3.2.2
140
Các vấn đề cụ thể như sau:
Một là, về thành viên HĐTV. Do cơ quan này mới chỉ chính thức được đưa
vào cấu trúc nội bộ của tổ chức TCVM kể từ Luật các TCTD 2010 nên đương nhiên
trong Nghị định 28 và Thông tư 02 không đề cập đến các tiêu chuẩn của thành viên
HĐTV. Như đã phân tích tại mục 3.2.1.1, sự thiếu vắng này buộc chúng ta phải áp
dụng những quy định của Luật các TCTD 2010 để xác định một người đủ hay
không đủ điều kiện để đảm nhận cương vị thành viên HĐTV của tổ chức TCVM.
Tuy nhiên đây là một điều gượng ép, không phù hợp với các tổ chức TCVM (vì các
tiêu chuẩn này quá cao so với người quản lý của một một TCTD có quy mô khá
nhỏ) đồng thời cũng trái với tinh thần của Khoản 6 Điều 50 Luật các TCTD 2010:
“NHNN quy định cụ thể tiêu chuẩn, điều kiện đối với người quản lý, người điều
hành, thành viên Ban kiểm soát của tổ chức TCVM”. Chính vì vậy, một trong
những vấn đề cấp bách hiện nay đối với việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức TCVM
Việt Nam là xây dựng và ban hành tiêu chuẩn, điều kiện để trở thành thành viên
HĐTV của tổ chức TCVM;
Hai là, đối với các quy định điều chỉnh chức danh Tổng giám đốc tổ chức
TCVM. Qua phân tích tại mục 3.2.1.3 chúng ta thấy các quy định hiện hành về chức
danh này có một số vấn đề sau đây cần phải được khắc phục:
Vấn đề thứ nhất: cần thay đổi cơ chế thiết lập chức danh này ở tổ chức
TCVM một thành viên. Hiện nay, Luật các TCTD 2010 quy định chức danh này ở
tổ chức TCVM một thành viên là do chủ sở hữu bổ nhiệm. theo quan điểm của
chúng tôi, cơ chế này là không thực sự hợp lý bởi khi chủ sở hữu là chủ thể trực tiếp
bổ nhiệm, miễn nhiệm và bãi nhiệm Tồng gám đốc tổ chức TCVM thì quy định tại
Khoản 2 Điều 48 Luật các TCTD 2010 dường như sẽ chỉ mang tính hình thức.
Trong trường hợp này, khi HĐTV không có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm và bãi
nhiệm Tổng giám đốc thì sẽ rất khó có cơ chế để buộc chức danh này phải chịu
trách nhiệm về các hoạt động của mình trước HĐTV. Bên cạnh đó, pháp luật hiện
hành cũng không có bất cứ quy định nào xác định nghĩa vụ của Tổng giám đốc phải
chịu trách nhiệm trước chủ sở hữu – chủ thể có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm và bãi
nhiệm Tổng giám đốc - về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của
mình. Như vậy, đây là một hạn chế cần phải được khắc phục nhằm đảm bảo sự
141
logic của vấn đề cũng như phù hợp với thực tiễn. Về vấn đề này chúng tôi đưa ra
kiến nghị nên trao cho HĐTV thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm hoặc ký hợp đồng
thuê Tổng giám đốc, thay vì là thẩm quyền của chủ sở hữu tổ chức TCVM như quy
định của pháp luật hiện hành. Việc sửa đổi theo chiều hướng được đề xuất sẽ giải
quyết được bất cập nêu trên đồng thời đảm bảo được: (i) sự liên kết, phối hợp giữa
cơ quan quản trị – HĐTV – với cơ quan điều hành – Tổng giám đốc – sẽ chặt chẽ
hơn, có tính trách nhiệm cao hơn và vì thế có cơ sở để đảm bảo hoạt động của tổ
chức TCVM hiệu quả hơn và (ii) xóa bỏ sự khác biệt không cần thiết giữa một công
ty TNHH một thành viên hoạt động trong lĩnh vực NH với các công ty TNHH một
thành viên hoạt động trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Vấn đề thứ hai: Sửa đổi các quy định về tiêu chuẩn của Tổng giám đốc tổ
chức TCVM. Hiện nay các tiêu chuẩn của chức danh này cũng đã được quy định
trong Thông tư 02 song về cơ bản chúng tôi cho rằng khá bất cập. Những tiêu chuẩn
như “có các kỹ năng, kiến thức, năng lực, kinh nghiệm cần thiết để thực hiện các
quyền hạn và hoàn thành các nhiệm vụ của mình một cách hiệu quả” hay “có trình
độ tương đương đại học” là khá mơ hồ và vì vậy, thật sự khó khăn khi khẳng định
một người có đủ những tiêu chuẩn này hay không. Chính vì vậy, chúng tôi đề xuất:
phải xây dựng các tiêu chuẩn của chức danh Tổng giám đốc tổ chức TCVM nói
riêng và các chức năng quản lý khác theo hướng cụ thể, rõ ràng và có thể định
lượng được (với những tiêu chuẩn có thể định lượng). Về nguyên tắc, các tiêu
chuẩn, điều kiện đối với chức danh này cần được xây dựng dựa trên nền tảng là
Khoản 4 Điều 50 Luật các TCTD 2010 song ở mức thấp hơn, phù hợp hơn với
những đặc trưng của lĩnh vực TCVM Việt Nam hiện nay nhằm đảm bảo: (i) người
đảm nhiệm chức danh Tổng giám đốc tổ chức TCVM có đủ khả năng để điều hành
tổ chức TCVM một cách hiệu quả và (ii) tổ chức TCVM có thể tìm được người đủ
điều kiện để bầu/bổ nhiệm vào chức danh này108.
Ba là, sửa đổi một số nội dung đối với các quy định dành cho BKS. Trên cơ
108 Nếu áp dụng đúng những tiêu chuẩn của chức danh Tổng giám đốc TCTD như quy định tại Khoản 4 Điều
50 Luật các TCTD 2010 thì tổ chức TCVM, đặc biệt là những tổ chức TCVM có quy mô nhỏ, hoạt động ở
những địa bàn không thuận lợi sẽ rất khó khăn trong việc tìm người đủ điều kiện để đảm nhiệm cương vị
Tổng giám đốc của tổ chức.
142
sở phân tích các quy định hiện hành về BKS tại Thông tư 02 chúng tôi đề xuất sửa
đổi hai vấn đề:
Vấn đề thứ nhất: cụ thể hóa các tiêu chuẩn của Thành viên BKS. Cũng tương
tự như khi xác định tiêu chuẩn của Tổng giám đốc đã phân tích ở trên, các tiêu
chuẩn áp dụng đối với chức danh thành viên BKS được quy định trong Thông tư 02
cũng thể hiện bằng những tiêu chí khá mơ hồ và lỏng lẻo109 nên cần phải có một sự
thay đổi nhằm tạo cơ sở pháp lý hợp lý và vững chắc cho các tổ chức TCVM xây
dựng BKS cho mình;
Vấn đề thứ hai: bổ sung thẩm quyền bãi nhiệm, miễn nhiệm chức danh
Trưởng BKS. Cụ thể, theo quy định tại Khoản 2 Điều 47 Luật các TCTD 2010,
chức danh được bầu các thành viên BKS. Tuy nhiên, điều luật này chỉ quy định
BKS có quyền bầu Trưởng ban mà không đề cập đến quyền bãi nhiệm hay miễn
nhiệm. Như vậy, đây được xem là một bất cập của pháp luật cần phải được khắc
phục. Theo tinh thần của Thông tư 02 (Điểm 38.3) thì quyền bãi nhiệm chức danh
Trưởng BKS thuộc về Hội nghị thành viên – cơ quan tương tự như HĐTV hiện nay
– trên cơ sở đề nghị của thành viên BKS. Chúng tôi cho rằng đây cũng không phải
là một cách tiếp cận hợp lý bởi cũng một chức danh nhưng cơ quan tiếp lập và cơ
quan bãi nhiệm lại là nhưng cơ quan hoàn toàn khác nhau, thậm chí cơ quan có
quyền bãi nhiệm lại chính là đối tượng bị kiểm tra, giám sát bởi BKS. Chính vì vậy,
chúng tôi kiến nghị cần có quy định bổ sung quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm chức
danh Trưởng BKS cho chính các thành viên BKS – những người đã bầu nên chức
danh này. Theo một logic chung đối với các chức danh của tổ chức TCVM, việc
miễn nhiệm, bãi nhiệm này cũng cần được Thống đốc NHNN phê chuẩn.
4.2.8. Kiến nghị đối với các quy định điều chỉnh hoạt động kinh doanh của
tổ chức tài chính vi mô
Qua những nội dung được trình bày tại mục 3.3 chúng ta thấy pháp luật hiện
hành về cơ bản đã xây dựng được khung pháp luật cho hoạt động kinh doanh của các
tổ chức TCVM tương đối cụ thể. Các vấn đề đã được đề cập đến bao gồm: (i) các
hành vi kinh doanh được phép thực hiện và (ii) các hạn chế được đặt ra đối với các tổ
109 Vấn đề này đã được phân tích trong mục 3.2.2.1.4
143
chức TCVM khi thực hiện các hành vi kinh doanh. Mặc dù các quy định của pháp
luật hiện hành điều chỉnh hoạt động kinh doanh của các tổ chức TCVM là khá hợp lý
song theo chúng tôi vẫn còn một số vấn đề cần phải hoàn thiện. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, về tính đồng bộ của các văn bản pháp luật. Hiện nay các hành vi
kinh doanh mà tổ chức TCVM được phép thực hiện đang đồng thời được quy định
ở cả Luật các TCTD 2010 (Mục VI Chương IV) và Thông tư 02 (Mục IV). Mặc dù
hai văn bản này không có xung đột gì lớn song do Thông tư 02 được ban hành trên
cơ sở Luật các TCTD 1997 nên cần phải được thay thế để phù hợp với Luật các
TCTD 2010 là văn bản đang có hiệu lực thi hành;
Thứ hai, đối với quy định tại Điều 121 Luật các TCTD 2010 về hoạt động mở
tài khoản của tổ chức TCVM. Qua phân tích tại mục 3.3.2.3 chúng tôi xin kiến nghị
hai điểm:
Một là, cần đưa ra quy định cho phép tổ chức TCVM được mở tài khoản tại
NHNN và NHTM, bao gồm cả tài khoản thanh toán và tài khoản tiền gửi chứ không
phải chỉ là tài khoản tiền gửi như hiện nay. Việc sửa đổi này sẽ giúp tổ chức TCVM
thuận lợi hơn khi thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình;
Hai là, nên cho phép tổ chức TCVM được mở tài khoản tiền gửi cho khách
hàng. Hiện nay Khoản 2 Điều 121 mới chỉ đề cập đến việc không cho phép tổ chức
TCVM mở tài khoản thanh toán cho khách hàng mà chưa đề cập đến tài khoản tiền
gửi. Về nguyên tắc, theo quy định tại Điều 90 Luật các TCTD thì với cách quy định
như Khoản 2 Điều 121, tổ chức TCVM sẽ không được mở tài khoản tiền gửi cho
khách hàng tại tổ chức TCVM. Chúng tôi cho rằng, đây là quy định bất hợp lý bởi
việc tổ chức TCVM mở tài khoản tiền gửi cho khách hàng không hề ảnh hưởng đến
hoạt động kinh doanh hay sự an toàn của tổ chức này cũng như an toàn tiền gửi của
khác hàng mà trái lại, sẽ giúp cho hoạt động của tổ chức TCVM thuận lợi hơn khá
nhiều110. Chính vì vậy, chúng tôi kiến nghị cho phép tổ chức TCVM được mở tài
khoản tiền gửi cho khách hàng của mình – bao gồm cả khách hàng TCVM và các
110 Ví dụ khi khách hàng văy vốn tại tổ chức TCVM và được giải ngân nhưng ngay lập tức chưa thể nhận tiền
hoàn toàn có thể gửi lại tổ chức TCVM thông qua tài khoản tiền gửi của mình hay trong trường hợp khách
hàng nhờ tổ chức TCVM thu hộ, chi hộ thì khách hàng cũng có tài khoản tại tổ chức TCVM để quản lý tiền
của mình...
144
khách hàng khác (nếu có).
Thứ ba, đối với quy định về các trường hợp không được cho vay theo Điều
126 Luật các TCTD 2010. Nhìn vào cách tiếp cận của Điều 126 Luật các TCTD
2010 có thể thấy sự tiếp cận khá lộn xộn và không nhất quán của quy định này đối
với các hoạt động cấp tín dụng của tổ chức TCVM. Cụ thể, việc Khoản 2 Điều 126
miễn trừ áp dụng quy định tại Khoản 1 Điều này đối với tổ chức TCVM là không
hợp lý bởi các lý do sau đây:
Một là, không thể có cơ sở lý luận cũng như thực tiễn để lý giải một cách
hợp lý cho sự miễn trừ này bởi về nguyên tắc, việc cho những đối tượng quy định
tại Khoản Điều 126 vay cũng hoàn toàn có thể ảnh hưởng đến sự an toàn của tổ
chức TCVM;
Hai là, sự tồn tại của Khoản 2 Điều 126 làm cho quy định tại Khoản 3 Điều
này trở nên lủng củng và thiếu tính khoa học khi cấm cho vay đối với các khách
hàng được bảo đảm bởi các đối tượng nêu tại Khoản 1 Điều 126 song chính những
đối tượng này lại không bị cấm cho vay;
Ba là, sự tồn tại của Khoản 2 Điều 126 còn làm cho các đối tượng quy định
tại Khoản 1 Điều này không bị hạn chế cấp tín dụng (không được cho vay không có
bảo đảm bằng tài sản) theo quy định tại Điều 127. Điều này dẫn đến thực trạng là,
đối tượng có nguy cơ cao gây mất an toàn vốn cho tổ chức TCVM không bị cấm
cho vay không có bảo đảm bằng tài sản và đối tượng có nguy cơ thấp hơn lại bị
cấm111.
Từ những lý do trên đây, nhằm đảm bảo sự an toàn cho hoạt động kinh
doanh nói riêng và sự an toàn tổ chức nói chung của tổ chức TCVM chúng tôi kiến
nghị: bãi bỏ quy định miễn trừ áp dụng khoản 1 Điều 126 đối với các tổ chức
TCVM – tức là sửa đổi Khoản 2 Điều 126 Luật các TCTD 2010 theo hướng, tổ
chức TCVM vẫn phải tuân thủ quy định về các trường hợp không được cho vay
theo quy định tại Khoản 1 Điều 126 Luật các TCTD 2010.
Thứ tư, cần xây dựng và ban hành cơ chế áp dụng phí và lãi suất cho vay để
111 Đối tượng nằm trong phạm vi quy định tại Khoản 1 Điều 126 có nguy cơ gây mất an toàn vốn cao nên
pháp luật cấm TCTD cho vay, đối tượng quy định tại Khoản 1 Điều 127 có nguy cơ thấp hơn nên chỉ bị hạn
chế cho vay.
145
điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng của các tổ chức TCVM.
Mặc dù là một phương thức xóa đói, giảm nghèo nhưng các tổ chức TCVM
vẫn phải tự tồn tại mà không có bất cứ sự trợ cấp về mặt tài chính nào. Chính vì
vậy, hoạt động kinh doanh của tổ chức TCVM buộc phải tạo ra chênh lệch thu chi
để đảm bảo sự tồn tại của chính mình. Thực tiễn đã chỉ ra rằng, hoạt động TCVM
thường có chi phí lớn hơn so với các loại hình TCTD khác do những đặc thù của
chính lĩnh vực này: giá trị khoản vay nhỏ, địa bàn hoạt động phức tạp và nguồn nhân
lực chất lượng không cao....[50] Thực trạng này cho thấy, nếu áp dụng cơ chế tính lãi
suất, phí như các NHTM thì tổ chức TCVM khó có thể có lợi nhuận và vì thế để đảm
bảo sự tồn tại, chủ thể này cần phải áp dụng một mức lãi suất cũng như mức phí (nếu
có) cao hơn so với các TCTD khác.
Bên cạnh đó, việc huy động vốn của tổ chức TCVM cũng không thuận lợi
nếu áp dụng mức lãi suất tiền gửi như các TCTD khác bởi rất nhiều lý do như: trụ
sở giao dịch không thuận tiện bằng các TCTD khác; sự hiểu biết của xã hội về tổ
chức TCVM còn hạn chế cũng như quy mô của tổ chức TCVM thường là khá nhỏ
nên cũng rất khó để tạo ra sự tin tưởng đối với người gửi tiền... Chính vì vậy, để có
cơ hội huy động được vốn, tổ chức TCVM cũng cần phải cạnh tranh với các TCTD
khác bằng lãi suất: áp dụng mức lãi suất tiền gửi cao hơn so với các TCTD khác.
Như vậy, để có thể thực hiện được hoạt động kinh doanh của mình một cách
có hiệu quả, tổ chức TCVM phải được áp dụng một cơ chế quản lý về phí và lãi suất
khác hơn so với các TCTD khác trong nền kinh tế. Do đó, chúng tôi kiến nghị cần
ban hành văn bản quy định về cơ chế áp dụng lãi suất và phí đối với các tổ chức
TCVM mà không áp dụng các quy định dành cho tất cả các TCTD nói chung. Về
nguyên tắc, cần phải nghiên cứu và tính toán chi tiết để đưa ra mức lãi suất, phí áp
dụng đối với các tổ chức TCVM phải cao hơn so với mức áp dụng cho các TCTD
khác nhằm đảm bảo cho chủ thể này có lợi nhuận để duy trì sự tồn tại của mình.
Kết luận chương 4
Dựa trên những kết quả có được từ quá trình nghiên cứu tại các chương
trước, tại chương 4 của luận án nghiên cứu sinh đã tiến hành:
Thứ nhất, xây dựng các quan điểm hoàn thiện pháp luật về tổ chức TCVM.
146
Các quan điểm hoàn thiện được đưa ra dựa trên những đòi hỏi phát triển hệ thống tổ
chức TCVM của thực tiễn ngành TCVM Việt Nam hiện nay cũng như lý luận về
hoàn thiện pháp luật. Các quan điểm hoàn thiện pháp luật về tổ chức TCVM sẽ
được sử dụng làm nền tảng đề đề xuất các kiến nghị, giải pháp hoàn thiện;
Thứ hai, đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ chức TCVM
ở Việt Nam hiện nay. Các kiến nghị được xây dựng dựa trên các quan điểm hoàn
thiện và được đưa ra theo từng nhóm vấn đề hướng tới việc hoàn thiện pháp luật về
tổ chức TCVM ở Việt Nam hiện nay.
Tóm lại, trên cơ sở những bất cập của các quy định pháp luật hiện hành về tổ
chức TCVM đã được nêu ra tại chương 2 và chương 3, chương 4 của luận án đã đề
xuất những kiến nghị cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về tổ chức TCVM
ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tám nhóm vấn đề được kiến nghị hoàn thiện,
theo chúng tôi là những bất cập lớn, đang tồn tại và có ảnh hưởng không tích cực
đến việc xây dựng và phát triển hệ thống tổ chức TCVM nhất thiết cần phải được
khắc phục. Các giải pháp được đề xuất thực hiện trong các kiến nghị được chúng tôi
đưa ra dựa trên những quan điểm hoàn thiện pháp luật về tổ chức TCVM ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
147
KẾT LUẬN
Với mong muốn góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành
về tổ chức TCVM, hướng tới việc tạo dựng một khung pháp luật ổn định và phù
hợp với hoạt động TCVM ở Việt Nam tạo điều kiện cho sự phát triển của hệ thống
TCVM như Đề án xây dựng và phát triển hệ thống tài chính vi mô tại Việt Nam đến
năm 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 2195/QĐ-Ttg ngày 06/12/2011 của
Thủ tướng Chính phủ đã đề ra, nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề tài “Pháp luật về tổ
chức tài chính vi mô ở Việt Nam” để nghiên cứu. Nhìn chung, luận án đã hoàn
thành được nhiệm vụ nghiên cứu và đạt được mục đich nghiên cứu như đã đề ra.
Kết quả nghiên cứu của luận án có những đóng góp cơ bản sau đây:
Thứ nhất, trên cơ sở các cách giải thích phổ biến về TCVM trên thế giới
cũng như các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này, luận án đã làm rõ
khái niệm TCVM cũng như khái quát được các vai trò cơ bản của TCVM ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay;
Thứ hai, thông qua việc phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện
hành, luận án đã nêu lên được những đặc trưng pháp lý cơ bản của tổ chức TCVM
để nhận dạng, phân biệt chủ thể này với các chủ thể khác có cung ứng dịch vụ
TCVM;
Thứ ba, nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật hiện
hành về tổ chức TCVM thông qua việc mô tả và đánh giá đối với các quy chế pháp
lý điều chỉnh các vấn đề: (i) thành lập tổ chức TCVM; (ii) tổ chức lại tổ chức
TCVM; (iii) giải thể tổ chức TCVM; (iv) phá sản tổ chức TCVM và (v) hoạt động
kinh doanh của tổ chức TCVM. Việc nghiên cứu tất cả các quy chế pháp lý này đã
mô tả bức tranh toàn cảnh của pháp luật về tổ chức TCVM ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay;
Thứ tư, thông qua việc mô tả tổng thể các quy định của pháp luật hiện hành
về tổ chức TCVM và việc áp dụng các quy định đó trên thực tế để điều chỉnh đối
với các tổ chức TCVM, luận án đã có những đánh giá mang tính khái quát về thực
trạng pháp luật về tổ chức TCVM ở Việt Nam, qua đó nêu lên những bất cập gây
khó khăn cho việc xây dựng và phát triển hệ thống tổ chức TCVM trong giai đoạn
148
hiện nay;
Thứ năm, trên cơ sở những đánh giá về thành công cũng như hạn chế của
pháp luật về tổ chức TCVM ở Việt Nam, luận án đã đề xuất được một số kiến nghị
nhằm khắc phục những bất cập đang tồn tại theo hướng hoàn thiện pháp luật về tổ
chức TCVM ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ
I. Bài báo khoa học
1. Nguyễn Thái Hà, Bùi Hữu Toàn (2005), Một số vấn đề về Luật Phá sản, Tạp
chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng số 3 và 4 năm 2005 (Số 3: trg. 48; số 4:
trg 43);
2. Nguyễn Thái Hà, Bùi Hữu Toàn (2006), Điểm mới của Luật Doanh nghiệp
năm 2005 về công ty cổ phần, Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng số 53,
tháng 10/2006 (trg. 309);
3. Nguyễn Thái Hà (2008), Về các biện pháp tác động của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam đối với thị trường tài chính – tiền tệ trong thời gian vừa qua, Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật số 10 (246), tháng 10/2008 (trg. 44);
4. Nguyễn Thái Hà (2009), Hình thức pháp lý của tổ chức tài chính quy mô nhỏ
ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng số 83, tháng
04/2009 (trg. 15);
5. Nguyễn Thái Hà (2009), Cơ cấu tổ chức và quản trị điều hành tổ chức tài
chính vi quy mô nhỏ theo quy định của pháp luật Việt Nam, Tạp chí Khoa học
& Đào tạo Ngân hàng số 87, tháng 08/2009 (trg. 28);
6. Nguyễn Thái Hà (2015), Thủ tục giải thể tổ chức tài chính vi mô theo pháp luật
Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 9 (282), tháng 9/2015 (trg. 30);
7. Nguyễn Thái Hà (2015), Khái niệm tổ chức tài chính vi mô theo pháp luật Việt
Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 9 (329), tháng 9/2015 (trg. 69);
8. Nguyễn Thái Hà (2016), Bàn về thủ tục thành lập tổ chức tài chính vi mô theo
quy định của pháp luật hiện hành, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học cấp Quốc gia:
“Vai trò của tổ chức tài chính vi mô đối với phát triển kinh tế xã hội Việt
Nam”, Nhà xuất bản Dân trí, Hà Nội tháng 5/2016 (trg.105).
II. Nghiên cứu khoa học
1. Nguyễn Kim Anh (Chủ nhiệm đề tài), Nguyễn Thái Hà và cộng sự (2010),
Phát triển tài chính vi mô ở khu vực nông nghiệp, nông thôn, Đề tài nghiên
cứu khoa học ngành Ngân hàng, Mã số : KNH 2009-06, nghiệm thu tháng
150
7/2006, Quyết định công nhận hoàn thành đề tài số 1690/QĐ-NHNN ngày
15/07/2010 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
III. Sách tham khảo, giáo trình, tài liệu học tập
1. Nguyễn Thái Hà (Chủ biên) (2007), Pháp luật trong hoạt động kinh doanh –
Những nội dung cơ bản, Sách tham khảo, Nhà xuất bản Thống kê, Hà nội
2007;
2. Nguyễn Kim Anh (Chủ biên), Nguyễn Thái Hà và cộng sự (2010), Phát triển
tài chính vi mô ở khu vực nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Sách tham khảo,
Nhà xuất bản Thống kê, Hà nội 2010;
3. Nguyễn Thái Hà (Chủ biên) (2015), Pháp luật Ngân hàng Việt Nam, Tài liệu
học tập, Nhà xuất bản Dân trí, Hà nội 2015.
151
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Nguyễn Kim Anh, Nguyễn Thái Hà và cộng sự (2009), Phát triển tài chính vi
mô ở khu vực nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp ngành, Mã số KNH06-09, Hà nội.
2. TS. Nguyễn Kim Anh và ThS. Quách Tường Vy (2010), Cẩm nang hướng dẫn
chuyển đổi các tổ chức tài chính vi mô ở Việt Nam, Nhà Xuất bản Tài chính,
Hà nội 2010.
3. Nguyễn Kim Anh, Ngô Văn Thứ, Lê Thanh Tâm và Nguyễn Thị Tuyết Mai,
(2012), Tài chính vi mô với giảm nghèo tại Việt nam: Kiểm định và so sánh,
Nhà xuất bản thống kê, Hà nội 2012.
4. Nguyễn Kim Anh và Lê Thanh Tâm (Đồng chủ biên), (2013), Mức độ bền
vững của các tổ chức tài chính vi mô Việt Nam: Thực trạng và một số khuyến
nghị - Sách chuyên khảo, Hà nội, Nhà xuất bản Giao thông Vận tải, GPXB số
222-2013/CXB/179-05/GTVT cấp ngày 9/12/2013.
5. Chính phủ (2005), Nghị định số 28/2005/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của
tổ chức tài chính quy mô nhỏ tại Việt Nam, ngày 9/3/2005.
6. Chính phủ (2006) Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính
phủ về hụi, họ, biêu, phường.
7. Chính phủ (2007), Nghị định 165/2007/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một
số điều Nghị định 28/2005/NĐ-CP, ngày 15/11/2007.
8. Chính phủ (2010), Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/04/2010 quy định tổ
chức, hoạt động và quản lý hội.
9. Chính phủ (2011), Nghị Quyết số 80/2011/NQ-CP về định hưởng giảm nghèo
bền vững từ năm 2011 đến năm 2020.
10. Chính phủ (2012), Nghị định số 30/2012/NĐ-CP ngày 12/04/2012 về việc
ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đỗ Kim Chung (2005), Tài chính vi mô cho xóa đói giảm nghèo. Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 330, Hà nội.
13. GS.TS Phạm Thị Mỹ Dung (chủ biên), Tài chính vi mô - Lý luận, phương
152
pháp nghiên cứu và vận dụng, NXB Nông nghiệp, Hà nội 2006.
14. Eric Duflos (2013), “CGAP – Các thực tiễn tốt trên toàn cầu về chuyển đổi và
tự vững”, Bài trình bày tại hội thảo “Xác định lãi suất bền vững và quản trị rủi
ro trong các tổ chức tài chính vi mô - Sustainable Interest Rate Setting and
Risk Management in Microfinance Institutions”, Hội thảo của IFC-TYM-
MFWG ngày 16/5/2013.
15. Trần Văn Duy, Hoàng Văn Thành, Điều kiện thành lập và cơ cấu tổ chức của
tổ chức tài chính vi mô theo quy định của pháp luật hiện hành: những vướng
mắc cần được tháo gỡ, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 9(305)/2013.
16. Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình lý luận Nhà nước và Pháp luật, NXB
Công an nhân dân.
17. Viên Thế Giang (2011), Phát triển tổ chức TCVM ở Việt Nam, Tạp chí Công
nghệ Ngân hàng số tháng 8/2011.
18. Viên Thế Giang (2011), Hoàn thiện pháp luật về tổ chức tài chính vi mô ở
Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng số 17, Hà nội 2011.
19. Viên Thế Giang (2012), Hình thành hệ thống tổ chức tài chính vi mô ở Việt
Nam nhìn từ góc độ pháp lý, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng số
7/2012.
20. Viên Thế Giang (2013), Định hướng hoàn thiện pháp luật về tổ chức TCVM ở
Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 1/2013.
21. Nguyễn Thái Hà (2009), Bàn về hình thức pháp lý của các tổ chức tài chính
quy mô nhỏ, Tạp chí Khoa học và đào tạo Ngân hàng số 83, Hà nội 2009.
22. Nguyễn Thái Hà (2009), Cơ cấu tổ chức và quản trị điều hành tổ chức tài
chính quy mô nhỏ, Tạp chí Khoa học và đào tạo Ngân hàng số 87, Hà nội
2009.
23. Nguyễn Đức Hải (2012), Phát triển tài chính vi mô tại Việt nam, Luận án
Tiến sỹ Kinh tế, Học viện Ngân hàng 2012.
24. Hà Thị Hạnh (2004), Giải pháp hoàn thiện mô hình tổ chức và cơ chế hoạt
động của NH Chính sách xã hội, Luận án Tiến sỹ Kinh tế, Trường Đại học
Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
25. Đào Văn Hùng (2000), Các giải pháp tín dụng đối với người nghèo ở Việt
Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ, Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.
153
26. Đào Văn Hùng (2001), Báo cáo mở rộng tiếp cận, Dự án mở rộng tiếp cận tài
chính nông thôn Canada 2001.
27. Đào Văn Hùng (2005), Phát triển hoạt động tài chính vi mô ở Việt nam, NXB
Lao động - xã hội, Hà nội 2005; McCarty, A. (2001), Tài chính vi mô ở Việt
Nam: Nghiên cứu các dự án và các vấn đề đặt ra, Báo cáo của Bộ Phát triển
Quốc tế Anh và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
28. Nguyễn Thị Thanh Hương (2002), Các giải pháp phát triển thị trường tài
chính nông thôn trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế ở Việt Nam, Luận
án Tiến sĩ, Đại học Kinh tế Quốc dân 2002.
29. Phạm Chi Lan (2012). Bài trình bày “Kinh tế Việt Nam: Hiện trạng và triển
vọng”, VCCI, Hà nội 2012.
30. Lê Thị Lân (2005), Hoạt động tài chính vi mô ở Việt Nam làm gì để phát
triển, Hội thảo triển khai Nghị định số 28/CP, Hà Nội.
31. Lê Thị Lân, Trần Như An (2005), Hướng tới một ngành tài chính vi mô tự
vững ở Việt Nam: các vấn đề đặt ra và những thách thức, Tài liệu nghiệp vụ
số 5, Văn phòng Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) tại Việt Nam.
32. Adam McCarty (2001), Tài chính vi mô Việt Nam: Nghiên cứu các dự án và
các vấn đề đặt ra, DFID và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
33. MFWG (Microfinance Working Group) (2013), “Lời giải bài toán lãi suất đối
với tổ chức tài chính vi mô Việt nam”, Bài trình bày tại hội thảo “Xác định lãi
suất bền vững và quản trị rủi ro trong các tổ chức tài chính vi mô”, IFC và
MFWG, 16/5/2013, Hà nội.
34. Ngân hàng Nhà nước (2008), Thông tư 02/2008/TT-NHNN ngày 2/4/2008 của
Ngân hàng Nhà nước về việc Hướng dẫn thực hiện Nghị định 28/2005/NĐ-CP
ngày 9/3/2005 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Tổ chức tài chính
quy mô nhỏ, và Nghị định 165/2007/NĐ-CP ngày 15/11/2007 về sửa đổi, bổ
sung, thay thế một số điều của Nghị định 28/2005.
35. Ngân hàng Nhà nước (2009), Thông tư 07/2009/TT-NHNN ngày 17/4/2009
quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tài chính
quy mô nhỏ.
36. Ngân hàng Nhà nước (2009), Thông tư 08/2009/TT-NHNN ngày 28/4/2009
Hướng dẫn về mạng lưới hoạt động của tổ chức tài chính quy mô nhỏ.
154
37. Ngân hàng Nhà nước (2011), Thông tư 40/2011/TT-NHNN ngày 15/12/2011
của Thống đốc NHNN quy định về việc cấp giấy phép thành lập và tổ chức
hoạt động của NHTM, chi nhánh NH nước ngoài, văn phòng đại diện của
TCTD nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động NH tại Việt Nam.
38. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2012), Các quy định về hoạt động tài chính
vi mô Việt Nam. Cơ quan Thanh tra Giám sát.
39. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2006-2014), Báo cáo thường niên của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam.
40. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2006), Báo cáo kết quả khảo sát về tài chính
vi mô tại Philippines, Hà Nội.
41. Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo Luật kinh tế, NXB ĐHQGHN.
42. Nguyễn Như Phát (2005), Cải cách pháp luật doanh nghiệp ở Việt Nam hiện
nay, Hội thảo của Hội Luật gia Việt Nam, Nha Trang.
43. Ngân hàng Phát triển châu Á (2003), Chuẩn bị khuôn khổ phát triển tài chính
vi mô, TA 3741 - VIE.
44. Ngân hàng Phát triển châu Á (2006), Báo cáo lần thứ nhất Thực hiện khuôn
khổ quy định và giám sát về tài chính vi mô, TA 4638-VIE.
45. Ngân hàng Thế giới (1989), Các hệ thống tài chính và sự phát triển, Tuyển
tập chính sách và nghiên cứu, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
46. Ngân hàng thế giới (2007), Việt nam: Phát triển chiến lược tổng thể để tăng
cường khả năng tiếp cận dịch tài chính vi mô của người nghèo, Hà nội
06/02/2007.
47. Paul Niven (2009), Thẻ điểm cân bằng – Balanced Scorecard, Nhà xuất bản
tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh 2009.
48. Lê Thanh Tâm (2008), “Phát triển các tổ chức tài chính nông thôn Việt
Nam”, Luận án Tiến sỹ, Đại học Kinh tế Quốc dân Hà nội.
49. Lê Thanh Tâm (2013), “Phá vỡ “vòng luẩn quẩn” trong hoạt động tín dụng
tại Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển số chuyên đề tháng 3/2013. ISSN:
1859-0012, trang 24-33.
50. Lê Thanh Tâm (2013), Lãi suất cho vay đối với các tổ chức TCVM: Kinh
nghiệm quốc tế và một số đề xuất cho Việt Nam, Tạp chí NH số 15, Tháng
8/2013.
155
51. Nguyễn Hữu Thanh (2004), Một số vấn đề về việc xây dựng cơ sở pháp lý cho
hoạt động tài chính vi mô tại Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng số 9/2004.
52. Nguyễn Hữu Thanh (2007), Quy chế pháp lý của tổ chức tài chính vi mô tại
Việt nam, Luận văn thạc sĩ, Viện Nhà nước và pháp luật.
53. Hoàng Văn Thành (2012), Đánh giá chính sách về tổ chức và hoạt động của
các tổ chức tài chính vi mô, Luận văn thạc sĩ, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí
Minh.
54. Quốc hội, Luật các tổ chức tín dụng 2010.
55. Quốc hội, Luật doanh nghiệp 2005 và Luật doanh nghiệp 2014.
56. The SEEP Network (2008), Banking With The Poor Network, Citi Foundation,
Báo cáo đánh giá về Ngành tài chính vi mô Việt Nam, tháng 7 năm 2008.
57. Thủ tướng Chính phủ, (2011), Quyết định 09/2011/QĐ-Ttg về việc ban hành
chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo giai đoạn 2011 – 2015.
58. Thủ tướng Chính phủ, (2011), Quyết định 2195/QĐ-TTg ngày 6/12/2011 của
Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt đề án xây dựng và phát triển hệ thống tài
chính vi mô tại Việt nam đến 2020.
59. Doãn Hữu Tuệ, Tài chính vi mô và một số khuyến nghị đối với hoạt động tài
chính vi mô ở nước ta, Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 330, Hà nội 2005.
60. Võ Khắc Thường và Trần Văn Hoàng (2013), Tài chính vi mô tại một số nước
trên thế giới và bài học kinh nghiệm nhằm hạn chế đói nghèo ở Việt Nam, Tạp
chí Phát triển và Hội nhập số 9(19), Hà nội tháng 3-4/2013.
61. Nguyễn Thị Hoàng Vân (2005), Vai trò của TCVM trong việc giảm nghèo.
Tầm quan trọng của việc duy trì mục tiêu giảm nghèo trong sự phát triển
ngành TCVM Việt Nam, Hội thảo quốc tế về tài chính vi mô tại Tp. Hồ Chí
Minh.
62. Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (2013), Chế độ pháp lý về TCVM
hiện nay, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Hà nội.
63. Viện Quản lý Châu Á – Thái Bình Dương (2013), Đề xuất Chiến lược Tài
chính vi mô của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt nam, Hà nội.
64. WB (Ngân hàng Thế giới) (2006a), Việt Nam: Phát triển một chiến lược toàn
diện để mở rộng tiếp cận [của hộ nghèo] đối với các dịch vụ tài chính vi mô.
156
Tăng cường tiếp cận, hiệu quả và bền vững, Phần I - Được chuẩn bị bởi DFC và
Mekong Economics, 30/9.
65. William Smith (2010), Kinh nghiệm quốc tế trong điều chỉnh tài chính vi mô,
Tạp chí Ngân hàng, Số Chuyên đề (3).
66. Yunus, M. (2003), Giảm phân nửa nghèo đói vào năm 2015, Báo cáo tại hội
thảo quốc tế “Tín dụng nhỏ trong mục tiêu xóa đói giảm nghèo và những
thách thức”, Quỹ trợ vốn CEP và Cơ quan hợp tác phát triển quốc tế Úc
AusAID đồng tổ chức, Thành phố Hồ Chí Minh, 21-24/5/2003.
II. TÀI LIỆU TIẾNG ANH
67. Adam, D.W. (1995), From Agricultural Credit to Rural Finance, Quarterly
Journal of International Agriculture, Vol. 34, No. 2.
68. Alison Beard (2012), Life’s work: Mohamed Yunus – an interview, Harvard
Business Review, 12/2012;
69. Asian Development Bank ADB (2000), Finance for the Poor: ADB
Microfinance Strategy,
access on July 3 2013.
70. Asian Development Bank ADB (2013), Proven Good Practices in
Microfinance is about: Processes & Structures Designed to (among others) -
Reduce Transaction Costs for both the Clients and the MFIs, PATA 8108-
VIE: Hỗ trợ kỹ thuật tư vấn và chính sách của Chương trình Phát triển Tài
chính Vi mô Việt nam 2012-2013.
71. Asian Development Bank ADB (2013), Policy and Advisory Technical
Assistance to the Vietnam’s Implementation of Microfinance Development
Program.
72. Nguyen Binh (2011-2012), Microfinance Development Strategy 2000 –
Sector Performance and Client Welfare, ADB Special Evaluation Study.
73. CGAP (2004), Key principles of Microfinance, Washington D.C.
74. Chowdhury, Annis (2009), Microfinance as a Poverty Reduction Tool – A
Critical Assessment, UN-DESA Working Paper No. 89, December 2009,
75. Craig Churchill (2000), Regulation and supervision of microfinance
institutions - Case studies, Occational Paper 2.
157
76. Tran Tho Dat (1998), Borrower Transaction Costs, Segmented Markets and
Credit Rationing: A Study of Rural Credit Market in Vietnam, Ph.D Thesis,
Australian National University 1998.
77. David Bergman (2011), Hassina vs Yunus: What lies behind the sudden spate
of bad press for the Grameen Bank Founder, Himal South Asian Magazine,
yunus.html;
78. Dilin Lim (2009), Practical Challenges of Microfinance Institutions,
INSTITUTO DE EMPRESA 2009.
content/uploads/2011/02/Microfinance-Thesis_Dilin_Lim.pdf
79. Quach Manh Hao (2005), Access to Finance and Poverty Reduction: An
Application to Rural Vietnam, Ph.D thesis, University of Birmingham.
80. Helms, Brigit & Xavier Reille (2004), Interest Rate Ceilings and
Microfinance: The Story So Far?, CGAP Occasional Paper, September.
81. Hulme, D. and P. Mosley (1996b), Finance for the Poor or the
Poorest? Financial Innovation, Poverty and Vulnerability, in G.D. Wood and
I. Sharif, Dhaka (eds), Who Needs Credit? Poverty and Finance in
Bangladesh, University Express Limited (Zed Books, UK, 1997).
82. IFAD (2000), IFAD Rural Finance Policy, Executive Board – Sixty Ninth
Session, Rome 3-4 May.
83. Jain, Pankaj, and Mick Moore (2003), What makes Microcredit Programme
Effective? Fashionable Fallacies and Workable Realities, IDS Working Paper
177, Institute of Development Studies, University of Sussex, Brighton.
84. Julien, Kerwin (2009), A Look at Interest Rates in Microfinance,
accessed on July 7, 2013.
85. Kritsda Udyanin (2002), Building facilities for microfinance and rural
financial in Thailand, Senior policy Meeting on Microfinance and Rural
financial in Asia, Yogyakarta, Indonesia.
86. Le Thanh Tam, (2013), Danang Women’s Union reports on Microfinance
Fund for Housing Improvement, 2007-2013.
158
87. Ledgerwood Joanna (2000), Microfinance Handbook (Rural Finance
Handbook): An Institutional and Financial Perspective, Washington, DC
88. Ledgerwood Joanna, with Julie Earne and Candace Nelson, eds (2013), The
New Microfinance Handbook: A Financial Market System Perspective,
Washington, DC: World Bank. doi: 10.1596/978-0-8213-8927-0. License:
Creative Commons Attribution CC BY 3.0;
89. Mai Lan Le & Nhu An Trang (2003), Entering a New Market: Commercial
Banks and Small/Micro Enterprise Lending in Viet Nam, ILO Viet Nam
Working Paper Series No. 3, 2003;
90. Mark Schreiner (2000), Ways Donors can help the evolution of sustainable
microfinance organizations. Savings and development. Quarterly Review No. 4;
91. Meyer, R. & Nagarajan, G. (1992), An assessment of the role of informal
finance in the development process, In the book Sustainable Agricultural
Development: The Role of International Cooperation, edited by G.H Peters, and
B.F Stanton. Brookfield: Dartmouth Press.
92. Meyer, R. & Nagarajan, G. (2000), Rural Financial Markets in Asia: Policies.
Paradigms, and Performance, in A study of rural Asia 3 by the ADB. New
York, Oxford: University Press, Inc.
93. Morduch, Jonathan (2000), The Microfinance Schism, World Development,
28 (4): 617-629.
94. Morduch, Jonathan (2008), How can the poor afford microfinance?, Financial
Access Initiative, Wagner Graduate School, New York University, New York.
95. Mondal, W.I and R.A., Tune (1993), “Replicating the Grameen bank in North
America: The good faith fund experience”, Walid, ANM (ed): The Grameen
Bank: Poverty Relief in Bangladesh, Westview Press, San Francisco.
96. Nitin Bhatt and Shui - Yan Tang (2001), Delivering Microfinance in
Developing Countries: Controversies and Policy Perspectives, Policy Studies
Journal,
97. Olle Berggren (2012), The Impact of Informal Institution on Microfinance
Performance, Lund University 2012,
159
98. Peter Renton (2011), Microfinance goes bad in India, 26/1/2011;
99. Peter S. Rose and Sylvia C. Hudgins (2010), Bank Management and
Financial Services, Eighth Edition, McGraw-Hill Irwin Press.
100. Rhyne, E., and M., Otero (1994), Financial Services for Microenterprises:
Principles and Institutions, In The New World of Microenterprise Finance,
Maria Otero and Elisabeth Rhyne (eds). West Hartford: Kumarian Press.
101. Richard Rosenberg, Adrian Gonzalez, and Sushma Narain, (2009), The new
moneylenders: Are the poor being exploited by high microcredit interest rates,
CGAP Note No. 15, February 2009.
102. Robinson, M.S. (2001), The microfinance revolution: Sustainable finance for
the poor, the World Bank.
103. Rosenberg, Richard, Adrian Gonzalez & Sushma Narain (2009), The New
Moneylenders: Are the Poor Being Exploited by High Microcredit Interest
Rates, CGAP Working Paper No. 15, February.
104. Scott Gaul (2009), Breaking it down: SDI vs FSS, MIX Microbanking
Bulletin, Issue 18, Spring 2009.
105. Nghiem Hong Son (2006), Efficiency and Effectiveness of Rural Finance in
Vietnam: Evidence from NGO Schemes in the North and the Central Regions,
PhD Thesis Presentation, Centre for Efficiency and Productivity Analysis
(CEPA), School of Economics, the University of Queensland.
106. Steinwand, D (2003), The challenge of sustainable outreach: Five case
studies from Asia, GTZ Division 14, Financial Development and Banking
Service, GTZ, Eschbon, Germany.
107. UNDP & Citi Corp Foundation (1997), Micro Start Guide: A Guide for
Planing, Starting and Managing a Microfinance Program.
108. Yaron, J., M. Benjamin & G. Piprek, (1997), Rural Finance: Issues, Design,
and Best Practices, Environmentally and Socially Sustainable Development
Studies and Monographs Series 14. Washington, D.C.: World Bank;
109. Yaron, J., M.Benjamin & S.Charitonenko (1998), Promoting Efficient Rural
Financial Intermediation, The World Bank Research Observer, Vol. 13, no. 2
(August 1998);
160
110. Yunus Muhammad (2005), Expanding Microcredit to Reach
the Millennium Development Goal, International Microfinance Conference,
Hochiminh City.
111. W.A.Wijewardena (2002), How to organize capacity and institution building
for microfinance and rural financial institution, Senior policy Meeting on
Microfinance and Rural financial in Asia, Yogyakarta, Indonesia;
112. World Bank (2012), “Well Begun, not Yet Done: Vietnam’s Remarkable
Progress on Poverty Reduction and the Emerging Challenges”, 2012 Vietnam
Poverty Assessment.
113. Zeller, M., M. Sharma, C. Henry, and C. Lapenu (2001), An operational tool for
evaluating poverty outreach of development policies and projects, Discussion
Paper No. 111, Food Consumption and Nutrition Division, International Food
Policy Research Institute, Washington, D.C, June.
114. Zeller, M., and R. L.Meyer (eds) (2002), The triangle of rural finance:
Financial sustainability, outreach, and impact, Johns Hopkins University
Press in collaboration with the International Food Policy Research Institute
(IFPRI), Baltimore and London.
115. Zeller, M. (2003), “Models of Rural Financial Institutions”, Lead Theme
Paper for Paving the Way orward: an International Conference on Best
Practices in Rural Finance, BASIS-CRSP & WOCCU, Washington, D.C., 2-4
June 2003.
116. Website:
117. Website:
118. Website:
119. Website:
120. Website:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phap_luat_ve_to_chuc_tai_chinh_vi_mo_o_viet_nam_3707.pdf