Đại lấy quyền làm chồng để quản thúc thêm cô ta, thử hỏi làm sao cô ta có thể cam tâm?
Do vậy, việc cô ta tư thông với Tây Môn Khánh cũng chỉ là một hành vi biến thái, huống
hồ tập quán của thời cũ, đàn ông có thể cưỡng gian đàn bà, có vợ này vợ nọ, còn người vợ
thì không được bước qua khỏi cửa. Đàn bà ngoại tình, đàn ông có quyền giết chết tùy
thích, không mang danh tội phạm, do vậy Phan Kim Liên có thể bị giết chết bất kỳ lúc nào,
kết quả của nỗi sợ hãi ấy là cô ta phải giết người. Bình tâm mà xét, chúng ta nên thông cảm
cho tội lỗi của cô ta, còn việc cô ta cuối cùng bị giết cũng là một kết cục đương nhiên vậy”.
Kịch "Phan Kim Liên" chủ yếu tiếp nhận "Thủy hử truyện" trên bình diện cái biên
về Phan Kim Liên, dưới cái nhìn thời đại có thể nói, đó là cách thức để ông ta phản đối lễ
giáo phong kiến, theo đuổi nam nữ bình đẳng. Đó chính là tinh thần thời đại.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 219 trang
219 trang | 
Chia sẻ: phamthachthat | Lượt xem: 3005 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử của thi nại AM, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là một tập thể những nhân vật quần hùng tráng mĩ xuất hiện 
trong cảm hứng ngợi ca đậm chất sử thi của tác phẩm. Tài năng trí tuệ 
tấm lòng của họ được mô tả với cảm quan huyền thoại hóa, lý tưởng 
hóa. Đây cũng là đặc điểm chung của người anh hùng trong tiểu thuyết 
cổ điển Trung Quốc. Điểm khác biệt của người anh hùng trong Thủy 
Hử là chịu sự khúc xạ của nhiều hệ tư tưởng khác nhau. Tư tưởng 
“trung quân” phong kiến và tinh thần “đại nghĩa” của nhân dân. Chính 
tính chất phức tạp và mâu thuẫn của tư tưởng Nho giáo tập trung ở khái 
niệm “trung nghĩa” trong Thủy Hử đậm màu sắc dân gian, bộc lộ 
những nét độc đáo trong quan niệm về người anh hùng của tác phẩm. 
Điều này sẽ giải thích được sự mâu thuẫn giữa thế giới quan của tác giả 
chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng “trung quân” nhưng hiện thực cuộc 
sống trong tác phẩm lại đi ngoài ý đồ ban đầu của người viết. Ở đây đã 
có sự chuyển hóa từ thế giới quan thành nguyên tắc của cái nhìn nghệ 
185 
thuật. Quan niệm thẩm mỹ của tác giả ngưng kết trong tác phẩm không 
phải ở thế giới quan mà là quan niệm nghệ thuật về con người. Trong 
đó, tinh thần “trọng nghĩa”, yếu tố “hiệp nghĩa” đã trở thành nguyên 
tắc chủ yếu về mặt đạo đức trong hành động của các hảo hán Lương 
Sơn. Tư tưởng trung quân chỉ đi vào ý thức nhân vật chứ không thành 
nguyên tắc xây dựng nhân vật. Mặc dù không trực tiếp phát biểu quan 
niệm anh hùng nhưng con đường lên Lương Sơn Bạc và lối sống, phẩm 
chất của 108 vị anh hùng trong Thủy Hử thể hiện đạo lý nhân dân: gạt 
bỏ lòng trung quân phong kiến để phấn đấu cho lòng trung hướng về 
nhân dân ra tay xóa bỏ áp bức bất công. Nhưng, cũng thật mâu thuẫn và 
hạn chế khi Lương Sơn Bạc vừa chủ trương xây dựng lực lượng chống 
lại triều đình vừa mong triều đình xá tội chiêu an. Hạn chế trong quan 
niệm anh hùng của Thủy Hử nằm trong chính tinh thần “đại nghĩa” của 
họ. Điều đó cũng cho thấy rằng: ý thức “trung quân” là ranh giới tín 
điều đạo đức phong kiến mà Thi Nại Am không sao vượt qua được. 
3. Nhằm khắc họa rõ nét chân thực thế giới nhân vật anh hùng, tác phẩm 
sử dụng một số phương thức thể hiện có những đặc điểm nổi bật như: 
tính chất đoản thiên trong kết cấu cốt truyện, tính lặp lại của các môtip 
trong các cốt truyện nhỏ tạo nên đặc điểm kết cấu có tính đồng tâm. 
Yếu tố hình thức này có nguồn gốc sâu xa trong thuyết phân hợp của 
văn hóa Trung Hoa đồng thời thể hiện kiểu liên kết nhân vật văn học. 
Từ những cá nhân đơn độc phản kháng riêng lẻ tập hợp thành sức mạnh 
của một tập thể quần hùng tráng mỹ tụ họp tại Lương Sơn. Từ nghĩa cá 
nhân mở rộng thành nghĩa lớn - mục tiêu của cuộc khởi nghĩa Lương 
Sơn thành “đại nghĩa”. Từ không gian xã hội đến không gian giang hồ 
để cuối cùng qui về không gian tụ nghĩa là quá trình hình thành và lớn 
mạnh của nghĩa quân Lương Sơn thực hiện lý tưởng “thế thiên hành 
186 
đạo”. Do đó kết cấu đồng tâm của tác phẩm không chỉ thể hiện liên kết 
ở bề mặt cốt truyện mà còn ở sự liên kết chiều sâu của tư tưởng. Trong 
đó, hình tượng người anh hùng vừa dung dị, đời thường vừa không hề 
xa rời hào quang lý tưởng. Yếu tố lắng ở tâm điểm của kết cấu là chữ 
“nghĩa”, châu tuần xung quanh là “tài, trí, lực, trung, dũng”. Vẻ đẹp 
của họ qui tụ xung quanh nghĩa khí anh hùng là tài năng, trí tuệ, tấm 
lòng bao dung đại lượng, là tinh thần dũng cảm hy sinh. Điều đáng nói 
là vẻ đẹp ấy thăng hoa thành sức mạnh của lòng yêu thương hướng về 
quần chúng nhân dân bị áp bức bất công. Thông qua hình tượng nhân 
vật anh hùng, quan niệm anh hùng trong Thủy Hử vì thế đã chung đúc, 
thâu góp hết vẻ đẹp của thiên nhiên và con người. Đây cũng là nét khác 
biệt rất lớn trong kết cấu của Thủy Hử với văn học hiện đại và hậu hiện 
đại. Trong xu thế thể hiện cá nhân ở tính “không hoàn tất” của nó, kết 
cấu của văn học hiện đại và hậu hiện đại thường gây ra ảo giác về tính 
không xác định, tính ngẫu nhiên, tính ghép mảngTrái lại, kết cấu 
đồng tâm trong Thủy Hử tạo cho ta ấn tượng về sự vững chắc đồng qui 
về sức mạnh, lý tưởng, sự hòa đồng của vẻ đẹp con người và tự nhiên. 
4. Đi đôi với kết cấu đồng tâm, thời gian và không nghệ thuật trong tác 
phẩm được tạo dựng trong tương quan với việc thể hiện người anh 
hùng. Đó vừa là môi trường sống, môi trường hoạt động của nhân vật, 
lại vừa là phương diện nghệ thuật thấm đẫm cái nhìn mang chiều sâu tư 
tưởng của nhà văn. Thời gian lịch sử và thời gian hành động, không 
gian vũ trụ và không gian địa lý, không gian đời sống và không gian 
giang hồ cứ hòa lẫn, xuyên thấm vào nhau, làm nên một thế giới đa 
diện, lung linh trong vẻ đẹp rực rỡ của hình tượng người hùng. 
5. Với tư cách là một sáng tạo nghệ thuật của nhà văn, hình tượng người 
kể chuyện có chức năng to lớn trong việc tổ chức, kết cấu tác phẩm lẫn 
187 
việc khắc họa, biểu hiện nhân vật anh hùng trong Thủy Hử. Đây lá kiểu 
người kể chuyện có sự dung hòa những đặc điểm giữa người kể chuyện 
dân gian và người kể chuyện bác học. Thông qua hành trình tạo dựng 
điểm nhìn, giọng điệu của người kể chuyện, tác phẩm làm nổi rõ diện 
mạo, đặc điểm, khí chất của người anh hùng trong tác phẩm. Người kể 
chuyện còn là nơi gửi gắm nhân sinh quan, vũ trụ quan của nhà văn, là 
nơi mà qua đó, tác giả có thể đưa ra những phán đoán, cảm nghiệm về 
đời sống xã hội và người anh hùng. Do đó, có thể nói, tìm hiểu về hình 
tượng người kể chuyện không những giúp ta khám phá nghệ thuật trần 
thuật của tác phẩm, mà còn giúp ta thấu cảm một tâm hồn. 
Luận án của chúng tôi, bước đầu nghiên cứu phương thức biểu hiện 
nhân vật anh hùng trong Thủy Hử như một công trình chuyên biệt mang tính 
hệ thống, chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Thiết nghĩ, đề 
tài nghiên cứu về phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết 
cổ điển Trung Quốc hãy còn là chân trời phía trước mà người viết mong 
muốn tiếp tục khám phá trong thời gian tới. 
188 
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 
1. Nguyễn Ngọc Như Ý (2005), Sự thể hiện quan niệm anh hùng trong Thủy 
Hử của Thi Nại Am, Luận văn thạc sĩ ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm 
Huế. 
2. Nguyễn Ngọc Như Ý (2006), “Tính đồng tâm của không gian nghệ thuật 
trong Thuỷ Hử", Tạp chí khoa học Đại học Huế, số 31. 
3. Nguyễn Ngọc Như Ý (2009), “Tư tưởng Trung Nghĩa và bi kịch của người 
anh hùng trong Thuỷ Hử”, Tạp chí khoa học và xã hội nhân văn Đại học 
Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, số 17(51). 
4. Nguyễn Ngọc Như Ý (2010), “Hình tượng người kể chuyện trong tác 
phẩm Thủy Hử”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học của học viên sau đại học 
và nghiên cứu sinh của Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí 
Minh. 
189 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Tiếng Việt 
1. Thi Nại Am (1994), Thủy Hử, Á Nam Trần Tuấn Khải dịch, NXB Văn 
học, Hà Nội. 
2. Thi Nại Am - La Quán Trung (1992), Hậu Thủy Hử, NXB Văn học, Hà 
Nội. (dịch từ nguyên bản Thủy Hử toàn truyện 120 hồi, do Trung Hoa 
thư cục xuất bản Bắc Kinh 1960 - 1976). 
3. André Chieng (2007), Bàn về thực tiễn của Trung Hoa cùng với Francois 
Jullien, Hoàng Ngọc Hiến dịch và giới thiệu, NXB Đà Nẵng. 
4. Lại Nguyên Ân (2003), 150 Thuật ngữ Văn học, NXB Đại học Quốc gia, 
Hà Nội. 
5. Dư Quan Anh - Tiền Chung Thư - Phạm Ninh (2003), Lịch sử Văn học 
Trung Quốc tập II, NXB Giáo dục, Hà Nội. 
6. Trịnh Ân Ba, Trịnh Thu Lôi (2002), Văn học Trung Quốc, Lê Hải Yến 
dịch, NXB Thế Giới, Hà Nội. 
7. Lê Huy Bắc (2002), Giải phẫu văn chương trong nhà trường, NXB Đại 
học Quốc gia, Hà Nội. 
8. Lê Huy Bắc (2001), “Kết cấu vòng tròn trong Tam Quốc diễn nghĩa và 
Thủy Hử”, tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 5. 
9. Trần Lê Bảo (2004), “Nhóm nhân vật điển hình trong tiểu thuyết cổ điển 
Trung Quốc”, Nghiên cứu Văn học, số 9. 
10. M.Bakhtin. (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn 
Nguyễn Du, Hà Nội. 
11. Phạm Tú Châu (1999), “Việc nghiên cứu ảnh hưởng Phật giáo và Đạo 
giáo trong mấy bộ tiểu thuyết tiêu biểu của Trung Quốc", in trong Đi 
giữa đôi dòng, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 
190 
12. Phan Bội Châu (1973), Khổng Học Đăng, Khai Trí, Sài Gòn 
13. Huỳnh Ngọc Chiến (2002), Lai rai chén rượu giang hồ, NXB Văn học, 
Hà Nội. 
14. Ngô Vinh Chính, Vương Miện Quý chủ biên, Lương Duy Thứ dịch, (1994), 
Đại cương lịch sử văn hóa Trung Quốc, NXB Văn hóa thông tin. 
15. Lý Quốc Chương (2003), Nho gia và Nho học, NXB Văn hóa thông tin, 
Hà Nội 
16. Việt Chương (1995), Chân dung nhân vật Tam Quốc diễn nghĩa chí, NXB 
Đồng Nai. 
17. Đoàn Trung Còn (1950), Tứ Thơ Luận Ngữ, Trí Đức Tòng Thơ, 
Sài Gòn. 
18. Huyền Cơ (2007), Luận về chữ Nhân, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh. 
19. Nguyễn Huy Cố (2006), Khi Trung Quốc làm thay đổi thế giới, NXB 
Thế Giới, Hà Nội. 
20. Giáp Văn Cường (1995), Lão Tử đạo đức huyền bí, NXB Đồng Nai. 
21. Giáp Văn Cường (1996), Trần Kiết Hùng hiệu đính, Luận Ngữ thánh 
kinh của người Trung Hoa, NXB Đồng Nai. 
22. Nguyễn Văn Dân (1990), Nghiên cứu văn học - Lý luận và ứng dụng, 
NXB Giáo dục, Hà Nội. 
23. Nguyễn Văn Dân (2002), Lý luận Văn học so sánh, NXB Đại học Quốc 
gia Hà Nội 
24. Trương Đăng Dung (chủ biên) (1990), Các vấn đề của khoa học văn học, 
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 
25. Dương Ngọc Dũng (1999), Dẫn nhập tư tưởng lý luận văn học Trung 
Quốc, NXB Văn học, Hà Nội. 
26. Will Durant (1972), Lịch sử văn minh Trung Quốc, Trung tâm thông tin 
Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh. 
191 
27. Đường Đắc Dương (2003), Cội nguồn văn hóa Trung Hoa, NXB Hội 
Nhà văn, Hà Nội. 
28. Trần Xuân Đề (2003), Lịch sử văn học Trung Quốc, NXB Giáo dục, 
TP Hồ Chí Minh. 
29. Trần Xuân Đề (2000), Tác giả, tác phẩm văn học Phương Đông Trung 
Quốc, NXB Giáo dục, Hà Nội. 
30. Trần Xuân Đề (1996), Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, NXB Giáo dục, 
Hà Nội. 
31. Hà Minh Đức (chủ biên) (1996), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, 
Hà Nội. 
32. S. Freud, C. Jung (2002), Phân tâm học và văn hóa tâm linh, NXB 
Văn hóa thông tin, Hà Nội. 
33. Đoàn Lê Giang (2008), “Những nguồn mạch chính và khả năng ứng 
dụng mới của Lý luận văn học cổ”, Hội nghị khoa học “Mấy vấn đề 
lý luận văn học cổ điển Trung Quốc”, trường Đại học Khoa học xã 
hội & Nhân văn TP. Hồ Chí Minh. 
34. Francois Jullien (2005), Bàn về chữ “thời” những yếu tố của một triết lý 
sống, NXB Đà Nẵng. 
35. Francois Jullien (2007), Các biểu tượng của nội giới hay cách đọc triết 
học về kinh dịch, NXB Đà Nẵng. 
36. Francois Jullien (2004), Minh triết Phương Đông và triết học Phương 
Tây, NXB Đà Nẵng. 
37. Ix Bơra Ghinxki (1962), "Sơ kết cuộc thảo luận về sự hình thành của chủ 
nghĩa hiện thực trong văn học các nước phương Đông", Tạp chí Văn 
học, số 10-11. 
38. A.N.Giêlôkhốp và Aprôgasep (1978), “Xung quanh chiến dịch tranh luận 
về Thủy Hử ở Trung Quốc”, Tạp chí Châu Âu và Châu Phi, số 1. 
192 
39. A.J.A. Gurevich (1996), Các phạm trù văn hóa Trung cổ, NXB Giáo 
dục, Hà Nội. 
40. N.A. Gulaiep (1982), Lý luận văn học, NXB Đại học và Trung học 
chuyên nghiệp, Hà Nội. 
41. Lý Mộng Hà (2002), 108 anh hùng Lương Sơn Bạc, NXB Đồng Nai. 
42. Kate Hamburger (2004), Logic học về các thể loại Văn học, NXB Đại 
học Quốc gia Hà Nội. 
43. Nhất Hạnh (1964), Đạo Phật đi vào cuộc sống, Lá Bối xuất bản, Sài Gòn. 
44. Trần Nguyên Hạnh (2009), Nghệ thuật trần thuật trong Tam Quốc diễn 
nghĩa của La Quán Trung”, Luận văn thạc sĩ Ngữ Văn, Đại học Sư 
phạm Huế. 
45. Nguyễn Thị Bích Hải (2005), Tiến trình thơ và tiểu thuyết Trung Quốc, 
Bài giảng chuyên đề, Đại học Sư phạm Huế. 
46. Nguyễn Thị Bích Hải (2003), Lịch sử tư tưởng văn học phương Đông, 
Bài giảng chuyên đề, Đại học Sư phạm Huế. 
47. Nguyễn Thị Bích Hải (1995), Thi pháp thơ Đường, NXB Thuận Hóa, Huế. 
48. Phạm Thị Hảo (2008), Khái niệm và thuật ngữ lý luận văn học Trung 
Quốc, NXB Văn học, Hà Nội. 
49. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (1999), Từ điển thuật ngữ 
văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 
50. Đoàn Hương (2004), Văn luận, NXB Văn học, Hà Nội. 
51. Lưu Hiệp (1996), Văn tâm điêu long, (Phan Ngọc dịch), Tạp chí Văn học 
nước ngoài, số 3. 
52. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Tập bài giảng Nghiên cứu văn học, NXB Giáo 
dục, Hà Nội. 
53. Hoàng Ngọc Hiến (2003), Nhập môn văn học và phân tích thể loại, NXB 
Đà Nẵng. 
193 
54. Chương Bồi Hoàn - Lạc Ngọc Minh (2000), Trung Quốc văn học sử”, 
tập 3, NXB Phụ nữ, Hà Nội. 
55. Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng Phương Đông gợi những điểm nhìn 
tham chiếu, NXB Văn học, Hà Nội. 
56. Trần Đình Hượu (2002), Các bài giảng về tư tưởng phương đông, NXB 
Quốc gia, Hà Nội. 
57. Hàn Triệu Kỳ (2001), Ẩn sĩ Trung Hoa, (Cao Tự Thanh dịch), NXB Trẻ, 
TP Hồ Chí Minh. 
58. Lưu Cương Kỷ - Phạm Minh Hoa (2002), Chu Dịch và Mỹ học, NXB 
Văn hóa thông tin, Hà Nội. 
59. Nguyễn Huy Khánh (1991), Khảo luận tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa, 
NXB Văn học, TP Hồ Chí Minh. 
60. Vũ Khiêu (1975), Anh hùng và nghệ sỹ, NXB Văn học giải phóng. 
61. Nguyễn Văn Khỏa (1978), Anh hùng ca của Homerơ, NXB Đại học và 
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 
62. Ôn Tử Kiến (2004), Văn hóa võ hiệp, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 
63. Trần Trọng Kim (2003), Nho giáo, NXB Văn học, Hà Nội. 
64. N.Kon rat (1997), Phương Đông và Phương Tây, NXB Giáo dục, Hà Nội. 
65. Phùng Hữu Lan (1967), Đại cương triết học sử Trung Quốc, NXB Đại 
học Vạn Hạnh, Sài Gòn. 
66. Nguyễn Hiến Lê (1994), Kinh Dịch - đạo của người quân tử, NXB Văn 
học, Hà Nội. 
67. Nguyễn Hiến Lê (2001), Khổng Tử, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 
68. Nguyễn Hiến Lê (1995), Luận Ngữ, NXB Văn học, Hà Nội. 
69. Nguyễn Hiến Lê (1975), Mạnh Tử, Nhà in Cảo Thơm. 
70. D.X. Likhachôp (1989), Thời gian nghệ thuật của tác phẩm văn học, Tạp 
chí Văn học, số 3. 
194 
71. L.X. Lixêvich (2000), Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc, NXB Giáo dục, 
Hà Nội. 
72. Võ Ngọc Liên (1996), Thượng Thư sách ghi chép thời thượng cổ, (Trần 
Kiết Hùng hiệu đính), NXB Đồng Nai 
73. Phương Lựu (1989), Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc, NXB 
Giáo dục, Hà Nội. 
74. Phương Lựu (2005), Lý Luận Văn Học Cổ Điển Phương Đông, NXB 
Giáo Dục, HN 
75. Đặng Thai Mai (1994), “Mối quan hệ lâu đời giữa Văn học Việt Nam và 
Văn học Trung Quốc”, Văn học sử Trung Quốc, NXB KHXH, HN, 
tr. 241-282. 
76. Henri Maspero (1999), Đạo giáo và các tôn giáo Trung Quốc, Lê Diên 
dịch, NXB KHXH. 
77. Trần Mặc (2003), Võ hiệp ngũ đại gia, Nguyễn Thị Bích Hải dịch, 
NXB Trẻ. 
78. Mác - Anghen - Lê Nin (1977), Về văn học nghệ thuật, NXB Sự thật, 
Hà Nội. 
79. C.Mác - F. Angghen - Lê Nin - Stalin (1967), Bàn về chủ nghĩa anh 
hùng cách mạng, NXB Sự thật, Hà Nội. 
80. Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh (1966), Bàn về chủ nghĩa anh 
hùng cách mạng, NXB Sự thật, Hà Nội 1962. 
81. G.N. Pospêlov (chủ biên) (1985), Dẫn luận nghiên cứu Văn học, 2 tập, 
NXB Giáo dục, Hà Nội. 
82. Lê Văn Quán (2006), Đại cương lịch sử tư tưởng Trung Quốc, NXB Lao 
động, Hà Nội. 
83. B.L. Rijtin (2002), Sử thi lịch sử và truyền thống văn học dân gian Trung 
Quốc, NXB Thuận Hóa - Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông – Tây, 
195 
Hà Nội. 
84. Trần Đình Sử - Phương Lựu - Nguyễn Xuân Nam (1987), Lý luận Văn 
học, tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội. 
85. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 
86. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp Văn học Trung đại Việt Nam, NXB Quốc 
gia, Hà Nội. 
87. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình Văn học, NXB Hội nhà văn, 
Hà Nội. 
88. Trần Đình Sử (chủ biên) (2004),(2008), Tự sự học - Một số vấn đề lí luận 
và lịch sử, tập 1, 2, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội. 
89. Trần Đăng Suyền (2009), Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, NXB Khoa học 
xã hội, Hà Nội. 
90. Lỗ Tấn (2002), Lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, NXB Đại học Quốc gia, 
Hà Nội. 
91. Tập thể tác giả (1999), Luận bàn Thủy Hử, NXB Văn học, Hà Nội. 
92. Tập thể tác giả (2000), Khái yếu lịch sử văn học Trung Quốc, NXB Thế 
giới, Hà Nội. 
93. Tập thể tác giả (1986-1988), Cơ sở lý luận văn học, tập 1,2,3, NXB Đại 
học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 
94. Tập thể tác giả (1996), Almanach - những nền văn minh thế giới, NXB 
Văn hóa thông tin, Hà Nội. 
95. Tư Mã Thiên (1994), Sử ký, Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi chú dịch và giới 
thiệu, NXB Văn học, Hà Nội. 
96. Lương Duy Thứ (1992), Giáo trình Văn học Trung Quốc, NXB Khoa 
học xã hội, Hà Nội. 
97. Lương Duy Thứ (1999), Để hiểu 8 bộ tiểu thuyết cổ Trung Quốc, NXB 
Mũi Cà Mau. 
196 
98. Lê Huy Tiêu (1996), Thử so sánh thi pháp của Tam Quốc diễn nghĩa và 
Thủy Hử, Tạp chí Văn học, số 3. 
99. Lê Huy Tiêu (2004), Cảm nhận mới về văn hóa và văn học Trung Quốc, 
NXB Đại học quốc gia, Hà Nội. 
100. Tzvetan Todorov (2008), Thi pháp văn xuôi, (Đặng Anh Đào- Lê Hồng 
Sâm dịch), NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội. 
101. Ngô Tất Tố (1966), Mặc Tử, Nhà in Khai Trí, Sài Gòn. 
102. La Quán Trung (2003), Tam Quốc diễn nghĩa, tập 1,2,3 NXB Văn học, 
Hà Nội. 
103. Hồ Quang Tuyến (1997), Đặc điểm kết cấu của Thủy Hử, Luận văn thạc 
sĩ Ngữ Văn, Đại học Sư Phạm Hà Nội. 
104. Nguyễn Văn Trọng (2000), Thế giới nhân vật anh hùng trong Tam Quốc 
và Thủy Hử, Luận văn thạc sĩ Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội. 
105. Trường Lý luận Nghiệp vụ Bộ Văn hóa (1975), Cái anh hùng- một phạm 
trù mỹ học cơ bản của mỹ học Mác - Lê Nin. 
106. Trần Ngọc Vương (1997), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn 
chung, NXB Giáo dục, Hà Nội. 
107. V.I.Xêmanốp (1962), “Tiểu thuyết anh hùng Trung Hoa và vai trò của nó 
trong việc hình thành nền văn học mới Trung Quốc”, in trong chủ 
nghĩa hiện thực và tương quan giữa nó với các phương pháp sáng tác 
khác, Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô xuất bản. 
Tiếng Trung 
108. Vương Tề Châu (1991), Tứ đại kỳ thư dữ Trung Quốc đại chúng văn 
hóa, Hồ Bắc Giáo dục xuất bản xã. 
109. Cao Nhật Huy (2000), Thủy Hử truyện tiếp thụ sử, Tề Lỗ thư xã xuất bản 
110. Lý Thiếu Lâm (1992), Xuân Thu Chiến Quốc Văn hóa đại quan. 
197 
Web 
111. Truyền thuyết đích thời kỳ "anh hùng" khái niệm đích nội hàm", rút từ 
www.minnanlunwen.com 
112. www.giadinh.net.vn 
113. www.vi.wikipedia.org 
198 
 PHỤ LỤC 1 
Phê bình quan điểm tiếp nhận Thủy Hử của Phan Lực Sơn và Đào Từ Huệ 
(Trích dịch từ cuốn “Thủy Hử truyện tiếp thụ sử” của Cao Nhật Huy, Tề Lỗ thư xã 
xuất bản, từ tr. 248 đến tr.253 ) 
1.Phê bình quan điểm tiếp nhận Thủy Hử của Phan Lực Sơn. 
 Cuốn “Nghiên cứu "Thủy hử truyện"” của Phan Lực Sơn là một công trình xuất 
hiện tương đối sớm nghiên cứu về nghệ thuật và tư tưởng của "Thủy hử truyện". Mở đầu 
bài viết, Phan Lực Sơn nói: “Đại khái là tôi không bàn đến sự thật về Thủy Hử và khảo 
chứng văn bản "Thủy hử truyện" mà chỉ chuyên bàn về nghệ thuật và tư tưởng của nó mà 
thôi”. Đầu tiên, Phan Lực Sơn bày tỏ ý kiến phản đối đối với hai quan niệm đang lưu hành, 
một của Trần Độc Tú, một của Tạ Vô Lượng. Ông ta cho rằng Trần Độc Tú và Tạ Vô 
Lượng khi đánh giá về tư tưởng của "Thủy hử truyện" đã thể hiện quá nhiều sắc thái chủ 
quan. Ông ta nhận xét rằng, Trần Độc Tú là người thuộc đảng xã hội, do vậy mà ông này 
đã dùng chủ nghĩa của mình để đánh giá "Thủy hử truyện"; còn Tạ Vô Lượng lại tán thành 
sự liên hợp cách mạng giữa giai cấp bình dân và giai cấp trung lưu nên mới cho rằng 
"Thủy hử truyện" là “tổ chức chính trị vũ lực”, là “sự nghiệp cách mạng liên hợp giữa giai 
cấp bình dân và giai cấp trung lưu”. Phan Lực Sơn cho rằng cần phải khách quan khi bình 
giá tư tưởng của "Thủy hử truyện". Nói đến khách quan cũng có nghĩa là tương đương với 
khái niệm mà Hồ Thích gọi là “lấy con mắt lịch sử” , nhưng có điều, “con mắt lịch sử” của 
mỗi người lại không giống nhau. Hồ Thích và Lỗ Tấn có điểm tương đồng, riêng Phan Lực 
Sơn thì có điểm khác với hai người. Phan Lực Sơn bình giá tư tưởng "Thủy hử truyện" tập 
trung vào hai điểm. Một là “hung tàn”, hai là “quan bức dân phản”. Ông ta nói: “Tống 
199 
Giang là người ôn hòa nhất trong sách này Còn lại đều là những kẻ giết người đốt nhà 
như Lý Quỳ giết hại Tiểu Nha Nội vân vân. Chúng ta đều là những người đã từng có con 
cái, đúng là không dám để cho chúng đọc sách này. Đặc biệt là việc vợ chồng Tôn Nhị 
Nương bán thịt người, chúng tôi cho rằng không phải là loài dã thú thì không làm được 
chuyện này  Điều đó cho thấy, tư tưởng của "Thủy hử truyện" tóm gọn trong hai chữ 
hung tàn”. Đúng là "Thủy hử truyện" viết rất nhiều chuyện tàn bạo, đó là một sự thật, 
nhưng có điều không thể căn cứ vào đó để chứng minh rằng tư tưởng của tác giả là “hung 
tàn”. Kiểu đánh gia của Phan Lực Sơn về thực chất mà nói vẫn chưa thoát ly được mô thức 
phê bình tiểu thuyết truyền thống - viết về cường đạo đúng là cường đạo, viết về dâm phụ 
đúng là dâm phụ - Quan điểm về “hung tàn” của Phan Lực Sơn xuất phát từ nhân tính 
quan và tư tưởng bác ái của giai cấp tư sản. Thậm chí ông ta còn so sánh những hảo hán 
Lương sơn bạc với những thổ phỉ thời hiện đại, cho rằng những thổ phỉ thời hiện đại còn tỏ 
ra “văn minh” hơn hẳn so với hảo hán Lương sơn. Từ “người dã man” đến “người văn 
minh” lại là tiến hóa luận , một tư trào vô cùng thịnh hành lúc bấy giờ. Đồng thời, Phan 
Lực Sơn cũng thừa nhận “tinh thần quan bức dân phản, đây là tinh thần chí cốt được nhắc 
đi nhắc lại trong sách”. Có điều, ông ta lại nhấn mạnh chữ “phản”, rằng đó không pahỉ là 
một chữ “phản” triệt để, vì “sau khi làm phản lại chờ đợi chiêu an, không hề có ý đồ sự 
nghiệp cách mạng gì cả”. Kiểu lý giải này nói chung là tương đối khách quan. 
 Tuy Phan Lực Sơn tự nhận là chỉ đề cập đến tư tưởng và nghệ thuật của "Thủy hử 
truyện" nhưng những ý kiến của ông ta bàn về nghệ thuật tiểu thuyết này không được đầy 
đủ lắm. Nói chung, Phan Lực Sơn cho rằng , nửa trước của "Thủy hử truyện" hay hơn hẳn 
phần sau. Từ góc độ hình tượng nhân vật mà xét, ông này cho rằng những nhân vật trọng 
yếu nhất của lực lượng Lương sơn bạc “chỉ được miêu tả hay trước khi lên Lương sơn, tất 
cả đều có cá tính, đáng tiếc là sau khi lên Lương sơn, tất cả đều trở nên nhàn nhạt”. Cách 
200 
nhìn này về đại thể là thống nhất với tuyệt đại đa số các nhà phê bình lúc ấy. Lỗ Tấn đã 
từng nói: “"Thủy hử truyện" là tập hợp của những mẩu chuyện truyền khẩu hoặc là những 
cuốn sách mỏng mà thành, đương nhiên không thể thống nhất với nhau về mọi mặt được. 
Vả lại, việc miêu tả những việc sau khi sự nghiệp đã thành công không dễ như khi các hảo 
hán còn làm cường đạo. Cuốn sách này có kết thúc không được hay lắm cũng là chuyện 
bình thường, cũng đừng vì thế mà đoán định rằng La Quán Trung sáng tác thêm”. Nói 
chung, nhận định “kết thúc không hay” là cách nhìn chung của các nhà phê bình lúc bấy 
giờ. 
 2. Phê bình quan điểm tiếp nhận Thủy Hử truyện của Đào Từ Huệ 
 Tháng 7 năm 1932, “Tạp chí Xã hội học” đã đăng bài “Phân tích "Thủy hử truyện" 
dưới góc nhìn xã hội học” của Đào Từ Huệ. Đây là một bài viết phân tích "Thủy hử 
truyện" dưới góc nhìn xã hội học và tư tưởng giai cấp kể từ sau vận động Ngũ Tứ. Nó 
không giống với bài “"Thủy hử truyện" và xã hội Trung Quốc” của Bồ Mạnh Vũ. Bài của 
họ Bồ đã xem "Thủy hử truyện" như là một tư liệu lịch sử để nghiên cứu xã hội Trung 
Quốc, chú trọng phân tích xã hội cổ đại mà không xuất phát từ góc nhìn phân tích tiểu 
thuyết. Ngược lại, bài viết của Đào Từ Huệ xuất phát từ phân tích xã hội Trung Quốc để lý 
giải cơ sở của tiểu thuyết, do vậy mà ông này có vị trí tương đối đặc thù trong lịch sử tiếp 
nhận "Thủy hử truyện". 
201 
 “Phân tích "Thủy hử truyện" dưới góc nhìn xã hội học” tuy là một bài nghiên cứu 
về tiểu thuyết nhưng lại có ý nghĩa phê phán xã hội hiện thực. Mở đầu bài viết có một đoạn 
“Lời Ban biên tập” như thế này: “Bài viết của này Đào tiên sinh có thể dùng để tham khảo 
những vấn đề về thời cuộc và xã hội hiện đại”. Trong “Lời kết”, Đào Từ Huệ cũng nói: 
“108 nhân vật cùng với tình hình xã hội của"Thủy hử truyện" có rất nhiều điểm tương 
đồng với xã hội hiện tại, do vậy đáng để cho chúng ta nghiên cứu. Nhà văn học thì cho 
rằng "Thủy hử truyện" là tiểu thuyết văn học; nhà xã hội học thì cho rằng nó là bộ tiểu 
thuyết có có giá trị tả chân xã hội”. Ông này phân tích xã hội Trung Quốc cũng như nội 
dung tư tưởng của "Thủy hử truyện" từ bốn phương diện. 
 Đầu tiên, Đào Từ Huệ phân các giai cấp của xã hội Trung Quốc thành 5 đẳng cấp: 1. 
Nguyên thủ độc tài, 2. Thượng tầng sĩ đại phu, bao gồm cả tầng lớp quan liêu, chính 
khách, học giả, “Kể từ khi gió tây thổi bạt gió đông, luồng gió duy tân thịnh hành thì thêm 
cả luật sư, chủ bút, kỹ sư”; 3. Trung tầng sĩ đại phu, bao gồm cả những người thuộc lớp 
thượng tầng nhưng đã cáo lão hoặc rời khỏi đội ngũ, bị loại khỏi đội ngũ; 4. Hạ tầng sĩ 
đại phu, đẳng cấp này có thể phân làm ba: Một là thổ hào lưu manh, trong thổ hào có bao 
hàm cả những phần tử tốt, thổ bá, bảo tiêu, người mở hí viện kỹ viện; lưu manh bao gồm 
thổ phỉ, đạo tặc, ăn xin Hai là đẳng cấp giang hồ, đẳng cấp này có thể phân làm hai: 
Giang hồ cấp thượng tầng gồm người bói toán chiêm tinh, tăng ni đạo sĩ, bán thuốc dạo; 
Giang hồ cấp hạ tầng gồm trộm đạo, thuyền phu, xa phu, mã phu, tiểu nhị Ba là tiểu địa 
chủ, tiểu sản và những người có ruộng đất; 5. Đẳng cấp tổng tập hợp, tức những công 
nông lao lực và những người vô sản. Chúng ta tạm thời không bình luận việc phân chia 
đẳng cấp này có tính khoa học hay không, chỉ vì thực chất của việc phân chia này của Đào 
Từ Huệ là nhằm định vị 108 hảo hán Lương sơn bạc. Chúng ta hãy xem ông ta định vị 108 
người theo bảng sau: 
202 
Chức nghiệp: Nô bộc Nông dân Trang chủ Con buôn Bán củi Xa phu Thợ bạc Pháo thủ 
Số lượng : 1 1 6 7 1 1 1 1 
Chức nghiệp: Đạo tặc Lái đò Phú hộ Thợ săn Lãng tử Lính tráng Thợ sắt Thổ phỉ 
Số lượng : 3 2 4 2 3 2 1 5 
Chức nghiệp: Chủ hiệu Thợ may Thầy lang Phu thuyền Quan lại Quý tộc Bán thuốc Thợ đá 
Số lượng : 6 1 2 1 34 1 2 1 
Chức nghiệp: Tú tài Thư sinh Ngư phủ Đạo sĩ Kẻ nhàn hạ Ngoại tộc 
Số lượng : 3 2 5 2 9 1 
 Từ bảng trên có thể thấy, chủ thể để cấu thành 108 người là thuộc “đẳng cấp hạn 
tầng sĩ đại phu” . Bảng này là chứng cứ cho những luận điểm sau đây của Đào Từ Huệ: 
 “Khi thiên hạ thái bình, lực lượng khống chế toàn quốc mạnh mẽ nhất là thượng tầng sĩ 
đại phu, nhưng nếu thiên hạ có phát sinh chuyện gì thì ắt là hạn tầng sĩ đại phu là thế lực 
mạnh nhất. Nhưng trong tầng lớp hạ tầng sĩ đại phu, loại người có sức mạnh nhất phải là 
tầng lớp giang hồ. Có thể xem họa là công cụ của thời loạn, họ có thể chi phối toàn bộ 
những người thuộc hạ tầng sĩ đại phu, tức là có thể chi phối tầng lớp thổ hào, có thể liên 
lạc với tiểu địa chủ và tầng lớp tiểu sản, đồng thời có thể bức bách sĩ đại phu, cũng có thể 
áp bức tầng lớp vô sản. Họ rất thiện nghệ trong việc liên kết các hảo hán giang hồ. Thiên 
hạ tao loạn, họ có thể thao túng những người thuộc tầng lớp dưới và lợi dụng họ để taọ thế 
đối kháng trong thiên hạ, có khả năng lật đổ độc tài và tạo nên một cục diện mới. 
 Xem lịch sử mới thấy, các triều đại Trung Quốc thay đổi phần nhiều đều do loại 
người này thừa lúc thiên hạ tao loạn nên ra tay can thiệp. Anh hùng hào kiệt các thời đại 
của Trung Quốc cũng đều do loại người này làm đại biểu. Cả xã hội Trung Quốc gần như 
do loại người này chi phối, ngay cả họ cũng là những người hưởng ứng nhiệt thành nhất 
của cách mạng Tân Hợi. Thông thường thì những người muốn ra tay thâu tóm thiên hạ mà 
không có sự giúp đỡ của loại người này thì rất khó có hy vọng thành công”. 
203 
 Những gì mà "Thủy hử truyện" đã miêu tả chính là phù hợp với cách nói của Đào 
Từ Huệ, đó là thời kỳ “loạn thế”. Đây phân tích của ông này: “Lúc ấy chính quyền quá hủ 
bại, do vậy mà trật tự xã hội đã bị đảo lộn. Giàu có ức hiệp bần hàn, kẻ mạnh ăn hiếp kẻ 
yếu, cậy thế làm càn chính là một hiện tượng rất tự nhiên”. Tống Giang và 108 người 
chính là “hạ tầng sĩ đại phu giai tầng” ứng với thời thế mà đứng dậy, trong đó có không ít 
những người giang hồ mà Đào Từ Huệ gọi là “loại người có sức mạnh nhất”. Họ tổ chức 
quân đội để đối kháng với quan phủ cũng chính là “thao túng tâm lý của giai cấp hạ tầng 
mà thống trị để nhằm đối kháng với thiên hạ”. 
 Thứ hai, Đào Từ Huệ cho rằng “công cụ làm loạn thiên hạ” do Tống Giang cầm 
đầu đã lợi dụng quan niệm trung nghĩa phổ biến để lung lạc nhân tâm, mục đích chính là ở 
chỗ “lật đổ nguyên thủ, làm cho thiên hạ đảo điên, đồng thời chính mình sẽ làm nguyên thủ 
quốc gia”. Ông này phân tích tư tưởng người đương thời thế này: “Trung Quốc là một 
nước chú trọng lễ giáo, mục đích làm người là để làm rạng danh tổ tông, báo hiếu cho cha 
mẹ, trung thành với vua. Trung hiếu đã trở thành đạo nghĩa bất di bất dịch của họ, đối với 
những tệ hại của quốc gai thì không dám phê bình hoặc cải tạo. Do vậy mà mỗi một người 
trong nước đều muốn mình trở thành một trung thần hiếu tử. Đây là tư tưởng phổ biến”. 
Tống Giang chính là người lợi dụng tâm lý này của nhân dân, Đào Từ Huệ nói: “Tống 
Giang chiêu tập được anh tài là vì dùng danh nghĩa là trung nghĩa. Anh ta có thể có được 
108 anh hùng hảo hán và mười vạn nhân mã lâu la cũng với danh nghĩa này. Lương sơn 
bạc dựng Trung nghĩa đường, dùng lễ để đãi hảo hán, mắng nhiếc bọn gian thần, đòi thay 
trời hành đạo đều lấy chữ trung chữ nghĩa và ý thức báo quốc để kích động mọi người”. Có 
điều, những cách làm thực tế của hảo hán Lương sơn lại hoàn toàn xa rời với trung hiếu 
đạo đức: “kỳ thực là phá nhà đốt xóm, bắt trói mệnh quan triều đình, có thể gọi là trung 
nghĩa được không? Có điều, vì đương thời người ta sùng bái trung nghĩa mà không biết 
204 
rằng Tống Giang là một hảo hán giả trung giả nghĩa, do vậy mà bị lừa”. Ở đây, Đào Từ 
Huệ đã tiếp thu một cách trọn vẹn quan niệm của Kim Thánh Thán, chỗ bất đồng chỉ là 
Đào Từ Huệ dùng phương pháp xã hội học mới để bàn luận mà thôi. 
 Thứ ba, Đào Từ Huệ cho rằng sự thất bại của Lương sơn - ý của ông ta là Lương 
sơn không thể đoạt lấy thiên hạ - là ở thời thế chứ không thuộc nguyên nhân con người, có 
điều, suy chó cũng thời thế như thế nào thì ông ta không làm rõ. Đào nói: “Phàm là những 
người thành đại sự, ngoài những sở trường của mình ra thì phải có cơ hội. Tống Giang có 
thể thống lĩnh 108 anh hùng hảo hán và mấy chục vạn quân nhưng vẫn không thỏa chí, 
nguyên nhân không phải vì chính Tống Giang mà là do thời thế. Thời thế không thuận thì 
cho dù Tống Giang có bản lĩnh lên trời cũng không làm được việc gì cả”. Thế thì, thời thế 
ở đây chính là những nguyên nhân ngẫu nhiên, “không có những trung thần lương tướng 
như Vân Thiên Bưu, Trương Thúc Dạ, Trần Hy Chân thì e rằng Tống Giang cũng trở nên 
uy phong chẳng khác nào Hán Cao Tổ, ai dám nói rằng anh ta là một đạo tặc ở Hoài 
Nam?”. Đào Từ Huệ đã đem “Đảng khấu chí” nối với bản 70 hồi của Kim Thánh Thán 
mới ngang nhiên đưa ra kết luận này. Nếu ông ta dùng bản 100 hồi hoặc 120 hồi, tức là 
thêm đoạn chiêu an và những gì diễn ra sau khi chiêu an thì những lời bình luận của ông ta 
là hoàn toàn không có cơ sở. Đương nhiên, Đào Từ Huệ vốn có tư tưởng như vậy và sau đó 
mới áp đặt cho "Thủy hử truyện", nếu dùng bản có đoạn chiêu an thì sẽ không hợp với tư 
tưởng của ông ta và vì vậy, ông ta không thể không dùng bản 70 hồi kết hợp với “Đảng 
khấu chí”. 
 Thứ tư, Đào Từ Huệ dùng tư tưởng “được làm vua thua làm giặc” để tổng kết đặc 
trưng lịch sử của Lương sơn bạc. Ông ta nói: “Bọn Tống Giang tuy chưa đạt được mục 
đích thành công nhưng họ đã có thể đại biểu cho hiện tượng thay triều đổi đại của lịch sử. 
205 
Giả sử như bọn Tống Giang thành công, đạt được cái chí lật đổ xã hội, ai dám bảo họ là 
những kẻ cường bạo, bất trung với triều đình? Để trở thành thiên tử thống trị thiên hạ, Hán 
Cao Tổ cũng bắt đầu như thế mà thôi”. Đào Từ Huệ không chính thống được như Kim 
Thánh Thán để xử lý anh em Lương sơn bạc với cái nhìn đối với một bọn cường đạo bởi 
dùng vũ lực để lật đổ chính quyền hiện thời để kiến lập một vương triều mới là con đường 
tất yếu của lịch sử phong kiến Trung Quốc. Nhưng lý tưởng của Tống Giang và Lưu Bang 
hoàn toàn không giống nhau, Đào Từ Huệ lại vì sự phù hợp giữa tiểu thuyết với quan niệm 
phát triển xã hội của mình nên đã cố ý tránh né điểm này. 
 Nói tóm lại, những ý kiến của Đào Từ Huệ có hai sai lầm lớn: Thứ nhất, thoạt 
nhìn thì sự phân định đẳng cấp của ông ta có vẻ tỉ mỉ nhưng thực tế thì rất lộn xộn. Ông ta 
không hề có một tiêu chuẩn thống nhất, vừa không dựa trên tiêu chuẩn, cũng không dựa 
trên tiêu chuẩn chính trị mà chỉ dựa hoàn toàn vào chức nghiệp. Như thế, ông ta dùng đặc 
điểm giai cấp để phân tích thành phần cấu thành của Lương sơn bạc là không có cơ sở 
khoa học. Ông ta đem lãng tử, thổ hào, bảo tiêu, cờ bạc, dạo tặc, thổ phỉ thậm chí là ăn 
mày gói lại trong thành phần hạ tầng sĩ đại phu khiến người ta không biết đâu mà phân 
định. Thứ hai, Đào Từ Huệ cho rằng quan niệm xã hội của mình là chân lý phổ biến rồi sau 
đó dùng quan nỉệm ấy để bình giá "Thủy hử truyện" mà không hề quan tâm đến nội dung 
của nó nên không thể phân tích được một cách cụ thể. Do vậy, ông ta không thể không 
tránh né được những tình tiết như chiêu an, bình Liêu mà đem “Đảng khấu chí” xem như là 
đoạn nối tiếp của "Thủy hử truyện". Xem ra thì Kim Thánh Thán còn sáng suốt hơn nhiều. 
Kim Thánh Thán vì lý tưởng bài trừ đạo tặc mà “nhất tề xử trảm” hảo hán Lương sơn bạc, 
không thừa nhận chiêu an, đây mới chính là cách phê bình "Thủy hử truyện" có chứng cớ 
nhất. 
206 
 Từ những phân tích trên, chúng ta có thể phát hiện, những độc giả đã đề cập ở trên 
đều có chung một điểm: Dùng “nhãn quan lịch sử” để phê bình "Thủy hử truyện" một cách 
xã hội học. Hồ Thích, Lỗ Tấn, Tạ Vô Lượng và Trịnh Chấn Phong đều cho rằng nội dung 
của tiểu thuyết là sự phản ánh xã hội đương thời, nhưng có điều khi phân tích một cách cụ 
thể "Thủy hử truyện" phản ánh lịch sử như thế nào thì mỗi người cũng có những kiến giải 
khác nhau, trong đó, luận điểm “sự áp bức của dị tộc” của Tạ Vô Lượng có vẻ hơi khiên 
cưỡng. Phương pháp phân tích theo quan điểm giai cấp của Phan Lực Sơn tuy không phù 
hợp với sự thật lịch sử nhưng bản thân ông này lại không cho là như vậy. Ông ta cho rằng 
nội dung mà "Thủy hử truyện" phản ánh “có thể đại biểu cho hiện tượng thay đổi triều đại 
trong lịch sử”, trên thực tế cũng là phản ánh luận. Từ những độc giả thời kỳ này, chúng ta 
có thể nhận ra, nền văn hóa mới đã đem lại nhiều tư tưởng mới và lý luận mới, trực tiếp 
đem đến tính “cách mạng” trong phê bình văn học để mọi người cũng nhau bàn luận "Thủy 
hử truyện" theo xu hướng mới. Mỗi thời đại đều có nền văn học riêng của mình và tất 
nhiên, mỗi thời đại đều có cách tiếp nhận văn học riêng của mình. 
207 
PHỤ LỤC 2 
Vụ án Phan Kim Liên và hướng tiếp nhận Thủy Hử qua vở kịch “Phan Kim Liên” 
của Âu Dương Dữ Sảnh 
(Trích dịch từ tác phẩm Thủy Hử truyện tiếp thụ sử 
của Cao Nhật Huy, tr.262- tr.267) 
Phản phong kiến là chủ đề quan trọng nhất của nền văn học mới sau Ngũ Tứ, vở kịch 
năm màn Phan Kim Liên của Âu Dương Dữ Sảnh được xem là viên đạn đại bác bắn thẳng 
vào tư tưởng và xã hội phong kiến. Vở kịch này được hoàn thành năm 1925 nhưng mãi đến 
năm 1927 mới được dàn dựng và công diễn và gây dư luận xôn xao trong xã hội. Có người 
coi Phan Kim Liên là “vở kịch cách mạng”, nhiều người xem nó là vở kịch ‘Lật lại bản án 
Phan Kim Liên”. Ảnh hưởng của vở kịch là rất lớn, không cần nói cũng biết. Vở kịch đã 
“cách mạng hóa” nhân vật Phan Kim Liên trong Thủy hử truyện, viết lại tiểu thuyết từ hồi 
22 đến hồi 26 (bản 70 hồi), không những trở thành tác phẩm có tính cách mạng mà còn là 
một trong những cột mốc quan trọng trong việc “cách mạng hóa” toàn bộ Thủy hử truyện. 
 Âu Dương Dữ Sảnh sáng tác Phan Kim Liên dưới sự chỉ đạo rất rõ ràng của tư 
tưởng, tuy ông ta tự thanh minh rằng “tôi viết vở kịch này một cách ngẫu nhiên, vừa không 
liên quan đến chủ nghĩa nào, vừa không tồn tại cái gọi là “lật ngược vụ án Phan Kim 
Liên”. Có điều, ông ta cũng nói: “Đàn ông từng bước đẩy người phụ nữ đến chỗ phạm tội, 
hoặc là bức bách phụ nữ phải đi vào con đường trụy lạc. Họ không chịu trách nhiệm về 
điều này mà còn cười cợt, chửi bới, chỉ e rằng nếu không có sự vô sỉ của người phụ nữ thì 
làm sao thấy được sự tôn nghiêm của đàn ông? Nếu như vậy thì họ lấy những vật tiêu 
khiển ấy từ đâu ra? Cái lễ của Chu Công chẳng qua là một trò kỹ xảo nhưng mấy ngàn 
năm nay người phụ nữ không thể vượt qua cái vòng kềm tỏa cùa nó”. Đương nhiên, Âu 
Dương Dữ Sảnh cho rằng Phan Kim Liên trở thành “dâm phụ” là do người đàn ông mang 
lại. Rõ ràng đến lúc này thì việc tiếp nhận hình tượng Phan Kim Liên đã thay đổi theo 
hướng “cách mạng”, kiểu “cách mạng” này có thể phân tích ở 4 phương diện: 
 Thứ nhất, Phan Kim Liên từ một kẻ hại người đã biến thành người bị hại. Âu 
Dương Dữ Sảnh không phải thay đổi hình tượng Phan Kim Liên từ việc thay đổi tình tiết 
mà giữ lại những tình tiết cơ bản trong tiểu thuyết: Cự tuyệt Trương Đại Hộ, bị ép phải lấy 
Võ Đại, yêu Võ Tòng nhưng lại bị từ chối, sau đó thì thông dâm với Tây Môn Khánh, đầu 
208 
độc Võ Đại và cuối cùng thì chết dưới ngọn đao của Võ Tòng. Âu Dương Dữ Sảnh dùng 
nhãn quan hiện đại, thông qua ngôn ngữ đối thoại trong kịch để thể hiện Phan Kim Liên 
không cam tâm chịu khinh rẻ và làm nhục, đấu tranh với lễ giáo của người đàn ông. Cuối 
cùng, cô ta bị Trương Đại Hộ, Võ Đại, Tây Môn Khánh và Võ Tòng sát hại “tập thể”. Vở 
kịch cũng đặc biệt miêu tả những người đàn ông như một tập thể áp bức. Trước Trương 
Đại Hộ, Phan Kim Liên là nô lệ nhưng không chiều theo ý ông chủ nên lão này đã đem cô 
ta đặt vào tay người đàn ông xấu như ma quỷ. Trước Võ Đại, Phan Kim Liên là vợ, cô ta 
trung thành với một người mà mình vốn không yêu, thậm chí là còn ghét và hận người 
chồng của mình. Trước mặt Võ Tòng, Phan Kim Liên là chị dâu, luân lý giữa chị dâu và 
em chồng không thể vượt qua, do vậy mà tình yêu của cô ta giành cho Võ Tòng cho dù sâu 
đến mức nào cũng chỉ là ảo vọng. TRước Tây Môn Khánh, Phan Kim Liên là một món đồ 
chơi, căn bản là cô ta không yêu hắn, nhưng sự ân cần của hắn đã khiến “người sống trong 
địa ngục” như cô ta cảm thấy được ấm áp. Trương Đại Hộ dùng chế độ đẳng cấp, Võ Đại 
dùng chế độ phụ quyền, Võ Tòng dùng lễ pháp, Tây Môn Khánh dùng thể xác đàn ông bức 
hại Phan Kim Liên cho đến chết. Đây chính là tư tưởng cơ bản của vở kịch này. 
 Thứ hai, vở kịch đã đặc biệt khai thác những nỗi đau nội tâm của Phan Kim Liên, 
miêu tả quá trình dẫn đến bị sát hại của cô ta như một kết thúc tất yếu của người không có 
chút sức mạnh trong tay. Thử đọc đoạn đối thoại giữa Phan Kim Liên với Vương bà trong 
màn hai: 
 Phan Kim Liên: Tôi buồn đến chết mất thôi! 
 Vương bà: (Vừa ngáp vừa nói) Thời tiết không tốt lắm khiến tinh thần người ta 
thấy bức bối vô cùng. 
 Phan Kim Liên: Người sắp chết rồi, còn trách móc thời tiết làm gì. 
 Vương bà: Cô nói gì thế? 
 Phan Kim Liên: Đúng là tôi đang muốn chết. 
 Vương bà: Tôi đã nói rồi, cái nhà họ Trương ấy có gì mà cô phải cứ nhắc đi nhắc 
lại mãi thế, đã có Tây Môn đại quan, cô còn sợ gì lão chứ? 
 Phan Kim Liên: Ai thèm quan tâm đến lão chó ấy. Tôi chỉ muốn chết thôi. 
209 
 Vương bà: Tây Môn đại quan thích cô, nào chuyện ăn chuyện mặc, cô còn thiếu 
chỗ nào. Nó vẫn chưa xứng với mơ ước của cô hay sao? 
 Phan Kim Liên: Ôi dào, làm sao có thể sống chung với ông ta được, gặp nhau rồi e 
rằng chỉ là oan gia. Ông ta có tiền có thế lực, đến đây chỉ mua tiếng cười làm vui, ông ta 
nào có chân tình thực nghĩa gì nào? Tôi cũng chỉ là dùng ông ta để tiêu khiển giải buồn, 
khi nào chán thì chia tay. Đàn ông có ai tốt nào? Chỉ toàn là một bọn khinh khi đàn bà! 
Nếu đàn bà chúng ta nếu có bản lĩnh lên trời thì bọn đàn ông cũng chẳng cho chúng ta cơ 
hội, đành lòng phải làm một món đồ chơi trong tay họ mà thôi! 
Phan Kim Liên: Sống thế này không bằng chết! Tốt nhất là tất cả đàn bà trên thế gian này 
phải chết! 
 Phan Kim Liên theo đuổi tình yêu nhưng không được, lại không tìm thấy ý nghĩa 
của cuộc sống đành lòng phải dùng thái độ cười cợt thế gian để đến với Tây Môn Khánh. 
Từ Trương Đại Hộ đến Võ Đại, từ Võ Tòng đến Tây Môn Khánh, tất cả những người đàn 
ông này đều đem lại sự đau khổ cho cô ta, do vậy mà cô ta nói rất rõ ràng: “Đàn ông có ai 
tốt nào?”. Với Phan Kim Liên mà nói, hình như cô ta không có chút một động lực phản 
kháng nào: “Tốt nhất là tất cả đàn bà trên thế gian này phải chết!”. Nếu như vậy thì đàn 
ông không còn đối tượng để áp bức nữa. Rõ ràng, đây là thái độ chán ghét sâu sắc đối với 
xã hội nam quyền. Hiện thực thì vô tình, Phan Kim Liên muốn thoát khỏi những đau khổ 
về nội tâm, cô ta chỉ có một con đường là chết. 
 Trong tiểu thuyết, việc Phan Kim Liên yêu Võ Tòng là “dâm”, thông gian với Tây 
Môn Khánh cũng là “dâm” nhưng trong kịch nói, ngoài chính Phan Kim Liên ra, tất cả 
những người còn lại cũng đều cho là như vậy. Tuy nhiên, thông qua việc hiểu hiện thế giới 
nội tâm của Phan Kim Liên, chúng ta có thể nhận ra bản chất cái “dâm” của cô ta chính là 
vì tình yêu. TRước con dao phục thù của Võ Tòng, cô ta đã tự bạch: 
 “Từ khi chàng (tức Võ Tòng) rời khỏi nhà, tôi như một kẻ không hồn, cho dù có 
sống cũng không còn ý nghĩa gì nữa! Anh trai của chàng lại rất lạm dụng chức danh làm 
chồng của mình càng đem lại cho tôi nhiều điều phiền não! Trong lúc tôi đang có ý định tự 
vẫn thì đột nhiên gặp phải Tây Môn Khánh. Ông ta đã đem lại cho tôi sự ấm áp và như 
vậy, tôi đã thông dâm với ông ta. Đúng thế, là thông dâm, nhưng chẳng qua đó cũng chỉ là 
thông dâm, giữa tôi và ông ta không có một chút tình yêu. Ôi chao, tôi điên mất rồi! Tôi đã 
210 
không còn một chút hy vọng nào, vậy thì còn tự yêu mình làm gì nữa? Huống hồ, ông ta 
cũng có phần giống với chàng, điều đó khiến tôi tự nguyện trở thành một món đồ chơi 
trong tay ông ta. Cả cuộc đời này ngoài viẹc đột nhiên gặp Tây Môn Khánh ra, tôi chưa hề 
có phúc phận để làm một món đồ chơi trong tay một kẻ thứ hai! Nhị Lang, chàng đừng hỏi 
nữa, tôi đã phạm tội đối với chồng, tôi không muốn chết trong tay một kẻ như đại ca 
chàng, tôi bèn dùng thuộc độc giết chết anh ta mà thôi!”. 
 Sau khi hy vọng tình yêu biến thành mây khói, Phan Kim Liên đã muốn dùng cái 
chết để trốn tránh hiện thực đau khổ, nhưng “một chút ấm áp của Tây Môn Khánh” lại làm 
cho cô ta trở nên điên cuồng trước khi chết. Cô ta thà biến thành một kẻ trụy lạc, thà phải 
giết người, “nếu cứ thủ tiết và để người khác giày vò cho đến chết, e rằng không bằng 
phạm tội. Cho dù có chết thì cũng chết một cách sung sướng” chính là con đường để dẫn 
Phan Kim Liên đên chỗ trụy lạc và giết người. 
 Thứ ba, Phan Kim Liên là người đàn bà tỉnh ngộ. Trong quá trình theo đuổi hạnh 
phúc, cô ta đã ngã dần theo hướng trụy lạc và tự hủy diệt. Cô ta rất tỉnh táo để nhận ra 
rằng, giữa đàn ông và đàn bà không cùng địa vị và mệnh vận, ý thức được nam quyền và lễ 
giáo chính là hai con dao để giết chết người phụ nữ. Cô ta nói: “Từ trước đến nay, một 
người đàn ông muốn giày vò một người đàn bà thì có rất nhiều người giúp đỡ. Để cho đàn 
ông giày vò cho đến chết, đó mới là liệt nữ tiết trinh. Chấp nhận giày vò mà không chết thì 
biến thành dâm phụ, không chấp nhận sự giày vò của đàn ông thì biến thành tội nhân”. 
Đáng buồn là không ai hiểu được Phan Kim Liên, đừng nói là Trương Đại Hộ và Võ Đại, 
ngay cả người mà cô ta yêu chân thành là Võ Tòng và người đã chiếm dụng được thân xác 
cô ta là Tây Môn Khánh không không hiểu được cô ta. Võ Tòng tự nhận mình là anh hùng, 
dùng lời của chính anh ta “lẽ nào những người yếu đuối thì phải bị người khác khinh 
thường, những người có thế lực thì có quyền khinh thường người khác sao? Cả đời này, tôi 
thích dẹp tan những sự bất bình, nhất tâm bảo vệ những người yếu đuối để chống lại kẻ 
bạo tàn, ghét nhất là những kẻ theo chân kẻ mạnh để đàn áp kẻ yếu”. Có điều, anh ta 
không biết rằng trước mặt Võ Đại anh mình, Phan Kim Liên lại là một kẻ yếu. “Này, đại 
ca của chàng đã giày vò tôi đủ rồi! Chàng nói là tôi thông minh, tôi không dám nhận vinh 
dự ấy, nhưng tôi cũng không phải là một con ngốc. Chàng nói tôi giỏi giang, tôi không 
dám nhận là mình giỏi giang, nhưng tôi không phải là một kẻ không biết gì. Nhưng, cá 
trong ao không bơi được xa, chim trong lồng không thể sải cánh, thế thì tôi phải làm gì? 
211 
Này, chú Nhị, Chú vẫn chưa nhận ra trái tim xủa ôi hay sao!”. Âu Dương Dữ Sảnh đã xây 
dựng một Phan Kim Liên tỉnh ngộ trong một xã hội chưa được tỉnh ngộ, nhưng một khi đã 
tỉnh ngộ thì không khuất phục vận mệnh, dám đấu tranh và phản kháng, có điều đáng tiếc 
là, kẻ đối địch vứoi cô ta lại là cả một xã hội, do vậy mệnh vận của cô ta cuối cùng cũng 
chỉ là một con cá đã nằm trong lưới mà thôi. 
 Thứ tư, vở kịch đã đem nhân vật Trương Đại Hộ, vốn chỉ là một cái bóng trong 
tiểu thuyết xây dựng thành một nhân vật chính. Mục đích của việc này có hai: Một là tìm 
về cội nguồn mệnh vận của Phan Kim Liên, biểu hiện tính cách quật cường bất khuất của 
Phan Kim Liên; thứ hai là mượn danh nghĩa ngụy tạo “thân sĩ địa phương duy trì phong 
hóa” của Trương Đại Hộ để phê phán thế lực phong kiến vẫn còn đang ảnh hưởng rất sâu 
đậm trong cuộc sống hiện thực. 
 Bi kịch về mệnh vận của Phan Kim Liên bắt đầu từ Trương Đại Hộ. Trong tiểu 
thuyết, tình tiết này được miêu tả rất đơn giản nhằm giới thiệu hoàn cảnh xuất thân của 
nhân vật: “Ở huyện Thanh Hà, trong gia đình một phú ông có một người hầu gái họ Phan, 
tiểu danh là Kim Liên. Khi tròn hai mươi, có chút ít nhan sắc nên lão phú ông nọ đã có ý 
mon men. Cô hầu gái lại đem chuyện này nói với bà chủ, ý là không phục tùng. Lão phú 
ông nọ nhân vì chuyện ấy mà căm tức nên tìm cách đuổi ra khỏi nhà, không lấy của Võ 
Đại một xu nào mà gả cho hắn ta”. Trong kịch, vì không chiếm đoạt được Phan Kim Liên, 
Trương Đại Hộ đem cô ta gán cho Võ Đại, dụng ý là nhằm “giảm bớt tính khí ngang ngạnh 
của cô ta”, trong lòng lão vẫn nghĩ “với loại người như Phan Kim Liên, rồi sẽ có một ngày 
khiến cho cô ta tâm phục khẩu phục, nếu không, đàn bà mà ngang ngạnh như thế thì không 
thể chấp nhận được”. Do vậy, sau khi nghe tin Võ Đại chết, Trương Đại Hộ cho rằng tính 
cách của Phan Kim Liên đã nhũn, bèn có ý định đưa cô ta quay về nhà mình. Trong kịch, 
nhân vật Trương Đại Hộ có nét giống với Phàng Nhạc Sơn trong tiểu thuyết “Gia đình” 
của Ba Kim, ngoài mặt thì đường đường bệ bệ: “Ta là thân sĩ địa phương, đương nhiên là 
phải duy trì phong hóa”. “Ta nghĩ Phan Kim Liên vốn là nha đầu trong nhà ta, ả không 
biết làm tròn bổn phận, không biết nhận ân sủng, phải gả ả đi, ả lại không biết phận làm 
vợ, làm náo loạn đủ mọi chuyện, ta có ý định đưa ả về để dạy dỗ thêm” . Lão nói với 
Vương bà: “Làm loạn như ả, người ta sẽ nói rằng a đầu nhà ta phẩm hạnh không ra gì. Ta 
gọi ả về, ả phải về. Ta không dạy được ả thì còn có ai? Luân thường đạo lý là phải duy trì, 
chỉ cần ả nghe lời, không chừng là ta còn để ý để cất nhắc ả, nếu ả không nghe lời, e rằng 
212 
ngay cả bà cũng khó sống”. “Duy trì phong hóa” chẳng qua là một kiểu mượn miệng, còn 
đề bạt Phan Kim Liên thành “tiểu lão bà” e rằng mới là mục đích chân chính. 
 Mở rộng các tình tiết về Trương Đại Hộ, mục đích phê phán hiện thực của Âu 
Dương Dữ Sảnh là rất rõ ràng. Ông ta nói: “Trước mắt cứ coi như cách mạng thành công 
nhưng nhìn đi nhìn lại, không biết từ đâu mà bọn Trương Đại Hộ xuất hiện khá nhiều. Rất 
nhiều vĩ nhân vẫn từng súng bái “chủ nghĩa Trương Đại Hộ”! Những vị tiên sinh duy trì 
phong hóa, quan tâm thế đạo nhân tâm chắc rất đồng tình với Trương Đại Hộ!”. Cách 
mạng Tân Hợi về căn bản vẫn không bài trừ tư tưởng và thế lực phong kiến, giải phóng 
phụ nữ chẳng qua cũng chỉ là một khẩu hiệu, “chủ nghĩa Trương Đại Hộ” tràn lan khắp 
chốn, do vậy chúng ta có thể thấy, Âu Dương Dữ Sảnh “lật lại vụ án Phan Kim Liên” là 
nhằm phê phán hiện thực. 
 Âu Dương Dữ Sảnh nói: “Có người cho rằng đây là một tác phẩm hoàn toàn xuất 
phát từ thời đại, không phải là như vậy”. Nhưng có điều, nếu ông ta không thuộc vào thời 
đại ấy thì không thể cải biên câu chuyện của Phan Kim Liên. Tùy theo sự thay đổi của thới 
đại, cái nhìn của độc giả cũng không ngừng thay đổi, do vậy mà cách hiểu "Thủy hử 
truyện" là của cá nhan nhưng cũng là của thời đại. Những gì Âu Dương Dữ Sảnh biểu hiện 
về Phan Kim Liên trong vở kịch hình như vẫn chưa làm ông ta thỏa mãn nên ông ta còn 
nói thêm: 
 “Phan Kim Liên chẳng qua cũng chỉ là một người đàn bà, là nô tỳ, vừa không thể 
sự tuyệt chủ nhân cưỡng gian, vừa không phản kháng lại sự ép gả của chủ, cho dù có nhan 
sắc, có thông minh, có chí khí và có lý tính nhưng cũng đánh phải giấu nhẹm chúng đi, để 
mặc cho người ta đè nén. Cố gắng nuốt hận để cho tuổi thanh xuân trôi qua mà không có 
cáhc gì khác. Cảnh ngộ này có khác nào sống cũng không bằng chết? Với những người 
phụ nữ yếu đuối, họ chỉ biết tin vào số mệnh, ngẫu nhiên có được một người có cá tính 
mạnh mẽ như Phan Kim Liên, họ sẽ nghĩ đến con đường sống của mình. Phan Kim Liên bị 
Trương Đại Hộ cưỡng bức, cô ta đã không phục tùng; Trương Đại Hộ xấu hổ quá hóa thịnh 
nộ, bèn đem gả cho một thằng đàn ông chẳng ra đàn ông là Võ Đại. Ban đầu, cô ta vẫn tỏ 
ra nhẫn nại, sau đó thì gặp một nhân tài như Võ Tòng, cá tính mạnh mẽ của cô ta như được 
hâm nóng lại, không làm sao dập tắt được. Nếu cô ta có thể cải giá với Võ Tòng, hoặc như 
có thể được tự do ky hôn như hiện tại, cô ta nhất định sẽ không trở thành tội phạm sau đó. 
Không may, Võ Tòng lại là một kẻ tiếp thu nền luân lý cũ cực kỳ thâm sâu nên yêu cầu Võ 
213 
Đại lấy quyền làm chồng để quản thúc thêm cô ta, thử hỏi làm sao cô ta có thể cam tâm? 
Do vậy, việc cô ta tư thông với Tây Môn Khánh cũng chỉ là một hành vi biến thái, huống 
hồ tập quán của thời cũ, đàn ông có thể cưỡng gian đàn bà, có vợ này vợ nọ, còn người vợ 
thì không được bước qua khỏi cửa. Đàn bà ngoại tình, đàn ông có quyền giết chết tùy 
thích, không mang danh tội phạm, do vậy Phan Kim Liên có thể bị giết chết bất kỳ lúc nào, 
kết quả của nỗi sợ hãi ấy là cô ta phải giết người. Bình tâm mà xét, chúng ta nên thông cảm 
cho tội lỗi của cô ta, còn việc cô ta cuối cùng bị giết cũng là một kết cục đương nhiên vậy”. 
 Kịch "Phan Kim Liên" chủ yếu tiếp nhận "Thủy hử truyện" trên bình diện cái biên 
về Phan Kim Liên, dưới cái nhìn thời đại có thể nói, đó là cách thức để ông ta phản đối lễ 
giáo phong kiến, theo đuổi nam nữ bình đẳng. Đó chính là tinh thần thời đại. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 phuong_thuc_bieu_hien_nhan_vat_anh_hung_trong_thuy_hu_cua_thi_nai_am_7477.pdf phuong_thuc_bieu_hien_nhan_vat_anh_hung_trong_thuy_hu_cua_thi_nai_am_7477.pdf