1. Quan hệ dòng họ là đối tượng được nhiều lĩnh vực khoa học quan tâm nghiên cứu như sử học, dân tộc học/nhân học, xã hội học, văn hóa học Có thể giữa các tộc người có sự khác biệt nhất định về tổ chức dòng họ, nhưng không thể phủ nhận vai trò quan trọng của quan hệ dòng họ trong xã hội truyền thống cũng như hiện nay, đặc biệt là trong cộng đồng các dân tộc thiểu số. Quan hệ dòng họ, dầu là của dân tộc nào cũng đều tác động đến nhiều mặt đời sống của cá nhân, gia đình và xã hội.
2. Trong các nghiên cứu về quan hệ dòng họ trước đây, hầu như các tác giả chỉ quan tâm xem xét quan hệ của họ nội, tức họ bên bố (các dân tộc theo chế độ phụ hệ), hoặc bên mẹ (các dân tộc theo chế độ mẫu hệ). Thực ra, quan hệ dòng họ không chỉ có một bên, và nghiên cứu này đã cố gắng khắc phục hạn chế đó. Mỗi người Nùng Phàn Slình đều có ba mối quan hệ họ hàng là họ bố, họ mẹ và họ vợ; trong đó họ nội - họ bố có vai trò và nghĩa vụ chủ yếu. Tuy họ ngoại không có nhiều trách nhiệm như họ nội, nhưng vẫn có vai trò và chức năng nhất định. Bởi thế, mối quan hệ họ hàng với cả ba bên của người Nùng Phàn Slình đều được coi trọng và được củng cố vững chắc.
3. Dòng họ người Nùng Phàn Slình đều có những đặc điểm khá giống nhau về cư trú, quan hệ giữa các hộ gia đình trong cùng dòng họ, hệ thống lễ nghi thờ cúng, quan hệ hôn nhân, tập quán đặt tên đệm theo thứ bậc thế hệ trong mỗi dòng họ, và vai trò cá nhân trong đời sống dòng họ. Sự phân biệt dòng họ và chi họ của người Nùng Phàn Slình chủ yếu thông qua số lượng chén thờ, cách thức cúng, hệ thống tên đệm Những đặc thù này vừa cụ thể lại vừa phức tạp, đòi hỏi các thành viên dòng họ phải ghi nhớ để phân biệt các dòng họ và chi họ. Những yếu tố đó đã tạo nên những nét đặc trưng của dòng họ người Nùng Phàn Slình.
195 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 1189 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình (Nghiên cứu ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
những khách mời là họ hàng thân thích nội ngoại hai bên, hàng xóm láng giềng, bạn bè thì còn vô số những mối quan hệ khác như đồng nghiệp cấp trên (huyện, tỉnh), cấp dưới (thôn, bản) Và trong điều kiện hiện nay, chính cán bộ là người có thể vượt lên nhanh chóng, giống như họ đã vượt lên ở các khía cạnh khác của đời sống xã hội để tạo thành những mạng lưới quan hệ dòng họ, quan hệ xã hội vượt ra ngoài ranh giới thôn bản, và những mối quan hệ với cấp trên, cấp dưới đã khiến họ khác hẳn với những người dân bình thường. Họ làm như vậy để giúp họ duy trì vị trí có uy thế trong đời sống xã hội hiện nay.
6.4. Nhìn lại việc áp dụng thuyết Chức năng và thuyết Vốn xã hội trong nghiên cứu
Với việc áp dụng thuyết chức năng, luận án đã làm rõ một số chức năng của dòng họ và quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở Cao Lộc, Lạng Sơn.
Trước hết, cần khẳng định nghiên cứu dòng họ của người Nùng Phàn Slình trên đây cho thấy dòng họ thực sự là một thiết chế quan trọng trong đời sống tộc người. Về cấu trúc, quan hệ dòng họ của một cá nhân đã có vợ/chồng bao gồm 3 họ (họ nội, họ ngoại, họ vợ/chồng). Trong tổ chức dòng họ của người Nùng Phàn Slình, người trưởng họ vẫn giữ vai trò quan trọng, là người có uy tín, am hiểu phong tục tập quán và có vai trò trong việc giáo dục các thế hệ sau về nguồn gốc và trao truyền các giá trị văn hóa tộc người. Đúng như thuyết chức năng nêu ra, dòng họ của người Nùng Phàn Slình cũng có các quy định chung (nguyên tắc hôn nhân, quy định trong việc thờ cúng của từng dòng họ), các chuẩn mực, các hoạt động chung với sự tham gia của con người.
Dựa trên cơ sở của thuyết Chức năng, luận án đã phân tích chức năng dòng họ của người Nùng Phàn Slình như sau:
Thứ nhất, chức năng sinh học: Cùng với gia đình, dòng họ của người Nùng Phàn Slình đã thực hiện chức năng duy trì nòi giống. Trong quan hệ của mỗi dòng họ, một nguyên tắc được tuân thủ là ngoại hôn, tức là không kết hôn với người cùng họ gần. Mặc dù ở người Nùng Phàn Slình, những người cùng họ cách ông tổ 4 đến 5 đời là có thể kết hôn với nhau, nhưng trên thực tế, điều này ít khi xảy ra. Đây cũng là một trong những lý do mà trai gái người Nùng Phàn Slình luôn phải tiến hành bước so tuổi. So tuổi nghĩa là ghi rõ họ tên, tuổi và ngày tháng năm sinh của đôi trai gái đó để xác định quan hệ huyết thống hai bên nam nữ có gì sai phạm không, nếu không mới được lấy nhau.
Thứ hai, chức năng cố kết tộc người: Mỗi dòng họ của người Nùng Phàn Slình không chỉ là một cộng đồng những người có quan hệ huyết thống tính theo hệ cha mà còn là đơn vị cố kết về mặt tinh thần. Tính cố kết dòng họ của người Nùng Phàn Slình được phản ảnh rõ nét qua việc thực hành các nghi lễ chung của dòng họ, gia đình và cộng đồng. Có thể trong cùng một nghi lễ nhưng mỗi dòng họ lại có những cách tổ chức riêng, được phản ánh qua số lượng chén thờ, thời gian, địa điểm cúng và nghi thức hành lễ. Ở những trường hợp không có quan hệ huyết thống, các thành viên của dòng họ có thể nhận biết nhau qua hệ thống tên đệm, các kiêng kỵ của dòng họ Và khi nhận ra nhau, những người cùng dòng họ kết tình quan hệ thân thiết, không kể người ở địa phương khác hay xa lạ mới chỉ gặp nhau lần đầu.
Thứ ba, chức năng giáo dục: Giáo dục không chỉ giản đơn là giáo dục đạo đức xã hội, mà còn có chức năng quan trọng là truyền thụ văn hóa tộc người cho các thế hệ sau thông qua sự dạy dỗ và trao truyền ngôn ngữ dân tộc (tiếng Nùng), về những phong tục tập quán dân tộc, tâm lý và ý thức tự giác dân tộc, thực hành lễ nghi... Đó là một quá trình giáo dục lâu dài, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ qua đời sống sinh hoạt hàng ngày. Việc giáo dục chủ yếu hướng vào những điều hay lẽ phải, tinh thần cần cù, đức kính già yêu trẻ, kính trên nhường dưới, lòng nhân ái, truyền thống giữ gìn chặt chẽ mối quan hệ huyết thống...
Thứ tư, bảo tồn văn hóa tộc người: Dòng họ có vai trò nhất định trong việc bảo tồn bản sắc văn hoá tộc người và tiếp thu các yếu tố văn hóa mới. Thông qua các sinh hoạt văn hoá của dòng họ, văn hóa tộc người được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và được thấm sâu vào mỗi thành viên.
Thứ năm, chức năng tương trợ: Chức năng này được biểu hiện rõ nét thông qua các nghi lễ trong chu kỳ đời người như tang ma, cưới xin, sinh đẻ, làm nhà...
Thứ sáu, chức năng quản lý cộng đồng và ổn định chính trị, xã hội: Sự đoàn kết, gắn bó của mỗi dòng họ tạo nên đoàn kết, gắn bó của cộng đồng. Người Nùng Phàn Slình quan niệm rằng, dòng họ càng đông càng có sức mạnh. Ở những thôn có dòng họ lớn, có thế lực thường là những dòng họ có những người được cử làm trưởng thôn, bí thư, tham gia vào các hoạt động của chính quyền cơ sở. Tiếng nói của họ thường có uy tín trong các cuộc vận động xây dựng nếp sống mới ở thôn.
Trong đời sống sinh hoạt của đồng bào Nùng Phàn Slình, vai trò của trưởng họ vẫn được duy trì. Thông qua vai trò của trưởng họ, các vấn đề được giải quyết một cách thông suốt và có hiệu quả. Bên cạnh đó, sự vận hành trong thôn của người Nùng Phàn Slình còn được thực hiện trên một hệ thống luật tục, quy ước của thôn và của dòng họ. Các tập quán này là những quy định bất thành văn, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và được duy trì trong đời sống hàng ngày.
Với cấu trúc, vai trò, chức năng quan trọng như vậy, rõ ràng dòng họ của người Nùng Phàn Slình là một bộ phận quan trọng vận hành, đóng góp vào sự vận hành ổn định chung của cả hệ thống xã hội tộc người từ trước đến nay. Nó cũng có mối liên hệ mật thiết với các thiết chế xã hội khác như gia đình, làng bản, tôn giáo tín ngưỡng và hệ thống chính trị
Có thể nói rằng, việc áp dụng thuyết chức năng vào phân tích cấu trúc, thể chế, chức năng của quan hệ dòng họ người Nùng Phàn Slình như trên rất có ích cho việc giải thích, xác định vai trò của dòng họ trong đời sống văn hóa - xã hội của tộc người, cũng như đóng góp của nó vào sự vận hành, phát triển ổn định hiện nay của cộng đồng tộc người này. Tuy nhiên, một trong những bất cập khi áp dụng thuyết chức năng trong nghiên cứu này là nó không giúp ích trong việc giải thích những biến đổi trong quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình đang chịu tác động mạnh mẽ của bối cảnh hội nhập hiện nay. Rõ ràng, dòng họ là một thiết chế luôn tồn tại trong xã hội tộc người nhưng trải qua các giai đoạn lịch sử, chẳng hạn như thời kỳ hợp tác xã những năm 1960-1990, thể chế đó cũng bị tác động bởi chính sách của nhà nước và các điều kiện kinh tế xã hội lúc đó. Gần đây, trong cơ chế kinh tế thị trường, xu hướng biến đổi về kinh tế - xã hội và các giá trị văn hóa truyền thống đang đứng trước nguy cơ bị mai một. Phải chăng trong một xã hội chuyển đổi, khi các thiết chế xã hội mới chưa ổn định, chưa đủ mạnh để đảm bảo xã hội vận hành ổn định và phát triển, những thiết chế xã hội truyền thống như dòng họ trở thành những chỗ dựa vững chắc của các cá nhân và cộng đồng.
Mục đích của việc vận dụng lý thuyết vốn xã hội đối với đề tài luận án là dựa trên nguồn lực về niềm tin thực thi và trao đổi có đi có lại được gắn vào trong các mạng xã hội của cá nhân. Cá nhân có thể sản xuất, duy trì và sử dụng vốn xã hội thông qua các mối quan hệ trong mạng lưới họ hàng để bảo đảm lợi ích cho bản thân.
Có thể nói rằng, vốn xã hội của người Nùng Phàn Slình có vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết nhiều vấn đề của cuộc sống hàng ngày, kể cả hoạt động kinh tế và tương trợ.
Trong lĩnh vực kinh tế, chúng tôi thấy được những cách thức mà người dân ở đây sử dụng vốn xã hội để đảm bảo lợi ích kinh tế như trong sản xuất nông nghiệp, làm thủy lợi, buôn bán giáp biên... Ở đây, người Nùng Phàn Slình thường dựa vào các mối quan hệ họ hàng bên cha, họ hàng bên mẹ, họ hàng bên vợ, họ hàng bên thông gia để giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất. Hầu hết các hoạt động này chủ yếu được thực hiện dựa trên sự tin tưởng, kể từ quá trình trao đổi công giữa các hộ gia đình trong dòng họ đến vay tiền để đầu tư sản xuất, kinh doanh như mua thóc giống, phân bón, con giống. Do có niềm tin, mọi người trong dòng họ đều sẵn sàng giúp đỡ nhau, phổ biến cho nhau làm kinh tế.
Trong tương trợ, nhất là khi thực hiện những lễ nghi hay công việc quan trọng liên quan đến chu kỳ đời người (cưới xin, tang ma, làm nhà), vốn xã hội của quan hệ dòng họ được huy động triệt để. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay, cùng với việc mức sống được cải thiện, mức độ nhận được khi tương trợ càng lớn hơn so với trước đây.
Qua những trình bày nêu trên cho thấy, thuyết Chức năng và Vốn xã hội đã có vai trò quan trọng trong việc định hướng nghiên cứu của luận án. Quan hệ dòng họ là vấn đề phức tạp, nhưng bằng việc áp dụng các lý thuyết nêu trên, tác giả luận án đã xây dựng được cách hệ thống và phân tích mối quan hệ này trong đời sống của người Nùng Phàn Slình.
Tiểu kết Chương 6
Quan hệ dòng họ là vấn đề không mới trong nghiên cứu dân tộc học/nhân học, kể cả ở trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, tại Việt Nam, các nghiên cứu thường tập trung ở người Kinh (Việt) mà còn ít được triển khai ở các dân tộc thiểu số. Hơn nữa, nghiên cứu quan hệ dòng họ thường chỉ xem xét quan hệ một bên, tức quan hệ của họ bố (theo phụ hệ) hay họ mẹ (theo mẫu hệ). Cách thức ấy vô hình trung đã giản lược mối quan hệ dòng họ.
Nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên, luận án này tập trung nghiên cứu quan hệ dòng họ ở một nhóm địa phương của tộc người thiểu số: người Nùng Phàn Slình, tại huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, với ba bên họ (của một cá nhân đã có vợ hoặc chồng), đó là họ bố, họ mẹ và họ vợ/chồng. Trên cơ sở áp dụng các lý thuyết Chức năng và Vốn xã hội, luận án đã tìm hiểu cấu trúc dòng họ và vai trò của quan hệ dòng họ trong đời sống tín ngưỡng, hoạt động kinh tế và hệ thống chính trị cơ sở. Nghiên cứu đã chỉ ra tính đa tầng và phức hợp trong quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình. Qua đó, nghiên cứu cũng nêu lên vai trò quan trọng của dòng họ trong bối cảnh chuyển sang nền kinh tế thị trường tại vùng biên và nơi có mối quan hệ dòng họ xuyên biên giới.
Nhìn lại việc áp dụng các lý thuyết Chức năng và Vốn xã hội, cho thấy tính khả dụng của các lý thuyết đó trong triển khai luận án này. Tuy nhiên, vẫn có bất cập khi áp dụng lý thuyết chức năng, đó là việc khó khăn khi xem xét cấu trúc dòng họ và quan hệ dòng họ trong quá trình biến đổi, hoặc trong nhiều cảnh huống khác nhau. Điều đó khiến tác giả luận án phải linh hoạt hơn trong quá trình áp dụng lý thuyết.
KẾT LUẬN
1. Quan hệ dòng họ là đối tượng được nhiều lĩnh vực khoa học quan tâm nghiên cứu như sử học, dân tộc học/nhân học, xã hội học, văn hóa học Có thể giữa các tộc người có sự khác biệt nhất định về tổ chức dòng họ, nhưng không thể phủ nhận vai trò quan trọng của quan hệ dòng họ trong xã hội truyền thống cũng như hiện nay, đặc biệt là trong cộng đồng các dân tộc thiểu số. Quan hệ dòng họ, dầu là của dân tộc nào cũng đều tác động đến nhiều mặt đời sống của cá nhân, gia đình và xã hội.
2. Trong các nghiên cứu về quan hệ dòng họ trước đây, hầu như các tác giả chỉ quan tâm xem xét quan hệ của họ nội, tức họ bên bố (các dân tộc theo chế độ phụ hệ), hoặc bên mẹ (các dân tộc theo chế độ mẫu hệ). Thực ra, quan hệ dòng họ không chỉ có một bên, và nghiên cứu này đã cố gắng khắc phục hạn chế đó. Mỗi người Nùng Phàn Slình đều có ba mối quan hệ họ hàng là họ bố, họ mẹ và họ vợ; trong đó họ nội - họ bố có vai trò và nghĩa vụ chủ yếu. Tuy họ ngoại không có nhiều trách nhiệm như họ nội, nhưng vẫn có vai trò và chức năng nhất định. Bởi thế, mối quan hệ họ hàng với cả ba bên của người Nùng Phàn Slình đều được coi trọng và được củng cố vững chắc.
3. Dòng họ người Nùng Phàn Slình đều có những đặc điểm khá giống nhau về cư trú, quan hệ giữa các hộ gia đình trong cùng dòng họ, hệ thống lễ nghi thờ cúng, quan hệ hôn nhân, tập quán đặt tên đệm theo thứ bậc thế hệ trong mỗi dòng họ, và vai trò cá nhân trong đời sống dòng họ. Sự phân biệt dòng họ và chi họ của người Nùng Phàn Slình chủ yếu thông qua số lượng chén thờ, cách thức cúng, hệ thống tên đệm Những đặc thù này vừa cụ thể lại vừa phức tạp, đòi hỏi các thành viên dòng họ phải ghi nhớ để phân biệt các dòng họ và chi họ. Những yếu tố đó đã tạo nên những nét đặc trưng của dòng họ người Nùng Phàn Slình.
4. Trong các chức năng quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình, tín ngưỡng dòng họ là một hoạt động văn hóa tinh thần có ý nghĩa quan trọng trong đời sống và chiếm một tỷ lệ lớn trong những thực hành lễ nghi. Đó là các tín ngưỡng trong cưới xin, tang ma, thờ cúng trong gia đình, thờ cúng dòng họ Tín ngưỡng này ẩn chứa nhiều giá trị văn hóa tộc người. Những sinh hoạt tín ngưỡng vừa đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần, vừa là động lực cố kết các thành viên trong dòng họ. Ở phạm vi rộng hơn, những sinh hoạt tín ngưỡng còn góp phần tạo nên sự cố kết cộng đồng tộc người. Bởi vậy, dù chịu sự tác động của hội nhập, song những sinh hoạt tín ngưỡng vẫn hưng thịnh.
Bên cạnh tín ngưỡng, hoạt động tương trợ cũng là chức năng to lớn của quan hệ dòng họ. Đến nay, người Nùng Phàn Slình còn duy trì truyền thống giúp đỡ nhau trong sản xuất nông nghiệp và trong các trường hợp như sinh đẻ, cưới xin, tang ma, sinh nhật cho người già, về nhà mới Trong đời sống ở vùng cao, người dân rất cần sự tương trợ trong làm thủy lợi, cày cấy, thu hoạch, khai thác nông, lâm sản Việc tương trợ này trước hết diễn ra trong dòng họ.
5. Như vậy, hoạt động tín ngưỡng và tương trợ trong quan hệ dòng họ đã tạo nên mạng lưới quan hệ của cá nhân và gia đình; và ngược lại, cá nhân và gia đình càng thấm sâu trong quan hệ dòng họ. Như đã trình bày, mối quan hệ này không chỉ ở bên họ nội mà còn ở họ ngoại và họ vợ/chồng. Mạng lưới quan hệ đó không chỉ ở cộng đồng thôn bản, mà trong nhiều trường hợp còn vượt ra ngoài phạm vi thôn bản, thậm chí xuyên biên giới. Vì vậy, nó đã góp phần củng cố sự cố kết tộc người của người Nùng Phàn Slình.
6. Trong bối cảnh hiện nay, quan hệ dòng họ vẫn có tác động nhất định đến cơ cấu bộ máy và sự vận hành của hệ thống chính trị cấp cơ sở và sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Các dòng họ đã cung cấp cho chính quyền nhiều thành viên có năng lực, đạo đức. Tuy nhiên, quan hệ của dòng họ cũng nảy sinh nhiều vấn đề ảnh hưởng tới tính dân chủ, tinh thần đoàn kết ở cộng đồng và sự vận hành của hệ thống chính trị cấp cơ sở.
7. Dựa trên kết quả nghiên cứu trên đây, chúng tôi xin nêu lên một số khuyến nghị như sau:
7.1. Dòng họ là tổ chức xã hội còn lưu giữ đậm nét nhiều yếu tố văn hóa của tộc người. Bởi vậy, để tìm hiểu, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa đó, cần chú trọng văn hóa của dòng họ, đặc biệt là mối quan hệ dòng họ.
7.2. Trong bối cảnh hiện nay, quan hệ dòng họ có cả tác động tích cực và tiêu cực đến phát triển tại địa phương. Điểm tích cực là quan hệ dòng họ có vai trò trong giáo dục nhân cách và thực hiện tương trợ; còn điểm tiêu cực là mối quan hệ này có thể ảnh hưởng đến việc bảo đảm công bằng và dân chủ. Vì thế, cần nhận diện rõ vai trò của quan hệ dòng họ để phát huy yếu tố tích cực, giảm thiểu yếu tố tiêu cực.
7.3 Tại các địa phương gần biên giới, như địa bàn nghiên cứu ở người Nùng Phàn Slình, xu hướng quan hệ dòng họ xuyên biên giới sẽ ngày càng gia tăng. Mối quan hệ này luôn tiềm ẩn những vấn đề gắn với an ninh, quốc phòng ở vùng biên. Bởi vậy, chính quyền các cấp cần có biện pháp để quản lý tốt quan hệ dòng họ xuyên biên giới.
7.4. Với vai trò của quan hệ dòng họ như đã nêu, việc tiếp tục nghiên cứu sâu về quan hệ dòng họ, nhất là của các tộc người ở vùng biên giới là nhiệm vụ cần thiết. Vì thế, việc nghiên cứu về quan hệ dòng họ nói chung và quan hệ dòng họ ở vùng biên giới nói riêng cần được đẩy mạnh hơn nữa./.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
TT
Tên công trình
1
Vài nét về tình trạng đói nghèo của người Nùng ở xã Liên Sơn, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn. Tạp chí Xã hội học số 1 năm 2006, tr.77-82.
2
Hôn nhân truyền thống của người Nùng Phàn Slình. Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 327, tháng 9 năm 2011, tr.21-26.
3
Tín ngưỡng thờ cúng của người Nùng Phàn Slình ở vùng cao biên giới (Nghiên cứu ở huyện Cao Lộc, Tỉnh Lạng Sơn). Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6 (147), năm 2012, tr.49-57.
4
Tương trợ cộng đồng trong cưới xin và tang ma của người Nùng Phàn Slình ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, Tạp chí Dân tộc học, số 5&6 (179), năm 2012, tr.35-45
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Vi An (1988), “Đôi nét về dòng họ người Thái vùng đường 7, tỉnh Nghệ Tĩnh”, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr. 81-93.
Đào Duy Anh (2003), Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
Đỗ Thị Phương Anh (2006), Văn hóa dòng họ Nguyễn Quý ở làng Đại Mỗ (xã Đại Mỗ, huyện Từ Liêm, Hà Nội, Luận văn thạc sỹ Văn hóa học, Tư liệu tại Thư viện Dân tộc học.
Lê Minh Anh (2000), Dòng họ và quan hệ dòng họ của người Việt ở làng Hoành Nha, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, Khóa luận tốt nghiệp, Tư liệu Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Lê Minh Anh (2006), “Thực trạng nghèo đói của người Nùng Phàn Slình ở xã Liên Sơn, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn”, Tạp chí Xã hội học, số 2, tr. 77-81.
Lê Minh Anh (2011), “Hôn nhân truyền thống của người Nùng Phàn Slình”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 327, tr.21-25.
Lê Minh Anh (2012a), “Tín ngưỡng thờ cúng của người Nùng Phàn Slình ở vùng cao biên giới (Nghiên cứu ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn), Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6, tr. 49-57.
Lê Minh Anh (2012b), “Tương trợ cộng đồng trong tang ma và cưới xin của người Nùng Phàn Slình ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn”, Tạp chí Dân tộc học, số 5&6, tr. 35-45.
Nguyễn Tuấn Anh (2001), “Quan hệ dòng họ với đời sống kinh tế hộ gia đình ở một xã nông thôn Bắc Trung Bộ”, Tạp chí Xã hội học, số 4, tr.55-62.
Nguyễn Tuấn Anh (2011), “Vốn xã hội và mấy vấn đề đặt ra trong nghiên cứu vốn xã hội ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Xã hội học, số 3, tr.9-17.
Therese Baker (1998), Thực hành nghiên cứu Xã hội, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
Thomas Barfield (1997), Từ điển Nhân học (bản dịch tiếng Việt của Viện Dân tộc học), Nxb Blackwell.
Hoàng Chí Bảo (2004 - chủ biên), Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
H. Russel Bernard (2007), Các phương pháp nghiên cứu trong Nhân học - Tiếp cận định tính và định lương, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Mình.
Nguyễn Dương Bình (1976), “Một vài đặc điểm của xã hội Mường qua việc tìm hiểu gia phả một dòng Lang”, Tạp chí Dân tộc học, số 2, tr. 39-52.
Nguyễn Dương Bình (1996), “Đôi nét về khởi nguyên và đặc điểm dòng họ của người Việt”, Tạp chí Dân tộc học, số 2, tr.18-23.
Đỗ Thúy Bình (1994), “Dòng họ và mối quan hệ giữa gia đình và dòng họ ở người Thái”, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr. 32-35.
Phan Kế Bính (2006), Việt Nam phong tục, Nxb Văn học, Hà Nội.
Phan Văn Các (1997), “Nghiên cứu các dòng cơ sở khoa học và phương hướng giải quyết và các vấn đề đặt ra” trong Văn hóa các dòng họ ở Nghệ An với sự nghiệp thực hiện chiến lược con người Việt Nam đầu thế kỷ XXI - kỷ yếu hội thảo, Nxb Nghệ An.
Léopol Cadière (1997), Về văn hóa và tín ngưỡng truyền thống người Việt, Nxb Văn hóa - thông tin, Hà Nội.
Nguyễn Khắc Cảnh (2011), “Phương pháp nghiên cứu hệ thống thân tộc và đặc điểm thân tộc của người Khơ - me Nam bộ”, Tạp chí Dân tộc học, số 1, tr. 53-59.
Nguyễn Từ Chi (2003), Góp phần nghiên cứu văn hóa & tộc người, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
Ngô Thị Chính (1986), “Vài nét về hệ thống thân tộc người Việt”, Tạp chí Dân tộc học, số 2, Tr.50-57.
Ngô Thị Chính (1996), “Hệ thống thuật ngữ thân tộc của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ”, Tạp chí Dân tộc học, số 4, tr. 69-58.
Ngô Thị Chính (1997), “Dòng họ với vấn đề dân số”, Tạp chí Dân tộc học, số 2, tr. 41-44.
Cục Thống kê Lạng Sơn (2010), Niên giám thống kê Lạng Sơn năm 2009, Lạng Sơn.
Hoàng Tuấn Cư (2012), “Dòng họ của người Tày trong đời sống xã hội hiện nay” trong Cộng đồng các tộc người ngữ hệ Thái - Kadai ở Việt Nam truyền thống, hội nhập và phát triển (kỷ yếu hội thảo Thái học lần VI), Nxb Thế Giới, Hà Nội.
Bùi Thế Cường và cộng sự (2010a), Từ điển Xã hội học Oxford, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
Bùi Thế Cường (2010b), “Phân tích chức năng trong nghiên cứu xã hội” trong Phương pháp nghiên cứu xã hội và lịch sử (Bùi Thế Cường chủ biên), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
Khổng Diễn (1996 - Chủ biên), Những đặc điểm kinh tế - xã hội các dân tộc miền núi phía Bắc, Nxb Khoa học Xã hội.
Phan Đại Doãn - Nguyễn Quang Ngọc (1990), “Mối quan hệ làng, họ và gia đình truyền thống”, Tạp chí Xã hội học, số 3, tr. 26-34.
Phan Đại Doãn (1999), “Cơ sở kinh tế và thể chế tông pháp của dòng họ người Việt”, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr. 3-9.
Phan Đại Doãn (2003), Làng xã Việt Nam, một số vấn đề kinh tế, văn hóa, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
Ma Tiến Dũng (1980), Về tôn giáo tín ngưỡng của người Nùng Phàn Slình ở Chi Lăng, Lạng Sơn, luận văn tốt nghiệp đại học, Tư liệu khoa Lịch Sử, Đại học KHXH & NV, Hà Nội
Bùi Xuân Đính (2010), “Về sự hình thành các gia đình khoa bảng và dòng họ khoa bảng của Thăng Long - Hà Nội”, Tạp chí Dân tộc học, số 4, tr. 8-14.
Mạc Đường (1974), “Quan hệ dòng họ và thành phần tộc người trong gia đình hỗn hợp ở miền núi Hà Tây”, Tạp chí Dân tộc học, số 4, tr. 20-25.
Evans. Grant (2001 - Cao Xuân Phổ dịch), Bức khảm văn hóa châu Á: Tiếp cận Nhân học, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
Hồ Ly Giang (2011), “Thiết chế dòng họ truyền thống của người Hmông và vai trò của nó trong quản lý xã hội hiện nay (Qua nghiên cứu xã Phỏng Lái, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La)”, Tạp chí Dân tộc học, số 6, tr. 30-38.
Hồ Ly Giang (2012), “Thiết chế dòng họ và gia đình người Hmông Trắng ở xã Phỏng Lái, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Nghiên cứu Gia đình & giới, số 1, tr. 52-64.
Hồ Ly Giang (2013), Dòng họ của người Hmông trắng tỉnh Sơn La, luận án tiến sỹ, thư viện Viện Dân tộc học.
Pierre Gourou (2004), Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ, Nxb Trẻ - Trung tâm ngôn ngữ và văn minh Pháp.
Lê Thu Hà (2011), “Vận dụng lý thuyết vốn xã hội của Pierre Bourdieu vào phân tích vai trò của xã hội dân sự”, Tạp chí Xã hội học, tr.100-104.
Trần Văn Hà (2003), “Một vài suy nghĩ về mở rộng đối tượng và phương pháp nghiên cứu xã hội học - tộc người trong thời gian tới.” trong Dân tộc học Việt Nam thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI (Khổng Diễn - Bùi Minh Đạo chủ biên), Nxb Khoa học Xã hội.
Trần Văn Hà - Đặng Thị Hoa (2009), “Ảnh hưởng của yếu tố xã hội và văn hóa đến cơ chế ứng phó với tình trạng thiếu lương thực của người Khơ - Mú (Nghiên cứu ở bản Bình Sơn I, xã Tà Cạ, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An)”, Tạp chí Dân tộc học, số 1 &2, tr. 74-89.
Mai Văn Hai - Phan Đại Doãn (2000), Quan hệ dòng họ ở châu thổ Sông Hồng, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Mai Văn Hai (2009), “Gia đình, dòng họ và thôn làng với tư cách là các giá trị cơ bản của văn hóa làng Việt, tạp chí Xã hội học, số 1, tr.36-43.
Mai Thanh Hải (2006), Từ điển tôn giáo tín ngưỡng thế giới & Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội
Võ Hồng Hải (2012), Di sản văn hóa dòng họ và vấn đề nghiên cứu danh nhân văn hóa, phát triển nhân tài hiện nay (qua khảo sát một số dòng họ tiểu biểu ở Hà Tĩnh), luận án Tiến sĩ văn hóa học, thư viện Viện văn hóa Nghệ thuật Việt Nam.
Erik Harms (2010), “Quyền lực ở Việt Nam nhìn từ trong ra: Những chuyển dịch qua không gian và thời gian và khái niệm của người Việt về “nội” và “ngoại” trong Hiện đại hóa và động thái của truyền thống ở Việt Nam - những tiếp cận Nhân học, quyển 1, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Đặng Thị Hoa (2010), “Tác động của yếu tố truyền thống đến quản lý xã hội ở cơ sở vùng dân tộc miền Tây Thanh Hóa - Nghệ An” – Báo cáo tổng hợp đề tài cấp bộ - Viện khoa học Xã hội Việt Nam, thư viện Viện Dân tộc học, ký hiệu TL 1218.
Đặng Thị Hoa (2012), “Một số vấn đề cơ bản về hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ cơ sở trong phát triển bền vững các tỉnh biên giới Việt Nam” - Báo cáo tổng hợp đề tài cấp bộ - Viện khoa học Xã hội Việt Nam, thư viện Viện Dân tộc học, ký hiệu: TL1284.
Phạm Quang Hoan (1994), “Vai trò của các thiết chế xã hội truyền thống trong việc quản lý nguồn tài nguyên cộng đồng người Hmông”, Tạp chí Dân tộc học, số 2, tr. 43-53.
Phạm Quang Hoan (1995), “Một số nghi lễ liên quan đến dòng họ ở người Hmông huyện Kỳ Sơn, Nghệ An”, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr. 14-20.
Phạm Quang Hoan (2000), “Một số nghi lễ phản ảnh bản sắc và tính cố kết dòng họ của người Hmông”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6, tr.62-67.
Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam. Từ điển bách khoa Việt Nam. Tập 4. Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2005.
Nguyễn Xuân Hồng (1994), “Dòng họ của người Tà Ôi, Cơ Tu và Vân Kiều”, Tạp chí Dân tộc học, số 4, tr. 30-32.
Nguyễn Xuân Hồng (1998), “Bước đầu tìm hiểu hệ thống thân tộc của người Tà Ôi, Cơ Tu, Bru - Vân Kiều”, Tạp chí Dân tộc học, số 2, tr.60-67.
Hội Văn nghệ Dân gian Nghệ AnViện Nghiên cứu Văn hóa Dân gian (1997), Văn hóa các dòng họ ở Nghệ An (Kỷ yếu hội thảo khoa học), Nxb Nghệ An.
Lưu Hùng (1980), “Tìm hiểu quan hệ xã hội của dân tộc Hrê”, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr. 32-40.
Lưu Hùng (1983), “Góp phần nghiên cứu tính song hệ ở dân tộc Hrê”, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr. 38-42
Lương Văn Hy (2010), “Quà và vốn xã hội ở hai cộng đồng nông thôn Việt Nam” trong: Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt Nam: những tiếp cận Nhân học, quyển 1, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Khoa Nhân học (2008), Nhân học đại cương, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Nelly Krowolski (2002), “Hộ, Dòng họ và không gian hôn nhân ở Tả Thanh Oai, một làng ngoại ô Hà Nội” trong Làng ở vùng châu thổ Sông Hồng: vấn đề còn bỏ ngỏ (Philippe Papin - Oliver Tessier), Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc Gia.
Robert Layton (2007), Nhập môn lý thuyết Nhân học, Nxb Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
Bửu Lịch (1971), Nhân chủng học và Lược khảo thân tộc học, Nxb Lửa thiêng, Sài Gòn.
Tạ Long - Ngô Thị Chính (1994), “Quan hệ tương trợ ở một vài làng Việt thuộc tỉnh Hà Bắc”, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr. 7-10.
Tạ Long (2006), “Vai trò của dòng họ trong phát triển làng nghề La Phù”, tạp chí Dân tộc học, số 5, tr. 3-11.
Robert Lowie (2008), Không gian văn hóa nguyên thủy (nhìn theo lý thuyết chức năng), (Vũ Xuân Ba và Ngô Bình Lâm dịch), Nxb Tri thức - Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.
Lã Văn Lô và cộng sự (1961), “Người Tày và người Nùng sẽ hình thành dân tộc như thế nào”, Tập san Dân tộc, số 20, tr. 27-31.
Lã Văn Lô (1968), Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày Nùng Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Lã Văn Lô (1979), “Tinh thần chống xâm lược, trong thơ văn cổ của đồng bào Tày - Nùng”, Sưu tập Dân tộc học, tr. 178-181.
Lã Văn Lô - Hà Văn Thư (1984), Văn hóa Tày - Nùng, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
Vũ Lợi (1983), “Sự phát triển dòng họ của người Êđê ở tỉnh Đắc Lắc”, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr. 3-6.
Vũ Đình Lợi (1994), Hôn nhân và gia đình truyền thống của các dân tộc Malayo - Polynexia Trường Sơn Tây Nguyên, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Hoàng Lương (1981), “Quan hệ giữa các dòng họ và hôn nhân hỗn hợp ở Mường Tấc - Sơn La”, Sưu tập Dân tộc học, tr. 48-49.
R.Jon Mcgee - Richard L. Warms (2010), Lý thuyết Nhân loại học giới thiệu lịch sử, Nxb Từ Điển bách khoa, Hà Nội.
Hoàng Nam (1973), “Bước đầu suy nghĩ về mối quan hệ giữa người Tày và người Nùng”, Thông báo Dân tộc học, số 3, tr. 57-59.
Hoàng Nam (1992), Dân tộc Nùng ở Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
Nguyễn Thị Ngân (2010), “Quan niệm về hồn, linh hồn của người Nùng Phàn Slình ở Thái Nguyên”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6, tr.55-58.
Nguyễn Thị Ngân (2011a), Tang ma của người Nùng Phàn Slình ở Thái Nguyên, luận án Tiến sĩ sử học, tư liệu Khoa Lịch sử đại học KHXH&NV, Hà Nội.
Hoàng Thị Niên (2011), Bước đầu khảo sát nhóm từ chỉ quan hệ thân tộc trong ngôn ngữ của hai ngành Nùng ở huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn (Nùng Inh và Nùng Phàn Slình có so sánh, đối chiếu với tiếng Việt), khóa luận tốt nghiệp, Khoa Ngôn ngữ học, Đại học KHXH &NV - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Emmanuel Pannier (2008), “Phân tích mạng lưới xã hội: các lý thuyết, khái niệm và phương pháp nghiên cứu”, Tạp chí Xã hội học, số 4, tr. 100-115.
Nguyễn Hồng Phong (1959), Xã thôn Việt Nam, Nxb Văn Sử địa, Hà Nội.
Phạm Minh Phúc (2011), “Tìm hiểu vai trò của dòng họ người Việt ở một làng Bắc Bộ (Làng Bối Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, Tp. Hà Nội”, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 3, tr. 57-63
Ngọc Quang (1997), “Dòng họ của người Triêng truyền thuyết và mối quan hệ cộng đồng”, số 4, tr. 65-68.
Vương Duy Quang (1987), “Quan hệ dòng họ trong xã hội người Hmông”, Tạp chí Dân tộc học, số 2, tr. 72-78.
Vương Duy Quang (1994), “Dòng họ - một đặc thù của xã hội người Hmông”, Tạp chí Dân tộc học, số 2, tr. 22.
Trịnh Thị Quang (1984), “Mấy vấn đề về quan hệ thân tộc ở nông thôn”, Tạp chí Xã hội học, số 2, tr.47-52.
Trịnh Thị Quang (1985), “Ảnh hưởng của mối quan hệ thân tộc và láng giềng tới việc sinh đẻ và số con trong gia đình nông thôn”, Tạp chí Xã hội học, số 4, tr. 34-52.
Vũ Hồng Quân (1994), “Thử phân tích yếu tố dòng họ trong cấu trúc sở hữu ruộng đất của một làng thuộc đồng bằng Bắc Bộ đầu thế kỷ XIX”, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr. 3-6.
Khoa Nhân học (2009), Nhân học Đại cương, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
Phạm Văn Quyết - Nguyễn Quý Thanh (2001), Phương pháp nghiên cứu xã hội học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Emily A.Schultz và Robert H. Lavenda (2001), Nhân học một quan điểm về tình trạng Nhân sinh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Sở Văn hóa thông tin tỉnh Thái Bình (1999), Văn hóa dòng họ ở Thái Bình, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Sở văn Hóa thông tin Thái Bình - Viện nghiên cứu Văn hóa Dân gian.
Oliver Tessier (2010), “Giúp đỡ” và tương trợ trong cộng đồng làng quê ở miền Bắc Việt Nam: Quan hệ giữa tình đoàn kết và sự phụ thuộc” trong: Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt Nam: những tiếp cận Nhân học, quyển 1, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Phan Chí Thành (1979), “Một hình thức “Tông tộc” ở người Thái Quỳ Châu, Nghệ Tĩnh”, Tạp chí Dân tộc học, số 4, tr. 46-52.
Phan Chí Thành (2003), “Thực chất của kết cấu dòng họ người Việt trong đời sống làng xã ở đồng bằng Bắc Bộ”, Tạp chí Dân tộc học, số, tr.40-44
Phan Chí Thành (2006), Dòng họ và đời sống làng xã ở đồng bằng Bắc Bộ qua tư liệu ở một số xã thuộc huyện Thạch Thất - Hà Tây, Luận án tiến sỹ, Thư viện Quốc gia Việt Nam - ký hiệu LA06.493.1.
Đinh Thị Phương Thảo (2003), “Tìm hiểu quan hệ dòng họ trong hoạt động cúng giỗ ở nông thôn (qua khảo sát việc thực tế lễ giỗ tại làng Đại Kim, xã Đồng Tiến, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên)”, Tạp chí Xã hội học, số 1, tr. 65-71.
Ngô Đức Thịnh (2007), Về tín ngưỡng lễ hội cổ truyền, Nxb, Viện Văn hóa - Nhà xuất Bản Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
Hoàng Bá Thịnh (2008), “Về vốn xã hội và mạng lưới xã hội”, Tạp chí Dân tộc học, số 5. tr.45-55.
Hoàng Bá Thịnh (2009), “Vốn xã hội, mạng lưới xã hội và những phí tổn”, Tạp chí Xã hội học, số 1, tr. 42-51.
Phạm Ngọc Thưởng (1995), “Xưng hô giữa vợ - chồng trong gia đình người Tày, Nùng”, Tạp chí Dân tộc học, số 1, tr.47-49.
Phạm Ngọc Thưởng (2000), “Từ thân tộc trong xưng hô của người Nùng (tiếp cận duới góc độ ngôn ngữ văn hóa)”, Tạp chí Ngôn ngữ học, số 3, tr.55-58
Lê Minh Tiến (2006), “Tổng quan phương pháp phân tích mạng lưới xã hội”, Tạp chí Khoa học Xã hội, số 9, tr.67-77.
Lê Minh Tiến (2010), “Phân tích mạng lưới xã hội” trong Phương pháp nghiên cứu xã hội và lịch sử (Bùi Thế Cường chủ biên), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
Nguyễn Văn Tiệp (1976), “Về tổ chức xã hội và quan hệ dòng họ của người Pa Cô ở Bình Trị Thiên”, Tạp chí Dân tộc học, số 4, tr. 96-102.
Hoàng Hoa Toàn - Đàm Thị Uyên (1998), “Nguồn gốc lịch sử các tộc người Tày, Nùng ở Việt Nam”, Tạp chí Dân tộc học, số 2, tr. 29-42.
Nguyễn Văn Toàn (2012), “Tín ngưỡng dòng họ với cố kết tộc người ở các dân tộc Hmông và Khơ - mú (Nghiên cứu ở huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An), Tạp chí Dân tộc học, số 5&6, tr.46-55.
Vương Toàn (2010), “Mấy điểm khác biệt về văn hóa truyền thống giữa người Tày và người Nùng ở Lạng Sơn”, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr. 41-49.
Vương Toàn (2012), “Sự khác biệt giữa các ngành Nùng ở Việt Nam và những câu hỏi còn bỏ ngỏ” trong Cộng đồng các tộc người ngữ hệ Thái - Kadai ở Việt Nam truyền thống, hội nhập và phát triển (kỷ yếu hội thảo Thái học lần VI), Nxb Thế Giới, Hà Nội.
Cầm Trọng (1977), “Quan hệ dòng họ trong các bản của người Thái ở Vùng Tây Bắc”, Tạp chí Dân tộc học, số 1, tr. 73-80.
Vũ Văn Trọng (2000), “Quan hệ dòng họ một số yếu tố tạo nên sự cố kết bền vững về tâm lý trong xã hội Mông”, Tạp chí Tâm Lí học, số 6, tr. 62-65.
Nguyễn Anh Tuấn (2011), “Tang ma của người Nùng Phàn Slình”, Tạp chí Dân tộc học, số 6, tr. 36-46.
Trần Từ (1984), Cơ cấu tổ chức của Làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Đặng Nghiêm Vạn (1991), “Dòng họ, gia đình và các dân tộc ít người trước sự phát triển hiện nay” trong Những nghiên cứu Xã hội học về gia đình Việt Nam (Rita Lijestrom - Tương Lai chủ biên), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Đặng Nghiêm Vạn (1998), “Bàn về dòng họ người Việt”, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr.4-14.
Viện Dân tộc học (1992), Các dân tộc Tày Nùng ở Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học.
Viện Sử học (1977-1978), Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Trần Quốc Vượng (1997), “Đôi lời về văn hóa dòng họ ở Việt Nam” trong Văn hóa các dòng họ ở Nghệ An với sự nghiệp thực hiện chiến lược con người Việt Nam đầu thế kỷ XXI - kỷ yếu hội thảo, Nxb Nghệ An.
Trần Quốc Vượng (2006), “Tổng luận về các dòng họ văn hiến của Hà Nội” trong Dặm dài đất nước - những vùng đất, con người, tâm thức người Việt, tập 1, Nxb Thuận Hóa, Huế.
Nguyễn Thị Yên (1998), “Tìm hiểu yếu tố tín ngưỡng trong lễ hội của người Tày, Nùng”, Tạp chí Văn hóa Dân gian, số 1, tr.3-10.
Nguyễn Thị Yên (2001), “Thờ Mẫu trong tín ngưỡng của người Tày, Nùng”, Tạp chí Văn hóa Dân gian, số 5, tr.28-36.
Nguyễn Thị Yên (2004), “Một số hình thức tín ngưỡng dân gian của người Tày, Nùng Việt Nam và Choang Trung Quốc”, Tạp chí Dân tộc học, số 2, tr.12-23.
Nguyễn Thị Yên (2009), Tín ngưỡng dân gian Tày - Nùng, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI
Bourdieu, P. (1986). The Forms of Capital. In J. G. Richardson (Ed.), Handbook of Theory and Research for the Sociology of Education, page. 241-258. New York: Greenwood.
Coleman, J. S. (1988). “Social Capital in the Creation of Human-Capital”, American Journal of Sociology, 94, page. 95-120.
Douglas R.White – Paul Jorin (1996), “Kinship networks and discrete structure theory: applications and implication:, Social Networks, Vol.18, page. 267-314.
Fukuyama, F. (2001). “Social Capital, Civil Society and Development”, Third World Quarterly, page. 7-20.
Fukuyama, F. (2002), “Social Capital and Development: The Coming Agenda”, SAIS review, page. 23-38.
Lin, Na. (1999), Building a Network Theory of Social Capital, Connections, page. 28-51.
Lin, Na. (2001), Social Capital: A Theory of Social Structure and Action, Cambridge: Cambridge University Press.
Nicholas Tapp (1989), “Hmong Religion”, in Asian Foklore studies, Journal of Southeast Asian Studies
Prasit Leep Cha (2001), Kinship and Identity among Hmong in Thailand, Unpublished Ph.D Dissertation, University of Washington.
Portes, A. (1998), “Social Capital: Its Origins and Applications in Modern Sociology”, Annual Review of Sociology, page. 24, 1-24
Putnam.R.D (2000), Bowling Alone: The Collapse and Revival of American Community. New York, etc: Simon &Schuster.
Radcliffe - Brow (1935), “Kinship Terminologies in California”, American Anthropologist (37), page. 530-535
Yunxiang Yan (1996), The Flow of gifl: Reciprocity and socail networks in a chinese village, Sanford University Press.
Hoàng Chấn Khìn
Hoàng Quốc Báo
Hoàng Chấn Khìn
Hoàng Sỹ Dũng
Hoàng Chấn Khìn
Hoàng Sỹ Quốc
Ghi Chú:
- I,II..Số thế hệ của dòng tộc
- 1,2, 3.. Số thứ tự của từng thành viên
- * Di cư khỏi địa phương
Nguồn: Điều tra thực địa của NCS tháng 11 năm 2008
1.Hoàng Quốc Thán
Cây Phả hệ số 01.
Dòng họ Hoàng thôn Sơn Hồng xã Gia Cát – Nhánh thứ nhất
V.1.Hoàng Trung Và
VI.1.Hoàng Sào Tung
I.Hoàng Ký Slẳn.
II.Hoàng Kim
III.Hoàng Sảng.
IV.Hoàng Dấu.
V.2 .Hoàng Trung Tàng
V.4. Hoàng Trung Slỉnh
V.3. Hoàng Trung Slẩn
VII.1. Hoàng Đình Khon
VIII.1.Hoàng Chấn Khìn*
VII.6. Hoàng Đình Tú
VII.5. Hoàng Đình Phát
VII.4. Hoàng Đình Hồng
VIII.1.Hoàng Chấn Khang
VIII.2. Hoàng Chấn Ngan
IX.1.Hoàng Quốc Trung*
1.Hoàng Quốc Thán
IX.4. Hoàng Chấn Khìn*
1.Hoàng Quốc Thán
IX.3. Hoàng Chấn Téo
1.Hoàng Quốc Thán
IX.2.Hoàng Quốc Tròn*
1.Hoàng Quốc Thán
VII.2.Hoàng Đình Nguyên
VIII.1. Hoàng Chấn Lình
X.1.Hoàng Sỹ Kiến
1.Hoàng Quốc Thán
IX.1. Hoàng Chấn Lình
1.Hoàng Quốc Thán
IX.2. Hoàng Quốc Liệu
1.Hoàng Quốc Thán
VIII.1. Hoàng Chấn Ben
VIII.2.Hoàng Chấn Nàn
IX.1. Hoàng Quốc Đức
1.Hoàng Quốc Thán
IX.2. Hoàng Quốc Slinh
1.Hoàng Quốc Thán
VIII.1Hoàng Chấn Thào
IX.2. Hoàng Quốc Vàng
1.Hoàng Quốc Thán
IX.4. Hoàng Quốc Thang
1.Hoàng Quốc Thán
IX.3. Hoàng Quốc Sáo
1.Hoàng Quốc Thán
IX.1.Hoàng Quốc Chớ
1.Hoàng Quốc Thán
VII.3. Hoàng Đình Lý
VIII.1.Hoàng Chấn S lỉnh
X.1.Hoàng Sỹ Dũng
1.Hoàng Quốc Thán
IX.1.Hoàng Quốc Ngân
1.Hoàng Quốc Thán
IX.3. Hoàng Quốc Bộ
1.Hoàng Quốc Thán
IX.2. Hoàng Quốc Nam
1.Hoàng Quốc Thán
IX.1.Hoàng Quốc Thon
1.Hoàng Quốc Thán
X.2. Hoàng Sỹ Quân
1.Hoàng Quốc Thán
X.1. Hoàng Sỹ Phán
1.Hoàng Quốc Thán
IX.1.Hoàng Quốc Phấn
1.Hoàng Quốc Thán
IX.2. Hoàng Quốc Lài
1.Hoàng Quốc Thán
IX.3.Hoàng Quốc Long
1.Hoàng Quốc Thán
IX.4. Hoàng Quốc Hương
1.Hoàng Quốc Thán
IX.5. Hoàng Quốc Bản
1.Hoàng Quốc Thán
X.1.Hoàng Sỹ Thụ
1.Hoàng Quốc Thán
X.2. Hoàng Sỹ Thoại
1.Hoàng Quốc Thán
X.3. Hoàng Sỹ Tới
1.Hoàng Quốc Thán
X.2. Hoàng Sỹ Thành
1.Hoàng Quốc Thán
X.1. Hoàng Sỹ Tùng
1.Hoàng Quốc Thán
X.1.Hoàng Sỹ Đàn
1.Hoàng Quốc Thán
X.1. Hoàng Sỹ Vinh
1.Hoàng Quốc Thán
PHẦN PHỤ LỤC
Hoàng Chấn Khìn
Hoàng Quốc Báo
Hoàng Chấn Khìn
Hoàng Sỹ Dũng
Hoàng Chấn Khìn
Hoàng Sỹ Quốc
Nguồn: Điều tra thực địa của NCS tháng 11 năm 2008
1.Hoàng Quốc Thán
Cây Phả hệ số 02.
Dòng họ Hoàng thôn cây Hồng xã Kháng Chiến – Nhánh thứ hai
VII.1. Hoàng Sào Phu
VIII.1. Hoàng Đình Tiên
VI.2. Hoàng Trung Tàng
VII.5. Hoàng Đình Cao
VIII.2. Hoàng Đình Vương
VII.3. Hoàng Đình Lộc
VIII.1. Hoàng Chấn Sang*
VIII.2. Hoàng Chấn Hoa*
1.Hoàng Quốc Thán
VIII.1. Hoàng Chấn Sơn
1.Hoàng Quốc Thán
IX.1. Hoàng Quốc Thon
1.Hoàng Quốc Thán
VII.2. Hoàng Sào Slân
VII.2. Hoàng Đình Long*
VII.1. Hoàng Đình Hiền*
VII.4. Hoàng Đình Hưng
VIII.1. Hoàng Chấn Khay*
1.Hoàng Quốc Thán
VIII.2. Hoàng Chấn Sàng*
1.Hoàng Quốc Thán
VIII.3. Hoàng Chấn Cô*
IX.1. Hoàng Quốc Sàng
IX.2. Hoàng Quốc Xuân
1.Hoàng Quốc Thán
IX.3. Hoàng Quốc Đài
1.Hoàng Quốc Thán
VIII.4. Hoàng Chấn Them*
1.Hoàng Quốc Thán
VIII.3. Hoàng Chấn Khẩu*
1.Hoàng Quốc Thán
VIII.2. Hoàng Chấn Giàu
1.Hoàng Quốc Thán
VIII.1. Hoàng Chấn Slinh
1.Hoàng Quốc Thán
IX.4. Hoàng Quốc Bình
1.Hoàng Quốc Thán
IX.3. Hoàng Quốc Hùng
1.Hoàng Quốc Thán
IX.2. Hoàng Quốc Hà
1.Hoàng Quốc Thán
IX.1. Hoàng Quốc Khí
1.Hoàng Quốc Thán
VIII.1. Hoàng Chấn Khài
1.Hoàng Quốc Thán
IX.1. Hoàng Quốc Hai
1.Hoàng Quốc Thán
IX.2. Hoàng Quốc Động
1.Hoàng Quốc Thán
IIX.3. Hoàng Quốc Ké
1.Hoàng Quốc Thán
IX.2. Hoàng Quốc Kết
1.Hoàng Quốc Thán
VIII.2. Hoàng Chấn Ký
1.Hoàng Quốc Thán
IX.2. Hoàng Quốc Huân
1.Hoàng Quốc Thán
IX.1. Hoàng Quốc Đạo
1.Hoàng Quốc Thán
Ghi Chú:
- I,IISố thế hệ của dòng tộc
- 1,2, 3...Số thứ tự của từng thành viên
- * Di cư khỏi địa phương
Hoàng Chấn Khìn
Hoàng Quốc Báo
Hoàng Chấn Khìn
Hoàng Sỹ Dũng
Hoàng Chấn Khìn
Hoàng Sỹ Quốc
Nguồn: Điều tra thực địa của NCS tháng 11 năm 2008
1.Hoàng Quốc Thán
Cây Phả hệ số 03. Dòng họ Hoàng thôn cây Hồng xã Kháng Chiến – Nhánh thứ ba
VII.1. Hoàng Sào Sông
VIII.1. Hoàng Đình Sài
VI.3. Hoàng Trung Slẩn
VII.2. Hoàng Đình Liên
VII.2. Hoàng Sào Sàng
VIII.2. Hoàng Chấn Thành
1.Hoàng Quốc Thán
VIII.3. Hoàng Chấn Văn
VIII.1. Hoàng Chấn Phùng
1.Hoàng Quốc Thán
IX.4. Hoàng Quốc Hàng
1.Hoàng Quốc Thán
IX.3. Hoàng Quốc Phân
1.Hoàng Quốc Thán
IX.2. Hoàng Quốc Phí
1.Hoàng Quốc Thán
IX.1. Hoàng Quốc Rí
1.Hoàng Quốc Thán
X.1. Hoàng Sỹ Sinh
1.Hoàng Quốc Thán
X.2. Hoàng Sớm
1.Hoàng Quốc Thán
X.3. Hoàng Sỹ Hùng
1.Hoàng Quốc Thán
X.4. Hoàng Sỹ Đội
1.Hoàng Quốc Thán
X.1. Hoàng Sỹ Thanh
1.Hoàng Quốc Thán
X.1. Hoàng Sỹ Sơn
1.Hoàng Quốc Thán
VIII.2. Hoàng Đình Nhiêu
VIII.1. Hoàng Chấn Phay
1.Hoàng Quốc Thán
VIII.2. Hoàng Chấn Rện
1.Hoàng Quốc Thán
IX.1. Hoàng Quốc Tiển
1.Hoàng Quốc Thán
IX.1. Hoàng Quốc Minh
1.Hoàng Quốc Thán
IX.2. Hoàng Quốc Pình
1.Hoàng Quốc Thán
IX.3. Hoàng Quốc Xuân
1.Hoàng Quốc Thán
IX.4. Hoàng Quốc Ty
1.Hoàng Quốc Thán
VIII.3. Hoàng Chấn Cai*
1.Hoàng Quốc Thán
VIII.2. Hoàng Chấn Lằn
1.Hoàng Quốc Thán
IX.1. Hoàng Quốc Làng
IX.2. Hoàng Quốc Chính
1.Hoàng Quốc Thán
X.1. Hoàng Sỹ Đình
1.Hoàng Quốc Thán
X.2. Hoàng Sỹ Ký
1.Hoàng Quốc Thán
X.1. Hoàng Sỹ Ngôn
1.Hoàng Quốc Thán
X.2. Hoàng Sỹ Tùng
1.Hoàng Quốc Thán
X.3. Hoàng Sỹ Tiệp
1.Hoàng Quốc Thán
X.1. Hoàng Sỹ Vương
1.Hoàng Quốc Thán
X.2. Hoàng Sỹ Tò
1.Hoàng Quốc Thán
X.1. Hoàng Sỹ Hùng
1.Hoàng Quốc Thán
X.1. Hoàng Sỹ Tân
1.Hoàng Quốc Thán
X.1. Hoàng Sỹ Toan
1.Hoàng Quốc Thán
X.1. Hoàng Sỹ Đợi
1.Hoàng Quốc Thán
X.2. Hoàng Sỹ Bình
1.Hoàng Quốc Thán
X.1. Hoàng Sỹ Quân
1.Hoàng Quốc Thán
IX.2. Hoàng Quốc Thọ
1.Hoàng Quốc Thán
IX. 1. Hoàng Quốc Thiên
1.Hoàng Quốc Thán
VII.3. Hoàng Đình Cá
VIII.1. Hoàng Chấn Thạo
1.Hoàng Quốc Thán
VIII.2. Hoàng Chấn Thạo*
1.Hoàng Quốc Thán
IX.2. Hoàng Quốc Rén*
1.Hoàng Quốc Thán
IX.1. Hoàng Quốc Tiến
1.Hoàng Quốc Thán
IX. 1. Hoàng Quốc Sen
1.Hoàng Quốc Thán
VII.1. Hoàng Đình Dũng
VIII. 1. Hoàng Chấn Pảo
1.Hoàng Quốc Thán
VIII.2. Hoàng Chấn Sen
1.Hoàng Quốc Thán
VIII.3. Hoàng Chấn Kim*
1.Hoàng Quốc Thán
X.1. Hoàng Sỹ Tôn
1.Hoàng Quốc Thán
X.2. Hoàng Sỹ Thân
1.Hoàng Quốc Thán
X.1. Hoàng Sỹ Phong
1.Hoàng Quốc Thán
X.2. Hoàng Sỹ Sáng
1.Hoàng Quốc Thán
X.3. Hoàng Sỹ Chiêu
1.Hoàng Quốc Thán
VIII.1. Hoàng Chấn Làn
1.Hoàng Quốc Thán
X.1. Hoàng Sỹ Bảo
1.Hoàng Quốc Thán
X.1. Hoàng Sỹ Hợi
1.Hoàng Quốc Thán
IX.1. Hoàng Quốc Tiến
1.Hoàng Quốc Thán
X.1. Hoàng Sỹ Lương
1.Hoàng Quốc Thán
X.1. Hoàng Sỹ Huấn
1.Hoàng Quốc Thán
X.3. Hoàng Sỹ Hiếu
1.Hoàng Quốc Thán
X.2. Hoàng Sỹ Viên
1.Hoàng Quốc Thán
X.1. Hoàng Sỹ Tiếu
1.Hoàng Quốc Thán
IX.1. Hoàng Quốc Chén
1.Hoàng Quốc Thán
IX.1. Hoàng Quốc Việt
1.Hoàng Quốc Thán
IX.2. Hoàng Quốc Viển
1.Hoàng Quốc Thán
IX.1. Hoàng Quốc Nền
1.Hoàng Quốc Thán
IX.3. Hoàng Quốc Hiển
1.Hoàng Quốc Thán
IX.4. Hoàng Quốc Dũng
1.Hoàng Quốc Thán
IX.5. Hoàng Quốc Khôn
1.Hoàng Quốc Thán
Ghi Chú:
- I,IISố thế hệ của dòng tộc
- 1,2, 3...Số thứ tự của từng thành viên
- * Di cư khỏi địa phương
Hoàng Chấn Khìn
Hoàng Quốc Báo
Hoàng Chấn Khìn
Hoàng Sỹ Dũng
Hoàng Chấn Khìn
Hoàng Sỹ Quốc
Nguồn: Điều tra thực địa của NCS tháng 11 năm 2008
1.Hoàng Quốc Thán
Cây Phả hệ số 04. Dòng họ Hoàng thôn cây Hồng xã Kháng Chiến – Nhánh thứ tư
VII.1. Hoàng Sào Xuân
VIII.1. Hoàng Đình Lưu
VI.4. Hoàng Trung Slỉnh
VII.2. Hoàng Đình Minh
VII.2. Hoàng Sào Sau
VIII.2. Hoàng Chấn Lý
1.Hoàng Quốc Thán
VIII.1. Hoàng Chấn Pói
1.Hoàng Quốc Thán
IX.3. Hoàng Quốc Hải
1.Hoàng Quốc Thán
IX.2. Hoàng Quốc Chắn
1.Hoàng Quốc Thán
IX.1. Hoàng Quốc Tưng
1.Hoàng Quốc Thán
VIII.2. Hoàng Chấn Pao
1.Hoàng Quốc Thán
IX.1. Hoàng Quốc Bao
IX.2. Hoàng Quốc Chịch
1.Hoàng Quốc Thán
IX.1. Hoàng Quốc Khèn
1.Hoàng Quốc Thán
VII.1. Hoàng Đình Anh
VIII. 1. Hoàng Chấn Phúc
1.Hoàng Quốc Thán
X.1. Hoàng Sỹ Khai
1.Hoàng Quốc Thán
VIII.1. Hoàng Chấn Lùng
1.Hoàng Quốc Thán
IX.2. Hoàng Quốc Ròn
1.Hoàng Quốc Thán
IX.2. Hoàng Quốc Thủy
1.Hoàng Quốc Thán
IX.1. Hoàng Quốc Ngáo
1.Hoàng Quốc Thán
IX.2. Hoàng Quốc Trạch
1.Hoàng Quốc Thán
IX.1. Hoàng Quốc Dương
1.Hoàng Quốc Thán
Ghi Chú:
- I,IISố thế hệ của dòng tộc
- 1,2, 3...Số thứ tự của từng thành viên
- * Di cư khỏi địa phương
IX.1. Hoàng Quốc Thán
1.Hoàng Quốc Thán
IX.2. Hoàng Quốc Lưu
1.Hoàng Quốc Thán
IX.3. Hoàng Quốc Sửu
1.Hoàng Quốc Thán
X.1. Hoàng Sỹ Nước
1.Hoàng Quốc Thán
X.1. Hoàng Sỹ Anh
1.Hoàng Quốc Thán
X.1. Hoàng Sỹ Ngao
1.Hoàng Quốc Thán
X.1. Hoàng Sỹ Ngộ
1.Hoàng Quốc Thán
IX.2. Hoàng Quốc Bình
1.Hoàng Quốc Thán
IX. 1. Hoàng Quốc Lài
1.Hoàng Quốc Thán
VII.2. Hoàng Đình Năng
VIII.1. Hoàng Chấn Lợi
1.Hoàng Quốc Thán
VIII.2. Hoàng Chấn Tợ
1.Hoàng Quốc Thán
IX.4. Hoàng Quốc Thi*
1.Hoàng Quốc Thán
IX. 3. Hoàng Quốc Lương*
1.Hoàng Quốc Thán
Cây phả hệ số 05. Dòng họ Hứa – Khí (TQ), xã Thanh Lòa, huyện Cao Lộc
I. Hứa Sao Thịnh
II.1. Hứa Tinh Mìn
II.2. Hứa Tình Slinh
II.3.Hứa Tình Slần
III.1.Hứa Quốc Vũ
V.1.Hứa Phúc Sai
IV.1Hứa Vân Háo
VI.1.Hứa Đức Hồng
Trung Quốc
IV.1.Hứa Vân Loan (Ego)
III.1Hứa Quốc Chương
IV.2.Hứa Vân Bình
IV.4. Hứa Vân Hóa
IV.3. Hứa Vân Đạo
V.1. Hứa Phúc Hồng
V.2. Hứa Phúc Sơn*
V.1.Hứa Phúc Triều
V.2.Hứa Phúc Hinh
VI.2.Hứa Đức Thìn
VI.2. Hứa Đức Viên
VI.3. Hứa Đức Đàn
VI.1. Hứa Đức Thân
VI.2. Hứa Đức Thủy
V.1. Hứa Phúc Vân*
V.2. Hứa Phúc Sài
V.3. Hứa Phúc Thắng
V.4. Hứa Phúc Khỉnh*
V.6. Hứa Phúc Sét*
VI.1.Hứa Đức Phó
VI.1. Hứa Đức Vinh
V.5. Hứa Phúc Vải*
III.2.Hứa Quốc Văn
IV.1.Hứa Vân Thái
V.1.Hứa Phúc Hưng
VI.1.Hứa Đức Mình
III.1.Hứa Quốc Thành
V.2.Hứa Phúc Đương*
VI.2Hứa Đức ?
V.3.Hứa Phúc Động
VI.1. Hứa Đức ?
IV.1.Hứa Vân Hóa
V.1.Hứa Phúc Đạo
VI.1.Hứa Đức ?
III.2.Hứa Quốc Thạo
IV.1.Hứa Vân Thinh
V.1.Hứa Phúc Mai
VI.1.Hứa Đức ?
III.3.Hứa Quốc Thố
IV.1.Hứa Vân Đáo
IV.2.Hứa Vân Động
V.1. Hứa Phúc Mân
V.2. Hứa Phúc Mão
VI.1. Hứa Đức Hào
V.1. Hứa Phúc Họa
VI.1. Hứa Đức ?
VI.1. Hứa Đức ?
V.1. Hứa Phúc Hiếu
VI.2.Hứa Đức Hải
VI.1. Hứa Đức Tùng
Trung Quốc
Việt Nam
Ghi Chú:
- I,IISố thế hệ của dòng tộc
- 1,2, 3...Số thứ tự của từng thành viên
- * Di cư khỏi địa phương
VI.1. Hứa Đức Anh
VI.1. Hứa Đức Trương
Nguồn: Điều tra thực địa của NCS tháng 10 năm 2013
Ảnh số 01: Nhà của người Nùng Phàn Slình
Thôn Sơn Hồng, xã Gia Cát, tháng 10 năm 2013, Lê Minh Anh
Ảnh số 02: Phụ nữ Nùng Phàn Slình
Thôn Sơn Hồng, xã Gia Cát, tháng 8 năm 2008, Lê Minh Anh
Ảnh số 03: Phụ nữ Nùng Phàn Slình, thôn Pò Nghiều, xã Thụy Hùng,
tháng 10 năm 2013, Lê Minh Anh
Ảnh số 04: Bàn thờ của người Nùng Phàn Slình
Thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa, Tháng 10 năm 2011, Phạm Thu Hà
Ảnh số 05: Thầy cúng đang làm lễ,
thôn Sơn Hồng, xã Gia Cát, tháng 8 năm 2007, Lê Minh Anh
Ảnh số 06: Thầy cúng làm lễ cầu sức khỏe, thôn Sơn Hồng,
xã Gia Cát, tháng 8 năm 2007, Lê Minh Anh
Ảnh số 07: Thầy cúng đang xin âm dương, thôn Sơn Hồng, xã Gia Cát,
tháng 8 năm 2007, Lê Minh Anh
Ảnh số 08: Thầy cúng đang đọc kinh trong lễ cúng chữa bệnh, thôn Sơn Hồng, xã Gia Cát, tháng 8 năm 2007, Lê Minh Anh
Ảnh số 09: Chân giò lợn để biếu anh em bên họ nội trong đám cưới,
thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa, tháng 12 năm 2011, Lê Minh Anh
Ảnh số 10: Thịt lợn để biếu anh, em dòng họ bên ngoại trong lễ cưới,
thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa, tháng 11 năm 2011, Lê Minh Anh
Ảnh số 11: Chuẩn bị quà cảm tạ anh em bên nội, ngoại, bên vợ về dự lễ cưới con, thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa, tháng 12 năm 2011, Lê Minh Anh
Ảnh số 12: Mang lễ vật sang nhà gái trong lễ cưới
thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa, tháng 12 năm 2011, Lê Minh Anh
Ảnh số 12: Lễ vật xin dâu trong đám cưới cưới, thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa, tháng 12 năm 2011, Lê Minh Anh
Ảnh số 13: Mang lễ sang xin dâu trong đám cưới, thôn Nà Pheo,
xã Thanh Lòa, tháng 12 năm 2011, Lê Minh Anh
Ảnh số 14: Thầy cúng chuẩn bị lễ đi đón dâu, thôn Nà Pheo,
xã Thanh Lòa, tháng 12 năm 2011, Lê Minh Anh
Ảnh số 15: Đoàn đón dâu, thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa,
tháng 12 năm 2011, Lê Minh Anh
Ảnh số 16: Cô dâu người Nùng Phàn Slình, thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa,
tháng 12 năm 2011, Lê Minh Anh
Ảnh số 17: Chú rể đi mời thuốc và nhận họ hàng bên vợ, thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa, tháng 12 năm 2011, Lê Minh Anh
Ảnh số 18: Đưa dâu về nhà chồng, thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa,
tháng 12 năm 2011, Lê Minh Anh
Ảnh số 19: Cô dâu đi mời thuốc và nhận họ bên bố chồng
thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa, tháng 12 năm 2011, Lê Minh Anh
Ảnh số 20: Cô dâu đi mời nước và nhận họ bên mẹ chồng
thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa, tháng 12 năm 2011, Lê Minh Anh
Ảnh số 21: Chủ hộ cảm ơn các chi em bên nhà vợ trong lễ cưới con trai,
thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa, thang 12 năm 2011, Lê Minh Anh
Ảnh
Ảnh số 22: Vợ chủ hộ cảm ơn bạn bè đến dự tiệc cưới con mình,
thôn Nà Pheo, xã Gia Cát, tháng 12 năm 2011, Lê Minh Anh
Ảnh số 23: Anh em họ hàng bên ngoại chuẩn bị lễ dâng viếng người chết,
thôn Sa Cao, xã Gia Cát, tháng 10 năm 2013, Lê Minh Anh
Ảnh số 24: Lê vật của dòng họ bên ngoại dâng viếng người chết,
thôn Sa Cao, xã Gia Cát, tháng 10 năm 2013, Lê Minh Anh
Ảnh số 25: Lễ vật dòng họ ngoại đặt trước linh sàng người quá cố,
thôn Sa Cao, xã Gia Cát, tháng 10 năm 2013, Lê Minh Anh
Ảnh số 26: Thầy cúng đọc bài cúng của dòng họ ngoại viếng hương hôn người quá cố, thôn Sa Cao, xã Gia Cát, tháng 10 năm 2013, Lê Minh Anh
Ảnh số 27: Thổ công của thôn Sơn Hồng, xã Gia Cát, tháng 8 năm 2007,
Hà Lương Tuấn – Học Viện Dân tộc Quảng Tây, Trung Quốc
Ảnh số 28: Bàn thờ mụ, thôn Sơn Hồng, xã Gia Cát, tháng 8 năm 2007, Hà Lương Tuấn – Học Viện Dân tộc Quảng Tây, Trung Quốc
Ảnh số 29: Sổ ghi tên những người đến trợ giúp trong đám tang, thôn Sơn Hồng, xã Gia Cát, tháng 8 năm 2007, Hà Lương Tuấn,
Học viện Dân tộc Quảng Tây – Trung Quốc
Ảnh số 30: Khu vực biên giới xã Thanh Lòa, huyện Cao Lộc,
tháng 10 năm 2013, Lê Minh Anh
Ảnh số 31: Thảo luận nhóm thôn Nà Pheo, xã Thanh Lòa,
tháng 10 năm 2011, Phạm Thu Hà
Ảnh 32: Thảo luận nhóm thôn Pò Nghiều, xã Thụy Hùng,
tháng 10 năm 2013, Lê Minh Anh
Ảnh số 33: Bánh truyền thống của người Nùng Phàn Slình, thôn Nà Pheo,
xã Thanh Lòa, tháng 10 năm 2011, Khổng Kim Anh
Ảnh số 34: Nghiên cứu tham dự, thôn Sơn Hồng, xã Gia Cát, tháng 10 năm 2008, Hoàng Sỹ Tôn – Sơn Hồng – Gia Cát
Lược đồ các điểm nghiên cứu
Điểm nghiên cứu
Xã Thụy Hùng
Điểm nghiên cứu
Xã Thanh Loà
Điểm nghiên cứu
Xã Gia Cát
TRUNG QUèC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quan_he_dong_ho_cua_nguoi_nung_phan_slinh_nghien_cuu_o_huyen_cao_loc_tinh_lang_son_tv_3781.doc