Luận án Quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước tại Quân khu 3 bộ Quốc Phòng

Về quy mô đầu tư, qua các bảng số liệu cho thấy, mục tiêu đầu tư chủ yếu là đảm bảo xây dựng sở chỉ huy, nhà làm việc và nhà ở, sinh hoạt cho các đơn vị từ cấp tiểu đoàn trở lên đến Bộ chỉ huy các tỉnh, thành phố với diện tích xây dựng trong 7 năm qua là hàng trăm ngàn m2. Diện tích cho công trình bí mật, công trình đặc thù quốc phòng, đường, thao trường, bãi tập, là hàng chục ngàn m2; diện tích công trình y tế, điều dưỡng cũng được đầu tư nâng cấp với hàng chục ngàn m2. Ngoài ra, phần diện tích còn lại là lên đến hàng chục ngàn m2 được đầu tư cho phát triển các mô hình kinh tế, gắn với xây dựng và củng cố quốc phòng trên tuyến biển - đảo, vùng sâu vùng xa, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, kéo ngắn khoảng cách về vùng, miền trên địa bàn Quân khu. Kết quả đạt được trong 7 năm 2012 - 2018 là hàng trăm ngàn m2 nhà các loại, công trình y tế và các công trình phục vụ cho huấn luyện và nhiệm vụ thường xuyên của các đơn vị. Có thể khẳng định rằng trong giai đoạn 2012 - 2018, Nhà nước và các địa phương đã đầu tư XDCB cho Quân đội rất lớn, trong đó có Quân khu, tỷ lệ vốn năm sau cao hơn so với năm trước, nhiều dự án, hạng mục công trình đã được hoàn thành trong giai đoạn này, nâng cao đời sống sinh hoạt cho bộ đội, đóng quân trên vùng biên giới - hải đảo, đó cũng là thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Quân đội và các địa phương đối với lực lượng vũ trang Quân khu, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

doc188 trang | Chia sẻ: tueminh09 | Ngày: 10/02/2022 | Lượt xem: 786 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước tại Quân khu 3 bộ Quốc Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uyết toán thuộc thẩm quyền Quân khu phê duyệt (tính đến hết năm 2018 còn dự án), chỉ đạo các cơ quan thẩm tra khối lượng (Doanh trại, Tác chiến, Quân huấn, Công binh) tập trung làm dứt điểm, quy định rõ thời gian hoàn thành để cơ quan Tài chính thẩm tra, báo cáo Quân khu phê duyệt xong trong năm 2019. - Đẩy nhanh tiến độ lập, thẩm tra và phê duyệt quyết toán vốn đầu tư XDCB. Tăng số lượng các dự án thuê kiểm toán độc lập kiểm toán báo cáo quyết toán. Đề nghị BQP chú trọng bố trí vốn hàng năm để thanh toán dứt điểm các dự án đã được phê duyệt quyết toán. Như vậy mới khuyến khích chủ đầu tư và nhà thầu đẩy nhanh việc lập và trình duyệt quyết toán. Thực hiện quyết toán từng hạng mục công trình hoàn thành, không chờ kết thúc xây dựng toàn bộ các hạng mục của dự án. - Thực hiện nghiêm túc chỉ thị số 27/CT-TTg ngày 27/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường, đẩy mạnh công tác quyết toán vốn đầu tư các dự án hoàn thành sử dụng vốn nhà nước. Xử lý nghiêm vi phạm, cụ thể là: ngừng thanh toán vốn đầu tư, điều chỉnh giảm kế hoạch vốn đầu tư XDCB, không giao dự án đầu tư mới cho chủ đầu tư chậm nộp báo cáo quyết toán từ 24 tháng trở lên (theo quy định về thời gian lập báo cáo quyết toán tại Thông tư số 19/2011/TT-BTC ngày 14/02/2011 của Bộ Tài chính); không bố trí kế hoạch vốn để thanh toán số vốn còn thiếu cho các dự án chậm nộp báo cáo quyết toán từ 12 tháng trở lên; không cho phép nhà thầu vi phạm quy định về thời gian lập hồ sơ quyết toán được tham gia đấu thầu dự án mới. - Cơ quan Tài chính/ Quân khu chủ trì, hướng dẫn, kiểm tra đôn đốc các cơ quan, đơn vị đẩy nhanh công tác quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành và tổng hợp báo cáo Quân khu để kịp thời chấn chỉnh. 4.2.5. Các giải pháp khác Để quản lý vốn đầu tư có hiệu quả, cần phải quản lý từ khâu lập, thẩm định dự án, thiết kế - dự toán, lựa chọn nhà thầu đến khâu kiểm tra, kiểm soát, thanh tra vì tất cả các khâu này đều có ý nghĩa quan trọng đối với hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Vì vậy, bên cạnh các giải pháp đối với công tác kế hoạch, thanh quyết toán vốn đầu tư, chúng ta còn phải thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp sau: 4.2.5.1. Tăng cường công tác lập, thẩm định, phê duyệt dự án Khi lập dự án đầu tư phải nghiên cứu kỹ về địa điểm, quy mô và chú ý chỉ tiêu hiệu quả Quốc phòng - An ninh với phát triển kinh tế - xã hội vốn đầu tư của dự án. Xây dựng và ban hành chỉ tiêu suất vốn đầu tư hàng năm trong lĩnh vực Quốc phòng, nhằm xác định chính xác chỉ tiêu tổng mức đầu tư của dự án, làm cơ sở quản lý chi phí của dự án trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư. Khi phê duyệt dự án đầu tư phải chú ý đến khả năng nguồn vốn cấp cho Quân khu, không thẩm định trên cơ sở nhu cầu hoặc văn bản đề nghị của đơn vị được phê duyệt mà phải chú ý đến tính cần thiết của dự án so với yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị. 4.2.5.2. Tăng cường công tác đầu thầu Công tác đấu thầu, lựa chọn nhà thầu tại Quân khu cần được hoàn thiện theo hướng sau: Một là, thực hiện nghiêm chỉnh qui định về mốc thời gian trong đấu thầu, từ khâu cung cấp thông tin, đánh giá, trình, thẩm định và phê duyệt các nội dung trong đấu thầu, nhằm đẩy nhanh tiến độ dự án, bảo đảm chất lượng thiết bị và công trình. Thực hiện nghiêm các qui định của BQP trong phân cấp trách nhiệm thực hiện đấu thầu. Tăng cường hơn nữa vai trò của chủ đầu tư và ban QLDA theo hướng tạo sự chủ động, linh hoạt trong tổ chức thực hiện đấu thầu. Thực hiện phân cấp mạnh trong đấu thầu với việc giao nhiều quyền hơn cho chủ đầu tư quyết định, tạo ra sự khép kín trong đầu tư. Vì vậy, cần nghiên cứu, ban hành quy định về việc các cơ quan chức năng tham gia giám sát công tác đấu thầu của chủ đầu tư. Hai là, chấn chỉnh việc lập, thẩm định và phê duyệt kế hoạch đấu thầu, không chia nhỏ gói thầu để tổ chức chỉ định thầu. Cần áp dụng rộng rãi các hình thức đấu thầu để tăng cường tính cạnh tranh, công khai, minh bạch. Kịp thời cập nhật những thay đổi về chi phí nhân công, máy thi công, giá nguyên vật liệu, giá ngoại tệ để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác đấu thầu. Ba là, việc lựa chọn hình thức hợp đồng phải phù hợp với gói thầu, tránh tình trạng phải điều chỉnh, làm chậm tiến độ, gây lãng phí. Các điều khoản của hợp đồng được ký kết phải đảm bảo tính pháp lý cao, bao hàm những nội dung chủ yếu theo qui định, chú trọng việc ký kết hợp đồng đối với hình thức chỉ định thầu. Tuân thủ đúng các qui định, hướng dẫn của Nhà nước về ký kết và thực hiện hợp đồng xây dựng. Bốn là, tuyển chọn các tổ chức tư vấn độc lập có đủ năng lực, kinh nghiệm và đạo đức tiến hành thẩm định các gói thầu, đảm bảo tính công khai, chính xác trong lựa chọn nhà thầu. Trong thành phần Tổ chuyên gia giúp việc đấu thầu phải có những chuyên gia có uy tín, am hiểu từng lĩnh vực có liên quan đến gói thầu. Những chuyên gia đó có thể là người của Quân khu hoặc mời bên ngoài. Năm là, nâng cao chất lượng lập dự toán giá gói thầu và hồ sơ mời thầu, tính toán chính xác, đầy đủ khối lượng thi công, nội dung công tác theo yêu cầu về kỹ thuật, thiết kế và các tiêu chí đánh giá hồ sơ dự thầu rõ ràng, cụ thể, tránh mập mờ, gây khó hiểu cho nhà thầu. Trong công tác quản lý đầu tư và xây dựng, lựa chọn nhà thầu là một trong những khâu quan trọng, góp phần đáng kể vào việc đảm bảo chất lượng công trình và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, chống thất thoát tiêu cực trong XDCB. Để làm tốt điều này, cần lưu ý thực hiện một số giải pháp sau: - Các cơ quan quản lý và các chủ đầu tư cần phải tuân thủ nghiêm Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng và các Nghị định của Chính phủ về quản lý đầu tư xây dựng đã ban hành. Mọi vấn đề còn tồn tại trong công tác đấu thầu chỉ xoay quanh hai đối tượng: chủ đầu tư và tổ tư vấn, nếu hai đối tượng này làm tròn trách nhiệm và đúng quyền hạn của mình, thì mọi vấn đề tồn tại sẽ được giải quyết. - Chủ đầu tư cần vô tư, khách quan và công tâm trong mọi quyết định của mình. Trước khi kiến nghị lên cấp trên, chủ đầu tư nên sử dụng những người có đủ năng lực và tin cậy để phản biện lại kết quả xét thầu của tổ tư vấn. Tổ tư vấn phải được thành lập theo đúng thành phần, có năng lực chuyên môn phù với yêu cầu của từng gói thầu. Tổ tư vấn phải đánh giá khách quan mọi vấn đề, từng thành viên có thể bảo lưu ý kiến của riêng mình. - Cần tăng cường thực hiện hình thức đấu thầu rộng rãi để hạn chế các tiêu cực và mang lại sự công bằng cho công tác đấu thầu. Muốn vậy, việc lựa chọn nhà thầu trong đầu tư XDCB cần phải công khai, dân chủ. Trừ những dự án thuộc danh mục bí mật, dự án được phép chỉ định thầu theo quy định của Nhà nước và của Bộ trưởng BQP, tất cả các dự án khác phải được đấu thầu rộng rãi, công khai, minh bạch theo quy định của Luật Đấu thầu. - Phải thường xuyên tập huấn và bồi dưỡng về nghiệp vụ đấu thầu đối với chủ đầu tư. Kiện toàn bộ phận cán bộ quản lý XDCB của chủ đầu tư để đủ điều kiện, năng lực theo qui định của Luật Xây dựng. Phải thường xuyên thanh tra và có hình thức xử lý nghiêm khắc đối với tổ chức, cá nhân vi phạm. 4.2.5.3. Tăng cường tạo nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản Công tác tạo nguồn vốn giữ một vị trí rất quan trọng đối với hoạt động đầu tư XDCB nói chung và hoạt động đầu tư XDCB của Quân khu nói riêng, bởi nếu không có nguồn vốn thì không có hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản nào diễn ra được. Thực tế trong thời gian vừa qua, vốn đầu tư XDCB của Quân khu chủ yếu là vốn đầu tư từ NSNN, cho nên kế hoạch vốn hàng năm bị phụ thuộc và mang nặng tính bao cấp. Trong khi Quân khu còn có những nguồn vốn khác như: nguồn thu từ hoạt động làm kinh tế, hoạt động cho thuê mặt bằng, thu từ chuyển đổi mục đích sử dụng đất và các nguồn thu khác. Cần phải tích cực khai thác tạo nguồn để cân đối cho các dự án đầu tư XDCB, nhằm giảm nhẹ gánh nặng cho NSNN, đồng thời nâng cao tính chủ động trong thực hiện dự án. Cụ thể như: Đối với các dự án xây dựng doanh trại và các dự án khác; xác định nguồn vốn chủ yếu vẫn là từ NSNN, NSQP cấp. Trong thời gian tới Quân khu cần đề xuất với BQP cho phép sử dụng toàn bộ các nguồn thu từ chuyển đổi, đền bù khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất để đầu tư XDCB. Mặt khác, tích cực khai thác nguồn thu từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, dành một tỷ lệ thích đáng trong cơ cấu nguồn vốn đầu tư XDCB của Quân khu. Để thực hiện được biện pháp trên BQP cần quy định cụ thể, rõ ràng một số vấn đề liên quan đến việc sử dụng các nguồn vốn khác cho hoạt động đầu tư XDCB, đặc biệt là cơ chế huy động và sử dụng các nguồn vốn đó. Xây dựng các cơ chế bổ sung nguồn vốn đầu tư XDCB cho lĩnh vực Quốc phòng, để đảm bảo đáp ứng các yêu cầu tối thiểu về cơ sở vật chất phục vụ cho huấn luyện chiến đấu - Do nguồn vốn NSNN cấp cho BQP còn nhiều khó khăn, nên Nhà nước cần có cơ chế mở, cho phép BQP và Quân khu được chủ động sắp xếp, chuyển đổi, bán các cơ sở chật hẹp trong thị xã, thành phố, các cơ sở không nằm trong quy hoạch, để tạo nguồn vốn, xây dựng các cơ sở mới đáp ứng yêu cầu về cơ sở vật chất, bảo đảm phục cho huấn luyện chiến đấu và sinh hoạt của các đơn vị. - Đối với các tỉnh, thành phố có nguồn thu lớn, Nhà nước nên ban hành các chính sách cụ thể cho phép và yêu cầu các địa phương hỗ trợ cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố một lượng kinh phí (hoặc tỷ lệ trên nguồn thu) nhất định, để xây dựng cơ sở vật chất cho lực lượng bộ đội địa phương đó. 4.2.5.4. Tăng cường công tác nghiệm thu và quản lý chất lượng công trình Đổi mới cơ chế quản lý chất lượng công trình theo hướng, gắn trách nhiệm cá nhân của người giám sát thi công. Quy định rõ trách nhiệm bảo đảm chất lượng công trình. Chủ đầu tư chịu trách nhiệm toàn diện đối với chất lượng công trình. Cán bộ giám sát chịu trách nhiệm giám sát việc đã đúng, đủ vật liệu, thiết bị thi công vào công trình, đảm bảo thi công theo đúng thiết kế. Chủ nhiệm đồ án thiết kế chịu trách nhiệm về những sai sót do thiết kế gây ra, những thiếu sót về các yêu cầu kỹ thuật không đưa ra đầy đủ, cụ thể. Nhà thầu chịu trách nhiệm về việc đưa đúng, đủ kịp thời vật tư, thiết bị, nhân công để thi công công trình theo đúng hợp đồng đã ký kết. Trường hợp phát hiện có gian lận như: đưa thiếu vật liệu, sai quy cách, kém chất lượng; máy móc thiết bị thi công cũ, kém chất lượng; công nhân, cán bộ quản lý công trường sai so với cam kết sẽ phải bồi thường, chịu phạt theo hợp đồng (kể cả phát hiện sau khi công trình hoàn thành, đã đưa vào sử dụng). Xây dựng các mức phạt cụ thể chi tiết tới từng loại vi phạm trong quản lý chất lượng công trình. 4.2.5.5. Nhóm giải pháp về phía các chủ đầu tư tại Quân khu 3 Trong lực lượng Quân đội hình thức quản lý chủ yếu là chủ đầu tư trực tiếp quản lý thực hiện dự án. Chủ đầu tư là người được Nhà nước giao quyền trực tiếp quản lý vốn đầu tư, tổ chức thực hiện đầu tư xây dựng công trình và là người sử dụng công trình. Nhà nước đã khẳng định chủ đầu tư là chủ sở hữu đích thực, ngày càng trao thêm nhiều quyền hạn và trách nhiệm, Luật Xây dựng được ban hành đã chứng minh điều đó. Để làm tốt vai trò trong quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN, các chủ đầu tư trong Quân khu cần: - Xác định rõ chủ đầu tư là người chịu trách nhiệm trước pháp luật về quản lý vốn Nhà nước đã giao cho, về hiệu quả đối với toàn bộ quá trình đầu tư xây dựng, tránh tình trạng khi có sự cố thì đổ lỗi do thiếu chuyên môn nghiệp vụ, hoặc khách quan gây nên. - Chú trọng củng cố và kiện toàn các Ban QLDA. Quân khu cần rà soát, đánh giá lại năng lực thực tế của các Ban QLDA hiện có, trên cơ sở đó, có kế hoạch và biện pháp cụ thể để củng cố và kiện toàn các Ban QLDA đã thành lập, bảo đảm đủ điều kiện năng lực hoạt động theo quy định. - Tăng cường quản lý công sản của các Ban QLDA. Thực hiện chế độ trách nhiệm vật chất, trách nhiệm pháp lý đối với các nhà thầu, tư vấn giám sát trong việc xác định khối lượng khi thanh, quyết toán; không giải tán Ban QLDA hoặc chuyển cán bộ quản lý dự án đi nơi khác khi công tác quyết toán vốn đầu tư chưa hoàn thành. - Tích cực mở các lớp bồi dưỡng kiến thức về quản lý dự án đầu tư, giám sát, công tác nghiệp vụ như lập dự án, đấu thầu, thanh quyết toán công trình bao gồm cả đào tạo mới và đào tạo theo hướng chuyên nghiệp và chuyên sâu. - Cần có kiến nghị kịp thời đối với cơ quan quản lý Nhà nước để tăng cường hiệu quả quản lý vốn đầu tư XDCB. - Đảm bảo điều kiện vật chất, tinh thần để cán bộ chiến sĩ yên tâm công tác. Đề nghị cho phép cán bộ chiến sĩ quản lý dự án trong Quân đội được hưởng đầy đủ các loại phụ cấp (kiêm nhiệm, làm đêm, thêm giờ ) như quy định tại Thông tư 72/2017/TT-BTC ngày 17/7/2017 của Bộ Tài chính hướng dẫn quản lý, sử dụng các khoản thu từ hoạt động quản lý dự án của các chủ đầu tư, ban quản lý dự án sử dụng vốn NSNN. - Tăng cường chức năng giám sát của chủ đầu tư. Công tác kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản lý là rất cần thiết, góp phần chấn chỉnh những sai phạm của các chủ đầu tư và các bên B, nhưng nó không thể thay thế được chức năng giám sát của chủ đầu tư. Trong giai đoạn hiện nay cũng như sau này, do biên chế lực lượng cán bộ thiếu nên công việc thanh tra, kiểm tra chưa thể làm thường xuyên trên diện rộng, nhưng dù tăng biên chế đến mức nào thì cũng không thể kiểm tra, thanh tra, toàn diện rộng khắp được. Chủ đầu tư với chức năng giám sát là chính, phải cử ra những người đại diện cho mình có đủ năng lực hành nghề và có đạo đức nghề nghiệp để giám sát thường xuyên, hàng ngày trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Chỉ có những người trực tiếp mới khẳng định được chất lượng công trình và đảm bảo khối lượng xây lắp chính xác. Ngoài ra chủ đầu tư cũng phải sử dụng bộ máy tham mưu của chính mình, thường xuyên kiểm tra hoặc thanh tra khi có dấu hiệu vi phạm. Ở đâu chủ đầu tư phát huy tốt chức năng giám sát, kiểm tra và thanh tra, thì ở đó sẽ có công trình chất lượng và hiệu quả đầu tư cao. Như vậy, để tăng cường quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN tại Quân khu 3 nhằm thực hiện được các định hướng, mục tiêu và xây dựng cơ sở vật chất, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao theo nhiệm vụ trọng tâm chính trị mà Đảng và Nhà nước giao, thì phải thực hiện đồng bộ các giải pháp đối với từng khâu của quá trình quản lý vốn, cho đến kiện toàn đội ngũ cán bộ cả về trình độ và phẩm chất. Trong các giải pháp đã nêu, giải pháp nào cũng có tầm quan trọng nhất định, bởi bất cứ khâu nào trong quá trình quản lý vốn nếu không được quản lý tốt, cũng sẽ dẫn đến hậu quả là thất thoát, lãng phí vốn của Nhà nước, hiệu quả sử dụng vốn không cao. 4.2.5.6. Giải pháp bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn của cán bộ tham gia hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản Tăng cường đào tạo con người, bổ sung nhân sự có trình độ chuyên môn về quản lý vốn đầu tư: Một là, Có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện, bố trí thời gian, hỗ trợ kinh phí để cán bộ được học cao hơn, để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như cập nhật kiến thức quản lý tiên tiến, hiện đại. Tập huấn, trao đổi kinh nghiệm công tác, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ cán bộ làm công tác quản lý vốn đầu tư thực hiện dự án, phải có trình độ chuyên môn kỹ thuật phù hợp và có kỹ năng làm việc thành thạo, tinh thông; cần chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, cơ cấu, giỏi về chuyên môn, nhiệt tình trách nhiệm cao ở các cơ quan tham mưu cấp chiến dịch, chiến lược và các đơn vị cơ sở. Hai là, tại cơ quan tài chính cần bố trí cán bộ nhân viên có trình độ chuyên môn sâu về công tác XDCB (trình độ quản lý và kỹ thuật), đáp ứng yêu cầu về quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN, thực hiện tốt nhiệm vụ của cơ quan thẩm tra, thẩm định, thanh quyết toán vốn đầu tư. Ba là, bên cạnh việc bồi dưỡng nâng cao về trình độ chuyên môn, cán bộ tham gia hoạt động đầu tư và quản lý đầu tư XDCB cần phải được bồi dưỡng về phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Cán bộ, công chức, đặc biệt là cán bộ làm công tác quản lý tài chính về XDCB (vốn là lĩnh vực công tác phức tạp, đòi hỏi phải đầu tư nhiều trí lực và thời gian, dễ gặp rủi ro, cám dỗ) phải thực sự là những cán bộ trung thực, có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có tinh thần trách nhiệm cao. Bốn là, cần quan tâm đến chế độ chính sách đối với đội ngũ cán bộ, nhân viên tham gia hoạt động quản lý vốn đầu tư XDCB, đây là lĩnh vực công tác diện rộng cần nhiều tư duy, sức lực nên việc đãi ngộ về phụ cấp, công tác phí hay khen thưởng kịp thời, đầy đủ để động viên tinh thần, trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ, chức trách được giao. Năm là, cần quan tâm đến điều kiện làm việc, đầu tư trang thiết bị, công nghệ trợ giúp cho hoạt động quản lý vốn đầu tư XDCB, vì đây là lĩnh vực cũng đòi hỏi cập nhật thường xuyên, kịp thời các văn bản pháp lý mới, các thông tin, chế độ, chính sách liên quan đến người lao động, nguồn cung ứng, giá cả thị trường nên cũng cần có điều kiện được phép khai thác ứng dụng công nghệ thông tin, internet, trao đổi, bảo mật dữ liệu qua thư điện tử, mạng xã hội, các hình thức trực tuyến khác 4.3. KIẾN NGHỊ Để tăng cường quản lý vốn đầu tư XDCB trong lĩnh vực Quốc phòng theo những định hướng nêu trên, cần có các điều kiện phù hợp từ phía Nhà nước và BQP, những cơ quan ban hành các chính sách, pháp luật liên quan đến đầu tư XDCB. 4.3.1. Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và kiện toàn tổ chức bộ máy về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước Thực hiện tổng rà soát, đánh giá hệ thống các văn bản pháp luật về đầu tư XDCB hiện hành, để kịp thời sửa đổi, bổ sung, ban hành mới, hình thành hệ thống pháp luật đầu tư công đồng bộ hơn, có tính pháp lý cao hơn, cụ thể như sau:. 4.3.1.1. Cần nhận thức lại một số khái niệm về đầu tư công, dự án đầu tư công và vốn đầu tư công Nhà nước đã ban hành Luật đầu tư Công năm 2014 (số 49/2014/QH13 ngày 18/6/2014) Luật này có hiệu lực từ 01/01/2015. Sau 3 năm thực hiện, Luật đầu tư Công năm 2014 đã phát huy tác dụng tốt, việc luật hóa xác định rõ chủ trương đầu tư ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư đã góp phần ngăn chặn được việc đầu tư tùy tiện, kém hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Luật đầu tư Công 2014 còn bộc lộ một số hạn chế, trong đó thiếu các qui định chặt chẽ về qui hoạch. Do vậy, ngày 15/6/2018, Quốc hội đã ban hành luật số 28/2018/QH14 để bổ sung, sửa đổi một số điều của 11 Luật có liên quan, trong đó có Luật đầu tư công. Tuy nhiên, những hạn chế của Luật đầu tư Công sửa đổi vẫn chưa được giải quyết triệt để, thủ tục đầu tư công vẫn nặng nề, công tác giải ngân vốn đầu tư Công còn rất chậm. Do vậy, ngày 13/6/2019, Quốc hội đã ban hành Luật đầu tư Công số 39/2019/QH14 để thay thế cho Luật đầu tư Công số 49/2014/QH13 (kể cả nội dung sửa đổi tại Luật số 28/2018/QH14). So với Luật đầu tư Công 2014, Luật đầu tư Công năm 2019 đã có những tiến bộ hơn, thủ tục đầu tư gọn, rõ hơn. Tuy nhiên, Luật đầu tư Công 2019 vẫn chưa khắc phục được một hạn chế, đó là chưa thực sự khuyến khích, thu hút được các nguồn lực khác của xã hội vào đầu tư Công. Khái niệm đầu tư Công chưa được nhận thức một cách khoa học cả về lý luận và thực tiễn, vì vẫn nghiêng về quan niệm: “Đầu tư công là hoạt động đầu tư của nhà nước” (như đã phân tích tại khoản 5 mục 2.1.1.1 ở trên). Ngoài ra ngay những khái niệm của Luật đầu tư Công 2019 cũng đang còn có những mâu thuẫn. Trong khi định nghĩa về đầu tư Công tại khoản 15, điều 4 là “Hoạt động đầu tư của nhà nước...” và “Vốn đầu tư Công qui định tại Luật này cũng là của nhà nước bao gồm: vốn NSNN, vốn từ nguồn thu hợp pháp của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập dành để đầu tư theo qui định của pháp luật (khoản 22, điều 4); thì tại khoản 13, điều 4 Luật đầu tư Công 2019 lại đưa ra định nghĩa (theo NCS là rất đúng đắn) rằng: “Dự án đầu tư công là dự án sử dụng toàn bộ hoặc một phần vốn đầu tư Công”. Điều này có nghĩa là dự án đầu tư Công là dự án sử dụng toàn bộ vốn NSNN hoặc một phần vốn NSNN. Vậy ngoài phần vốn NSNN, phần vốn còn lại sẽ là nguồn vốn nào? Phải chăng đó chính là các nguồn vốn đầu tư của xã hội (trong đó có thể có cả vốn đầu tư của tư nhân). Hơn nữa tại điều 5, đối tượng đầu tư công của Luật đầu tư Công 2019 có qui định 6 danh mục thuộc đối tượng đầu tư Công, trong đó tại khoản 4 của điều này là: “Đầu tư của nhà nước tham gia thực hiện dự án theo phương thức đối tác công tư” (theo dự án PPP - đối tác công tư, nhà nước chỉ chi NSNN tham gia một phần vốn đầu tư Công, phần còn lại là thuộc các nguồn vốn khác được huy động từ nền kinh tế. Từ những phân tích trên, theo tác giả luận án, đầu tư Công cần được nhận tức lại là “Hoạt động bỏ vốn của các chủ thể khác nhau vào các chương trình, dự án do nhà nước quản lý nhằm mục đích phục vụ các lợi ích cộng đồng”. Theo đó, vốn đầu tư Công cũng được hiểu bao gồm nhiều nguồn vốn khác nhau. Vốn đầu tư Công có thể là 100% vốn NSNN và cũng có thể chỉ một phần vốn NSNN, phần còn lại là các nguồn vốn khác, đúng như khái niệm dự án đầu tư công mà Luật đầu tư Công 2019 đã nêu: “Dự án đầu tư Công là dự án sử dụng toàn bộ hoặc một phần vốn đầu tư Công” (khoản 13, điều 4) Với cách hiểu về đầu tư Công, dự án đầu tư Công và vốn đầu tư Công nêu trên không chỉ có giá trị về lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất lớn là sử dụng Luật đầu tư Công như một công cụ đắc lực để huy động các nguồn lực còn rất dồi dào của nền kinh tế, cả trong nước và nước ngoài vào các dự án đầu tư XDCB - đầu tư Công phục vụ lợi ích cộng đồng. Điều này lại càng có ý nghĩa cấp bách để giải quyết mâu thuẫn là trong khi nguồn thu từ NSNN còn rất hạn hẹp thì nhu cầu đầu tư Công để xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội là rất lớn mà nguồn từ NSNN không đáp ứng nổi. 4.3.1.2. Về thời hạn thanh toán khối lượng hoàn thành dự án đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước Như phần đặc điểm sử dụng vốn đầu tư XDCB từ NSNN đã nêu (tại mục 2.1.4.1): chi thanh toán vốn đầu tư XDCB từ NSNN là khoản chi đầu tư, có đặc điểm khác biệt với các khoản chi thường xuyên. Nếu như chi thường xuyên bị khống chế bởi năm ngân sách, có nghĩa là đến cuối năm ngân sách (31/12 hàng năm) khoản chi thường xuyên theo kế hoạch dự toán chưa chi hết thì sẽ bị cắt không được kéo dài; thì chi cho đầu tư lại bị chi phối bởi đặc điểm tiến độ thực hiện dự án. Tiến độ thực hiện dự án được tính từ khi khởi công cho đến khi kết thúc, không phụ thuộc vào năm ngân sách. Vì vậy, trong các Luật Xây dựng, Luật đầu tư Công đều có điều khoản qui định: người quyết định đầu tư có trách nhiệm bố trí đủ vốn theo tiến độ thực hiện dự án. Tuy nhiên, tại điều 11 của Thông tư số 08/2016/TT-BTC về quản lý, thanh toán vốn đầu tư từ nguồn NSNN đã qui định “vốn kế hoạch năm của dự án được thanh toán cho khối lượng hoàn thành được nghiệm thu đến hết ngày 31/12 năm kế hoạch, thời hạn thanh toán khối lượng hoàn thành đến hết 31/01 năm sau. Trường hợp dự án cần thiết phải kéo dài thời gian thực hiện và thanh toán sang năm sau phải được cấp có thẩm quyền cho phép. Qui định trên đây của Thông tư 08 đã gây khó khăn cho công tác giải ngân và kiểm soát chi đầu tư ở những điểm sau đây: Một là, làm tăng thêm thủ tục đầu tư, tạo cơ chế xin cho. Người quyết định đầu tư dự án được nhà nước giao quản lý vốn và phải chịu trách nhiệm trước nhà nước về số vốn được giao lại phải đi xin “cấp có thẩm quyền” để kéo dài thanh thanh toán là điều vô lý Hai là, qui định trên đã tạo kẽ hở, các nhà thầu dồn khối lượng đến phần cuối năm (sang quí IV) mới thanh toán. (Quí I, II, III: khối lượng thanh toán thấp) công việc thanh toán dồn vào cuối năm đã gây khó khăn cho công tác kiểm soát chi của KBNN. Theo chúng tôi, nếu bỏ được điều 11 của Thông tư 08/2016/TT-BTC sẽ tạo điều kiện cho cả nhà thầu, chủ đầu tư và KBNN thuận lợi cho việc giải ngân vốn đầu tư XDCB từ NSNN, 4.3.1.3. Về tổ chức bộ máy quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước Tổ chức lại bộ máy quản lý nhà nước theo hướng tinh giản, gọn nhẹ, có hiệu lực và hiệu quả. Quản lý Nhà nước chỉ đảm nhiệm chức năng hoạch định chính sách, chế độ và kiểm tra việc thực hiện các chính sách, chế độ đó, không bao biện làm thay, hay can thiệp quá sâu vào công việc của cơ sở. Theo qui định hiện hành, bộ máy quản lý nhà nước về vốn đầu tư XDCB từ NSNN bị cắt khúc do hai cơ quan cùng thực hiện là Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính. Theo đó trong các đơn vị quân đội, công tác quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN cũng chia ra hai đơn vị quản lý là Cục Kế hoạch Đầu tư và Cục Tài chính. Việc chia tách hai cơ quan cùng quản lý một đống vốn đầu tư XDCB từ NSNN sẽ tạo ra sự chồng chéo, bất cập, khó qui trách nhiệm về một đầu mối, khó giải trình. Điều này thể hiện: - Theo qui định của Luật NSNN, Luật đầu tư Công thì: cơ quan Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan chủ trì quản lý vốn đầu tư trong khâu lập kế hoạch, phân bổ vốn, cân đối vốn, trong khi đó cơ quan tài chính là cơ quan quản lý nguồn vốn, huy động tạo ra nguồn vốn đầu tư XDCB lại không phải là cơ quan chủ trì mà chỉ là cơ quan phối hợp quản lý. - Cũng theo qui định của Luật NSNN thì 1 đồng vốn đầu tư XDCB lại bị tách ra thành 2 bộ phận: (i) vốn đầu tư XDCB mới do cơ quan Kế hoạch Đầu tư quản lý và (ii) vốn sửa chữa, duy tu là khoản chi thường xuyên do cơ quan tài chính quản lý. Sự chia tách này đã gây khó khăn cho việc sử dụng đồng bộ vốn đầu tư XDCB. Sự đồng bộ trong sử dụng vốn đầu tư XDCB (xây dựng mới gắn với duy tu bảo dưỡng, sửa chữa) là yếu tố quan trọng tạo ra hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, kéo dài tuổi thọ của các công trình đầu tư XDCB. - Công tác quản lý vốn đầu tư XDCB lẽ ra phải được thực hiện theo trình tự, nay bị cắt khúc: khâu lập, phân bổ dự toán chi đầu tư XDCB do Bộ Kế hoạch và Đầu tư phụ trách; khâu thanh, quyết toán và kiểm soát chi do Bộ Tài chính phụ trách đã tạo ra nhiều đầu mối báo cáo, nhiều thủ tục đầu tư cả theo chiều ngang (đồng cấp) và cả theo chiều dọc (cấp dưới-cấp trên; địa phương-trung ương). Điều này đã gây khó khăn trong trách nhiệm giải trình giữa các cơ quan của Chính phủ với Quốc hội trong quản lý vốn đầu tư. Từ những bất cập nêu trên, tác giả luận án đề nghị: để nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý vốn đầu tư, để tránh thất thoát lãng phí vốn đầu tư, để giảm các thủ tục hành chính, giảm các đầu mối quản lý, nâng cao trách nhiệm giải trình thì cần thiết phải sắp xếp lại bộ mày quản lý vốn đầu tư XDCB theo hướng giao cho cơ quan tài chính chịu trách nhiệm trước nhà nước quản lý toàn bộ quá trình quản lý vốn đầu tư XDCB từ khâu kế hoạch (hàng năm và trung hạn) đến phân bổ vốn, thanh toán, quyết toán, kiểm soát chi vốn đầu tư XDCB. Cơ quan Kế hoạch và Đầu tư sẽ chuyên sâu việc xây dựng chiến lược, kế hoạch dài hạn, qui hoạch phát triển. Với kế hoạch hàng năm không nên quá cứng nhắc về tỷ lệ và cơ cấu vốn của các chuyên ngành như hiện nay. Đây là giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn đầu tư công tại Việt Nam. Bộ Tài chính thống nhất với BQP về cơ chế quản lý, thanh quyết toán các dự án đặc thù có yêu cầu bảo mật trong lĩnh vực Quốc phòng, theo hướng tiếp tục cấp vốn qua tài khoản BQP. BQP chịu trách nhiệm kiểm soát hồ sơ, hướng dẫn các chủ đầu tư thực hiện đúng các quy định chung và quy định của ngành. Bộ Xây dựng chủ trì phối hợp với các Bộ khẩn trương ban hành các định mức kinh tế - kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng phục vụ cho việc quản lý chi phí và chất lượng công trình theo hướng tiên tiến, hiệu quả và tiết kiệm. 4.3.1.4. Hoàn thiện hệ thống văn bản qui phạm pháp luật về quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước Các văn bản hiện hành chưa quy định rõ, đầy đủ địa vị pháp lý của các chủ thể có liên quan cũng như các chế tài xử lý kèm theo. Thực tế này đã dẫn đến sự nhầm lẫn trong việc xác định trách nhiệm, thực hiện trách nhiệm, chịu trách nhiệm của các chủ thể trong quá trình sử dụng vốn đầu tư XDCB từ NSNN. Vì thế, việc quy định rõ trách nhiệm của từng chủ thể một cách chi tiết, rõ ràng là hoàn toàn cần thiết. Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, điều chỉnh công tác quản lý chất lượng công trình, theo hướng cải cách các thủ tục về thẩm định, phê duyệt, giám sát và nghiệm thu sao cho giảm bớt các thủ tục hành chính, nhưng vẫn đảm bảo kiểm soát chất lượng công trình thông qua các chủ thể trực tiếp tham gia quản lý, thiết kế và thi công xây dựng công trình. Bổ sung, ban hành thêm các văn bản quy phạm pháp luật, điều chỉnh hoạt động bảo trì công trình xây dựng trong giai đoạn sử dụng khi hết tuổi thọ công trình, điều chỉnh các hành vi tranh chấp về chất lượng, kiểm định - giám định chất lượng, giám định tư pháp và giám định sự cố. Tăng cường quản lý an toàn đối với các biện pháp tổ chức thi công, quản lý chất lượng thiết kế và thi công các hạng mục công trình tạm, hạng mục công trình phụ. Ngoài ra, cần quy định chi tiết hơn nữa về các điều kiện năng lực của các nhà thầu tham gia hoạt động xây dựng, đặc biệt là đối với các công việc xây dựng đặc thù; kiểm soát quá trình hoạt động của các nhà thầu này và sửa đổi, bổ sung các chế tài xử lý các vi phạm về quản lý chất lượng công trình xây dựng. Đẩy nhanh tiến độ soạn thảo, ban hành các quy chuẩn và tiêu chuẩn kỹ thuật, nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất, tiết kiệm năng lượng, nâng cao chất lượng và hội nhập thông lệ quốc tế. Căn cứ các tiêu chuẩn của Nghị định số 65/2003/NĐ-CP ngày 22/10/2003 của Chính phủ (nay là Nghị định số 76/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định tiêu chuẩn vật chất hậu cần đối với quân nhân tại ngũ, công chức và viên chức quốc phòng) quy định tiêu chuẩn vật chất hậu cần đối với sỹ quan, hạ sỹ quan, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt nam, Bộ cần ban hành quy định về các tiêu chí ưu tiên đầu tư hàng năm (đơn vị mới thành lập, chia tách, đơn vị cần hiện đại hoá ) làm căn cứ để Cục Kế hoạch và Đầu tư, Cục Tài chính thống nhất danh mục dự án cần ưu tiên đầu tư năm tới trình thủ trưởng Bộ phê duyệt. Đối với Bộ Quốc phòng nên tiếp tục tục ủy quyền, phân cấp trong đầu tư để tăng cường vai trò, trách nhiệm của cơ sở, các chủ đầu tư, giảm tải cho các cơ quan chuyên môn của Bộ. Đề nghị bổ sung ủy quyền cho Chỉ huy trưởng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phê duyệt báo cáo kinh tế kinh thuật (bao gồm cả phê duyệt kế hoạch đấu thầu, quyết toán dự án hoàn thành). Việc phân cấp và ủy quyền như trên, được thực hiện đồng thời với việc thông báo dự kiến mức vốn được đầu tư hàng năm, để các chủ đầu tư chủ động trong việc sắp xếp ưu tiên đầu tư. Cải cách các thủ tục hành chính, sắp xếp bộ máy đảm bảo giải quyết nhanh, đúng nguyên tắc, kịp thời; sửa đổi quy trình tiếp nhận, xử lý hồ sơ về XDCB trong BQP theo hướng phù hợp với đặc điểm trong lĩnh vực Quốc phòng, các quy định của Luật Xây dựng và Luật Đấu thầu. Cải cách hành chính trong các khâu của quá trình đầu tư XDCB trong BQP, phải thực hiện thống nhất trong toàn quân bằng cách nêu rõ quy trình, thời gian giải quyết các công việc từ xin chủ trương đầu tư, lập kế hoạch, phê duyệt dự án, đến thanh quyết toán dự án hoàn thành. Để đáp ứng được yêu cầu đảm bảo cơ sở vật chất cho công tác xây dựng lực lượng dân quân tự vệ ở các địa phương (theo Luật Dân quân tự vệ). BQP làm việc với Bộ Tài chính để tăng cường hỗ trợ từ ngân sách địa phương cho Quốc phòng, để Bộ chỉ huy quân sự các tỉnh, thành phố chủ động báo cáo với cấp ủy, chính quyền địa phương tạo điều kiện giúp đỡ, hỗ trợ về kinh phí theo tinh thần Nghị định số 10/2004/NĐ-CP ngày 07/01/2004 quy định về quản lý, sử dụng ngân sách và tài sản của Nhà nước đối với một số hoạt động thuộc lĩnh vực Quốc phòng (nay là Nghị định số 165/2016/NĐ-CP). 4.3.2. Thực hiện nghiêm pháp luật đề ra, xây dựng và hoàn thiên cơ chế thưởng phạt nghiêm minh Có chế định đề cao trách nhiệm và xử lý trách nhiệm cá nhân trong từng khâu đầu tư, nhất là trách nhiệm của người quyết định dự án quy hoạch, dự án đầu tư; làm rõ trách nhiệm và xử lý nghiêm minh, triệt để bằng biện pháp hành chính, hình sự và bồi hoàn thiệt hại vật chất; khắc phục tình trạng chỉ quy kết trách nhiệm, nhận thiếu sót, yếu kém tập thể chung chung như hiện nay; kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy công quyền những cán bộ, công chức phẩm chất kém, thiếu tinh thần trách nhiệm, gây phiền hà, nhũng nhiễu, năng lực chuyên môn yếu trong quản lý XDCB. Quy định cụ thể quy trình, chế tài về thanh tra, kiểm tra, giám sát vốn đầu tư XDCB từ NSNN, trong từng khâu của quá trình đầu tư; ban hành các nguyên tắc, tiêu chí, định mức lập dự toán, phân bổ vốn XDCB. Thực hiện công khai, minh bạch các quy định từ chủ trương đầu tư, thẩm định, duyệt dự án đầu tư, khảo sát, thiết kế, đấu thầu đến nghiệm thu, thanh quyết toán; công khai kết quả thanh tra, kiểm tra và kết quả xử lý qua thanh tra, kiểm tra. 4.3.3. Hoàn thiện công tác quy hoạch trong đầu tư xây dựng cơ bản Quy hoạch đầu tư là một trong những nội dung quan trọng, trong đó xác định lĩnh vực và nhu cầu đầu tư, đảm bảo mối liên kết chặt chẽ giữa các dự án đầu tư và chiến lược phát triển kinh tế xã hội, Trong quy hoạch cần xác định rõ kế hoạch các nguồn vốn đầu tư, trên cơ sở đó phân chia lĩnh vực đầu tư thuộc nguồn vốn từ NSNN. Để nâng cao chất lượng quy hoạch cần phải lưu ý một số nội dung: - Rà soát, đánh giá tình hình triển khai quy hoạch. Đảm bảo tính đồng bộ, khớp nối và thống nhất trong quy hoạch phát triển kinh tế xã hội và Quốc phòng - An ninh. - Tập trung chỉ đạo, ưu tiên bố trí vốn để triển khai quy hoạch chi tiết, đảm bảo mục tiêu quy hoạch luôn đi trước một bước, phục vụ các dự án và triển khai các dự án đầu tư. Đối với các dự án phục vụ công tác Quốc phòng - An ninh, việc triển khai quy hoạch sớm, đồng bộ sẽ tránh được quy hoạch chồng chéo với các lĩnh vực khác của từng địa phương. - Kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, đẩy nhanh tiến độ hoàn thành quy hoạch ở các địa phương, bao gồm cả những địa phương đang có chiến lược đô thị hóa, lấy đó làm cơ sở triển khai các dự án. KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 Xuất phát từ thực tế của quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN ở Quân khu 3 đã phân tích ở chương 3, từ yêu cầu về xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu trong những năm tới, luận án đã đề xuất mục tiêu tổng quát để tăng cường quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN đến năm 2025. Trên cơ sở đó, đã chỉ ra các yêu cầu và phương hướng tăng cường quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN ở Quân khu. Xuất phát từ những hạn chế trong quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN hiện nay, luận án đã chỉ rõ những nội dung cần phải tăng cường quản lý trong tất cả các khâu như xây dựng qui hoạch, kế hoạch, trong khâu lập, thẩm định, phê duyệt dự án, trong triển khai đấu thầu, thi công các dự án, trong nghiệm thu, thẩm định chất lượng và bàn giao công trình đầu tư XDCB, trong thanh quyết toán vốn đầu tư XDCB từ nguồn vốn NSNN ở Quân khu. Đồng thời luận án đã đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN ở Quân khu đến năm 2025. Liên quan đến các giải pháp này, luận án cũng khuyến nghị hoàn thiện môi trường luật pháp, cơ chế chính sách, nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ quản lý. Luận án cũng đặc biệt chú ý tới việc hoàn thiện quản lý với các chủ thể tham gia dự án đầu tư XDCB từ nguồn vốn NSNN ở Quân khu là các cơ quan chức năng của Quân khu, chủ đầu tư và nhà thầu xây lắp. KẾT LUẬN Trước những diễn biến khó lường về tình hình an ninh - chính trị trên thế giới và khu vực Châu á, do đó việc đầu tư xây dựng cho lĩnh vực Quốc phòng - An ninh vững mạnh ngày càng cần thiết. Chính vì vậy nâng cao tiềm lực Quốc phòng luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, trong đó có việc đầu tư XDCB và mua sắm trang thiết bị công nghệ hiện đại, để xây dựng lực lượng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Do đó việc đầu tư XDCB từ NSNN trên địa bàn Quân khu trong những năm tới ngày càng được đầu tư nhiều hơn, để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ của Quân đội trong tình hình mới và xây dựng phát triển kinh tế - xã hội với củng cố Quốc phòng trên tuyến Biển - Đảo - Biên giới phía Đông bắc của Tổ quốc. Vì thế việc nghiên cứu chủ đề này có ý nghĩa quan trọng. Luận án đã đạt được những kết quả chủ yếu sau: - Luận án đã tìm hiểu một cách tương đối toàn diện về vốn đầu tư XDCB từ NSNN trong Quân đội, từ đặc điểm, phân loại, vai trò đến các nguyên tắc và nội dung quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN. Các tiêu chí đánh giá quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN cũng được phân tích làm rõ. - Luận án đã tiến hành thu thập tài liệu thứ cấp từ các công trình đã công bố, từ các báo cáo cũng như số liệu thống kê có nguồn gốc tin cậy để phân tích thực trạng quán lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN ở Quân khu. Từ đó, đánh giá những mặt đã đạt được, những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân của hạn chế trong công tác quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN tại Quân khu trong những năm gần đây. - Đồng thời luận án đã đưa ra 5 nhóm giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, tăng cường công tác quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN trong thời gian tới ở Quân khu, gồm lập kế hoạch và phân bổ vốn đầu tư XDCB; tạm ứng, thanh toán vốn đầu tư XDCB; quyết toán vốn đầu tư XDCB; kiểm tra, thanh tra, kiểm toán vốn đầu tư XDCB; và đặc biệt nhấn mạnh tới việc nâng cao trình độ, năng lực và phẩm chất của cán bộ. Theo tác giả, việc thực hiện các phương hướng và áp dụng đồng bộ hệ thống các nhóm giải pháp trên sẽ mang lại sự biến đổi tích cực trong quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN trong lĩnh vực Quốc phòng. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Vũ Quang Phiến (2019), Về công tác quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước tại Quân khu 3, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 20 tháng 7 năm 2019 Vũ Quang Phiến (2019), Tăng cường quản lý ngân sách xây dựng cơ bản, Tạp chí Tài chính Quân đội, số 4 (251) năm 2019 Vũ Quang Phiến, Vũ Nam Khánh (2019), Quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản ở sư đoàn bộ binh 395, Quân khu 3 - Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Nghiên cứu khoa học Hậu cần Quân sự, số 3 (197) tháng 6 năm 2019 Vũ Quang Phiến (2012), Thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài đến năm 2020, Tạp chí nghiên cứu Tài chính kế toán, số 7 (108) năm 2012. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Thị Bình (2012), Hoàn thiện quản lý Nhà nước đối với đầu tư XDCB từ vốn ngân sách trong ngành GTVT Việt Nam, luận án tiến sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Bộ Tài chính (2005), Luật Ngân sách Nhà nước và các văn bản hướng dẫn thực hiện, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội. Bộ Tài chính (2010), Thông tư số 10/2010/TT-BTC ngày 26/01/2010 qui định về quản lý, sử dụng chi phí quản lý dự án của các dự án đầu tư xây dựng sử dụng vốn NSNN, Hà Nội. Bộ Tài chính (2011), Thông tư số 86/2011/TT-BTC ngày 17/6/2011 qui định về quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư thuộc NSNN, Hà Nội. Bộ Tài chính (2011), Thông tư số 176/2011/TT-BTC ngày 06/12/2011 hướng dẫn chế độ thu nộp và quản lý sử dụng phí thẩm định dự án đầu tư xây dựng, Hà Nội. Bộ Tài chính (2015), Thông tư số 190/2015/TT-BTC ngày 17/11/2015 qui định việc quản lý, sử dụng chi phí trong quá trình lựa chọn nhà thầu các dự án sử dụng vốn NSNN và vốn Trái phiếu Chính phủ, Hà Nội. Bộ Tài chính (2016), Thông tư số 223/2016/TT-BTC ngày 10/11/2016 qui định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề thừa phát lại, phí thẩm định điều kiện thành lập, hoạt động văn phòng thừa phát lại, Hà Nội. Bộ Quốc phòng (2008), Thông tư số 123/2007/TT-BQP ngày 13/08/2007 hướng dẫn một số nội dung của Nghị định số 71/2005/NĐ-CP ngày 06/6/2005 của Chính phủ về quản lý đầu tư xây dựng công trình đặc thù. Bộ Quốc phòng (2011), Thông tư số 86/2011/TT-BQP ngày 22/06/2011 hướng dẫn về việc quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản theo niên độ ngân sách hàng năm đối với các đơn vị thuộc BQP, Hà Nội. Bộ Quốc phòng (2011), Thông tư số 120/2011/TT-BQP ngày 8/07/2011 qui định quản lý, sử dụng chi phí quản lý dự án của các dự án đầu tư trong Quân đội, Hà Nội. Bộ Quốc phòng (2014), Công văn số 5085/2014/BQP-CTC về việc triển khai thanh toán vốn đầu tư trong Quân đội, Hà Nội. Bộ Quốc phòng (2017), Thông tư số 88/2017/TT-BQP ngày 17/4/2017 qui định một số nội dung về đấu thầu, lựa chọn nhà thầu trong BQP, Hà Nội. Bộ Quốc phòng (2017), Thông tư số 101/2017/TT-BQP ngày 27/4/2017 qui định về phân cấp, ủy quyền quyết định đầu tư; lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư trong BQP, Hà Nội. Bộ Quốc phòng (2017), Thông tư số 191/2017/TT-BQP ngày 17/8/2017 Sửa đổi, bổ sung khoản 5, Điều 3 Thông tư số 88/2017/TT-BQP ngày 17/4/2017 qui định một số nội dung về đấu thầu, lựa chọn nhà thầu trong BQP, Hà Nội. Bộ Quốc phòng (2017), Thông tư số 190/2011/TT-BQP ngày 18/07/2017 qui định về quản lý, sử dụng các nguồn thu từ hoạt động quản lý dự án của các chủ đầu tư, ban quản lý dự án trong BQP, Hà Nội. Bộ Quốc phòng (2017), Thông tư số 223/2017/TT-BQP ngày 12/9/2017 qui định về quyết toán dự án hoàn thành thuộc các nguồn vốn đầu tư trong BQP, Hà Nội. Bộ Quốc phòng (2017), Thông tư số 268/2017/TT-BQP ngày 20/10/2017 qui định về quản lý, thanh toán vốn đầu tư trong BQP, Hà Nội. Bộ Quốc phòng (2017), Chỉ thị số 129/2017/TT-BQP ngày 12/11/2017 về tăng cường quản lý đầu tư, mua sắm và đấu thầu trong BQP, Hà Nội. Bộ Quốc phòng (2017), Thông tư số 296/2017/TT-BQP ngày 24/11/2017 qui định chi tiết một số nội dung về quản lý chất lượng và bảo trì công trình xây dựng trong BQP, Hà Nội. Bộ Xây dựng (2013), Thông tư số 10/2013/TT-BXD ngày 25/7/2013 qui định chi tiết và hướng dẫn một số nội dung về thẩm định, phê duyệt dự án và thiết kế, dự toán xây dựng công trình, Hà Nội. Bộ Xây dựng (2016), Thông tư số 16/2016/TT-BXD ngày 8/7/2016 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 59/2015/NĐ-CP ngày 18/6/2015 qui định về quản lý dự án đầu tư xây dựng, Hà Nội. Bộ Xây dựng (2016), Thông tư số 06/2016/TT-BXD ngày 31/3/2016 hướng dẫn xác định và quản lý chi phí đầu tư xây dựng, Hà Nội. Bộ Xây dựng (2016), Thông tư số 05/2016/TT-BXD ngày 30/3/2016 hướng dẫn xác định đơn giá nhân công trong quản lý chi phí đầu tư xây dựng, Hà Nội. Bộ Xây dựng (2016), Thông tư số 18/2016/TT-BXD ngày 8/7/2016 qui định chi tiết một số nội dung về quản lý chất lượng công trình xây dựng, Hà Nội. Bộ Quốc phòng (2008), Quyết định số 06/2008/QĐ-BQP ngày 24/01/2008 về việc ban hành Quy định quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành trong Quân đội (thay thế Quyết định số 242/2003/QĐ-BQP ngày 29/09/2003). Bộ Quốc phòng (2008), Quyết định số 116/2008/QĐ-BQPngày 12/08/2008 ban hành Quy chế xây dựng công trình chiến đấu. Bộ Quốc phòng (2008), Quyết định số 138/2008/QĐ-BQP ngày 13/11/2008 về việc phân cấp, uỷ quyền quyết định dự án đầu tư và xây dựng (thay thế Quyết định số 118/2007/QĐ-BQP ngày 01/08/2007). Bộ Quốc phòng (2008), Chỉ thị số 04/CT-BQP ngày 18/02/2009 về việc chấn chỉnh thực hiện công tác đấu thầu trong BQP. Bộ Quốc phòng (2009), Thông tư số 15/2009/TT-BQP ngày 02/04/2009 về việc bổ sung Quyết định số 92/2008/QĐ-BQP ngày 20/6/2008 Quy định quản lý cấp phát, thanh toán vốn đầu tư đối với các dự án đầu tư trong Quân đội. Bộ Quốc phòng (2009), Thông tư số 25/2009/TT-BQP ngày 29/05/2009 Quy định quản lý, sử dụng chi phí quản lý dự án đầu tư trong Quân đội (thay thế Quyết định số 30/2008/QĐ-BQP ngày 17/03/2008). Bộ Quốc phòng (2009), Thông tư số 29/2009/TT-BQP ngày 17/06/2009 Quy định quyết toán vốn đầu tư XDCB theo niên độ ngân sách hàng năm đối với các đơn vị thuộc BQP. Bộ Quốc phòng (2009), Thông tư số 31/2009/TT-BQP ngày 22/06/2009 hướng dẫn một số nội dung về quản lý chất lượng công trình xây dựng trong Quân đội. Bộ Quốc phòng (2009), Thông tư số 86/2009/TT-BQP ngày 15/10/2009 Ban hành quy trình thẩm tra quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành trong Quân đội. Bộ Quốc phòng (2010), Công văn số 2781/BQP ngày 18/05/2010 về việc triển khai thực hiện Chỉ thị 494/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc sử dụng hàng hoá, vật tư sản xuất trong nước trong công tác đấu thầu các dự án đầu tư sử dụng vốn Nhà nước trong Quân đội. Bộ Quốc phòng (2010), Thông tư số 75/2010/TT-BQP ngày 12/06/2010 hướng dẫn chi tiết một số nội dung về quản lý đấu thầu trong Quân đội. Bộ Quốc phòng (2010), Thông tư số 108/2010/TT-BQP ngày 30/08/2010 Quy định phân cấp, uỷ quyền quyết định dự án đầu tư và xây dựng trong BQP (thay thế Quyết định số 138/2008/QĐ-BQP ngày 13/11/2008). Bộ Quốc phòng (2010), Thông tư số 111/2010/TT-BQP ngày 13/09/2010 hướng dẫn quy trình thẩm định dự án đầu tư và xây dựng trong BQP. Chính phủ (2015), Nghị định số 30/2015/NĐ-CP ngày 17/3/2015 qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư, Hà Nội. Chính phủ (2015), Nghị định số 32/2015/NĐ-CP ngày 25/3/2015 qui định về quản lý chi phí đầu tư xây dựng, Hà Nội. Chính phủ (2015), Nghị định số 37/2015/NĐ-CP ngày 22/4/2015 qui định chi tiết về hợp đồng xây dựng, Hà Nội. Chính phủ (2015), Nghị định số 46/2015/NĐ-CP ngày 12/5/2015 qui định về quản lý chất lượng và bảo trì công trình xây dựng, Hà Nội. Chính phủ (2015), Nghị định số 59/2015/NĐ-CP ngày 18/6/2015 qui định về quản lý dự án đầu tư xây dựng, Hà Nội. Chính phủ (1999), Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 ban hành Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, Nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội. Chính phủ (2000), Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 05/5/2000 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08/07/1999, Nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội. Chính phủ (2003), Nghị định số 07/2003/NĐ-CP ngày 30/11/2003 sửa đổi bổ sung một số điều của Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 và Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 05/5/2000, Nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội. Chính phủ (2005), Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình, Nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội. Chính phủ (2006), Nghị định số 112/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình, Nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội. Chính phủ (2007), Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày 13/06/2007 về việc quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình, Nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội. Chính phủ (2009), Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/200 về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình, Nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội. Chính phủ (2009), Nghị định số 83/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình, Nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội. Chính phủ (2009), Nghị định số 112/2009/NĐ-CP ngày 14/12/2009 về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình, Nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội. Chính phủ (2009), Nghị định số 85/2009/NĐ-CP ngày 21/10/2009 hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu theo Luật Xây dựng, Nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội. Trần Trung Dũng (2017), Giải pháp tăng cường quản lý vốn đầu tư XDCB từ ngân sách Nhà nước tại Bộ Công an, luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện tài chính, Hà Nội Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Học viện Tài chính (2009), Giáo trình Quản lý tài chính công, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội. Học viện Hậu cần (2016), Giáo trình Quản lý vốn đầu tư XDCB ở đơn vị chủ đầu tư, Nhà xuất bản QĐND, Hà Nội. Nguyễn Đình Huy (2014), Giải pháp hoàn thiện quản lý chi ngân sách địa phương đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông đường bộ tỉnh Vĩnh Phúc, luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.. Bùi Thanh Huyền (2018), Quản lý vốn đầu tư XDCB tại các Quân khu, luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Hậu cần, Hà Nội. Vũ Trường Khá (2017). Quản lý vốn đầu tư XDCB đối với các Đoàn KTQP khu vực phía Bắc Việt Nam, luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội. Trịnh Thị Thúy Hồng (2012), Quản lý chi ngân sách Nhà nước trong đầu tư XDCB trên địa bàn tỉnh Bình Định, luận án tiến sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Nguyễn Thị Lan Hương ( 2019), Quản lý vốn đầu tư XDCB từ nguồn vốn ngân sách nhà nước ở Việt Nam, luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện tài chính, Hà Nội. Quốc hội (2014), Luật Xây dựng số 50/2014/QH13 ngày 18/6/2014, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Quốc hội (2014), Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 ngày 26/11/2013, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Quốc hội (2015), Luật Ngân sách nhà nước số 83/2015/QH13 ngày 25/6/2015, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Quốc hội (2009), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật liên quan đến đầu tư XDCB số 38/2009/QH12 ngày 19/6/2009, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Quốc hội (2015), Luật Đầu tư công số 39/2019/QH13 ngày 25/6/2019, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Quân khu 3 (2006), Chỉ thị số 4223/CT-BTL ngày 02/10/2006 về tăng cường công tác quản lý vốn đầu tư XDCB và đẩy nhanh quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành. Quân khu 3 (2009), Quyết định số 3343/QĐ-BTL ngày 05/08/2009 ban hành quy chế hoạt động của Hội đồng thẩm định dự án đầu tư xây dựng. Quân khu 3 (2010), Quyết định số 6468/QĐ-BTL ngày 02/10/2010 ban hành Quy chế đầu tư XDCB (thay thế Quyết định số 3784/QĐ-BTL ngày 02/10/2006). Nguyễn Văn Thập (2008), Hoàn thiện cơ chế quản lý vốn đầu tư XDCB trong lĩnh vực an ninh ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ kinh tế, trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự quốc phòng (2004), Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nhà xuất bản QĐND, Hà Nội. Từ điển kinh tế học hiện đại, NXB Chính trị quốc gia - Hà Nội, 1999. Cấn Quang Tuấn (2007), “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB tập trung từ NSNN do thành phố Hà Nội quản lý”, luận án tiên sỹ kinh tế, Học viện tài chính, Hà Nội. Nguyễn Thị Thanh (2017), Hoàn thiện phân cấp quản lý đầu tư XDCB sử dụng nguồn vốn ngân sách của Thành phố Hà Nội đến năm 2020, luận án tiến sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Nguyễn Như Ý (1998), Đại Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan_an_quan_ly_von_dau_tu_xay_dung_co_ban_tu_ngan_sach_nha.doc
  • docTóm tắt LA _ Vu Quang Phien (VN).doc
  • docTrích yếu LA Vũ Quang Phiến (Eng).doc
  • docTrích yếu LA Vũ Quang Phiến (VN).doc
Luận văn liên quan