Đây là chỉ số được WB đưa ra để đánh giá các quy tắc ảnh hưởng trực tiếp đến
kinh doanh. Chỉ số này xếp hạng các quốc gia, phản ánh các quốc gia đưa ra những quy
tắc cho kinh doanh theo hướng đơn giản hơn và có thể bảo vệ quyền sở hữu của doanh
nghiệp mạnh hơn. Chỉ số này gốm 10 chỉ tiêu thành phần, đó là: “(i) khởi sự doanh
nghiệp: thủ tục pháp lý, thời gian, vốn và giá trị doanh nghiệp cực tiểu theo qui định;
(ii) đăng ký giấy phép kinh doanh: thủ tục pháp lý, thời gian và chi phí của việc xác
minh và cấp giấy phép kinh doanh; (iii) chi phí thuê nhân công và tình trạng khan hiếm
lao động, phản ánh mức độ khó khăn về giá nhân công và chỉ số mềm dẻo về thỏa ước
thời gian lao động; (iv) đăng ký quyền sở hữu gồm các thủ tục, thời gian và chi phí khi
đăng ký các tài sản là bất động sản thương mại như đất đai; (v) mức khấu trừ tín dụng:
đây là chỉ số công khai thông tin tín dụng; (vi) mức độ bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư: thể
hiện phạm vi quyền hạn cũng như trách nhiệm pháp lý của người quản lý doanh nghiệp
và các đại cổ đông; (vii) gánh nặng thuế phải trả: thể hiện các khoản thuế phải nộp, thời
gian tiêu tốn cho thủ tục hành chính trong thanh toán thuế, tỉ lệ thuế phải trả so với tổng
số lợi nhuận ròng; (viii) hoạt động thương mại dọc và xuyên biên giới: là chỉ số cho biết
số lượng các tài liệu, số lượng chữ ký và thời gian cần thiết để thực hiện cho các hoạt
động xuất, nhập khẩu; (ix) mức độ thực thi các hợp đồng: phản ánh các thủ tục, thời
gian và chi phí để bắt buộc thực thi một thỏa ước vay nợ chưa thanh toán; và (x) chấm
dứt kinh doanh: là thời gian và chi phí khi tuyên bố đóng cửa kinh doanh hoặc phá sản
và mức bồi hoàn thuế”1.
30 trang |
Chia sẻ: tueminh09 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 565 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tác động của chất lượng thể chế đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h
thể chế kinh tế bao gồm Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư 2014 với các vấn đề về
khuyến khích đầu tư, thành lập doanh nghiệp; hay Luật Phòng chống tham nhũng 2005,
được sửa đổi bổ sung năm 2012, Luật Thương mại, Công cuộc cải cách thể chế đã
thu được những kết quả tích cực đáng kể trong giảm thiểu rủi ro thương mại, rủi ro pháp
lý, môi trường kinh doanh minh bạch, thông thoáng và tự chủ hơn, mở ra nhiều cơ hội
mới cho DNNVV.
Với những thay đổi của thể chế đã khuyến khích các khu vực doanh nghiệp phát
triển, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân. Hội nghị TW 5, khóa IX ngày 18/3/2002 đã
thông qua Nghị quyết 14-NQ/TW về “tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, khuyến khích
và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”. Tiếp sau đó, Hội nghị TW 5 khóa XII ngày
03/6/2017 về “phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh
tế”, điều này thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và
chất lượng. Theo số liệu Điều tra Doanh nghiệp năm 2018, tỷ trọng khu vực doanh
nghiệp tư nhân chiếm 95,70%, khu vực này cũng thu hút nhiều vốn đầu tư nhất trong
các khu vực (53%), thu hút hơn 5 triệu lao động và đóng góp lớn nhất trong ngân sách
nhà nước (đóng góp trên 42% GDP). Với sự phát triển vượt bậc, Đảng đã thay đổi hoàn
toàn tư duy và nhận thức để thúc đẩy phát triển khối kinh tế tư nhân.
Nghiên cứu thực nghiệm mô hình về tác động của CLTC đến doanh nghiệp nói
chung và DNNVV nói riêng đã được nhiều tác giả nghiên cứu. Tuy nhiên, các nghiên
cứu trước đây hầu như nghiên cứu tác động của CLTC đến kết quả hoạt động của doanh
nghiệp nói chung hay DNFDI nói riêng như trong nghiên cứu của Phạm Thế Anh và
Chu Thị Mai Phương (2015) hay nghiên cứu thể chế địa phương đến tăng trưởng năng
suất như Bạch Ngọc Thắng (2016) hay nghiên cứu tác động của thành phần riêng lẻ
trong thể chế - đó là tham nhũng đến hiệu quả hoạt động như Trần Quang Tuyến và cộng
sự (2016) Hơn nữa, những nghiên cứu trước đây chỉ nghiên cứu về tác động trực tiếp
của thể chế kinh tế đến doanh nghiệp nói chung.
Theo Nadile và Ibrahim (2014) DNFDI có thể đóng góp vào tăng trưởng kinh tế
bằng cách mở rộng tích lũy về vốn và tiến bộ công nghệ. Ngoài ra DNFDI còn đóng góp
3
những tác động lan truyền qua nhiều kênh khác nhau. Theo Agosin và Mayer (2000);
Ann và Margaret (2001) cho rằng sự hiện diện của DNFDI đang hạn chế việc tiếp cận
tín dụng của các doanh nghiệp trong nước, nhưng nghiên cứu lại tìm thấy rằng chỉ có
DNTN chịu ảnh hưởng tiêu cực từ DNFDI chứ không phải DNNN. Theo Carlos và Ling
(2004), Nguyễn Văn Thắng và Nick (2009): các DNNN đang có xu hướng lấn át các
DNTN, mặc dù Chính phủ đã nhận thức được tầm quan trọng của DNTN (chiếm phần
lớn là DNNVV) nhưng họ vẫn gặp phải những cản trở về: quyền tiếp cận đất đai, vốn,
tiếp cận thị trường. Krammer (2010); Jingtao Yi và cộng sự (2015) đã chỉ ra, thể chế
còn có tác động gián tiếp đến hiệu quả quả hoạt động của doanh nghiệp thông qua lan
tỏa từ DNFDI.
Như vậy, xét theo qui mô DN thì DNNVV chiếm phần lớn trong tổng số DN, xét
theo loại hình sở hữu thì DNTN chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các khu vực DN. Điều đó
cho thấy, trong tổng số DN ở Việt Nam thì đa phần là DNNVV khu vực ngoài nhà nước.
Sự phát triển của DNNVV có rất nhiều ràng buộc và khó khăn, tuy trong bối cảnh mới
cũng có những thuận lợi khi nhận được sự quan tâm ngày càng lớn của Chính phủ. Tuy
nhiên, DNNN cùng với DNFDI sẽ có thể cải thiện hoặc cản trở sự phát triển của
DNNVV nói chung và DNNVV khu vực tư nhân nói riêng. Điều đó cho thấy, tác động
của thể chế kinh tế đến hiệu quả hoạt động của DNNVV không chỉ phụ thuộc vào những
cải cách thể chế mà còn phụ thuộc vào tác động lan tỏa từ DNNN và DNFDI gây ra cho
doanh nghiệp tư nhân trong nước có qui mô nhỏ và vừa. Tác động lan tỏa có thể hỗ trợ,
cũng có thể hạn chế tác động của thể chế kinh tế đến hiệu quả hoạt động của DNNVV.
Ở Việt Nam hầu như các nghiên cứu trước đây chỉ nghiên cứu tác động của thể chế một
cách trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp mà vẫn chưa đánh giá được đầy
đủ. Do đó, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài “Tác động của thể chế đến hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam”, làm luận án tiến sĩ.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận án phân tích tác động của thể chế đến hiệu quả hoạt động của DNNVV,
đồng thời tập trung vào tác động gián tiếp của thể chế đến hiệu ứng lan tỏa từ DNNN
và DNFDI đến DNTN trong nước có qui mô nhỏ và vừa. Kết quả nghiên cứu thực
nghiệm sẽ cung cấp bằng chứng đầy đủ và tin cậy giúp các nhà hoạch định chính sách
đưa ra các giải pháp để tiếp tục cải cách, nâng cao hơn nữa thể chế nhằm tạo môi
trường kinh doanh bình đẳng giữa các khu vực doanh nghiệp, thúc đẩy DNNVV nâng
cao hiệu quả hoạt động của mình hơn nữa. Cụ thể, luận án trả lời câu hỏi nghiên cứu
sau: (i) Thể chế có tác động như thế nào đến hiệu quả hoạt động của DNNVV?; (ii)
Thể chế có tác động như thế nào đến hiệu ứng lan tỏa từ DNFDI đến các DNTN trong
4
nước có qui mô nhỏ và vừa?; (iii) Thể chế có tác động như thế nào đến hiệu ứng lan
tỏa từ DNNN đến DNTN trong nước có qui mô nhỏ và vừa?
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận án đánh giá tác động của thể chế đến hiệu quả hoạt
động của DNNVV khu vực ngoài nhà nước (DNTN trong nước có qui mô nhỏ và vừa)
bao gồm hai tác động: một là tác động trực tiếp từ thể chế đến hiệu quả hoạt động
DNNVV, hai là, tác động từ thể chế đến hiệu ứng lan tỏa từ các khu vực DN khác đến
DNTN có qui mô nhỏ và vừa ở Việt Nam. Luận án, tập trung đánh giá tác động của thể
chế đến hiệu ứng lan tỏa từ DNFDI và DNNN đến DNTN trong nước có qui mô nhỏ và
vừa. Vì DNNVV ở Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân (chiếm hơn 90%) nên tất
cả DNNVV trong nghiên cứu này là khu vực tư nhân trong nước có qui mô nhỏ và vừa.
- Phạm vi nghiên cứu:
+, Về nội dung: Hiệu quả hoạt động của DNNVV được xem xét dưới hai góc độ
là năng suất lao động (VA/L) và tỷ suất sinh lời (ROA).
+, Về không gian: Luận án nghiên cứu tác động của thể chế đến hiệu quả hoạt động
của DNNVV khu vực tư nhân trên phạm vi cả nước.
+, Về thời gian: Luận án nghiên cứu tác động của thể chế kinh tế tới DNNVV Việt
Nam, với bộ dữ liệu điều tra doanh nghiệp hàng năm của Tổng cục Thống kê từ 2010-
2018 và sử dụng bộ dữ liệu I-O của Tổng cục Thống kê để tính toán các kênh lan tỏa,
nhưng vì không có số liệu I-O mới nên luận án dùng I-O của năm 2012 để tính toán các
kênh lan tỏa từ DNNN và DNFDI cho tất cả các năm.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết mục tiêu nghiên cứu, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu
sau: (i) Phương pháp tổng hợp, phân tích và đánh giá các nghiên cứu về tác động của
thể chế đến hiệu quả hoạt động của DN, cũng như DNNVV. Sau khi thực hiện tổng quan
nghiên cứu, NCS tìm ra khoảng trống nghiên cứu và từ đó, xây dựng khung phân tích
cho luận án về tác động của thể chế đến hiệu quả hoạt động của DNNVV. (ii) Phương
pháp phân tích thống kê: Dựa trên số liệu thứ cấp, NCS đánh giá thực trạng hoạt động
của các DNNVV, thực trạng thể chế và môi trường kinh doanh ở Việt Nam, thực trạng
mối liên kết lan tỏa giữa các khu vực DN. (iii) Phương pháp nghiên cứu định lượng:
NCS sử dụng phương pháp hồi quy dữ liệu mảng để ước lượng tác động của thể chế đến
hiệu quả hoạt động của DNTN có qui mô nhỏ và vừa. Luận án sử dụng phương pháp
hồi quy phân vị dữ liệu mảng để ước lượng tác động của thể chế đến hiệu quả tài chính
ROA của DNTN có qui mô nhỏ và vừa.
5
1.5. Những đóng góp mới của luận án
Luận án nghiên cứu tác động của thể chế đến hiệu quả hoạt động của DNNVV ở
Việt Nam. Cùng với những kế thừa, luận án cũng cố gắng khắc phục những hạn chế
nghiên cứu trong các nghiên cứu trước đây. Cụ thể, luận án có một số đóng góp về mặt
lý thuyết và thực nghiệm như sau:
Về mặt lý thuyết: Luận án đã xây dựng khung lý thuyết về tác động của thể chế
đến hiệu quả hoạt động của DNNVV khu vực ngoài nhà nước gồm hai tác động: Thứ
nhất, tác động trực tiếp từ thể chế đến hiệu quả hoạt động của DNTN trong nước có qui
mô nhỏ và vừa; Thứ hai, tác động gián tiếp từ thể chế đến hiệu quả hoạt động của DNTN
trong nước có qui mô nhỏ và vừa thông qua hiệu ứng lan tỏa từ DNNN và DNFDI. Từ
đó, luận án đã chứng minh về mặt thực nghiệm về tác động của thể chế đến hiệu quả
hoạt động của DNNVV khu vực ngoài nhà nước như thế nào còn phụ thuộc vào hiệu
ứng lan tỏa từ DNNN và DNFDI đến DNTN trong nước có qui mô nhỏ và vừa.
Về mặt thực nghiệm:
• Luận án đã chứng minh được về mặt thực nghiệm về tác động của thể chế đến
hiệu quả hoạt động của DNTN có qui mô nhỏ và vừa ở Việt Nam trên phạm vi toàn
mẫu, theo phân ngành kinh tế, và các nhóm ngành cấp 2 của ngành chế biến chế tạo.
Điều đó khẳng định, tác động của thể chế đến hiệu quả hoạt động của DNTN có qui mô
nhỏ và vừa mà luận án đã xây dựng là có cơ sở lý thuyết và được thực nghiệm ủng hộ.
• Thể chế có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của DNTN có qui mô nhỏ
và vừa ở Việt Nam. Đồng thời, thể chế cũng có tác động đến hiệu ứng lan tỏa từ DNNN
và DNFDI đến hiệu quả hoạt động của DNTN có qui mô nhỏ và vừa, vì thế, tác động
của thể chế đến hiệu quả hoạt động của DNTN có qui mô nhỏ và vừa còn phụ thuộc vào
hiệu ứng lan tỏa từ DNNN và DNFDI. Cụ thể: (i) Khi cải thiện thể chế thì năng suất lao
động của DNTN có qui mô nhỏ và vừa tăng lên, tác động tích cực đó còn được thúc đẩy
bởi hiệu ứng lan tỏa ngang từ DNFDI. Nhưng xét tác động đến ROA thì chỉ có DNTN
có qui mô nhỏ và vừa có ROA ở phân vị cao (từ phân vị 50% trở lên) mới luôn nhận tác
động tích cực của thể chế, các phân vị ROA thấp hơn có nhận được tác động tích cực
khi cải thiện thể chế hay không còn phụ thuộc vào mức độ lan tỏa từ DNFDI. Điều đó
cho thấy, khi cải thiện thể chế, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhưng chỉ có
DNNVV có ROA ở phân vị cao, thể hiện hiệu quả cao mới có đủ năng lực đầu tư công
nghệ cao hơn, khoảng cách công nghệ với DNFDI thấp mới có thể được hưởng lợi từ
chuyển giao công nghệ, mới có khả năng cạnh tranh và khả năng thích ứng trước những
thay đổi thể chế hơn những DNNVV hoạt động ở phân vị thấp của ROA thể hiện hiệu
6
quả hoạt động thấp. Tuy nhiên, mức độ tác động của thể chế đến hiệu ứng lan tỏa từ
DNFDI đến DNTN có qui mô nhỏ và vừa là không đáng kể. (ii) Khi cải thiện thể chế,
năng suất lao động của DNTN có qui mô nhỏ và vừa tăng lên, tác động tích cực đó còn
được hỗ trợ thúc đẩy bởi hiệu ứng lan tỏa xuôi chiều và lan tỏa ngang từ DNNN, thông
qua lan tỏa ngược chiều từ DNNN thì tác động của thể chế đến năng suất lao động như
thế nào còn phụ thuộc vào mức độ lan tỏa từ DNNN. Xét tác động đến ROA thì chỉ có
DNTN có qui mô nhỏ và vừa có ROA ở phân vị cao mới nhận được tác động lan tỏa
tích cực khi cải thiện thể chế, tác động đến những doanh nghiệp có ROA ở phân vị thấp
như thế nào còn phụ thuộc vào mức độ lan tỏa từ DNNN đến DNTN có qui mô nhỏ và
vừa. Điều đó cũng cho thấy, chỉ những doanh nghiệp có ROA ở phân vị cao thể hiện
hiệu quả sử dụng tài sản cao, vốn vẫn nhận được tác động tích cực khi cải thiện thể chế
bởi những doanh nghiệp này có khả năng cạnh tranh tốt hơn, máy móc thiết bị đầu tư
hiện đại hơn nên dễ dàng hấp thụ chuyển giao công nghê, được hưởng lợi lan tỏa dễ
dàng hơn. Mức phân vị càng cao thì mức độ tác động của thể chế càng lớn.
• Tác động của thể chế đến hiệu quả hoạt động của DNTN có qui mô nhỏ và vừa
có sự khác biệt giữa các ngành kinh tế. Đặc biệt nghiên cứu với các ngành cấp 2 của
ngành chế biến chế tạo, kết quả cho thấy DNTN có qui mô nhỏ và vừa trong những
ngành thâm dụng vốn như ngành hóa chất cao su, ngành sản xuất kim loại, sản xuất
phương tiện đi lại chưa khẳng định tác động tích cực khi cải thiện thể chế, bởi tác động
có tích cực hay không còn phụ thuộc vào mức độ lan tỏa từ DNNN và DNFDI. Trong
khi đó, những ngành thâm dụng lao động như ngành chế biến thực phẩm, ngành dệt
may, ngành da giày lại thể hiện kết quả rõ ràng hơn, khi cải thiện thể chế thì hiệu quả
hoạt động của DNNVV là tích cực được khẳng định thông qua kênh lan tỏa từ DNFDI
(chủ yếu thông qua lan tỏa xuôi chiều và ngược chiều), nhưng tác động thông qua kênh
lan tỏa từ DNNN lại chưa khẳng định, còn phụ thuộc vào mức độ lan tỏa từ DNNN đến
DNTN có qui mô nhỏ và vừa. Bởi thực tế DNFDI liên kết với DNNVV trong nước chủ
yếu để tận dụng nguồn lao động giá rẻ, thực hiện gia công sản phẩm cho DNFDI nên
những ngành này dễ dàng nhận được lan tỏa tích cực từ DNFDI hơn.
• Chỉ tiêu thiết chế pháp lý và tính minh bạch có vai trò quan trọng trong thúc đẩy
hiệu quả hoạt động của DNTN có qui mô nhỏ và vừa, cải thiện thiết chế pháp lý và nâng
cao hơn nữa tính minh bạch sẽ củng cố niềm tin của doanh nghiệp vào hệ thống tòa án,
tư pháp, giúp bảo vệ quyền sở hữu của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả hoạt động của
DNNVV cũng như hiệu ứng lan tỏa từ DNNN và DNFDI. Chỉ tiêu gia nhập thị trường
khẳng định vai trò quan trọng trong thúc đẩy hiệu ứng lan tỏa ngang và lan tỏa xuôi
chiều từ DNNN, bởi DNNN vốn luôn tạo áp lực cạnh tranh không công bằng bằng những
ưu đãi trong thủ tục hành chính, tiếp cận vốn, việc cải thiện chỉ tiêu gia nhập thị
7
trường, giúp DNNVV dễ dàng giải quyết thủ tục hành chính thuận lợi, nắm bắt cơ hội
thị trường, tăng khả năng cạnh tranh, khả năng liên kết với DNNN để hưởng lợi lan tỏa
nhiều hơn.
1.6. Cấu trúc của luận án
Ngoài Mục lục, Danh mục các từ viết tắt, Danh mục bảng biểu, Danh mục hình vẽ,
Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án được cấu trúc thành 6 chương. Cụ thể
như sau:
Cấu trúc luận án:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về thể chế và tác động của thể chế đến hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Chương 2: Tổng quan nghiên cứu về tác động của thể chế đến hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu tác động của thể chế đến hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam
Chương 4: Thực trạng về thể chế và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và
vừa Việt Nam
Chương 5: Tác động của thể chế đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và
vừa ở Việt Nam
Chương 6: Khuyến nghị và gợi ý chính sách
8
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT LUẬN VỀ THỂ CHẾ VÀ TÁC ĐỘNG
CỦA THỂ CHẾ ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
NHỎ VÀ VỪA
1.1. Những vấn đề căn bản về thể chế và vai trò của thể chế
1.1.1. Khái niệm về thể chế kinh tế
Gần đây, đã có rất nhiều nghiên cứu về thể chế, đây là vấn đề rất đang được quan
tâm ở nhiều nước. Tuy nhiên, khái niệm về thể chế vẫn còn chưa được thống nhất. Có
rất nhiều khái niệm và cách tiếp cận về thể chế khác nhau. Theo Thorstein Veblen
(1899), người sáng lập ra trường phái kinh tế thể chế cũ ở Mỹ vào những năm đầu của
thế kỷ XX, đưa ra quan niệm: “thể chế là tính quy chuẩn của hành vi hoặc quy tắc xác
định hành vi trong tình huống cụ thể, được các thành viên của một nhóm xã hội chấp
nhận về cơ bản, và sự tuân thủ các quy tắc đó là do bản thân tự kiểm soát hoặc do quyền
lực bên ngoài khống chế”.
Ostrom Elinor (1990) đưa ra định nghĩa: “Thể chế là tập hợp các quy tắc được sử
dụng nhằm xác định ai được phép ra quyết định trong một phạm vi nào đó những hành
động được phép hoặc bị hạn chế, những quy tắc tập hợp nào sẽ được sử dụng, những thủ
tục nào phải được tuân theo, thông tin gì phải được cung cấp hoặc không được cung cấp,
và phần thưởng gì sẽ được dành cho những cá nhân tùy thuộc vào hành động của họ”.
Douglass C. North, nhà kinh tế học người Mỹ, với công trình “Động thái kinh tế
qua thời gian” đoạt giải Nobel năm 1993, đại biểu của kinh tế học thể chế mới thì cho
rằng: “Thể chế là những quy phạm được con người tạo ra, cấu thành nên sự tác động qua
lại của con người. Nó bao gồm những quy phạm mang tính chính thức (các quy tắc, luật
lệ, hiến pháp), và những quy phạm không chính thức (những chuẩn mực về ứng xử, những
tập quán, những quy tắc ứng xử tự đặt ra), và những đặc trưng về mặt thực thi chúng”.
Ngân hàng thế giới (2002) trong Báo cáo phát triển thế giới 2002 cho rằng: “Thể
chế là những quy tắc, kể cả các chuẩn mực, về hành vi mà dựa vào đó các tác nhân tương
tác với nhau. Thể chế còn là các tổ chức để thực hiện các quy tắc, chuẩn mực nhằm đạt
kết quả mong muốn”. Thể chế bao gồm ba khía cạnh (quy tắc, cơ chế thi hành và các tổ
chức) và được nhìn dưới hai góc độ: Một là, thể chế là tập hợp các quy tắc nhằm điều
chỉnh mối quan hệ giữa các tác nhân trong xã hội. Hai là, sự mở rộng định nghĩa đến
các thực thể tham gia vào việc thực thi các quy tắc và các nguồn lực cần thiết để làm
việc đó.
9
North (1991) cũng khẳng định: các thể chế cung cấp cấu trúc khuyến khích của
một nền kinh tế, như cấu trúc phát triển, nó định hướng trực tiếp những thay đổi về kinh
tế theo hướng tăng trưởng, trì trệ hoặc suy giảm. North cho rằng vấn đề được tóm tắt
ngắn gọn nhất trong một bối cảnh lý thuyết trò chơi.
Như vậy, dù các nghiên cứu có thể hiện cách nhìn nhận và mục tiêu phân tích khác
nhau. Nhưng nhìn chung ba khía cạnh quan trọng nhất được bao hàm trong thể chế đó là
“luật chơi” (gồm thể chế chính thức và phi chính thức), “cách chơi” (đó là cơ chế thực
thi) và “người chơi” (là những con người, tổ chức gắn với hành vi).
Thể chế kinh tế tồn tại gắn kết với thể chế chính trị, hơn nữa chúng còn có mối
ràng buộc, tác động qua lại. Thể chế kinh tế là trụ cột quan trọng để hệ thống chính trị
hoạt động ổn định và phát triển. Thể chế kinh tế là nền tảng đảm bảo sự tồn tại của thể
chế chính trị. Thể chế chính trị định hình ra thể chế kinh tế và ngược lại, thể chế kinh tế
giúp thể chế chính trị tồn tại vững chắc hơn.
Có thể thấy rằng: thể chế kinh tế là một khái niệm rất rộng, bao gồm tất cả các lĩnh
vực khác nhau nhằm điều chỉnh hành vi chủ thể của tất cả các hoạt động kinh tế khác
nhau trong xã hội. Trong luận án này, thể chế là bộ quy tắc xác định các mối quan hệ xã
hội, là quy chuẩn cho các thành viên trong xã hội ứng xử theo phạm vi và điều chỉnh sự
vận hành của xã hội đó.
Thể chế kinh tế là bộ quy tắc của trò chơi bao gồm các bộ phận:
- Thứ nhất, các bộ quy tắc chính thức như là hiến pháp, luật pháp và những quy
định được ban hành bởi Nhà nước.
- Thứ hai, các ràng buộc không chính thức: như là các phong tục, tập quán truyền
thống, các quy tắc ứng xử có tính chuẩn mực xã hội về hành vi của các chủ thể
- Thứ ba, cơ chế thực thi các quy tắc: các chính sách, cơ chế hỗ trợ, chế tài,
1.1.2. Phân loại thể chế kinh tế
Có thể phân loại thể chế theo nhiều tiêu thức khác nhau:
Thứ nhất, xét theo lĩnh vực hoạt động
Thể chế bao gồm thể chế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế văn hóa, thể chế giáo
dục, thể chế môi trường tức là mỗi một lĩnh vực khác nhau sẽ có một thể chế được
con người đặt ra để điều chỉnh hành vi cho các chủ thể trong lĩnh vực đó. Trong mỗi
một lĩnh vực hoạt động, thể chế được ban hành ở những cấp độ thấp hơn áp dụng cho
các lĩnh vực chuyên ngành như thể chế lao động, thể chế tài chính tiền tệ, thể chế
đầu tư
Thứ hai, xét theo mức độ hợp thức hóa
10
Thể chế được phân thành thể chế chính thức và thể chế phi chính thức. Thể chế
chính thức là những thể chế do Nhà nước đặt ra bao gồm hiến pháp, luật, nghị định,
qđịnh từ Trung ương tới các địa phương, cho đến các quy tắc được phê chuẩn và áp
dụng bởi các tổ chức công cộng và tư nhân hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Thể
chế phi chính thức là những quy tắc, những quy định, những chuẩn mực do cộng đồng,
người dân đặt ra: như các phong tục, tập quán, thỏa thuận thường vận hành bên
ngoài hệ thống thể chế chính thức. Xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của thể chế
chính thức càng quan trọng, nó tác động đến tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội.
Theo Acemoglu và cộng sự (2012) thì thể chế gồm 2 loại cơ bản: thể chế dung hợp
và thể chế phi dung hợp. Trong đó, thể chế kinh tế phi dung hợp (extractive economic
institutions) không xây dựng một nền tảng pháp luật và trật tự, không đảm bảo được
quyền sở hữu tài sản, rào cản gia nhập thị trường rất lớn; thiếu các thiết chế hỗ trợ hệ
thống thị trường vận hành, cũng như không tồn tại cạnh tranh hay sân chơi công bằng
bởi chỉ một nhóm nhỏ nắm giữ quyền lực.
Trong khi đó, thể chế kinh tế dung hợp (inclusive economic institutions) đảm bảo
quyền sở hữu tài sản, xây dựng nền tảng luật pháp và trật tự; hệ thống thị trường là chủ
đạo và vận hành tốt; nhà nước hỗ trợ hệ thống thị trường bằng cách cung cấp hàng hóa
cơ sở hạ tầng và hệ thống luật pháp; Nhà nước cho phép sự tham gia rộng rãi của các
thành phần kinh tế, hạn chế và kiểm soát sự tham gia của các chính trị gia. Sân chơi bình
đẳng và tự do cho mọi thành phần kinh tế, tôn trọng hợp đồng, các công dân được tiếp
cận các cơ hội về giáo dục, y tế hay các tiện ích xã hội công bằng và đầy đủ.
Như vậy, với đặc điểm của hai loại thể chế cơ bản trên Acemoglu và cộng sự
(2012): Thể chế kinh tế dung hợp tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế bởi nó sẽ khuyến
khích đầu tư vì nó trao quyền rộng rãi và đảm bảo cho từng người dân có thể thực hiện
được các quyền của mình. Do thể chế kinh tế dung hợp đảm bảo được quyền sở hữu tài
sản, từ đó khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư thêm nguồn lực, tăng cường đổi mới
sáng tạo, cải tiến công nghệ để tìm kiếm lợi ích tốt nhất cho bản thân, từ đó đóng góp
cho xã hội. Ngoài ra, thể chế kinh tế dung hợp còn kiểm soát sức mạnh thị trường từ đó
phân bổ nguồn lực tốt hơn, tạo ra sự tham gia đa dạng của các chủ thể trong xã hội khi
đưa ra các quyết định. Tóm lại, các thể chế kinh tế dung hợp mang lại những động lực
thúc đẩy các chủ thể hoạt động hiệu quả và sáng tạo, thúc đẩy quốc gia tăng trưởng bền
vững. Trong khi đó, các thể chế kinh tế phi dung hợp thì nguồn lực tập trung trong một
nhóm thiểu số, thể chế phi dung hợp không chú trọng bảo vệ quyền sở hữu, làm cản trở
động lực đầu tư.
Tăng trưởng kinh tế trong thể chế kinh tế dung hợp có nhiều ưu điểm hơn là thể
chế kinh tế phi dung hợp. Nhưng thể chế phi dung hợp đã tồn tại một thời gian dài trong
11
lịch sử và ở hiện tại. Ở thể chế phi dung hợp thì vẫn có được sự tăng trưởng nhưng tập
trung khai thác nguồn lực ở những khu vực có năng suất cao, được kiểm soát bởi một
nhóm người. Khi vị trí của nhóm được đảm bảo thì sẽ phát triển có kiểm soát thể chế
dung hợp. Đó là 2 hình thức tăng trưởng trong thể chế kinh tế khai thác. Sự tăng trưởng
này đi kèm với nhiều nguy cơ về các vấn đề xã hội cũng như môi trường nên dẫn tới nền
kinh tế tăng trưởng kém bền vững. Bởi trong thể chế kinh tế phi dung hợp có: (i) các
quyền tài sản không được đảm bảo, chưa có pháp luật và trật tự để giải quyết các tranh
chấp, các quan hệ hợp tác trong nền kinh tế đều dựa vào niềm tin, hoặc có mối quan hệ
trước. Như vậy, việc hợp tác là khó mở rộng ra bên ngoài, mà kể cả có sự mở rộng hợp
tác thì cũng trở nên mong manh, thiếu tính gắn kết, bởi nếu có sự tác động từ bên ngoài
mối hợp tác đó sẽ đổ vỡ; (ii) Không tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các
thành phần kinh tế, vì trong thể chế kinh tế khai thác chỉ tập trung nguồn lực cho một
nhóm nào đó có năng suất cao, từ đó dễ dẫn đến độc quyền, các chủ thể kinh tế thiếu đi
động lực kinh tế, sáng tạo, hay chỉ chú trọng đầu tư vào những lĩnh vực mà mang lại lợi
ích kinh tế cao, hết lợi ích sẽ rút lui nhanh, như vậy tạo ra sự bất ổn cho nền kinh tế; (iii)
Tài nguyên thiên nhiên khan hiếm, nên nếu chỉ tập trung khai thác mà không chú trọng
đến vấn đề bảo tồn, khôi phục thì sẽ gây ra nhiều hệ lụy về kinh tế (ảnh hưởng đến các
khu vực sản xuất khác, tạo tâm lý ỷ lại, không chịu cải tiến công nghệ ), về xã hội như
tham nhũng, lợi ích nhóm, và về môi trường như thiên nhiên bị tàn phá, đối mặt với
việc không thể tái tạo tài nguyên. Như vậy để có được sự tăng trưởng trong thể chế kinh
tế phi dung hợp thì nền kinh tế phải đánh đổi rất nhiều nguy cơ.
Trong khi đó, Acemoglu (2012) đã khẳng định sự khác biệt của thể chế kinh tế
dung hợp với tăng trưởng trong thể chế kinh tế phi dung hợp đó là phát huy được tính
sáng tạo, động lực cải tiến công nghệ, khắc phục được sự thiếu bền vững kể trên. Theo
Acemoglu (2012): Một đất nước cứ mãi nghèo đói là do tồn tại thể chế chính trị và kinh
tế phi dung hợp. Ví dụ: Triều Tiên: thiếu quyền sở hữu tài sản; Uzbekistan: lao động
cưỡng bức; Ai Cập: chế độ độc tài; ở đất nước Soamali thì không tồn tại luật pháp và
trật tự; ở Sierra Leone thì xảy ra tranh chấp tài nguyên. Ở các đất nước này tồn tại thể
chế kinh tế khai thác, nên họ vẫn phải đối mặt với nghèo đói chứ không như các nước
phát triển, các nước giàu, khi họ có thể chế kinh tế dung hợp, với sự hoạt động mạnh mẽ
của Chính phủ, quyền lực không tập trung vào một nhóm cá nhân, họ có trách nhiệm
giải trình về những hành động của mình nên giảm thiểu được nhiều nguy cơ về tham
nhũng, lạm quyền, nền kinh tế vận hành ổn định và đất nước sẽ phát triển bền vững hơn.
Một đất nước muốn phát triển thì cần có thể chế kinh tế dung hợp. Về mặt kinh tế
thì thể chế dung hợp có nền tảng về sở hữu tư nhân, tự do kinh doanh..., đây là những
thiết chế quan trọng cho sự vận hành của thị trường một cách hiệu quả. Về mặt chính
12
trị, thể chế dung hợp sẽ khuyến khích người dân tham gia vào các hoạt động kinh tế,
thúc đẩy các cá nhân phát huy năng lực của mình trong việc tìm kiếm lợi ích cho mình
và đóng góp cho xã hội.
1.1.3. Vai trò của thể chế với các hoạt động của nền kinh tế
Theo tác phẩm “Tại sao các quốc gia thất bại” (2012) tác giả đã cho thấy yếu tố
cốt lõi tạo ra sự khác biệt giàu nghèo giữa các quốc gia đó là thể chế, các yếu tố khác
như địa lý, văn hóa không tạo ra sự khác biệt đó.
Thể chế tạo nên một khuôn khổ cho các chủ thể tuân thủ và hành động một cách
dễ đoán hơn, điều đó giúp các chủ thể giảm thiểu các rủi ro trong quá trình thiết lập mối
quan hệ tương tác với nhau, vì: (i) tránh bị trừng phạt và nhằm tối đa hóa lợi ích; (ii) các
chủ thể nhận thức được những hành động nào là phù hợp và không phù hợp. Theo North
(1990), thể chế có vai trò làm giảm tính bất trắc khi cung cấp cho các chủ thể một cấu trúc
để hoạt động. Ngoài ra, thể chế giúp định hướng sự tương tác giữa các tác nhân trong nền
kinh tế (có thể là các giao dịch mua bán, vay mượn, mở DN ). Và rõ ràng, nếu cùng
một loại giao dịch như nhau nhưng nếu xảy ra ở những nơi khác nhau thì sẽ có cách ứng
xử khác nhau vì họ phải tuân thủ những luật lệ khác nhau. Như vậy, vai trò của thể chế
đối với sự phát triển của mỗi quốc gia đã được ghi nhận ở các mặt cụ thể sau:
Thứ nhất, thể chế tạo khung khổ để tổ chức và vận hành xã hội, nên thể chế đóng
vai trò định hướng hành vi.
Tất cả các quốc gia trên thế giới, hay những vùng lãnh thổ khác nhau sẽ có cách
thức vận hành khác nhau. Nhưng có điểm chung là nếu các quốc gia muốn tổn tại và
phát triển thì không một đất nước, một vùng lãnh thổ nào không sử dụng công cụ thể
chế. Tuy nhiên, bất kỳ một quốc gia nào muốn tồn tại và phát triển thì tất cả đều phải
xác lập thể chế riêng cho mình. Thể chế là công cụ để tổ chức, vận hành một xã hội.
Thể chế giúp các cá nhân và tổ chức có định hướng mục tiêu và hành vi, cùng với
việc tạo ra một khung khổ pháp lý để xã hội vận hành. Ngoài ra, thể chế sẽ hướng dẫn
hành vi ứng xử phù hợp qua lại giữa các cá nhân, giúp họ biết được trách nhiệm và vị
trí của mình để có thể đưa ra cách ứng xử trong mối quan hệ đó cho phù hợp.
Thứ hai, thể chế giúp kiến tạo nền tảng kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia.
Thể chế hình thành khung khổ pháp lý định hướng các chủ thể đưa ra hành vi ứng
xử hợp lý. Thể chế sẽ quyết định trình độ kinh tế chính trị, xã hội của một nước có hoạt
động hiệu quả hay không. Một thể chế được coi là chất lượng, phù hợp khi có một hệ
thống luật pháp đồng bộ, có cơ chế bảo đảm quyền và lợi ích của các cá nhân, làm giảm
tranh chấp, xung đột.
13
Thứ ba, thể chế đóng vai trò quan trọng trong quản lý xã hội và xây dựng các công
cụ quản lý xã hội.
Thể chế là phần cốt lõi, phản ánh sự phát triển của một quốc gia. Nó tạo khung khổ
pháp lý cho các Nhà nước tổ chức quản lý, điều hành sự vận hành của một đất nước.
Thể chế là chủ thể điều hành, quản lý xã hội bởi vì nó là những ràng buộc, là những quy
tắc, chuẩn mực chung được các chủ thể xã hội chấp nhận và thực hiện. Và không riêng
bất kỳ chủ thể nào, dù là chủ thể Nhà nước (người tạo lập ra thể chế) đến những chủ thể
xã hội khác đều phải tuân thủ thể chế của quốc gia. Như vậy, thể chế là khung khổ đối
chiếu hành vi của các chủ thể, dựa vào đó mà Nhà nước có thể quản lý hiệu quả các chủ
thể trong nền kinh tế, tạo lập công bằng, dân chủ theo định hướng của Nhà nước.
Thứ tư, thể chế đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tổ chức một chính
quyền trong sạch, giảm thiểu tình trạng tham nhũng.
Theo khái niệm về thể chế thì sự vận hành của các chủ thể được thực hiện và điều
chỉnh bởi hệ thống luật pháp, các quy tắc, chính sách. Do đó, với khung khổ hành lang
của thể chế, mọi hành vi tiêu cực của chủ thể xã hội được giám sát và có cơ chế xử phạt
nếu vi phạm. Chính vì vậy, nếu việc tuân thủ, thực hiện theo thể chế được tôn trọng thì
xã hội sẽ hình thành một chính quyền trong sạch, giảm thiểu tình trạng tham nhũng. Mặc
dù, thiết lập một thể chế hiệu quả là tương đối khó khăn, nó đến từ phía thể chế có những
lỗ hổng hay tinh thần chấp hành, tuân thủ thể chế chưa được cao nhưng rõ ràng, thể chế
sẽ góp phần duy trì chính quyền vận hành hiệu quả, và kiểm soát tham nhũng.
Thứ năm, thể chế góp phần xây dựng tiến trình phát triển của xã hội, giúp hạn chế
những khuyết tật của thị trường.
Trong xã hội, luôn tồn tại những khuyết tật thị trường như bất ổn kinh tế, tệ nạn xã
hội, ô nhiễm môi trường, đó là những hành vi lệch lạc với định hướng mục tiêu của xã
hội. Nhưng với hệ thống thể chế tin cậy sẽ giúp đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các
chủ thể trong xã hội, đó là tiền đề, điều kiện cần thiết để các chủ thể nhà nước kiểm
soát được những hạn chế, khuyết tật của thị trường xảy ra.
Vì thế, nếu có một thể chế phù hợp, kết hợp với quản trị nhà nước hiệu quả bằng
việc thúc đẩy hơn nữa người dân tham gia, tăng cường trách nhiệm giải trình sẽ thúc
đẩy xã hội phát triển, hạn chế được những khuyết tật của thị trường.
Thứ sáu, thể chế là công cụ giúp kiểm soát các nguồn lực trong xã hội.
Acemoglu và Johnson (2005) đã chỉ ra rằng: lợi ích từ thể chế kinh tế có sự khác
nhau giữa các nhóm lợi ích khác nhau và còn dự báo những nhóm quyền lực đặc biệt
này sẽ không từ bỏ đặc lợi của mình. Như vậy, do quyền lực chính trị chỉ tập trung vào
một nhóm nên mới có sự phân bổ nguồn lực không công bằng, dẫn đến phân bổ lợi ích
tập trung vào một nhóm nào đó, chỉ khi có sự tham gia của người dân vào quyền lực
14
chính trị thì thể chế kinh tế sẽ mang lại lợi ích cho cả cộng đồng. Kết quả này cho thấy,
để quốc gia trở nên giàu có, phát triển thì phải có những cải cách thể chế để nhằm đảm
bảo quyền được giám sát các nguồn lực xã hội của người dân chứ không chỉ tập trung
vào một nhóm quyền lực.
Thứ bảy, thể chế đảm bảo việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong
xã hội.
Thể chế là một bộ quy tắc xã hội, bao gồm một hệ thống các công cụ quản lý, điều
hành xã hội, từ đó các chủ thể trong xã hội sẽ có một khung khổ chuẩn cho việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, nếu thể chế của một quốc gia mà không
chú trọng khuyến khích các cá nhân, chủ thể thực hiện quyền của mình từ đó đóng góp cho
lợi ích chung của xã hội. Nếu quá chú trọng đến việc thực hiện quá nhiều các nghĩa vụ thì
sẽ triệt tiêu mất động lực cho sự phát triển của các chủ thể vì họ chỉ là công cụ để tạo ra lợi
ích cho chính quyền. Như vậy, một thể chế tốt là thể chế đề cao sự tôn trọng quyền làm chủ,
tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể được tự do phát triển, tự do phát huy tài năng và sự
sáng tạo, khi họ tạo ra lợi ích cho mình thì cũng tạo ra lợi ích cho xã hội.
Ngược lại, nếu một xã hội mà có thể chế lỏng lẻo, hành động vi phạm pháp luật lại
không được xử lý nghiêm thì niềm tin bị xóa nhòa, xã hội bị coi thường, xã hội phát
triển không bền vững. Chính vì vậy, xây dựng xã hội với hệ thống thể chế đảm bảo các
quyền và nghĩa vụ chính đáng của các chủ thể trong xã hội. Từ đó, tạo động lực thúc
đẩy xã hội phát triển ổn định, bền vững.
Như vậy, thể chế có vai trò quan trọng với sự phát triển của xã hội, khi thể chế phù
hợp với trình độ phát triển của xã hội thì sẽ thúc đẩy xã hội phát triển, và ngược lại nó có
thể cản trở sự phát triển của cá nhân cũng như toàn xã hội.
1.1.4. Đo lường thể chế
Thể chế phản ánh trình độ chính trị, bản chất chính trị của quốc gia. Đánh giá thể
chế là một quá trình kiểm tra, đánh giá một hệ thống thể chế để tìm ra các điểm phù hợp
hay không phù hợp trong hệ thống của một quốc gia. Dựa vào kết quả đánh giá thể chế
mà các quốc gia đưa ra những cải cách quan trọng.
Việc đo lường thể chế không đơn giản do thể chế cũng là một khái niệm rất trừu
tượng và chứa đựng nhiều khía cạnh khác nhau. Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về thể
chế với ảnh hưởng của nó đến hiệu quả kinh tế nói chung. Và từ đó, các bộ chỉ số đo
lường thể chế cũng rất phong phú. Chẳng hạn như Stephen và Philip (1995) sử dụng bốn
biến số đại diện để phản ánh thể chế gồm: (i) Tham nhũng; (ii) Chất lượng bộ máy hành
chính; (iii) Quy tắc luật pháp; (iv) Bảo vệ quyền về tài sản.
15
Hơn nữa, thể chế được phản ánh trung thực nhất qua chất lượng môi trường kinh
doanh, những tiêu chí cụ thể về môi trường kinh doanh chính là thước đo tốt nhất cho
thể chế kinh tế. Môi trường kinh doanh thuận lợi sẽ hỗ trợ cải thiện thể chế, hoặc
ngược lại, môi trường kinh doanh khó khăn sẽ cản trở việc cải thiện thể chế. Chính
vì vậy, để phản ánh thể chế có thể sử dụng hệ thống các tiêu chí cụ thể phản ánh môi
trường kinh doanh.
Các chỉ số đo lường thể chế cụ thể như sau:
Thứ nhất, Chỉ số tự do kinh tế
Theo nhiều nhà nghiên cứu thì thể chế thể hiện qua: quyền tự do sử dụng tài sản
của mình của các chủ thể trong xã hội, nghĩa là, các chủ thể được quyền tự do sử dụng
tài sản của mình khi tham gia vào các hoạt động kinh tế.
Theo đó, Heritage Foundation và Wall Street Journal có “Chỉ số về mức độ tự do
kinh tế” (IEF). Chỉ số này đo lường chính sách tự do kinh doanh của các nước trên thế
giới, chỉ số IEF của Heritage có bốn nhóm: (i) Pháp quyền: đo lường mức độ bảo vệ tài
sản bằng pháp luật và hiệu quả của hệ thống tư pháp và mức độ tham nhũng; (ii) Quy
mô Chính phủ: đo bằng gánh nặng thuế dưới dạng tỷ lệ phần trăm trong GDP và mức
độ chi tiêu của Chính phủ cũng tính dưới dạng tỷ lệ phần trăm trong GDP; (iii) Hiệu quả
điều tiết: bao gồm 3 nội dung là tự do kinh doanh (theo khảo sát Doing Bisiness của
WB), tự do lao động và tự do tiền tệ; (iv) Thị trường tự do, bao gồm các chỉ tiêu về tự
do thương mại, tự do đầu tư và tự do tài chính.
Thứ hai, chỉ số thể chế IQ.
Chỉ số IQ đo lường thể chế được đưa ra bởi một số nhà khoa học Daniel và cộng
sự (1999). Nhóm các nhà nghiên cứu này đã đưa ra một đưa ra bộ chỉ số đánh giá thể
chế qua các tiêu chí: Trách nhiệm giải trình, hiệu lực của Chính phủ, chất lượng luật
lệ, nhà nước pháp quyền và kiểm soát tham nhũng.
Thứ ba, chỉ số cạnh tranh toàn cầu (GCI – Global Competitiveness Index)
Diễn đàn kinh tế Thế giới đo lường chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu trên cơ sở
tính bình quân gia quyền các chỉ số thành phần khác nhau. Chỉ số này được xây dựng
nhằm đo lường khuynh hướng của các chính sách, các thể chế kinh tế. Chỉ số này gồm
12 chỉ tiêu thành phần, được xếp thành ba nhóm: (i) nhóm 1: các chỉ số về yêu cầu cơ
bản là thể chế, cơ sở hạ tầng, ổn định kinh tế vĩ mô; y tế và giáo dục tiểu học; (ii) nhóm
2 là nhóm chỉ số nâng cao hiệu quả gồm: Giáo dục và đào tạo bậc cao hơn; Hiệu quả
của thị trường hàng hóa; Hiệu quả của thị trường lao động; Sự phát triển của thị trường
16
tài chính; Công nghệ tiên tiến; Quy mô thị trường; (iii) Nhóm 3 là nhóm chỉ số về sự đổi
mới và phát triển của các nhân tố gồm:Sự phát triển của hệ thống kinh doanh và đổi mới
công nghệ.
Thứ tư, chỉ số thuận lợi kinh doanh (EDBI – Ease of Doing Business Index)
Đây là chỉ số được WB đưa ra để đánh giá các quy tắc ảnh hưởng trực tiếp đến
kinh doanh. Chỉ số này xếp hạng các quốc gia, phản ánh các quốc gia đưa ra những quy
tắc cho kinh doanh theo hướng đơn giản hơn và có thể bảo vệ quyền sở hữu của doanh
nghiệp mạnh hơn. Chỉ số này gốm 10 chỉ tiêu thành phần, đó là: “(i) khởi sự doanh
nghiệp: thủ tục pháp lý, thời gian, vốn và giá trị doanh nghiệp cực tiểu theo qui định;
(ii) đăng ký giấy phép kinh doanh: thủ tục pháp lý, thời gian và chi phí của việc xác
minh và cấp giấy phép kinh doanh; (iii) chi phí thuê nhân công và tình trạng khan hiếm
lao động, phản ánh mức độ khó khăn về giá nhân công và chỉ số mềm dẻo về thỏa ước
thời gian lao động; (iv) đăng ký quyền sở hữu gồm các thủ tục, thời gian và chi phí khi
đăng ký các tài sản là bất động sản thương mại như đất đai; (v) mức khấu trừ tín dụng:
đây là chỉ số công khai thông tin tín dụng; (vi) mức độ bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư: thể
hiện phạm vi quyền hạn cũng như trách nhiệm pháp lý của người quản lý doanh nghiệp
và các đại cổ đông; (vii) gánh nặng thuế phải trả: thể hiện các khoản thuế phải nộp, thời
gian tiêu tốn cho thủ tục hành chính trong thanh toán thuế, tỉ lệ thuế phải trả so với tổng
số lợi nhuận ròng; (viii) hoạt động thương mại dọc và xuyên biên giới: là chỉ số cho biết
số lượng các tài liệu, số lượng chữ ký và thời gian cần thiết để thực hiện cho các hoạt
động xuất, nhập khẩu; (ix) mức độ thực thi các hợp đồng: phản ánh các thủ tục, thời
gian và chi phí để bắt buộc thực thi một thỏa ước vay nợ chưa thanh toán; và (x) chấm
dứt kinh doanh: là thời gian và chi phí khi tuyên bố đóng cửa kinh doanh hoặc phá sản
và mức bồi hoàn thuế”1.
Thứ sáu, năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI
Ở Việt Nam, thể chế được rất nhiều nghiên cứu sử dụng đo lường bởi chỉ số năng
lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI). Đây là chỉ số nói lên tiếng nói của DN về chất lượng
hoạt động của chính quyền. Mặc dù tỉnh, địa phương không đưa ra chính sách, pháp
luật nhưng tỉnh và địa phương là những đơn vị thực thi pháp luật, với năng lực thực
thi pháp luật khác nhau thì tạo ra sự khác biệt trong chính sách giữa các địa phương
đối với DN. Chính vì vậy, ở Việt Nam để phản ánh thể chế rất nhiều nghiên cứu sử
dụng chỉ tiêu PCI.
1
Doing business 2019 – Training for reform, A World Bank Group Flagship report.
17
Chỉ số PCI được công bố thí điểm năm 2005 với 42 tỉnh, thành của Việt Nam.
Từ năm 2006 – nay, PCI đã được điều tra toàn quốc với 63 tỉnh thành và được VCCI
thực hiện và công bố. PCI gồm 10 chỉ số cấu thành: (i) Chi phí gia nhập thị trường
thấp; (ii) Tiếp cận đất đai dễ dàng và sử dụng đất ổn định; (iii) Môi trường kinh doanh
minh bạch và thông tin kinh doanh công khai; (iv) Chi phí không chính thức thấp; (v)
Thời gian thanh tra, kiểm tra và thực hiện các quy định, thủ tục hành chính nhanh
chóng; (vi) Môi trường cạnh tranh bình đẳng; (vii) Chính quyền tỉnh năng động, sáng
tạo trong giải quyết vấn đề cho doanh nghiệp; (viii) Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp phát
triển, chất lượng cao; (ix) Chính sách đào tạo lao động tốt; (x) Thủ tục giải quyết tranh
chấp công bằng, hiệu quả và an ninh trật tự được duy trì.
Tóm lại, luận án này tiếp cận khái niệm: thể chế là bộ quy tắc xác định các mối
quan hệ xã hội, là quy chuẩn cho các thành viên trong xã hội ứng xử theo phạm vi và
điều chỉnh sự vận hành của xã hội đó. Khái niệm về thể chế gồm ba yếu tố chính: luật
chơi (là hệ thống pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế); người chơi (gồm các
chủ thể thực hiện và quản lý hệ thống kinh tế; và cách chơi (gồm các cơ chế, thủ tục,
phương pháp thực hiện hoạt động kinh tế, điều hành hệ thống kinh tế).
Luận án sử dụng chỉ tiêu PCI (phản ánh hiệu quả thực thi pháp luật ở địa phương),
để phân tích cụ thể chi tiết hơn, luận án lựa chọn một số chỉ tiêu thành phần phản ánh
thể chế trong đánh giá của mình.
1.2. Hiệu quả doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm và bản chất về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
Khái niệm và phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa
Luận án sử dụng phân loại DNNVV theo Nghị định 39/2018 của Chính phủ. Nghị
định số 39/2018/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNNVV thay thế cho Nghị định số
56/2009/NĐ-CP, trong đó khái niệm về DNNVV đã được đề cập cụ thể và chi tiết hơn.
Vì vậy, từ tháng 3/2018, khái niệm về DNNVV ở Việt Nam được áp dụng thống nhất
như sau: “DNNVV là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật,
được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ và vừa dựa trên quy mô tổng nguồn vốn hoặc số
lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên)”.
Theo Nghị định trên, DNNVV phải đáp ứng các tiêu chí sau:
18
Bảng 1.1: Phân loại DNNVV tại Việt Nam theo Nghị định 39/2018/NĐ-CP
Doanh nghiệp siêu nhỏ Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Tổng
VKD
Số lao
động
Tổng
VKD
Số lao
động
Tổng
VKD
Số lao
động
1. Nông, lâm
nghiệp, thủy sản
≤3 tỷ
đồng
≤10 người 3 - ≤20
tỷ đồng
10 – ≤100
người
20 - ≤100
tỷ đồng
100 – ≤200
người
1. Công nghiệp
và xây dựng
≤3 tỷ
đồng
≤10 người 3 - ≤20
tỷ đồng
10 – ≤100
người
20 - ≤100
tỷ đồng
100 – ≤200
người
2. Thương mại
và dịch vụ
≤3 tỷ
đồng
≤10 người 3 - ≤ 50
tỷ đồng
10 – ≤50
người
50 - ≤100
tỷ đồng
50 – ≤100
người
Nguồn: Nghị định số 39/2018/NĐ-CP
Khái niệm hiệu quả hoạt động của DNNVV
Samerelson, P. và Nordhaus, W. (1991) cho rằng: “Hiệu quả sản xuất diễn ra khi
xã hội không thể tăng sản lượng một loạt hàng hóa mà không cắt giảm một loạt sản
lượng hàng hóa khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên đường giới hạn khả năng
sản xuất của nó”. Điều đó thể hiện, nền kinh tế đã đạt được mức sản xuất tối ưu với
nguồn lực đang có.
Manfred Kuhn (1990) chỉ ra: “Tính hiệu quả được xác định bằng cách lấy kết quả
tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh”. Đây là quan điểm được tính bằng
tỉ lệ giữa kết quả đạt được với chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra, cách tính toán này
được nhiều nhà nghiên cứu áp dụng khi tính toán hiệu quả.
Hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Theo Bùi Xuân Phong (1999) cho rằng, hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu xác định
bằng cách so sánh giữa kết quả với chi phí. Quan điểm này đã phản ánh được sự đo
lường hiệu quả kinh doanh song chưa gắn liền với mục tiêu của quản lý. Ngoài ra, quan
điểm này mới chỉ phán ánh hiệu quả thông qua hai đại lượng kết quả và chi phí ở trạng
thái tĩnh, chưa thể hiện được tính chất của một đại lượng thường xuyên biến động. Hơn
nữa, tác giả cho rằng hiệu quả phản ánh việc tiến hành quá trình sản xuất với chi phí
đầu vào thấp nhất nhưng kết quả tạo ra cao. Quan điểm này đã thể hiện được bản chất
của hiệu quả kinh doanh- đó là phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực để đạt được các
mục tiêu kinh doanh xác định, song vẫn còn hạn chế là nhìn nhận các yếu tố chi phí và
kết quả trong trọng thái tĩnh, chưa gắn với mộc thời gian cụ thể. Hiệu quả doanh nghiệp
thể hiện cách thức tổ chức sử dụng tài nguyên, đầu vào của doanh nghiệp như thế nào
19
để sản xuất ra hàng hóa, dịch vụ. Do đó, hiệu quả tập trung vào các nguồn lực (đầu vào),
hàng hóa và dịch vụ (đầu ra) và tỷ lệ (năng suất) mà tại đó đầu vào được sử dụng để sản
xuất hoặc phân phối đầu ra.
Theo Nguyễn Văn Công (2009) cho rằng: phân tích hiệu quả hoạt động được thể
hiện qua ba nội dung xếp theo ba cấp độ từ thấp đến cao là hiệu suất lao động, hiệu năng
hoạt động và hiệu quả hoạt động. Thứ nhất, hiệu suất lao động thể hiện cường độ hoạt
động – phản ánh mối tương quan giữa kết quả đầu ra với lượng chi phí đầu vào. Chỉ tiêu
này cho biết kết quả sản xuất mà DN đã đạt được trên một đơn vị đầu vào trong một
khoảng thời gian nhất định. Nó là cơ sở đầu tiên để giúp DN đạt được hiệu quả. Thứ hai,
hiệu năng hoạt động, thể hiện khả năng mà DN có thể đạt được khi sử dụng các yếu tố
đầu vào. Đây cũng là điều kiện cần thiết để đảm bảo DN hoạt động hiệu quả. Nguyễn
Văn Công (2009) cũng cho rằng, DN chỉ đạt được hiệu năng hoạt động khi và chỉ khi
đạt được hiệu suát hoạt động cao. Thứ ba, hiệu quả hoạt động, đây là kết quả cuối cùng
mà hoạt động kinh doanh mang lại, được đo bằng lợi nhuận trên một đơn vị đầu vào.
1.2.2. Chỉ tiêu đo lường hiệu quả hoạt động của DNNVV
Nghiên cứu về hiệu quả hoạt động của DN, việc xác dịnh rõ ràng các chỉ tiêu phản
ánh phân tích là rất quan trong: vì nó là cơ sở để các nhà nghiên cứu đánh giá, phân tích
một cách chính xác và đầy đủ về kết quả nghiên cứu thu được. Có rất nhiều cách tiếp
cận khác nhau về hiệu quả hoạt động cũng như những việc đánh giá hiệu quả hoạt động
của DN. Để đo lường hiệu quả hoạt động của DNNVV có rất nhiều phương pháp.
Quan điểm đánh giá hiệu quả hoạt động của DN theo Nguyễn Văn Công (2009) là
quan điểm đánh giá toàn diện. Tuy nhiên, theo Nguyễn Ngọc Tiến (2015), chỉ tiêu hiệu
suất hoạt động và hiệu năng hoạt động có những nội dung trùng lắp nhau. Nghĩa là hiệu
suất hoạt động cũng chỉ là thể hiện năng lực hoạt động của các nguồn lực. Năng suất là
một dấu hiệu thể hiện hiệu quả của doanh nghiệp. Năng suất có thể được cải thiện khi
doanh nghiệp tiến hành sản xuất một cách hợp lý. Nếu doanh nghiệp sử dụng lãng phí
nguồn lực hay không hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực thì năng suất sẽ thấp.
Năng suất cao hơn thì sẽ phản ánh mức lợi nhuận cao hơn. Do vậy, năng suất chính là
hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực đầu vào để sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ
trong doanh nghiệp và được đo lường bằng tỷ lệ đầu ra được sản xuất ra trên các đầu
vào tham gia vào quá trình sản xuất đầu ra đó.
Trên cơ sở các nghiên cứu trước đây về hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, ngoài
chỉ tiêu năng suất, luận án sử dụng chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính như Josette (2005),
Nguyễn Ngọc Quang (2002), đó là nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời của doanh
20
nghiệp. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời được sử dụng để đo lường khả năng
sinh lời của tài sản, nguồn vốn, doanh thu. Bởi vậy, đây là những chỉ tiêu được nhiều
doanh nghiệp quan tâm bởi lợi nhuận là mục tiêu cao nhất mà doanh nghiệp hướng tới.
Các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời bao gồm: tỷ suất sinh lời trên tổng doanh thu
(ROS), tỷ suất sinh lời trên tài sản (ROA), tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE),
Nhóm chỉ tiêu phản ánh năng suất doanh nghiệp
Thứ nhất, năng suất lao động
Đây là chỉ tiêu cho biết một đơn vị lao động tạo ra bao nhiêu kết quả đầu ra, phản
ánh hiệu quả sử dụng lao động của doanh nghiệp.
Thứ hai, năng suất vốn
Năng suất vốn
Kết quả đầu ra
Tổng vốn DN sử dụng
Đây là chỉ tiêu cho biết một đồng vốn doanh nghiệp sử dụng tạo ra được bao nhiêu
kết quả đầu ra, phản ánh hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời của doanh nghiệp
Thứ nhất, tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA)
Tỷ số này đo lường khả năng sinh lời trên tài sản đầu tư của doanh nghiệp, cho
biết với một đồng tài sản đem đi đầu tư thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Thứ hai, tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE)
Chỉ tiêu này cho biết, một đồng vốn chủ sở hữu mà doanh nghiệp sử dụng tạo ra bao
nhiêu đồng lợi nhuận.
21
Thứ ba, chỉ tiêu tỷ suất sinh lời trên tổng doanh thu (ROS)
Chỉ tiêu này cho biết khả năng sinh lời trên tổng doanh thu mà doanh nghiệp có
được, ROS cho biết, một đồng doanh thu đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận cho DN.
Ngoài các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời, hiệu quả tài chính của doanh nghiệp
còn thể hiện qua các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động của tài sản, chỉ tiêu phản ánh
khả năng thanh toán và các chỉ tiêu đánh giá vốn hoạt động. Tuy nhiên, những chỉ tiêu
phản ánh khả năng sinh lời được sử dụng nhiều nhất để phản ánh hiệu quả tài chính của
doanh nghiệp bởi dễ tính toán và nó còn phản ánh mục tiêu của doanh nghiệp.
Như vậy, hiệu quả hoạt động của DN trong luận án này được hiểu là khái niệm
tương đối phản ánh kết quả đạt được so với chi phí đầu vào sử dụng, được thể hiện qua
hai khía cạnh: năng suất doanh nghiệp (tính bằng tỷ lệ giữa kết quả đầu ra trên đầu vào
mà DN đã sử dụng) và hiệu quả tài chính (tính bằng tỷ suất sinh lời của DN).
1.3. Tác động của thể chế đến hiệu quả hoạt động của DNNVV
1.3.1. Tác động trực tiếp của thể chế đến hiệu quả hoạt động của DNNVV
Theo North (1991) thể chế và hiệu quả của việc thực thi thể chế xác định các chi
phí giao dịch, mà chi phí giao dịch là yếu tố quyết định đến hiệu quả kinh tế. Nếu một
đất nước có thể chế là hiệu quả thì sẽ nâng cao được lợi ích hợp tác giữa các bên. Thể
chế tồn tại để làm giảm sự không chắc chắn và giúp mọi người giải quyết công việc một
cách hiệu quả hơn, theo North (2003). Vai trò của thể chế đối với sự phát triển của nền
kinh tế đã được khẳng định bởi nhiều tác giả như North (1991), Acemoglu và Johnson
(2005), Stephen và Philip (1995). Nghiên cứu của North (1991) ở các nước châu Âu đã
chỉ ra những thể chế tốt sẽ làm giảm chi phí giao dịch, làm tăng lên số lượng hợp đồng,
bởi thể chế là bộ quy tắc giúp các bên tạo ra một luật chơi chung, họ tuân thủ và hợp tác
với nhau để cùng có lợi, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Còn Acemoglu và cộng sự
(2012) lại giải thích sự khác nhau giữa hai quốc gia có hai thể chế kinh tế khác nhau đã
dẫn tới sự thịnh vượng về kinh tế khác nhau.
Như vậy, với vai trò của thể chế đối với sự phát triển xã hội chúng ta thấy rằng: khi
thể chế phù hợp với trình độ phát triển của xã hội thì sẽ có tác động thúc đẩy sự phát triển
của xã hội đó, và ngược lại nó có thể cản trở hoạt động sáng tạo của cá nhân.
Vai trò của thể chế kinh tế đến hiệu quả hoạt động của DNNVV