Phấn đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt, có trình
độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và hội nhập kinh
tế quốc tế; có việc làm, được cải thiện rõ rệt về đời sống vật chất, văn hóa, tinh
thần; tham gia ngày càng nhiều hơn công việc xã hội, bình đẳng trên mọi lĩnh vực;
đóng góp ngày càng lớn hơn cho xã hội và gia đình. Phấn đấu để nước ta là một
trong các quốc gia có thành tựu bình đẳng giới tiến bộ nhất của khu vực; cán bộ nữ
tham gia cấp ủy đảng các cấp đạt từ 25% trở lên; nữ Đại biểu Quốc hội và HĐND
các cấp từ 35% đến 40%. Các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở lên, nhất thiết
có cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ. Cơ quan lãnh đạo cấp cao của Ðảng, Quốc hội,
Nhà nước, Chính phủ có tỷ lệ nữ phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới [17]
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 173 trang
173 trang | 
Chia sẻ: tueminh09 | Lượt xem: 774 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 
chức xã hội, các thiết chế cộng đồng và phụ nữ vào quá trình hoàn thiện chính sách 
pháp luật và THPL đối với phụ nữ. Việc công khai, minh bạch phải được thực hiện 
từ khâu lập dự kiến chương trình ban hành văn bản đến khâu soạn thảo, lấy ý kiến, 
thảo luận và thông qua chính sách pháp luật để mọi người đều có thể tiếp cận, tham 
gia góp ý hoặc nắm bắt nội dung, tinh thần của các dự thảo. Các ý kiến góp ý cần 
phải được công khai hóa, được cân nhắc tới và được phải được tiếp thu, giải trình 
đầy đủ. Các văn bản pháp luật sau khi được ban hành phải được đăng Công báo và 
thông tin rộng rãi, công khai đến với mọi người, đặc biệt là phụ nữ trước khi có hiệu 
lực pháp luật và được đưa ra thi hành. Cần hoàn thiện hệ cơ sở dữ liệu VBQPPL của 
Trung ương và địa phương, vận dụng tối đa thành tựu của công nghệ thông tin trong 
đăng tải các văn bản, bảo đảm thông tin đầy đủ, toàn diện, chính xác, dễ tiếp cận, tra 
cứu, khai thác và sử dụng; làm tốt công tác kiểm tra, xử lý các văn bản có chứa quy 
phạm pháp luật nhưng không được thể hiện dưới hình thức VBQPPL và đăng tải 
công khai kết quả xử lý. Thường xuyên rà soát, hệ thống hóa, công bố danh mục các 
văn bản hết hiệu lực; sắp xếp các văn bản pháp luật theo chủ đề, được chú dẫn cụ thể 
để thuận tiện trong tra cứu, khai thác và sử dụng; bảo đảm quyền được thông tin pháp 
luật, để phụ nữ và các chủ thể khác nắm bắt ngay tại một thời điểm, văn bản nào đang 
có hiệu lực và sẽ được áp dụng cho sự kiện, tình huống pháp lý nhất định. 
Công khai, minh bạch các hoạt động thi hành pháp luật, áp dụng pháp luật 
của cơ quan, người có thẩm quyền, tạo thuận lợi để phụ nữ kiểm tra, giám sát việc 
thực hiện để tránh tùy tiện, lạm dụng quyền lực nhà nước để vi phạm pháp luật, xâm 
phạm quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của cộng đồng và của người nghèo. 
Các chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với phụ nữ và quá trình tổ chức thực hiện cần 
phải được công khai trong cộng đồng để đưa thông tin trực tiếp và đầy đủ cho mọi 
145 
người. Công khai hóa các hoạt động đấu tranh phòng chống các hành vi vi phạm 
pháp luật; kịp thời nêu gương người tốt, việc tốt, mô hình điển hình tiên tiến để 
nhân rộng. Công khai các điều ước quốc tế có hiệu lực áp dụng trực tiếp tại Việt 
Nam và các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Đề cao vai trò 
của cộng đồng trong giúp đỡ phụ nữ khi gặp khó khăn, hoạn nạn. 
Bốn là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc việc thực hiện, 
thanh tra, kiểm tra và sơ kết, tổng kết, khen thưởng, xử lý vi phạm trong THPL về 
quyền chính trị đối với phụ nữ. Việc lập ra cơ quan thực hiện chức năng thanh tra, 
kiểm tra việc tuân thủ, chấp hành Hiến pháp và pháp luật hiện nay là khách quan 
bởi nhu cầu giám sát, phát hiện các trường hợp không chấp hành luật, làm trái luật, 
vi phạm luật là rất lớn. Xây dựng hệ thống cơ quan và thiết lập cơ chế giám sát này 
là thiết thực củng cố trật tự pháp luật sau khi được ban hành, nhất là khi ngành kiểm 
sát không còn chức năng kiểm sát chung, trong khi các cơ quan dân cử chưa điều 
chỉnh chức năng để tăng cường giám sát việc chấp hành pháp luật. Tăng cường sự 
lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền; sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ 
chức. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ để huy 
động các nguồn lực; gia tăng các hoạt động hợp tác đa phương và song phương 
trong giải quyết vấn đề quyền chính trị của phụ nữ. Làm tốt chế độ thống kê, báo 
cáo, sơ kết, tổng kết khen thưởng, xử lý vi phạm; kịp thời phát hiện, nhân rộng điển 
hình, việc làm hay; điều chỉnh kịp thời và khắc phục, sửa chữa bất cập, vướng mắc, 
mâu thuẫn, chồng chéo của chính sách pháp luật đối với phụ nữ và hoạt động áp 
dụng pháp luật của các cơ quan, người có thẩm quyền; nâng cao năng lực các thiết 
chế thực thi pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ, tạo thuận lợi cho phụ nữ 
tiếp cận với các cơ quan công quyền, nhất là các cơ quan bảo vệ pháp luật. 
Năm là, làm tốt công tác tiếp dân, tiếp nhận phản ánh, kiến nghị và giải quyết 
khiếu nại, tố cáo trong THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ. Tiếp tục đổi mới 
công tác tiếp dân, tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân, nhất 
là phụ nữ về hành vi thực thi công vụ của cơ quan, cán bộ, công chức, bảo đảm 
thuận tiện cho dân. Xây dựng môi trường tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo thân 
thiện, cởi mở để người dân kịp thời phản ánh, kiến nghị; tạo lập lòng tin của người 
dân, nhất là phụ nữ; làm tốt công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo trong 
THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ bảo đảm khách quan, toàn diện, kịp thời, 
146 
công bằng và đúng pháp luật. Kiến nghị xử lý nhanh chóng, kịp thời các hành vi vi 
phạm pháp luật, khắc phục hậu quả bất lợi nảy sinh từ hành vi vi phạm hoặc sai sót 
trong thực thi công vụ của cơ quan, cán bộ, công chức. 
4.2.3. Nhóm giải pháp phát huy vai trò của các tổ chức trong hệ thống 
chính trị, đặc biệt là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong thực hiện pháp luật 
về quyền chính trị đối với phụ nữ 
- Về vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam: Trong điều kiện thực tiễn Việt 
Nam, cần tiếp tục chú trọng và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng, 
hoàn thiện pháp luật và tổ chức THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ. Đây là giải 
pháp đặc biệt quan trọng, quyết định sự thành công hay thất bại trong chính sách 
pháp luật nói chung và đối với phụ nữ nói riêng cũng như trong THPL về quyền 
chính trị đối với phụ nữ. Để thực hiện tốt giải pháp này, cần tập trung thực hiện tốt 
các nhiệm vụ cụ thể sau: 
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với quá trình 
THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ. Đảng lãnh đạo THPL đối với về quyền 
chính trị đối với phụ nữ thông qua cương lĩnh, chiến lược, đường lối chính trị, nghị 
quyết, qua giáo dục chính trị - tư tưởng; bằng tổ chức bộ máy, cán bộ và đường lối, 
chính sách cán bộ; qua sự gương mẫu lao động sản xuất, tự mình vươn lên của cán 
bộ, đảng viên và các tổ chức Đảng, trên cơ sở điều lệ Đảng và qua công tác kiểm 
tra. Đảng lãnh đạo Nhà nước trong công tác thể chế hóa, xây dựng và hoàn thiện 
luật pháp, kiện toàn tổ chức bộ máy, đào tạo, sử dụng cán bộ; lãnh đạo thực hiện 
đường lối, chính sách, luật pháp của Đảng và Nhà nước; qua kiểm tra hoạt động của 
Nhà nước và các tổ chức đoàn thể theo đường lối, nghị quyết của Đảng, kiểm tra 
hoạt động và tư cách đảng viên trong các cơ quan, tổ chức. Vì vậy, cần tiếp tục đổi 
mới cách thức xây dựng chủ trương, chính sách của Đảng. Đường lối, chính sách 
đối với phụ nữ phải là kết quả của quá trình nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn 
và dự báo được nhu cầu cũng như xu hướng phát triển của thời đại; biết phát huy 
vai trò tiên phong, gương mẫu đi đầu trong tuân thủ, chấp hành pháp luật của cán 
bộ, đảng viên, bảo đảm các tổ chức Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ 
Hiến pháp và pháp luật, THPL đầy đủ; kiên quyết, dũng cảm khắc phục, sửa chữa 
sai lầm, khuyết điểm, làm tốt công tác phê và tự phê. Mỗi cán bộ, đảng viên phải 
nâng cao bản lĩnh chính trị, trau dồi chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp; bồi dưỡng 
147 
phẩm chất đạo đức; Đảng phải biết khơi nguồn lực lượng và sức sáng tạo của nhân 
dân; phải tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng; phải hiểu để giải thích cho 
dân. Các cấp ủy Đảng cần xây dựng Chương trình, Kế hoạch, Nghị quyết cụ thể để 
kịp thời hướng dẫn, triển khai, tổ chức thực hiện các văn bản của cấp trên và tăng 
cường kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện. 
Thứ hai, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy Đảng 
trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật và THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ. 
Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, cần tiếp tục đổi mới tư duy, nâng tầm nhận thức lý 
luận và năng lực tổ chức, hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật 
đối với phụ nữ của Đảng và từng cấp ủy. Cần đặc biệt chú trọng công tác cán bộ để 
đáp ứng đòi hỏi khách quan của thực tiễn phát triển đất nước và xu hướng thời đại. 
Đảng và từng cấp ủy Đảng phải thể hiện đúng là người lãnh đạo giai cấp và thực sự 
trở thành người tổ chức giai cấp, phát huy đầy đủ vai trò người chiến sĩ tiên phong, 
chủ động và dẫn dắt hoạt động tự giác, có tổ chức của quần chúng nói chung và 
trong THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ nói riêng. Muốn vậy, Đảng phải có 
năng lực chiếm lĩnh, làm chủ lý luận; phải tự đổi mới, nâng tầm tư duy lý luận về 
vai trò cầm quyền của mình, Đảng lãnh đạo kinh tế và sản xuất, xây dựng, thực hiện 
và bảo vệ pháp luật nói chung và đối với phụ nữ nói riêng qua phương hướng chính 
trị của kinh tế, của sản xuất, của xây dựng, thực thi và bảo vệ luật pháp và nền dân 
chủ, của quản lý kinh tế và quản lý xã hội. Điều đó đòi hỏi Đảng phải đặc biệt quan 
tâm đến phụ nữ, đến bình đẳng giới để có được các quyết sách đúng đắn. 
Việc nghiên cứu trình Trung ương Đảng ban hành Chiến lược tổ chức THPL 
để định hướng lãnh đạo chính trị đối với công tác THPL hiện nay là đòi hỏi cấp 
thiết, mang tính tất yếu khách quan, không chỉ phù hợp về lý luận mà còn là đòi hỏi 
bức xúc từ thực tiễn. Bởi lẽ, Đảng ta đã có Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ 
thống pháp luật ở Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Chiến lược 
cải cách tư pháp đến năm 2020 và Chương trình tổng thể cải cách hành chính. Mặc 
dù trong các văn bản này có đề cập đến tổ chức THPL nhưng xét trên phương diện 
tổng thể, các Chiến lược, Chương trình đó chưa xác định được mục tiêu, quan điểm, 
định hướng và giải pháp riêng mang tính hệ thống cho công tác THPL. Vì thế, trong 
nhiều văn kiện, Đảng ta vẫn xác định khâu tổ chức thực hiện còn là khâu yếu nhất. 
Việc ban hành Chiến lược tổ chức THPL không chỉ tạo cơ sở chính trị để định 
148 
hướng sự lãnh đạo của Đảng, làm cơ sở để các tổ chức Đảng vào cuộc mà còn kịp 
thời khắc phục tồn tại, hạn chế vốn có trong THPL nhằm tăng cường sự lãnh đạo 
của Đảng đối với công tác này; phân công trách nhiệm giữa các tổ chức trong 
HTCT trong công tác THPL, đưa pháp luật vào cuộc sống. 
- Về vai trò của Nhà nước: Đây là chủ thể quan trọng trong một trong những 
giải pháp rất quan trọng để bảo đảm cho Nhà nước ta thực sự là Nhà nước pháp 
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Để thực hiện tốt giải pháp 
này, cần chú trọng các vấn đề sau đây: i) Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của 
Nhà nước nói chung và các cơ quan cấu thành bộ máy nhà nước nói riêng để Nhà 
nước ta thực sự là Nhà nước pháp quyền XHCN mạnh, có thực quyền với luật pháp 
là tối thượng có bộ máy tốt, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; ii) Nâng cao năng lực 
của Nhà nước trong thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về phụ nữ, về bình 
dẳng giới và tổ chức, triển khai THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ trên thực 
tế; iii) Xác định rõ trách nhiệm, phạm vi sự can thiệp, tác động của quyền lực nhà 
nước trong THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ. 
- Về vai trò của MTTQVN và các tổ chức thành viên: MTTQ các cấp cần 
chủ động, thường xuyên triển khai trách nhiệm đã được quy định trong Luật Mặt 
trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015. Tham gia xây dựng chính sách, pháp luật và 
tham gia quản lý nhà nước về quyền của phụ nữ theo quy định của pháp luật; bảo 
đảm bình đẳng giới trong tổ chức; tham gia giám sát việc THPL về quyền chính trị 
đối với phụ nữ; tuyên truyền, vận động nhân dân, hội viên, đoàn viên thực hiện Luật 
Bình đẳng giới. Trong công tác bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp, 
MTTQ các cấp cần làm tốt hơn nữa công tác hiệp thương, giới thiệu nữ ứng cử viên 
bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giới. Trong bối cảnh tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại 
biểu HĐND các cấp còn cách khá xa so với mục tiêu đặt ra như như hiện nay, vai 
trò của MTTQ các cấp cần phải được chú trọng hơn . 
Đối với các tổ chức thành viên của MTTQVN: Tổng Liên đoàn Lao động 
Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội 
Cựu chiến binh, Hội Luật gia, Hội Chữ thập đỏ, Hội Người cao tuổi, Hội Liên hiệp 
khoa học kỹ thuật, Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật các cấpcần quan tâm lựa 
chọn, bố trí đội ngũ cán bộ chủ chốt bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giới, ưu tiên nữ 
đủ tiêu chuẩn tương đương với nam giới. Lãnh đạo các tổ chức trên đây cần quan 
149 
tâm rà soát, xem xét để lựa chọn bổ sung nhân sự nữ ở những nơi nào, tổ chức nào 
còn khuyết thiếu. Trong hoạt động chuyên môn, các tổ chức thành viên Mặt trận cần 
quan tâm tham gia xây dựng chính sách, pháp luật, bảo đảm nguyên tắc lồng ghép 
giới vào các Chương trình, Kế hoạch công tác của mình; đề xuất, kiến nghị với các 
cơ quan hữu quan của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, Bộ, ngànhbổ sung, 
sửa đổi những quy định nhằm bảo đảm cho phụ nữ được tham gia sâu, rộng trên các 
lĩnh vực của đời sống xã hội. 
- Về vai trò của Hội LHPN Việt Nam: Là tổ chức đại diện, chăm lo quyền và 
lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, trước những yêu cầu mới, Hội chủ động 
tham mưu với Đảng, Nhà nước ban hành một số chính sách, luật pháp có ý nghĩa 
chiến lược về công tác phụ nữ, cán bộ nữ và bình đẳng giới như: Luật Bình đẳng 
giới, Nghị quyết 11 - NQ/TW của Bộ Chính trị về "Công tác phụ nữ trong thời kỳ 
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước"... Các hoạt động của Hội đã đóng góp đáng kể vào 
kết quả thực hiện mục tiêu bình đẳng giới của chúng ta trong thời gian qua và Việt 
Nam đã được quốc tế đánh giá như một "điểm sáng" về thực hiện bình đẳng giới, 
nâng cao quyền con người. Để tiếp tục phát huy vai trò của Hội cũng như góp phần 
nâng cao chất lượng công tác THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ, hội cần tiếp 
tục thực hiện tốt các nội dung sau: i) Xây dựng, củng cố Hội LHPN các cấp thực sự 
vững mạnh, phát huy đầy đủ vai trò nòng cốt trong công tác vận động phụ nữ. Các 
cấp ủy Đảng tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện và theo chiều sâu việc xây 
dựng, củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cấp Hội 
LHPN, nhất là cấp cơ sở; ii) Hội LHPN Việt Nam phải làm tốt vai trò nòng cốt 
trong việc tham mưu và thực hiện các giải pháp cần thiết để nâng cao nhận thức cho 
phụ nữ nói chung và phụ nữ lãnh đạo, quản lý nói riêng về bình đẳng giới, khắc 
phục tư tưởng tự ti, an phận, níu kéo nhau, nêu cao tinh thần tự chủ, đoàn kết, vượt 
qua khó khăn thách thức phấn đấu nỗ lực không ngừng tiến bộ, đóng góp hơn nữa 
cho gia đình, địa phương. Chủ động tham mưu ngày có hiệu quả về việc đưa nội 
dung công tác giáo dục về giới, Luật Bình đẳng giới vào các chương trình đào tạo, 
bồi dưỡng tại các hệ lớp của trường chính trị cũng như ở các trường trong hệ thống 
giáo dục quốc dân; iii) Bốn là, Hội LHPN, Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ các cấp tiếp tục 
nghiên cứu, tham mưu đề xuất với các cấp ủy, chính quyền những giải pháp để chỉ 
đạo thực hiện tốt công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về 
150 
bình đẳng giới, nêu cao tinh thần tự chủ để phụ nữ lãnh đạo, quản lý luôn tự tin và 
phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; iv) Hội LHPNViệt Nam chủ động 
phối hợp và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội 
trong việc tham gia giám sát, phản biện xã hội về chính sách liên quan đến công tác 
cán bộ nữ và phụ nữ lãnh đạo, quản lý. 
Tiểu kết chương 4 
1. Nghiên cứu về những quan điểm và giải pháp THPL về quyền chính trị đối 
với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay là nhu cầu rất cần thiết. Các quan điểm THPL về 
quyền chính trị đối với phụ nữ mang tính tất yếu, khách quan, phản ánh đúng đắn 
nhu cầu thực tiễn phát triển đất nước và yêu cầu của công tác hoàn thiện chính sách 
pháp luật đối với phụ nữ cũng như THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ, vì vậy, 
nó cần phải được xây dựng phù hợp với yêu cầu, bám sát các đặc trưng của Nhà 
nước pháp quyền XHCN Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, hướng đến mục 
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống 
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện và sát với tình hình thực 
tiễn nước ta. Với mỗi quan điểm đều có nội dung, yêu cầu riêng và đòi hỏi phải 
được các chủ thể, đặc biệt là các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức và đảng viên, 
đặc biệt là phụ nữ và các chủ thể có liên quan quán triệt và tuân thủ đầy đủ trong 
THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ. 
2. Các nhóm giải pháp bảo đảm THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ 
được đề xuất trên cơ sở bám sát các vấn đề lý luận về THPL về quyền chính trị đối 
với phụ nữ ở nước ta hiện nay, kế thừa những kết quả, thành tựu đã đạt được, khắc 
phục hạn chế, yếu kém trong chính sách pháp luật đối với phụ nữ và THPL về 
quyền chính trị đối với phụ nữ ở nước ta có tính đến yêu cầu của thực tiễn và xu 
hướng thời đại; tương ứng với mỗi nhóm giải pháp sẽ có các nhiệm vụ và hoạt động 
chủ yếu cần phải được triển khai thực hiện nghiêm túc, có hệ thống và đặt trong tính 
chỉnh thể nhằm đạt được các mục tiêu, yêu cầu đề ra. Đây là những giải pháp chủ 
yếu, có tính khả thi, vừa cấp bách, vừa lâu dài, vì thế cần vận dụng linh hoạt, sáng 
tạo trong THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ. 
151 
KẾT LUẬN 
1. Việt Nam được ghi nhận là quốc gia có những tiến bộ đáng kể trong nỗ 
lực nâng cao vị thế và tăng cường các cơ hội cho phụ nữ ở hầu hết các lĩnh vực của 
cuộc sống. Ngoài xã hội, phụ nữ đang đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế và 
đảm trách những vị trí quan trọng trên chính trường bên cạnh nam giới. Trong gia 
đình, phụ nữ được tạo điều kiện để có sức khoẻ tốt và học vấn cao hơn so với thập 
kỷ trước. Tuy nhiên, bất bình đẳng giới vẫn còn tồn tại, đặc biệt là trong lĩnh vực 
chính trị. Tỉ lệ phụ nữ giữ các vị trí lãnh đạo ở tất cả các cấp còn thấp hơn nam giới, 
nhất là ở các cấp địa phương; phụ nữ còn gặp nhiều rào cản về văn hoá và quan hệ 
trong thăng tiến sự nghiệp. Ở một đất nước mà tỉ lệ tử vong của các bà mẹ ngày 
càng được giảm xuống, thu nhập bình quân và trình độ học vấn của phụ nữ ngày 
càng được nâng cao, tại sao sự tiến bộ trong lĩnh vực chính trị lại diễn ra chậm chạp 
như vậy? Câu hỏi này đương nhiên không dễ trả lời, bởi vẫn tồn tại nhiều nguyên 
nhân khách quan và chủ quan cần khắc phục, giải quyết trong thời gian tới. Thực 
hiện Luận án với đề tài "Thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ ở 
Việt Nam hiện nay" là cần thiết trong giai đoạn hiện nay vì nó sẽ trả lời câu hỏi đã 
nêu trên. 
2. Pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ là hệ thống quy phạm pháp 
luật lấy phụ nữ làm chủ thể trung tâm, quy định trách nhiệm của Nhà nước Cộng 
hòa XHCN Việt Nam, ghi nhận và thiết lập các đảm bảo nhằm tiến tới bình đẳng 
giới, thể hiện đường lối của Đảng và Nhà nước ta về vai trò của phụ nữ nhằm xây 
dựng một xã hội hướng đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn 
minh. Pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ có các đặc trưng sau: i) Ghi nhận 
và thiết lập các biện pháp bảo đảm quyền con người, quyền công dân; ii) Pháp luật 
về quyền chính trị đối với phụ nữ thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với phụ nữ 
trong việc tạo điều kiện và cơ hội cho phụ nữ bình đẳng như nam giới; iii) Pháp luật 
về quyền chính trị đối với phụ nữ thể chế hóa quan điểm, chủ trương, chính sách 
của Đảng và Nhà nước ta về phụ nữ. 
3. THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay là tổng thể các 
hoạt động có mục đích của các chủ thể, đặc biệt là trách nhiệm của Đảng và Nhà 
nước nhằm hiện thực hóa pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ của Nhà nước 
pháp quyền XHCN Việt Nam thành các hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể 
152 
qua các hoạt động cụ thể vì mục tiêu chung là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công 
bằng, văn minh. THPL có 4 hình thức: Tuân thủ pháp luật về quyền chính trị đối 
với phụ nữ; chấp hành pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ; sử dụng pháp 
luật về quyền chính trị đối với phụ nữ và áp dụng pháp luật về quyền chính trị đối 
với phụ nữ. Các hình thức này gắn với yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN 
Việt Nam. Mỗi hình thức có đòi hỏi riêng đối với từng loại chủ thể với các nội 
dung, yêu cầu khác nhau. 
4. Để pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ thực sự đi vào cuộc sống cần 
phải có các yếu tố đảm bảo mới thực hiện có hiệu quả. Các yếu tố đảm bảo THPL là 
tổng thể các đòi hỏi khách quan và chủ quan tạo thành môi trường, điều kiện để các 
chủ thể THPL. Xuất phát từ đặc điểm của pháp luật vể quyền chính trị đối với phụ nữ, 
các yếu tố bảo đảm THPL vể quyền chính trị đối với phụ nữ bao gồm: i) Yếu tố chính 
trị, kinh tế - xã hội; ii) Yếu tố pháp lý; iii) Yếu tố tổ chức; iv) Các yếu tố khác. 
5. Nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của chính sách pháp luật về 
quyền chính trị của phụ nữ ở nước ta cho thấy ngay từ khi mới giành được độc lập, 
Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt chú trọng công tác phụ nữ và tích cực thực hiện 
bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực trong đó có chính trị. Mỗi giai đoạn lịch sử, nội 
dung của nó có thay đổi cho phù hợp với thực tiễn theo hướng ngày càng hoàn 
thiện, bảo đảm quyền con người mà trọng tâm là vấn đề phụ nữ và bình đẳng giới, 
thực thi các chính sách xã hội gắn phát triển kinh tế với bảo đảm công bằng xã hội. 
6. Qua thực trạng THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ cho thấy, nó đã 
đạt được các mục tiêu chính sách, có tác động tích cực đến đời sống nhà nước và 
pháp luật; phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế, bảo đảm quyền con người, quyền 
công dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền, hoàn thiện hệ thống pháp luật, góp phần 
thực hiện thành công các chính sách xã hội. Cơ chế THPL về quyền chính trị đối 
với phụ nữ từng bước được hoàn thiện. Pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ đã 
và đang đi vào cuộc sống, trở thành hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể. Nhận 
thức pháp luật và ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật về quyền chính trị của phụ 
nữ và các chủ thể được nâng lên. Các thiết chế THPL và thiết chế hỗ trợ, giúp đỡ 
phụ nữ THPL được củng cố, tăng cường. Năng lực tổ chức THPL pháp luật về 
quyền chính trị đối với phụ nữ của cơ quan, tổ chức được nâng lên. Cơ chế kiểm tra, 
giám sát và các điều kiện bảo đảm THPL được chú trọng hơn. Tuy nhiên, nó cũng 
153 
đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế đòi hỏi phải tiếp tục được hoàn thiện cho phù hợp 
với yêu cầu thực tiễn. 
7. Thực hiện pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện 
nay cần dựa trên 5 quan điểm chỉ đạo: i) Quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa 
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về nam, nữ bình 
quyền và vai trò của phụ nữ; ii) Nắm vững bản chất của Nhà nước pháp quyền 
XHCN Việt Nam, tăng cường và phát huy hơn nữa trách nhiệm của Nhà nước trong 
việc hoàn thiện chính sách pháp luật nói chung, xây dựng chính sách pháp luật về 
bình đẳng giới và thực hiện chính sách pháp luật đối với phụ nữ; iii) THPL về 
quyền chính trị đối với phụ nữ phải bảo đảm tính thường xuyên, liên tục, linh hoạt 
và sáng tạo; kế thừa, phát triển những thành tựu, khắc phục tồn tại, hạn chế, tiếp thu 
tinh hoa văn hóa nhân loại và phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại; iv) Quá 
trình hoàn thiện chính sách pháp luật đối với phụ nữ và THPL về quyền chính trị 
đối với phụ nữ phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của các thành 
tố trong HTCT, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh 
thời đại; v) THPL về bình đẳng giới gắn với việc cương quyết và kiên trì chống tư 
tưởng "Trọng nam, khinh nữ", phân biệt đối xử với phụ nữ. 
8. Để bảo đảm THPL về quyền chính trị đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay 
cần thực hiện đồng bộ 3 nhóm giải pháp, cụ thể như sau: i) Nhóm giải pháp nâng 
cao nhận thức của mọi chủ thể trong xã hội về quyền chính trị và THPL về quyền 
chính trị đối với phụ nữ; ii) Nhóm giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật trong đó 
có pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ; hoàn thiện cơ chế THPL nói chung và 
pháp luật về quyền chính trị đối với phụ nữ nói riêng; iii) Nhóm giải pháp phát huy 
vai trò của các tổ chức trong HTCT, nhất là Hội LHPN Việt Nam trong THPL về 
quyền chính trị đối với phụ nữ. 
154 
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ 
1. Nguyễn Thị Thu Hà (2017), "Một số rào cản đối với phụ nữ Việt Nam khi 
tham gia các hoạt động chính trị", Tạp chí Khoa học, (15), tr.76-83. 
2. Nguyễn Thị Thu Hà (2017), "Bảo đảm tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội Việt Nam 
hiện nay", tại trang lyluanchinhtri.vn/home/index.php/dien-dan/item/21 
61-bao-dam-ty-le-nu-dai-bieu-quoc-hoi-o-viet-nam-hien-nay.html, [truy 
cập ngày 01/12/2017]. 
155 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Vĩnh An (2013), Quyền dân sự, chính trị trong xã hội ta, tại trang 
 g-xa-
hoi-ta/4415.html?pageindex=10, [truy cập ngày 12/5/2017]. 
2. Phạm Minh Anh (2012), Vai trò của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở trong 
việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc 
gia, Hà Nội. 
3. Nguyễn Thúy Anh (2011), Sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị - 
thể hiện qua bầu cử tại Việt Nam, Hội thảo khoa học quốc tế, Hà Nội. 
4. Trần Thị Vân Anh (2010), "Những trở ngại đối với sự phấn đấu của nữ lãnh 
đạo", Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và giới, (2), tr.19-21. 
5. Phạm Văn Ba, Nguyễn Thị Báo và Vũ Công Giao (Chủ biên), Quyền con người, 
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp Việt Nam, Văn 
phòng Ban Chỉ đạo nhân quyền của Chính phủ xuất bản, Hà Nội. 
6. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2011), Báo cáo chính trị khoá X tại Đại 
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Hà Nội. 
7. Ban Tổ chức Trung ương (2006), Nghiên cứu nâng cao năng lực lãnh đạo của 
cán bộ nữ trong hệ thống chính trị, Hà Nội. 
8. Nguyễn Thị Báo (2002), "Quyền dân sự và chính trị trong Hiến pháp 1992 - 
Sự kế thừa và phát triển", Tạp chí Sinh hoạt Lý luận, (11), tr.15-17. 
9. Nguyễn Thị Báo (2008), Hoàn thiện những bảo đảm pháp lý cho việc thực 
hiện quyền cơ bản của công dân trong lĩnh vực tự do pháp luật về quyền 
của người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học 
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 
10. Nguyễn Thị Báo (2011), Pháp luật về quyền của người khuyết tật ở Việt Nam 
hiện nay của tác giả, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 
11. Nguyễn Thị Báo (2015), Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của 
công dân trong Hiến pháp Việt Nam, Văn phòng Ban Chỉ đạo nhân quyền 
của Chính phủ, Hà Nội. 
12. Nguyễn Thị Báo (Chủ biên) (2016), Bảo đảm quyền của phụ nữ ở Việt Nam 
hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 
156 
13. Nguyễn Hồng Bắc (2009), "Pháp luật quốc tế và kinh nghiệm một số nước về 
chống bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em", Tạp chí Luật học, (9), tr.23-25. 
14. Lê Thuý Bình (2016), Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất ở Việt 
Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 
Hà Nội. 
15. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 04/5/2005 của Bộ Chính 
trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 
năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội. 
16. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính 
trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội. 
17. Bộ Chính trị (2007), Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 27/4/2007 về công tác phụ nữ 
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội. 
18. Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp Liên Xô (1990), Lý luận về nhà nước 
và pháp luật, Mátxcơva. 
19. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thống kê (2012), Số liệu thống kê giới tại 
Việt Nam 2000 - 2010, Hà Nội. 
20. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2012), Về Công ước CEDAW và sự 
tham gia của phụ nữ vào vị trí quản lý, lãnh đạo, Hà Nội. 
21. Bộ Lao động - Thương Binh và Xã hội (2014), Sổ tay lồng ghép giới trong 
lĩnh vực chính trị, Hà Nội. 
22. Bộ Ngoại giao và UDDO (2013), Phụ nữ tham gia khu vực hành chính công 
tại Việt Nam, Hà Nội. 
23. K. Burke (2011), Sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị và lãnh đạo 
ở cấp dưới trung ương ở khu vực châu Á Thái Bình Dương Hội nghị 
thường niên dự án "Nâng cao năng lực cán bộ nữ trong khu vực Nhà 
nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế", Hà Nội. 
24. R. A. Chiongson (2009), CEDAW và pháp luật: Nghiên cứu rà soát văn bản 
pháp luật Việt Nam trên cơ sở quyền và giới qua lăng kính CEDAW, (Lê 
Thành Long Chủ biên dịch), Nxb Tư pháp, Hà Nội. 
25. Chính phủ (2006), Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện bình đẳng giới 5 năm 
(2001-2005) lần đầu tiên trình Quốc hội, Hà Nội. 
26. Chính phủ (2009), Nghị quyết số 57/CP-NQ ngày 01/12/2009 ban hành 
Chương trình hành động của Chính phủ giai đoạn đến năm 2020 thực 
157 
hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác 
phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội. 
27. Chính phủ (2011), Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-
2020, Hà Nội. 
28. Chính phủ (2012), Báo cáo quốc gia lần thứ 7 và lần thứ 8 tình hình thực hiện 
CEDAW giai đoạn 2004-2010 của Chính phủ Việt Nam gửi Ủy ban 
CEDAW năm 2012 (theo Công văn số 6637/VPCP-KGVX ngày 28/8/2012 
của Văn phòng Chính phủ về việc Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân phê 
duyệt Báo cáo quốc gia lần thứ 7 và lần thứ 8), Hà Nội. 
29. Chính phủ (2014), Báo cáo về thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới 
năm 2014, Hà Nội. 
30. Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (1945), Sắc lệnh số 14 ngày 
8/9/1945, Hà Nội. 
31. Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc tại Việt Nam (2011), Báo cáo phát 
triển con người, Hà Nội. 
32. Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc tại Việt Nam (2012), Báo cáo sự tham 
gia của phụ nữ trong vai trò lãnh đạo và quản lý ở Việt Nam, Hà Nội. 
33. Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc tại Việt Nam (2012), Báo cáo Tóm tắt 
tình hình giới, Hà Nội. 
34. Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc tại Việt Nam (2012), Nữ đại biểu 
Quốc hội ở Việt Nam - Hướng tới tương lai, Hà Nội. 
35. Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc tại Việt Nam (2014), Nữ đại biểu 
Quốc hội Việt Nam: Từ tham gia đến đại diện, Hà Nội. 
36. Cơ quan Phát triển quốc tế Úc, Ngân hàng Thế giới (2012), Đánh giá giới tại 
Việt Nam. 
37. Cơ quan về Bình đẳng giới và Trao quyền cho phụ nữ của Liên Hợp quốc 
(UN Women), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2016), Hướng 
tới bình đẳng giới tại Việt Nam: Để tăng trưởng bao trùm có lợi cho phụ 
nữ, Hội thảo khoa học, Hà Nội. 
38. Cơ quan Phụ nữ Liên Hợp quốc (U.N. Women) (2010), Pháp luật của chúng 
ta có thúc đẩy bình đẳng giới, Sổ tay nghiên cứu rà soát pháp luật dựa trên 
công ước CEDAW, (Hà Ngọc Anh dịch), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 
158 
39. Cơ quan Phụ nữ Liên Hợp quốc (2011), Báo cáo Thúc đẩy quyền của phụ nữ 
tại Việt Nam, Hà Nội. Kim Dung (Lược dịch) (2005), "Vấn đề giới trong 
các báo cáo thực hiện và phát triển mục tiêu thiên niên kỷ", Tạp chí Khoa 
học về phụ nữ, (6), tr.22-23. 
40. Ngô Thị Tuấn Dung (2010), "Kinh nghiệm thúc đẩy bình đẳng giới ở khu vực 
châu Âu", Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới, (6), tr.17-29. 
41. Nguyễn Hữu Đang (1995), Quyền lợi công dân nước Việt Nam Dân chủ cộng 
hòa của tác giả, Nxb Kính Đức - Thời đại, Hà Nội. 
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 
43. Đảng đoàn Quốc hội (2012), Đề án số 257/ĐA-ĐĐQH13 ngày 4/5/2012 của 
Đảng đoàn Quốc hội khóa XIII Quy hoạch đại biểu Quốc hội chuyên 
trách và cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan của Quốc hội, Hà Nội. 
44. Bùi Thị Đào (2006), "Pháp luật Việt Nam với việc bảo đảm quyền bình đẳng 
của phụ nữ trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe theo CEDAW", Tạp chí 
Luật học, (11), tr.27-29. 
45. Nguyễn Minh Đoan (2009), Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
46. Nguyễn Văn Động (2008), Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật, dùng 
cho đào tạo luật học và sau đại học luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
47. Nguyễn Văn Động (2009), "Quan điểm và giải pháp pháp lý nhằm nâng cao 
vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam 
hiện nay", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (9), tr.20-22. 
48. Trần Ngọc Đường, Nguyễn Văn Mạnh (Chủ biên), (1999), Lý luận chung về 
nhà nước và pháp luật, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
49. Trần Ngọc Đường (2004), Bàn về quyền con người quyền công dân, Nxb 
Chính trị quốc, Hà Nội. 
50. Trần Hàn Giang (2004), "Về một số lý thuyết nữ quyền", Tạp chí Khoa học về 
phụ nữ, (1), tr.24-27. 
51. Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng (2014), ABC về các quyền dân sự, chính trị cơ 
bản, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 
52. Vương Thị Hanh (2007), "Phụ nữ Việt Nam và sự tham gia chính trị", Tạp chí 
Nghiên cứu gia đình và giới, (3), tr.17-24. 
159 
53. Nguyễn Thị Thu Hà (2008), "Định kiến giới đối với nữ trong lãnh đạo, quản 
lý", Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới, (2), tr.69-76. 
54. Đặng Trung Hà (2011), Các công ước cơ bản về quyền con người, Nxb Chính 
trị quốc gia, Hà Nội. 
55. Hoàng Hùng Hải (2004), "Bảo đảm quyền dân sự, chính trị trong thời kỳ đổi 
mới ở Việt Nam", Tạp chí Lý luận chính trị, (12), tr.32-35. 
56. Hoàng Văn Hảo, Chu Hồng Thanh (Chủ biên) (1997), Một số vấn đề về quyền 
dân sự và chính trị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
57. Nguyễn Đức Hạt (Chủ biên) (2007), Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ 
nữ trong hệ thống chính trị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
58. K. Henderson (2011), Tăng cường tiếng nói, vai trò lãnh đạo và sự tham gia 
của phụ nữ từ châu Á Thái Bình Dương và những nơi khác, Kỷ yếu Hội 
nghị thường niên "Tăng cường năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ nữ 
góp phần phát triển nguồn lực phục vụ hội nhập quốc tế", Thái Bình 
Dương. 
59. Hà Thị Mai Hiên (2009), "Xây dựng chiến lược giáo dục quyền con người ở 
Việt Nam trong điều kiện hội nhập", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 
(12), tr.30-32. 
60. Phạm Thu Hiền (2011), "Những rào cản đối với phụ nữ khi tham gia ứng cử 
đại biểu hội đồng nhân dân", Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới, (3), 
tr.12-15. 
61. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Sự phát triển quyền dân sự 
và chính trị trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam (1986 - 2001), Kỷ yếu đề 
tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội. 
62. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nhà nước và pháp luật, (2007), 
Tài liệu học tập và nghiên cứu môn học lý luận chung về Nhà nước và pháp 
luật, tập 1, Tái bản lần thứ ba, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 
63. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Tập bài giảng Chương trình 
lãnh đạo nữ lớp Bồi dưỡng Dự nguồn Cán bộ Cao cấp Khóa III, Hà Nội. 
64. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Văn phòng Rosa Luxemburg 
Stifting (RLS) Đông Nam Á (2015), Phụ nữ với Chính trị, Hội thảo quốc 
tế, Hà Nội. 
160 
65. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2016), Tầm quan trọng của chương 
trình kèm cặp cán bộ nữ trong hệ thống chính trị Việt Nam, Hà Nội. 
66. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Đại sứ quán Australia (2016), Sự 
tham gia của phụ nữ trong vai trò lãnh đạo: Kinh nghiệm của Australia 
và Việt Nam, Hà Nội. 
67. Hội đồng bầu cử (2011), Báo cáo số 453/BC-HĐBC ngày 18/7/2011 Tổng kết 
cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XIII và Đại biểu Hội đồng nhân dân 
các cấp, nhiệm kỳ 2011-2016 của Hội đồng bầu cử, Hà Nội. 
68. Hội đồng bầu cử (2016), Báo cáo tóm tắt Tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc 
hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-
2021, Hà Nội. 
69. Hội Liên hiệp Phụ nữ Hà Nội (1989), Lịch sử phong trào phụ nữ Hà Nội 
(1954-1987), Nxb Hà Nội, Hà Nội. 
70. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2012), Sự tham gia của Hội Liên hiệp Phụ 
nữ Việt Nam trong đời sống chính trị - xã hội, Đề tài khoa học cấp cơ sở, 
Hà Nội. 
71. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2012), Văn kiện Đại hội phụ nữ toàn quốc 
lần thứ XI, Hà Nội. 
72. Hội Liên hiệp Phụ nữ nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào (2015), Tổng kết 
chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ 5 năm lần thứ hai giai đoạn 
2011-2015, Hà Nội. 
73. Hoàng Mai Hương (2005), Hoàn thiện pháp luật về quyền chính trị của phụ 
nữ ở Việt Nam hiện, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc 
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 
74. Trần Thanh Hương (2006), Những bảo đảm pháp lý cho việc thực hiện quyền 
cơ bản của công dân trong lĩnh vực tự do cá nhân, Luận án tiến sĩ Luật 
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 
75. Trần Thị Quốc Khánh (2012), Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở Việt 
Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia 
Hồ Chí Minh, Hà Nội. 
76. Tường Duy Kiên (2004), Đảm bảo quyền con người trong hoạt động của 
Quốc hội Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia 
Hồ Chí Minh, Hà Nội. 
161 
77. Nguyễn Đỗ Kiên (2014), Thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của 
nhà nước do công chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra ở Việt Nam, 
Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 
78. Nguyên Lâm (2010), Nghị viện và bình đẳng giới: Anh: Khung giám sát chặt 
chẽ + Cơ chế giám sát phong phú, tại trang  
nhandan.vn/default.aspx?tabid=69&ItemId=119393&GroupId=440, [truy 
cập ngày 15/5/2017]. 
79. Đỗ Xuân Lân (2011), Thực hiện pháp luật đối với người nghèo trong nhà 
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, 
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 
80. Nguyễn Văn Linh (2015), Thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tực hành 
chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ 
Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 
81. Võ Thị Hồng Loan, Đặng Ánh Tuyết (2005), "Bình đẳng nam nữ và thực hiện 
quyền bình đẳng nam nữ ở nước ta", Tạp chí Cộng sản, (11), tr.26-29. 
82. Nguyễn Thị Phương Loan (2006), "Quyền phát triển của phụ nữ Việt Nam 
hiện nay", Tạp chí Lao động và xã hội, (23), tr.16-18. 
83. Vũ Mạnh Lợi (2011), "Phụ nữ làm lãnh đạo trong khu vực công ở Việt Nam", 
Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới, (4), tr.2-4. 
84. Dương Thanh Mai (Chủ biên) 2004), Công ước của Liên Hợp quốc và pháp 
luật Việt Nam về xóa bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ, Nxb Chính trị quốc 
gia, Hà Nội. 
85. Võ Thị Mai (2003), Vai trò của nữ cán bộ quản lý nhà nước trong quá trình 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
86. Võ Thị Mai (2013), "Vấn đề sử dụng nhân tài là cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý 
trong hệ thống chính trị", Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, (3), 
tr.30-35. 
87. Nguyễn Văn Mạnh (1995), Xây dựng và hoàn thiện đảm bảo pháp lý thực 
hiện quyền con người trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận 
án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 
88. Hồ Chí Minh (1985), Về công tác tư tưởng, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
89. Hồ Chí Minh (2010), Di Chúc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
162 
90. Phạm Bình Minh (2009), "Những thành tựu trong việc đảm bảo và phát triển 
quyền con người tại Việt Nam", Tạp chí Lịch sử Đảng, (22), tr.36-38. 
91. Hải Minh (2011), Phụ nữ Saudi Arabia được bỏ phiếu và ứng cử, tại trang 
phieu-va-ung-cu/457586.html, [truy cập ngày 23/4/2017]. 
92. J. Muro (2012), Báo cáo sự tham gia của phụ nữ trong vai trò lãnh đạo và 
quản lý ở Việt Nam. 
93. Nguyễn Thị Tuyết Nga (2013), Ảnh hưởng của yếu tố văn hóa đến sự tham 
gia chính trị của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay, Hội thảo chuyên đề về phụ 
nữ và vai trò lãnh đạo, Hà Nội. 
94. Ngân hàng Thế giới (2001), Đưa vấn đề giới vào phát triển, thông qua sự 
bình đẳng giới về quyền, nguồn lực và tiếng nói, Nxb Văn hóa thông tin, 
Hà Nội. 
95. Ngân hàng Thế giới (2012), Báo cáo đánh giá vấn đề giới tại Việt Nam. 
96. Vũ Phú Nghĩa (2004), "Nhân quyền ở Việt Nam nhìn từ sự phát triển tiến bộ 
xã hội", Tạp chí Cộng sản, (12), tr.26-28. 
97. Ngô Minh Ngọc (2009), "Thực trạng bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em qua 
hoạt động xét xử tại Toà án nhân thành phố Hà Nội", Tạp chí Nhà nước 
và pháp luật, (10), tr.9-11. 
98. Ních Khăm (2003), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt Hội Liên hiệp 
Phụ nữ Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong thời kỳ đổi mới, Luận án 
tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 
99. Doãn Hồng Nhung (2007), "Nữ quyền và quan hệ vợ chồng - nhìn từ khía 
cạnh pháp lí của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong luật đất đai", 
Tạp chí Luật học, (25), tr.35-37. 
100. Lưu Bình Nhưỡng (2009), "Bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em dưới góc độ 
nhân quyền", Tạp chí Luật học, (25), tr.16-18. 
101. Linh Oanh (2016), Mỹ Latin - Thiên đường dành cho phụ nữ làm chính trị, tại 
trang 
danh-cho-phu-nu-lam-chinh-tri-472046, [truy cập ngày 12/6/2017]. 
102. Nguyễn Thị Kim Phụng (2009), Tổng quan về bạo lực và pháp luật phòng, 
chống bạo lực đối với phụ nữ, trẻ em, Tạp chí Luật học, (24), tr.20-22. 
163 
103. Nguyễn Thị Phương (2009), "Một số yếu tố tác động đến tỷ lệ nữ trúng cử đại biểu 
Quốc hội khóa XII", Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới, (2), tr.39-47. 
104. Nguyễn Việt Phương (2013), "Nhận diện chủ nghĩa nữ quyền Pháp thế kỷ XX 
qua một số đại diện tiêu biểu", Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và giới, (21), 
tr.33-36. 
105. Duy Quang (2004), "Ấn Độ cam kết trao quyền cho phụ nữ", Tạp chí Đông 
Nam Á, (31), tr.14-16. 
106. Hoàng Thị Kim Quế (Chủ biên), (2007), Giáo trình Lý luận chung về Nhà 
nước và pháp luật, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 
107. Hoàng Thị Kim Quế (2015), " Các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật 
của công dân ở nước ta hiện nay", Tạp chí Khoa học, (3), tr.57-59. 
108. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Luật Bình đẳng 
giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
109. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017), Đại biểu Quốc 
hội các khoá, tại trang  
[truy cập ngày 11/6/2017]. 
110. Quỹ phát triển phụ nữ của Liên Hợp quốc (UNIFEM), Viện Nghiên cứu 
quyền con người và Cơ quan phát triển quốc tế Canada (CIDA) (2008), 
25 năm thực hiện Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối 
xử chống lại phụ nữ (CEDAW) thực tiễn tại Việt Nam do, Nxb Hà Nội, 
Hà Nội. 
111. H. Riddell (2011), Các chính sách công nhận khuyến khích nâng cao năng lực 
cán bộ nữ - bài học từ Niu Di Lân, Hội thảo quốc tế, Neudilan. 
112. Nguyễn Duy Sơn (2004), Thực hiện quyền phát triển của con người Việt Nam, 
Tạp chí Lý luận chính trị, (9), tr.37-39. 
113. Lưu Ngọc Tố Tâm (2017), Đảm bảo thực thi quyền con người, quyền công 
dân theo Hiến pháp năm 2013, tại trang  
tuc/Pages/thi-hanh-phap-luat.aspx?ItemID=362, [truy cập ngày 
12/1/2018]. 
114. Nguyễn Đình Tấn, Lê Tiêu La và Trần Thị Bích Hằng (2010), Năng lực cán 
bộ lãnh đạo quản lý cấp cơ sở trong việc thực hiện quyền phụ nữ - thực 
trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
164 
115. Đỗ Thị Thạch (2013), "Tăng cường tham gia của phụ nữ vào lãnh đạo, quản lý 
ở nước ta hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (77), tr.41-44. 
116. Cao Đức Thái (2009), "Cách mạng Việt Nam với quyền con người trong thế 
kỷ XX", Tạp chí Lý luận chính trị, (32), tr.41-43. 
117. Phạm Hồng Thái, Đinh Văn Mậu (2009), Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb 
Giao thông vận tải, Hà Nội. 
118. Nguyễn Viết Thảo (2006), "Phát huy dân chủ và bảo vệ quyền con người ở Cu 
Ba xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Xây dựng Đảng, (18), tr.27-29. 
119. Chu Hồng Thanh (1997), Quyền con người và luật quốc tế về quyền con 
người của tác giả, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
120. Trịnh Đình Thể (2007), Suy nghĩ về bình đẳng giới dưới góc nhìn pháp luật, 
Nxb Tư pháp, Hà Nội. 
121. Đỗ Thị Thơm (2015), Thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hoá 
đối với người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, Luận 
văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 
122. Trương Thị Thông (2013), Điều tra cơ bản về sự tiến bộ nghề nghiệp của cán 
bộ nữa trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước, Đề tài khoa học cấp 
bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 
123. Hoài Thu (2010), Nghị viện và bình đẳng giới: Thuỵ Điển họ đã làm thay đổi những 
gì, tại trang  default.aspx?tabid=132&Item 
Id=119392&GroupId=1152, [truy cập ngày11/3/2017]. 
124. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 2351/QĐ-TTg ngày 24/12/201 
phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020, 
Hà Nội. 
125. Nguyễn Thị Thuận (2006), "Quan hệ giữa CEDAW và một số công ước quốc 
tế về nhân quyền", Tạp chí Luật học, (12), tr.30-33. 
126. Lê Thị Thục (2009), Tính nữ và tính nam: Nan đề của phụ nữ Việt Nam trong 
lãnh đạo chính trị, Luận án tiến sĩ Trường Đại học Quốc gia Australia. 
127. Lê Thị Thục (2014), "Quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ: kinh 
nghiệm của một số nước", Tạp chí Lý luận chính trị, (8). 
128. Trần Thanh Thủy (2012), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện quyền 
phụ nữ nữ từ năm 1986 đến năm 2012, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học 
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 
165 
129. Minh Thy (2010), Nghị viện và bình đẳng giới: Thái Lan: Xác lập bình đẳng 
giới trong Hiến pháp, tại trang  andan.vn/default.aspx?ta 
bid=69&ItemId=119394&GroupId=440, [truy cập ngày 15/3/2017]. 
130. Lê Hoài Trung (2011), Pháp luật bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực xã 
hội ở Việt Nam: những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ Luật 
học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội. 
131. Trung tâm Nghiên cứu Khoa học về lao động nữ (1997), Phụ nữ tham gia 
lãnh đạo quản lý, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
132. Trung tâm Nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí 
Minh (2000), Văn kiện quốc tế về quyền con người, Hà Nội. 
133. Trung tâm Nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí 
Minh (2001), Hiến pháp, pháp luật và quyền con người - Kinh nghiệm 
Việt Nam và Thụy Điển, Hà Nội. 
134. Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội 
(1998), Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Hà Nội. 
135. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp 
luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 
136. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Thực hiện pháp luật ở Việt Nam - lý 
luận và thực tiễn, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội. 
137. Tạ Minh Tuấn (2006), "Vấn đề nhân quyền trong chính sách đối ngoại Mỹ", 
Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, (22), tr.37-39. 
138. Sơn Tùng (1949), Quyền lợi và nghĩa vụ của công dân Việt Nam, Nxb Tự học, 
Hà Nội. 
139. Đặng Thị Ánh Tuyết (2015), Phụ nữ Việt Nam trong lãnh đạo, quản lý công 
hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí 
Minh, Hà Nội. 
140. Nguyễn Thị Tuyết (2015), Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống 
chính trị ở vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ đổi mới, Luận án tiến sĩ 
Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 
141. Đào Trí Úc (1993), Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật, Nxb Khoa học 
xã hội, Hà Nội. 
142. Đào Trí Úc (1997), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi 
mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
166 
143. Đào Trí Úc (Chủ biên), (2005), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ 
nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
144. Đào Trí Úc (Chủ biên) (2009), Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt 
động của bộ máy Đảng và Nhà nước một số vấn đề lý luận và thực tiễn, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
145. Đào Trí Úc (2011), "Thực hiện pháp luật và cơ chế thực hiện pháp luật", Tạp 
chí Nhà nước và pháp luật, (7), tr.37-39. 
146. Đào Trí Úc (2012), "Thực hiện pháp luật và cơ chế thực hiện pháp luật ở Việt 
Nam", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (3), tr.5. 
147. Đào Trí Úc, Vũ Công Giao (Chủ biên) (2014), Bình luận khoa học Hiến pháp 
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 
148. Văn phòng Quốc hội (2003), Quyền của phụ nữ và trẻ em trong các văn bản 
pháp lý quốc tế và pháp luật Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
149. Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Công an (1999), Từ điển Luật họ, Nxb Từ điển 
Bách khoa, Hà Nội. 
150. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1996), Điều tra việc thực hiện pháp luật, Đề 
tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội. 
151. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2011), Những vấn đề lý luận và thực tiễn 
của nhóm quyền dân sự, chính trị, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội. 
152. Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân 
văn Quốc gia (1996), Điều tra việc thực hiện pháp luật, Đề tài nghiên cứu 
khoa học cấp Bộ, Hà Nội. 
153. Viện Nghiên cứu Phát triển xã hội (2016), Báo cáo các yếu tố xã hội quyết 
định bất bình đẳng giới, Hà Nội. 
154. Nguyễn Cửu Việt (Chủ biên) (1992), Việt Nam với các công ước quốc tế về 
quyền con người, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
155. Võ Khánh Vinh (Chủ biên), (2010), Quyền con người, tiếp cận đa ngành và 
liên ngành luật học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
156. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2011), Quyền con người, tiếp cận đa ngành và liên 
ngành khoa học xã hội, Tái bản lần thứ 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
157. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2011), Những vấn đề lý luận và thực tiễn của 
nhóm quyền dân sự và chính trị, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
167 
158. Võ Khánh Vinh (2011), Giáo dục quyền con người - Những vấn đề lý luận và 
thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
159. Võ Khánh Vinh (2012), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các quyền mới 
xuất hiện trong quá trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
Tiếng Anh 
160. Alston, Philip (1995), Human Rights Law, at page https://www.hg.org/human-
rights.html [date 02-12-2016]. 
161. F.Heidenson (1995), The Role of Women in Law Enforcement, Clarendon 
Press. 
162. Henry Kampbell Black (1990), Deluxe Black law dictionary, St. Paul, Minn, 
West publishing Co, p.1159. 
163. Manfred Nowak (2005), U.N Convenant on Civil and Political Rights - 
ICCPR Commentary, N.P Engel. 
164. Sarh Joseph, Jenny Schults and Melissa Castan (2013), The International 
Convernant on Civil and Political Rights: Cases, Material and 
Commenttary, Oxford University Press. 
165. UN Women (2012), United Nations Entity for Gender Equality and the 
Empowerment of Women, at page  
/content/un-women-united-nations-entity-gender-equality-and-
empowerment-women [date 19-5-2017].