Luận án Tiểu thuyết Việt Nam vào giai đoạn 1986 – 2014 từ góc nhìn phê bình sinh thái

Vũ trụ là biểu hiện tối cao của sự thiêng liêng. Quan niệm này là nền tảng để thiết lập một thế giới, một cách dễ hiểu trong sự nhận thức về vũ trụ hoặc thậm chí là bất kỳ phần nào của vũ trụ. Đó là lý do tại sao câu chuyện về nguồn gốc của sự vật được chứng nghiệm như là một nguyên tắc nuôi dưỡng tuyệt vời, như là một nguyên tắc nguyên mẫu của mẹ, hay như Mẹ vĩ đại, trong những giai đoạn đầu của ý thức con người. Một số người dân bản địa của đất nước này đã chứng nghiệm điều này với tư cách là Mẫu ngô hay Đàn bà Nhện. Những người tôn kính người Mẫu ngô đặt một trái ngô bên cạnh đứa trẻ sơ sinh trong nôi để mang lại sự dịu dàng và an toàn mà đứa trẻ cần, giúp chúng cảm nhận được sự hiện diện sâu sắc của nó. Khi đứa trẻ sơ sinh chào đời, chúng bước ra khỏi sự ấm áp và an toàn trong tử cung để đến với đời sống lạnh giá và thế giới thay đổi, trái ngô là một sự hiện diện thiêng liêng, một phước lành.

pdf168 trang | Chia sẻ: ngoctoan84 | Lượt xem: 1053 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tiểu thuyết Việt Nam vào giai đoạn 1986 – 2014 từ góc nhìn phê bình sinh thái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n loại, chính là giải cứu vấn đề tận gốc rễ. Vì nếu chúng ta thấu hiểu và tôn trọng bản chất thiêng liêng của tự nhiên, liệu chúng ta sẽ còn tiếp tục tàn phá và chiếm đoạt mọi thứ? Khi đã chữa lành những vết thương tinh thần, con người mới có quyền hi vọng chữa lành và đưa Trái đất trở về trạng thái tinh nguyên. 141 C. KẾT LUẬN Nếu từng chứng kiến về một cánh đồng đang mùa vụ, với những bông lúa trĩu nặng, thơm thoảng, thì phê bình sinh thái có thể hình dung theo cách hoa mĩ ấy. Dẫu phê bình sinh thái chưa được thể hiện như một tư tưởng chủ đạo, dẫu lối viết theo kiểu văn học sinh thái chưa là một sự lựa chọn có chủ ý, thì những suy nghiệm, trăn trở trước vấn đề khủng hoảng môi trường vẫn được hiển lộ khá rõ nét trong tâm thức của các nhà văn thời kì Đổi mới. Đây chính là dấu hiệu khẳng định quá trình phát triển của tiểu thuyết sau 1986 theo hướng đang bắt kịp xu thế toàn cầu, đón nhận những nguy cơ sinh thái con người phải đối mặt để kết nối vòng tay bảo vệ Trái đất, bảo vệ tương lai nhân loại. Trong khuôn khổ luận án tiến sĩ, với đề tài Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1986 – 2014 từ góc nhìn phê bình sinh thái, chúng tôi đã tập trung làm rõ một số vấn đề quan trọng sau: 1. Bối cảnh đổi mới văn học đã giúp cho nhà văn dám nhìn thẳng vào sự thật, dám phát biểu và phát huy tinh thần dân chủ. Một trật tự mới của con người được định vị lại theo các chiều kích: con người bản năng, con người xã hội, con người chấn thương, con người tâm linh, con người sinh học Quan niệm về thực tại và con người như đã nói ở trên chính là chìa khóa mở đường cho sự đổi mới tư duy cùng những tìm tòi lối viết phù hợp với tâm thế, thị hiếu thẩm mĩ trong không gian văn hóa mới. Đây là những tác nhân đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự chuyển dịch và vận hành của tiểu thuyết nói chung và tiểu thuyết sinh thái nói riêng. Thời gian đầu, tư tưởng sinh thái trong tiểu thuyết vẫn chưa rõ nét, biểu thị mờ nhạt cùng với các chủ đề, tư tưởng khác. Dần dần, các nhà văn đã ý thức được đề tài sinh thái là một vấn đề thiết yếu, có ý nghĩa trong đời sống hiện đại. Những năm cuối thế kỉ XX đến nay, tiểu thuyết sinh thái phát triển mạnh, được các nhà văn trình bày theo hệ thống quan điểm và diễn ngôn sinh thái đặc trưng với từng phong cách riêng (trường hợp phong cách sinh thái đô thị như Đỗ Phấn, sinh thái hoang dã như Trần Duy Phiên). Đặc biệt, các nhà văn trẻ cũng rất lưu tâm đến vấn đề sinh thái như một hiện tượng nóng bỏng trên toàn cầu. Sự hình thành và phát triển khuynh hướng sinh thái trong tiểu thuyết Việt Nam trong hơn ba mươi năm qua là minh chứng về sự thay đổi hệ hình tư duy trong văn học nước ta. Cái nhìn về tự nhiên được soi chiếu khách quan, đa chiều hơn so với trước đây. Các tiểu thuyết đã diễn trình và cảnh báo tình hình sinh thái ở Việt Nam. Chúng 142 tôi nhận thấy, ban đầu những tác phẩm mang dấu ấn sinh thái tập trung vào những cây bút đã trưởng thành về tuổi đời và tuổi nghề. Những ghi nhận về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong sáng tác của họ đều xuất phát từ cảm thức, từ sự chắt lọc và suy nghiệm trước thực tiễn đời sống. Như Trần Duy Phiên, lập nghiệp và gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên lâu năm, nên đọc văn ông còn thấy hơi thở của núi rừng, dòng Dakbla, núi Chưhpao, những buôn làng; điều này khiến cho tiểu thuyết Trăm năm còn lại in đậm tư tưởng sinh thái. Hay Đỗ Phấn, dù đến với văn chương muộn màng, nhưng những kết tinh của ông là những cảm thức của một người Hà Nội, đã sống, đã yêu và hết mình với thủ đô; thành ra, phảng phất trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn là nỗi buồn về một đô thị đang chuyển mình và biến đổi chóng mặt với rất nhiều tiêu cực, quan ngại. Đến sau này, khi phê bình sinh thái đã dẫn nhập rộng rãi trên văn đàn, ít nhiều nhà văn (phần lớn là cây bút trẻ) đã ảnh hưởng lí thuyết này vào văn học. Dẫu vậy, một số trường hợp vẫn còn gượng ép, thiếu tự nhiên; chủ đề của tác phẩm là môi trường sinh thái, nhưng tác giả đã lạm dụng nhiều vấn đề thời sự, xã hội tạo nên những đoạn văn khô khan, mất đi bản chất của văn chương. Tuy thế, sự ra đời liên tục tiểu thuyết sinh thái ở Việt Nam là một tín hiệu đầy hứng khởi về một nền “văn học xanh”, một lối viết mới về tương lai nhân loại và Trái đất. 2. Nằm trong dòng chảy hậu hiện đại, sự xuất hiện của phê bình sinh thái ở Việt Nam là dấu hiệu cho thấy bước tiệm cận của nền lí luận văn học nước ta với thế giới. Từ cách tiếp cận lấy chỉnh thể sinh thái làm trung tâm, chúng tôi tiến hành tìm hiểu đặc tính hậu/ giải cấu trúc phê bình sinh thái trong tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn sau 1986 đến nay. Với tính chất hậu/ giải cấu trúc, phê bình sinh thái đã khám phá cơ chế nội tại của tiểu thuyết Việt Nam nhìn từ quá trình tương tác của nhân loại khi đặt trong cách ứng xử với tự nhiên; thông qua cái nhìn phi trung tâm và cái chết của chủ thể để cố gắng chứng minh sự bấp bênh của phận người trước một thế giới đa trị, vô thường. Tuy nhiên, mục đích của giải/ hậu cấu trúc không nhằm thay thế vị trí của sự đối lập phân cực, mà nhằm phá huỷ, thủ tiêu mâu thuẫn của các cặp đối lập (như nhân loại/ tự nhiên) bằng cách điều chỉnh mối quan hệ của chúng. Khi vận dụng lí thuyết này trong phê bình sinh thái, chúng tôi nhận thấy cần phải cẩn trọng, nếu không sẽ rất dễ rơi vào các trường hợp: hoặc là quá chú trọng đến văn bản (hệ lụy đi kèm: phê bình sinh thái trở thành lí thuyết lệ thuộc của hậu/ giải cấu trúc); hoặc là quá đề cao “cái chết của chủ thể”, triệt hạ hoàn toàn vị thế con người, quên mất con người cũng là mắt xích quan trọng trong sinh thể. Vì vậy, tính đối 143 thoại là con đường để hòa giải những xung khắc trên. Những phạm trù của hậu/ giải cấu trúc như phi trung tâm, cái chết của chủ thể, tính liên chủ thể, tính đối thoại trở thành điểm tham chiếu và ứng dụng để dẫn nhập, giải mã những thông điệp môi trường. Giải quyết những hạn chế của hậu/ giải cấu trúc, chúng tôi tin rằng đây sẽ là phương pháp thực hành rất hữu ích để chuyển tải tư tưởng và nhiệm vụ của văn học sinh thái. 3. Trên tinh thần định giá chuẩn tắc đạo đức sinh thái, chúng tôi quy thành ba tiêu chuẩn đạo đức cơ bản: Nhân vật xâm phạm tự nhiên, nhân vật nạn nhân sinh thái, nhân vật thức tỉnh. Kết quả của công việc khảo sát cho thấy, với kiểu nhân vật xâm phạm tự nhiên, sự mơ hồ sinh thái liên quan nhiều đến các vấn đề chính trị - xã hội và các cơ chế, chính sách trong quản lí môi trường. Từ đây, những giao cắt giữa phê bình sinh thái và chính trị được lộ rõ, nó chứng minh rằng phê bình sinh thái ở Việt Nam đã đi theo hướng phát triển chung của phê bình sinh thái trên thế giới. Tuy nhiên, điểm nhấn của luận án vẫn là nhân vật nạn nhân sinh thái. Nhiều tiểu thuyết đã viết về những thân phận bi thương của con người trước thảm họa thiên tai, dịch bệnh, đói nghèo, phân cấp nam/ nữ... Qua đó, tiểu thuyết sinh thái đương đại chủ đích tìm kiếm sự hòa đồng giữa con người với tự nhiên bằng cách thay đổi nhận thức và quan niệm về thế giới xung quanh. Về thực chất, các nhà văn không cố tình thiết lập một hình mẫu nhân cách lí tưởng để chứng minh rằng, không có chủ thể nhân loại trung tâm, không có khách thể tồn tại độc lập, càng không có sự tách biệt giữa người và vật. Sâu xa, đó là những phản chiếu về tương lai nhân loại phải đối mặt. Nên trào lưu về với thiên nhiên, đề cao lối sống điền viên là những gì mà các tiểu thuyết gia muốn độc giả đương đại hướng tới với thái độ tôn trọng và thành kính trước tự nhiên. 4. Trong chương bốn, việc nghiên cứu một số khía cạnh văn hóa như quyền lực diễn ngôn và liên văn bản cho thấy rằng, phê bình sinh thái đã tiếp thu nhiều nguồn lí thuyết và tạo ra những nét đặc trưng, hấp dẫn cho riêng mình. Qua những diễn ngôn về tự nhiên, con đường đi của tiểu thuyết sinh thái Việt Nam là từ “phản lãng mạn” cho đến những tưởng tượng mới về môi trường với các chức năng dự báo, tiên đoán. Tiểu thuyết sinh thái đã chất vấn khá rõ nét bản chất của các văn bản tự sự về môi trường, hạn chế hoặc ít khi thấy sự ca tụng thiên nhiên như trong những văn bản thường làm trước đó. Bên cạnh đó, dẫn nhập triết lí phương Đông, từ những huyền tích, tập tục dân gian, chúng tôi muốn hướng đến phần tư tưởng của phê bình sinh thái. Quyền lực 144 của tự nhiên không phải là dấu ấn riêng của từng cá nhân sau khi họ bị vướng phải những tai nạn sinh thái, mà đó là tâm thức của cộng đồng, đã được truyền lại từ xa xưa. Sự gắn kết giữa truyền thống và hiện đại, dân gian và bác học đã làm nên mạch ngầm tuần hoàn, liên hồi cho cảm hứng cội nguồn sinh thái trong văn học Việt Nam. 5. Với nỗ lực giải quyết các vấn đề trọng tâm của đề tài, chúng tôi nhận thấy vẫn còn rất nhiều vấn đề đặt ra, nếu có điều kiện nghiên cứu trong tương lai, đây sẽ là những gợi mở thú vị: - Bản chất là một lí thuyết khởi nguồn từ phong trào hoạt động môi trường, phê bình sinh thái bị cho là yếu về lí luận, nhiều khi bỏ qua lí luận. Do đó, xây dựng hệ thống lí luận phê bình sinh thái vững chắc đang là mục tiêu hướng đến của các nhà nghiên cứu. Đây là hướng nghiên cứu mở ra triển vọng để xác định cụ thể đối tượng nghiên cứu phê bình sinh thái, phương pháp thực hành khả dụng, tránh tình trạng “vay mượn” và “lạm dụng” quá nhiều các lí thuyết khác, mất đi giá trị độc tôn của phê bình sinh thái. Thực tế, phê bình sinh thái chú trọng nhiều đến cảm hứng phê phán, điều này khó mang lại sự trưởng thành về phương diện lí luận. Nếu dẫn nhập tinh thần triết học sinh thái phương Đông cổ đại, phê bình sinh thái sẽ bồi đắp và củng cố một số vướng mắc từ trong bản chất. - Một hướng đi khác có thể xem xét khi nghiên cứu về phê bình sinh thái trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại đó là các vấn đề sinh thái nữ quyền, sinh thái giai cấp, sinh thái đô thị, sinh thái hậu thực dân. Những điều này, chúng tôi đã đề cập đến trong luận án, nhưng chưa mở rộng và sâu sắc. Do đó, việc phát triển các phạm trù, phân nhánh của phê bình sinh thái sẽ là những hướng khám phá mới để tiếp tục công việc nghiên cứu sau này. - Khi tìm hiểu về tiểu thuyết giai đoạn 1986 – 2014, chúng tôi thấy rằng càng về sau, đặc biệt từ 2012 đến nay, càng có nhiều tiểu thuyết thể hiện rõ tư tưởng sinh thái, những vấn nạn về môi trường được diễn ngôn tường tận, ám ảnh. Cột mốc 1986 – 2014 chỉ là sự giới hạn thời gian, phạm vi khảo sát của luận án ở khoảng gần nhất khi chúng tôi bắt đầu tiếp cận đề tài này. Trong quá trình viết, chúng tôi cũng đã phân tích, nghiên cứu một số tiểu thuyết của những năm kề cận (2015, 2016, 2017) nhằm tạo nên một cái nhìn liền mạch trong dòng chảy của tiểu thuyết sinh thái đương đại Việt Nam. Vì thế, thiết nghĩ sẽ rất đáng quý nếu lưu tâm nhiều hơn đến giai đoạn này và lí giải vì sao tiểu thuyết đầu thế kỉ XXI lại có sự nở rộ cảm hứng phê bình sinh thái. Đây cũng là dấu hiệu phản tỉnh trước cuộc khủng hoảng môi trường toàn cầu, và cũng cho thấy phê bình sinh thái đang là hướng nghiên cứu hợp thời, ý nghĩa trong thời đại ngày nay. 145 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN I. Bài báo 1. Nguyễn Thùy Trang (2015), “Văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn sinh thái”; Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Huế, 2015, Tập 105, số 6, tr.179-190. 2. Nguyễn Thùy Trang (2016), “Cảm quan sinh thái trong tiểu thuyết Trăm năm còn lại của Trần Duy Phiên”, Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Huế, tập 125, số11, tr.235-246. 3. Nguyễn Thùy Trang (2016), “Phê bình sinh thái ở Việt Nam từ góc nhìn văn hóa”; Kỷ yếu khoa học Thành tựu văn học Việt Nam ba mươi năm đổi mới (1986 – 2016), Trường Đại học Khoa học Huế, tr.76-84. 4. Nguyễn Thùy Trang (2016), “Văn xuôi Nam Bộ sau Đổi mới từ góc nhìn phê bình sinh thái”; Kỷ yếu Hội thảo Văn học Việt Nam trong xu hướng toàn cầu hóa, Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng, tr.466–474. 5. Nguyễn Thùy Trang (2017), Tính đối thoại – phương thức kết nối với thế giới tự nhiên trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, Tạp chí Nghiên cứu văn học, 2017, số 3, tr.31–38. 6. Nguyễn Thùy Trang (2017), “Tiểu thuyết Chó Bi – Đời lưu lạc của Ma Văn Kháng – Nhìn từ lí thuyết phê bình sinh thái”, Nghiên cứu và dạy học Ngữ văn trong bối cảnh đổi mới giáo dục, Nxb Đại học Huế, 2017; tr.152-162. 7. Nguyễn Thùy Trang (2017), “Sự lật đổ quan niệm “nhân loại trung tâm” trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại”, Tạp chí Khoa học, Trường ĐH Sư phạm Hồ Chí Minh, tập 14, tr.72-80. 8. Nguyễn Thùy Trang (2017), “Những hệ lụy của văn hóa hiện đại đối với môi trường sinh thái từ phương diện đô thị hóa trong văn xuôi Việt Nam sau Đổi mới”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Trường Đại học Khoa học Huế, tập 9, tr.63–72. 9. Nguyễn Thùy Trang (2017), “Kiểu nhân vật nạn nhân sinh thái trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau Đổi mới đến nay”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế: Tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu, Viện Văn học, tr.689-708. 10. Nguyễn Thùy Trang (2018), “Thông điệp môi trường trong tiểu thuyết Nhắm mắt nhìn trời của Nguyễn Xuân Thủy”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Trường Đại học Khoa học Huế, tập 11, tr.43-52. II. Đề tài nghiên cứu khoa học 11. Nguyễn Thùy Trang (2016), Văn xuôi Trần Duy Phiên từ góc nhìn phê bình sinh thái, Đề tài khoa học cấp trường, Trường Đại học Sư phạm Huế, mã số: T.16 – XH – 06. 146 TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Danh mục tài liệu tiếng Việt 1. Mikhail Bakhtin (2003), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết (tái bản) (Phạm Vĩnh Cư dịch), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 2. Trần Lê Bảo (chủ biên) (2005), Văn hóa sinh thái – nhân văn, Nxb ĐH Sư phạm, Hà Nội. 3. Roland Barthes (1997), Độ không của lối viết (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 4. Roland Barthes (2010), Những huyền thoại (Phùng Văn Tửu dịch), Nxb Tri thức, Hà Nội. 5. George Berkley (2014), Một nghiên cứu về các nguyên tắc nhận thức của con người, (Đinh Hồng Phúc, Mai Sơn dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính), Nxb Tri thức, Hà Nội. 6. David Bohm (2014), Cái toàn thể và cái trật tự, Nxb Tri thức, Hà Nội. 7. Lê Nguyên Cẩn (2009), “Cách nhìn nhận thế giới tự nhiên của Lão Tử và J.J. Rousseau”, Đạo gia và văn hóa, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr 199-213. 8. Pierre Teilhard De Chardin (2014), Hiện tượng con người, Nxb Tri thức, Hà Nội. 9. Jean Chevaliev, Alain Gheerborant (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng. 10. Karel Capek (2016), Khi loài vật lên ngôi, Đăng Thư dịch, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 11. Nguyễn Văn Dân (2014), Các lí thuyết nghiên cứu văn học và tính khả dụng, http:// vannghequandoi.com.vn/ Phe-binh-van-nghe, cập nhật 247/2014. 12. Nguyễn Đăng Điệp (2014), Thơ mới từ góc nhìn sinh thái học văn hóa, http:// vannghequandoi.com.vn/ Phe-binh-van-nghe, cập nhật 28/07/2014. 13. Dirk C. Fleck (2014), GO! Độc tài sinh thái – Trái đất trước con người sau, Phan Bá dịch, https://phanba.wordpress.com/2014/12/14/go-doc-tai-sinh-thai, cập nhật 14/12/ 2014. 14. Cheryll Glotfelty & Harold Fromm,ed, (2014), Nghiên cứu văn học trong thời đại khủng hoảng môi trường, Trần Thị Ánh Nguyệt dịch, TC Sông Hương 305/7-2014. 15. Đặng Thị Thái Hà (2014), Bước đầu tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp – Từ điểm nhìn phê bình sinh thái, cập nhật 20/12/2014. 16. Đặng Thị Thái Hà (2014), Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái (Qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư), Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội. 17. Dương Thu Hằng (2015), Biến đổi môi trường sống – nhân tố thúc đẩy không gian văn hóa mới trong thơ Tú Xương, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 5 (tháng 5/2015), tr.88-tr.94. 147 18. Đỗ Văn Hiểu (2016), Phê bình sinh thái – cội nguồn và sự phát triển, http:// nguvan.hnue.edu.vn/ Nghiencuu/ Lyluanvanhoc, cập nhật 3/2/2016. 19. Viên Linh Hồng (2011), Chủ nghĩa nữ quyền sinh thái hướng tới giải phóng đạo đức, Trần Mạnh Tiến dịch, http:// vanhien.vn/news, cập nhật 23/04/2016. 20. Nguyễn Thế Hùng (2009), Họ vẫn chưa về, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 21. Ma Văn Kháng (2016), Chó Bi, đời lưu lạc, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 22. Nguyễn Xuân Khánh (2006), Mẫu thượng ngàn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 23. M. Kundera (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết, Nguyên Ngọc dịch, Nxb Văn hoá thông tin, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội. 24. Phương Lựu (2015), Cần tìm hiểu sự chuyển hướng của Phê bình sinh thái, Tạp chí Văn nghệ, số 40 (3-10-2015), tr.17. 25. C. Mác và Ph.Ăng-ghen (1995), Toàn tập (Tập 4), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 26. Vũ Quang Mạnh (chủ biên), Hoàng Duy Chúc (2011), Môi trường và con người – Sinh thái học nhân văn, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 27. Trần Thị Ánh Nguyệt (2016), Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 28. Trần Thị Ánh Nguyệt, Lê Lưu Oanh (2016), Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 29. Nhiều tác giả (2010), Đạo Phật và Môi trường, Thích Nhuận Đạt dịch và chú giải, Nxb Tổng hợp, Tp Hồ Chí Minh. 30. Nhiều tác giả (2012), “Phê bình sinh thái – cội nguồn và sự phát triển”, Tuyển tập văn luận văn học sinh thái Trung Quốc và thế giới, Đỗ Văn Hiểu dịch, news, cập nhật 24/11/2012. 31. Khương Nhung (2007), Tô tem sói, Trần Đình Hiến dịch, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 32. Đỗ Phấn (2011), Chảy qua bóng tối, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 33. Đỗ Phấn (2013), Dằng dặc triền sông mưa, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 34. Đỗ Phấn (2013), Gần như là sống, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 35. Đỗ Phấn (2014), Ruồi là ruồi, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 36. Đỗ Phấn (2015), Rụng xuống ngày hư ảo, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 37. Nguyễn Khắc Phê (2002), Thập giá giữa rừng sâu, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 38. Trần Duy Phiên (1996), Trăm năm còn lại, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 39. Đặng Thiều Quang (2013), Săn cá thần, Nxb Văn học, Hà Nội. 40. A Sáng (2011), Thân xác, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 148 41. Thiên Sơn (2011), Dòng sông chết, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 42. Baird T. Spalding (2017), Hành trình về phương đông, Nguyên Phong chuyển thể và phóng tác, Nxb Thế giới, Tp Hồ Chí Minh. 43. Bruno Streit (2011), Đa dạng sinh học, Nxb Tri Thức, Hà Nội. 44. Trần Đình Sử (2010), Giải cấu trúc và nghiên cứu, phê bình văn học hôm nay, http:// khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index, cập nhật 19/08/2010. 45. Trần Đình Sử (2016), Phê bình sinh thái tinh thần trong nghiên cứu văn học hiện nay, Nghệ thuật 360, Nxb Hội Nhà văn, tr.14-25. 46. Bùi Ngọc Tấn (2014), Biển và chim bói cá, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 47. Karen Thornber (2011), Ecocriticism (Tài liệu thuyết trình tại Viện Văn học). 48. Karen Thornber (2014), Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học (Hải Ngọc dịch), cập nhật 25/10/2014. 49. H.D. Thoreau (2016), Walden – Một mình sống trong rừng, Hiếu Tân dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội. 50. Nguyễn Ngọc Thuần (2011), Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 51. Đỗ Bích Thúy (2006), Bóng của cây sồi, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 52. Đỗ Bích Thúy (2015), Chúa đất, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 53. Đỗ Lai Thúy (1999), Từ cái nhìn văn hóa, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 54. Đỗ Lai Thúy (2012), Thơ như là mỹ học của cái khác, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 55. Nguyễn Xuân Thủy (2014), Nhắm mắt nhìn trời, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 56. Đỗ Tiến Thụy (2007), Màu rừng ruộng, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 57. Đỗ Tiến Thụy (2017), Con chim joong bay từ A đến Z, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 58. Nguyễn Thị Tịnh Thy (2013), Tôtem Sói của Khương Nhung nhìn từ lý thuyết phê bình sinh thái, Đề tài khoa học công nghệ cấp trường, Đại học Sư phạm Huế, 12/2013. 59. Nguyễn Thị Tịnh Thy (2013), “Phê bình sinh thái – nhìn từ lí thuyết giải cấu trúc”, Văn học hậu hiện đại – lí thuyết và thực tiễn, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, tr. 25-31. 60. Nguyễn Thị Tịnh Thy (2017), Rừng khô, suối cạn, biển độc và văn chương – Phê bình sinh thái, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 61. Nguyễn Trí (2015), Thiên đường ảo vọng, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 62. Thủy Trương (2012), Biển của vô cùng, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 63. Nguyễn Ngọc Tư (2012), Sông, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 64. Jacques Vernier (2005), Môi trường sinh thái, Trương Thị Chí, Trần Chí Đạo dịch, Minh Yến hiệu đính, Nxb Thế giới, Hà Nội. 149 65. Trần Trọng Vũ (2013), Thành phố bị kết án biến mất, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 66. Trần Thị Hải Yến (2014), “Nghiên cứu phê bình sinh thái hiện đại và di sản văn hóa: nhìn từ cách Sinh thái học tìm về Tam giáo” (Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo), Hội thảo khoa học Phát triển văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, Viện Văn học. II. Danh mục tài liệu tiếng nước ngoài 67. Walter Benjamin (1969), “Theses on the philosophy of history”, Illumination, Edited and with an Introduction by Hannah Arendt, Schocken Books, New York, p.253 – 264. 68. Alessandro Duranti (2010), Husserl, intersubjectivity and anthropology, University of California, 69. Greg Garrard (2004), Ecocriticism, London and New York. 70. Catrin Gersdorf and Sylvia Mayer (2006), Nature in literary and cultural studies – Transatlantic conversations on ecocriticism, Amsterdam - New York. 71. Cokinos Christopher (1994), What is ecocriticism?, uploads/ASLE_Primer_DefiningEcocrit.pdf 72. Michel Foucault (1977), Language counter memory practice, edited by Donald F. Bouchard, Cornell University Press, New York. 73. Cheryll Glotfely (1996), “Introduction: Literary Studies in an Age of Environmental Crisis”, The Ecocriticism Reader: Landmarks in Literature Ecology, edited by Cheryll Glotfely and Harold Fromm, University of Georgia Press, p.xv - xxxvi. 74. Irena R. Makaryk (Editor) (1993), Encyclopedia of Contemporary Literary Theory: Approaches, Scholars, Terms, University of Toronto Press. 75. Christopher Manes (1995), “Nature and Silence”, The Ecocriticism Reader: Landmarks in Literary Ecology, edited by Cheryll Glotfelty & Harold Fromm, New York & London: Routledge, p. 15 - 29. 76. Daniel Pérez Marina (2009), Anthropocentrism and Androcentrism – An Ecofeminist Connection), Sodertorns Hogskola. 77. Joseph W. Meeker (1974), The comedy of sunvival: studies in literary ecology, New York: Charles Scribner’s Sons. 78. Michael J.McDowell, “The bakhtinian road to ecological insight”, The Ecocriticism Reader: Landmarks in Literary Ecology edited by Cheryll Glotfelty and Harold Fromm, University of Georgia Press, p. 371 - 392. 150 79. Michael Verderame (2010), The Shape of Ecocriticism to Come, New Direction in Ecocriticism, https://www.ideals.illinois.edu/bitstream/handle/2142/5241/%20 verderame_michael_markup.html 80. Rachel A. Klue (2005), Man’s return to nature: An ecocritical approach to tournier’s vendredi ou les limbes du pacifique, https://getd.libs.uga.edu/pdfs/ klue_rachel_a_200808_ma.pdf 81. Serpil Oppermann (1999), Ecocriticism: Natural World in the Literary viewfinder, http:// www.asle.org/wp-content/uploads/ASLE_Primer_ Oppermann.pdf 82. Serpil Oppermann (2006), “Theorizing Ecocriticism: Toward a Postmodern Ecocritical Practice”, Isle: Interdisciplinary Studies in Literature and Environment, Vol 13, Issue 2, p.103-128. 83. Kate Rigby (2002), Chapter 7: “Ecocriticism” from Julian Wolfreys (ed.), Introducing Criticism at the Twenty-First Century, pp.151-78, ECOCRITICISM+Rigby+article.pdf. 84. Susan Rowland (2011), The Ecocritical Psyche: Literature, Evolutionary Complexity and Jung, published by Routledge, New York. 85. Scott Sloviic, Swarnalatha Rangarajan, and Vidya Sarveswaran (2014), Ecoambiguity, Community, and Development: Toward a Politicized Ecocriticism, Lexington Books. 86. Llewellyn Vaughan-Lee (edited) (2013), Spiritual Ecology: the Cry of the Earth, The Golden Sufi Center Publish, California. PHẦN PHỤ LỤC PL 1 PHỤ LỤC 1 (Những tiểu thuyết Việt Nam được khảo sát trong Luận án) 1. Y Ban (2014), ABCD, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 2. Mạc Can (2008), Những bầy mèo vô sinh, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 3. Nguyễn Văn Học (2016), Vết thương hoa hồng, Nxb Thế giới, Hà Nội. 4. Nguyễn Trí Huân (2003), Chim én bay, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. 5. Nguyễn Thế Hùng (2009), Họ vẫn chưa về, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 6. Ma Văn Kháng (2016), Chó Bi, đời lưu lạc, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 7. Nguyễn Xuân Khánh (2006), Mẫu thượng ngàn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 8. Chu Lai (2009), Phố, Nxb Lao động, Hà Nội. 9. Bảo Ninh (2011), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 10. Đỗ Phấn (2011), Chảy qua bóng tối, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 11. Đỗ Phấn (2013), Dằng dặc triền sông mưa, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 12. Đỗ Phấn (2013), Gần như là sống, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 13. Đỗ Phấn (2014), Ruồi là ruồi, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 14. Đỗ Phấn (2015), Rụng xuống ngày hư ảo, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 15. Nguyễn Khắc Phê (2002), Thập giá giữa rừng sâu, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 16. Nguyễn Khắc Phê (2009), Những ngọn lửa xanh, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 17. Trần Duy Phiên (1996), Trăm năm còn lại, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 18. Nguyễn Bình Phương (2014), Thoạt kỳ thủy, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 19. Đặng Thiều Quang (2013), Săn cá thần, Nxb Văn học, Hà Nội. 20. A Sáng (2011), Thân xác, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 21. Thiên Sơn (2011), Dòng sông chết, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 22. Bùi Ngọc Tấn (2014), Biển và chim bói cá, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 23. Hồ Anh Thái (2013), Cõi người rung chuông tận thế, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 24. Đào Thắng (2004), Dòng sông Mía, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 25. Đỗ Bích Thúy (2006), Bóng của cây sồi, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 26. Đỗ Bích Thúy (20014), Cánh chim kiêu hãnh, Nxb Tổng hợp, Tp Hồ Chí Minh. 27. Đỗ Bích Thúy (2015), Chúa đất, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 28. Nguyễn Xuân Thủy (2014), Nhắm mắt nhìn trời, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. PL 2 29. Đỗ Tiến Thụy (2007), Màu rừng ruộng, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 30. Đỗ Tiến Thụy (2017), Con chim joong bay từ A đến Z, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 31. Thủy Trương (2012), Biển của vô cùng, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 32. Nguyễn Khắc Trường (1999), Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nxb Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh. 33. Nguyễn Ngọc Tư (2012), Sông, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 34. Hoàng Minh Tường (2013), Gia phả của đất, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 35. Trần Trọng Vũ (2013), Thành phố bị kết án biến mất, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. PL 3 PHỤ LỤC 2 Chuông Chánh niệm THÍCH NHẬT HẠNH (Dịch từ “Spiritual Ecology: the Cry of the Earth” (2013), Llewellyn Vaughan-Lee (edited), The Golden Sufi Center Publish, California, p. 29 – 30) Chuông chánh niệm đang kêu gọi chúng ta, cố gắng đánh thức chúng ta, nhắc nhở chúng ta nhìn sâu vào tác động của chúng ta trên hành tinh. Chuông chánh niệm đang kêu lên. Trên khắp Trái đất, chúng ta đang trải qua các trận lũ lụt, hạn hán, và cháy rừng quy mô lớn. Băng biển đang tan ở Bắc Cực và các cơn bão và sóng nhiệt đang giết chết hàng ngàn người. Những khu rừng đang biến mất nhanh chóng, sa mạc đang lớn dần, nhiều giống loài đang bị tuyệt chủng mỗi ngày, và chúng ta vẫn tiếp tục tiêu thụ, phớt lờ tiếng chuông đang vang vọng. Tất cả chúng ta đều biết rằng hành tinh xanh xinh đẹp của chúng ta đang gặp nguy hiểm. Cách đi bộ trên Trái đất của chúng ta có ảnh hưởng lớn đến động vật và thực vật. Tuy nhiên chúng ta hành động như thể cuộc sống hàng ngày của chúng ta không có gì cần phải làm với tình trạng của thế giới. Chúng ta giống như những người mộng du, không biết mình đang làm gì và đang ở đâu. Cho dù chúng ta có thể thức dậy hay không phụ thuộc vào việc chúng ta có thể đi bộ một cách thận trọng trên Đất Mẹ. Tương lai của mọi sự sống, kể cả của chính chúng ta, phụ thuộc vào các bước đi cẩn thận của mình. Chúng ta phải nghe tiếng chuông chánh niệm vang lên khắp hành tinh. Chúng ta phải bắt đầu học cách sống theo cách mà con cháu chúng ta có thể làm được trong tương lai. Tôi ngồi bên Đức Phật một thời gian dài và thỉnh giáo ngài về vấn đề nóng lên toàn cầu, và lời chỉ dạy của Đức Phật rất rõ ràng. Nếu chúng ta tiếp tục sống như chúng ta đã từng, tiêu thụ mà không nghĩ đến tương lai, phá hủy rừng và thải ra lượng carbon dioxide nguy hiểm thì sự tàn phá của biến đổi khí hậu là điều không thể tránh khỏi. Phần lớn hệ sinh thái của chúng ta sẽ bị phá hủy. Mực nước biển sẽ tăng và các thành phố ven biển sẽ bị ngập nước, điều này buộc hàng trăm triệu người tị nạn khỏi ngôi nhà của họ, gây ra các cuộc chiến tranh và bùng phát dịch bệnh truyền nhiễm. PL 4 Chúng ta cần một sự thức tỉnh cộng đồng. Có những người đàn ông và phụ nữ trong số chúng ta đã thức tỉnh, nhưng điều đó là không đủ; hầu hết mọi người vẫn đang say ngủ. Chúng ta đã xây dựng một hệ thống mà rồi không thể kiểm soát được. Nó áp đặt lên chúng ta, biến ta trở thành nô lệ và nạn nhân của nó. Đối với hầu hết chúng ta, những người muốn có một ngôi nhà, một chiếc xe, một tủ lạnh, một chiếc ti vi, vân vân, chúng ta phải hy sinh thời gian và cuộc sống để đổi lấy. Chúng ta liên tục chịu áp lực của thời gian. Trước đây, chúng ta có thể dành ba giờ để uống một tách trà, vui thú hội hè với bạn bè trong một bầu không khí thanh bình và đậm tinh thần. Chúng ta có thể tổ chức một bữa tiệc mừng sự bung nở của một nhành lan trong khu vườn. Nhưng ngày nay chúng ta không còn có thể có được những thứ này. Chúng ta nói rằng thời gian là tiền bạc. Chúng ta đã tạo ra một xã hội mà người giàu trở nên giàu hơn và người nghèo càng lúc càng nghèo, và trong đó chúng ta bị cuốn vào những vấn nạn trực tiếp của chính mình mà chúng ta không đủ khả năng để phòng liệu về những gì đang xảy ra với phần còn lại của gia đình nhân loại hay hành tinh Trái đất. Trong tâm trí tôi, tôi nhìn thấy một đàn gà trong một cái lồng đang tranh giành nhau một vài hạt ngũ cốc, mà không hay biết rằng trong vài giờ tất cả chúng sẽ bị giết. Người dân ở Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam và các nước đang phát triển khác vẫn luôn mơ ước về “giấc mơ Mỹ”, như thể giấc mơ đó là mục tiêu cuối cùng của nhân loại - mọi người đều phải có xe hơi, tài khoản ngân hàng, điện thoại di động, bộ vô tuyến truyền hình của riêng họ. Trong 25 năm tới, dân số Trung Quốc sẽ là 1,5 tỉ người, và nếu mỗi người đều muốn lái chiếc xe của mình, Trung Quốc sẽ cần đến 99 triệu thùng dầu mỗi ngày. Nhưng sản lượng thế giới hiện nay chỉ là 84 triệu thùng ngày. Vì vậy, giấc mơ Mỹ là bất khả đối với người dân Trung Quốc, Ấn Độ hay Việt Nam. Giấc mơ của người Mỹ không còn khả thi nữa đối với người Mỹ. Chúng ta không thể tiếp tục sống như thế này. Đây không phải là một nền kinh tế bền vững. Chúng ta phải có một giấc mơ khác: ước mơ của tình anh em và tình chị em, của lòng từ bi và trắc ẩn. Giấc mơ đó có thể xảy ra ngay tại đây và ngay bây giờ. Chúng ta có Phật pháp, chúng ta có phương tiện, và chúng ta có đủ trí tuệ để có thể sống giấc mơ này. Chánh niệm là trung tâm của thức tỉnh, giác ngộ. Chúng ta tập thở để có thể ở đây trong khoảnh khắc hiện tại để chúng ta có thể nhận ra những gì đang xảy ra bên trong và xung quanh chúng ta. Nếu những gì đang xảy ra bên trong chúng ta là tuyệt vọng, chúng ta phải PL 5 nhận ra điều đó và hành động ngay. Chúng ta có thể không muốn đối đầu với hệ thống tinh thần đó, nhưng đó là một thực tế, và chúng ta phải nhận ra để biến đổi nó. Chúng ta không phải chìm vào nỗi thất vọng về sự nóng lên toàn cầu; chúng ta có thể hành động. Nếu chúng ta chỉ ký đơn và quên đi nó, điều này sẽ chẳng giúp gì nhiều. Hành động khẩn cấp phải được thực hiện ở cấp độ cá nhân và tập thể. Tất cả chúng ta đều có một mong muốn tuyệt vời là có thể sống trong hòa bình và môi trường lành mạnh. Điều mà hầu hết chúng ta vẫn chưa làm được là những cách thức cụ thể để tạo nên tinh thần trách nhiệm của chúng tavề cuộc sống bền vững trong một thực tế đời sống hằng ngày. Chúng ta không sắp đặt được chính mình. Chúng ta không thể chỉ đổ lỗi cho chính phủ và các tập đoàn về những hóa chất gây ô nhiễm nước uống, về bạo lực trong các khu phố, về những cuộc chiến tranh tàn phá rất nhiều sinh mạng. Đã đến lúc mỗi người cần thức dậy và hành động cho chính cuộc sống của mình. Chúng ta chứng kiến nạn bạo lực, tham nhũng và phá hoại xung quanh. Chúng ta đều biết rằng luật pháp có điểm không đủ mạnh để kiểm soát mê tín, tàn ác và lạm dụng quyền lực mà chúng ta thấy hàng ngày. Chỉ có đức tin và quyết tâm mới có thể ngăn chúng ta rơi vào hố sâu tuyệt vọng. Phật giáo là hình thái mạnh mẽ nhất của chủ nghĩa nhân đạo mà chúng ta có. Nó có thể giúp chúng ta học cách sống với trách nhiệm, từ bi, và bác ái. Mỗi học viên Phật tử nên là người bảo vệ môi trường. Chúng ta có quyền quyết định vận mệnh của hành tinh mình. Nếu chúng ta thức tỉnh với hoàn cảnh thực tế, sẽ có một sự thay đổi trong ý thức cộng đồng. Chúng ta phải làm gì đó để đánh thức mọi người. Chúng ta phải giúp Đức Phật thức tỉnh những người đang sống trong một giấc mộng. PL 6 PHỤ LỤC 3 Thế giới của thần diệu THOMAS BERRY (Dịch từ “Spiritual Ecology: the Cry of the Earth”(2013), Llewellyn Vaughan-Lee (edited), The Golden Sufi Center Publish, California, p. 21 – 26) BẠN NHÌN THẤY ĐIỀU GÌ? Bạn thấy điều gì khi nhìn lên bầu trời đêm, những vì sao sáng chói giữa thiên đường khuya vắng? Bạn nhìn thấy điều gì khi bình minh rẽ qua đường chân trời phía đông? Suy nghĩ của bạn là gì trong những ngày mùa hè phai nhạt khi những chú chim bắt đầu chuyến hành trình về phương nam, hay khi những chiếc lá mùa thu lần lượt nhuộm nâu và thổi bay xa? Bạn nghĩ gì khi nhìn ra ngoài đại dương vào mỗi tối? Bạn thấy điều gì? Nhiều người trước đây đã nhìn thấy những hiện tượng tự nhiên này trong một thế giới vượt ra khỏi sự hiện hữu nhanh chóng, một thế giới vĩnh cửu, một thế giới được thể hiện qua các kỳ quan của mặt trời và mây trôi từng ngày, các ngôi sao và hành tinh vào ban đêm, một thế giới bao trùm nhân loại theo một cách thức sâu sắc. Thế giới khác này là người bảo vệ, người chỉ dạy, người chữa bệnh - nguồn gốc mà con người được sinh ra, nuôi dưỡng, bảo vệ, hướng dẫn, và định mệnh mà chúng ta quay trở về. Trên tất cả, thế giới này cung cấp sức mạnh tinh thần mà nhân loại cần trong thời điểm của những khủng hoảng. Cùng với thế giới hữu hình và thế giới vũ trụ, thế giới con người đã hình thành nên một cộng đồng thuộc về ba yếu tố có ý nghĩa của tất cả sự sống. Điều này thể hiện rõ nhất trong tư tưởng Khổng giáo, nơi con người được xem như một phần của bộ ba với Trời và Đất. Thế giới vũ trụ này bao gồm các quyền lực được đề cập như những nhân vật có quan hệ với thế giới con người. Các nghi lễ đã được thiết lập nhờ đó con người có thể giao tiếp với nhau, với các quyền năng trần thế và vũ trụ. Cùng nhau tạo thành một cộng đồng trọn vẹn đơn nhất - một vũ trụ. Nhân loại đặt chính mình vào trung tâm của vũ trụ này. Bởi vì con người đã hiểu rằng vũ trụ là trung tâm ở mọi nơi, trung tâm cá nhân này có thể tọa lạc bất cứ nơi nào. Chẳng hạn, các dân tộc bản địa Bắc Mỹ đã đưa cột trụ thiêng liêng (sacred pipe) đến với quyền năng của bốn hướng để tự đặt mình vào một không gian thiêng liêng nơi họ bước vào một sự hiện diện có ý thức với những quyền lực này. Họ tham khảo về những quyền PL 7 lực để được chỉ dẫn trong cuộc săn bắn, sức mạnh trong chiến tranh, chữa bệnh trong thời gian đau ốm, hỗ trợ trong việc ra quyết định. Chúng ta thấy sự nhận thức về mối quan hệ giữa con người và các thế lực của vũ trụ cũng thể hiện ở các nền văn hoá khác. Tại Ấn Độ, Trung Quốc, Hy Lạp, Ai Cập và Rome, các trụ cột được thành lập để phân định một trung tâm thiêng liêng, tạo ra một điểm tham chiếu cho các vấn đề của con người và ràng buộc Trời và Đất với nhau. Có những nghi lễ khác, theo đó các cộng đồng người dân xác thực giá trị chính mình bằng cách cảm ơn mùa vụ về các quyền lực khác nhau của nghi thức ban ân huệ, nơi mặt trời, trái đất, gió, nước, cây cối và thú vật lần lượt nhận được những biểu hiện của lòng biết ơn cá nhân về những tặng phẩm đã làm cho cuộc sống tốt đẹp. Rõ ràng, những người này nhìn thấy một cái gì đó khác với những gì chúng ta thấy. Chúng ta đã đánh mất sự kết nốivới thế giới hiện thực bí ẩn này. Do đó, bây giờ chúng ta thấy mình trên một lục địa tàn phá không còn thánh thần, không còn thiêng liêng. Chúng ta không còn có một thế giới có giá trị cố hữu, không có thế giới kỳ diệu, không còn hoang sơ, không bị cướp phá, thế giới nguyên vẹn. Chúng ta đã dùng đến mọi thứ. Bằng cách “phát triển” hành tinh này, chúng ta đã làm giảm Trái đất tới một dạng mới không bình thường. Các nhà khoa học nói rằng chúng ta đang ở trong thời kỳ tuyệt chủng thứ sáu trong lịch sử Trái đất. Đã không có sự tuyệt diệt của các dạng sống đã xảy ra kể từ khi khủng long tuyệt chủng khoảng sáu mươi lăm triệu năm trước. Hiện nay có một vấn đề duy nhất trước mắt chúng ta: sự sống còn. Không chỉ đơn thuần là sự sinh tồn của cơ thể, mà còn là sự sinh tồn trong một thế giới đầy đủ điều kiện, sinh tồn trong một thế giới sống, nơi những bông tuyết nở vào mùa xuân, nơi những vì sao tỏa sáng với tất cả sự nhiệm màu của nó, sinh tồn trong một thế giới có ý nghĩa. Tất cả các vấn đề khác đều cạn dần một cách đáng kể - dù là luật pháp, sự cai trị, tôn giáo, giáo dục, kinh tế, y học, khoa học hay nghệ thuật. Tất cả nằm trong sự hỗn loạn, bởi vì chúng ta đã nói với chính mình: Chúng tôi biết! Chúng tôi hiểu! Chúng tôi thấy! Nhưng trong thực tế những gì chúng ta thấy, cũng như tổ tiên của chúng ta trên mảnh đất này, là một lục địa sẵn sàng để khai thác. Lần đầu tiên chúng ta đến lục địa này cách đây bốn thế kỷ, chúng ta cũng thấy đây là một vùng đất mà giúp ta có thể thoát khỏi những thống trị của chế độ quân chủ châu Âu và thế giới hoàng gia của họ, thoát khỏi sự phục tùng. Ở đây trước mặt chúng ta là một PL 8 vùng đất phong phú, một vùng đất mà chúng ta có thể sở hữu tài sản để sử dụng như mình mong muốn. Khi được tự do, thoát khỏi sự cai trị, chúng ta trở thành những người cai trị mọi thứ khác. Chúng ta nhìn thấy những rừng thông trắng của New England, những cây có đường kính 6 feet, như những khu rừng đã sẵn sàng để biến thành gỗ xẻ. Chúng ta thấy đồng cỏ để canh tác và sông ngòi ngập đầy cá. Chúng ta đã thấy một lục địa đang chờ đợi sự bóc lột từ những người được lựa chọn trên thế giới. Khi chúng ta lần đầu tiên đến với tư cách là những người định cư, chúng ta thấy chính mình như những người có tôn giáo nhất của cộng đồng, như thể tự do nhất trong truyền thống chính trị, những người được học hỏi nhiều nhất trong các trường đại học, những người có năng lực nhất trong kĩ thuật, và nhất là sẵn sàng khai thác mọi lợi thế về kinh tế. Chúng ta thấy mình như một phước lành thiêng liêng cho lục địa này. Trong thực tế, chúng ta đã là một cộng đồng con người cướp bóc trên một lục địa vô tội. Khi chúng ta nghĩ đến ý thức Mỹ về “vận mệnh khai thông”, chúng ta có thể muốn một số lời khuyên thận trọng về vai trò thực sự của chúng ta đã được ghi nhận cho những người châu Âu đầu tiên đến bờ biển này. Chúng ta có thể muốn một số chỉ dẫn để trở thành một giống loài nâng cao - cuộc sống, một giống loài được cung tặng trong suốt bốn thế kỷ qua. Khi chúng tôi lần đầu tiên đến bờ biển của lục địa này, chúng tôi đã có một cơ hội độc nhất để điều chỉnh bản thân, và toàn bộ quá trình của nền văn minh phương Tây, đến một sự hiện diện toàn cầu hơn cho lục địa này. Thay vào đó, chúng ta lại nghe theo lời khuyên của các triết gia Khai sáng, những người thúc giục thống trị tự nhiên: Francis Bacon (1561 - 1626), người đã nhìn thấy lao động con người là cách duy nhất để mang lại giá trị cho đất đai; René Descartes (1596 - 1650) và John Locke (1632 - 1704), người thúc đẩy khoảng cách tách biệt của sự tự ý thức với thế giới vật chất. Năm 1776, khi Tuyên ngôn độc lập của chúng tôi được tuyên bố, chúng tôi đã đón nhận lời khuyên trong cuốn Thăm dò tự nhiên và Nguyên nhân giàu có của các quốc gia của Adam Smith (1723 - 1790), một cuốn sách ảnh hưởng rất lớn trong thế giới kinh tế từ đó cho đến bây giờ. Sự độc lập chính trị của chúng ta đã tạo ra một bối cảnh lý tưởng cho sự thống trị kinh tế đối với thế giới tự nhiên. Với tư cách là những người thừa kế truyền thống Kinh thánh, chúng tôi tin rằng hành tinh này thuộc về chúng ta. Chúng tôi không bao giờ hiểu rằng lục địa này có luật lệ riêng cần phải tuân theo và kinh nghiệm hiển hiện của nó cần phải được hiểu. Gần đây PL 9 chúng tôi chỉ xem một cộng đồng lớn của cuộc sống nằm ở đây. Chúng ta vẫn không cảm thấy rằng mình cần phải tuân theo những luật lệ ban sơ của lục địa này, rằng mình nên tôn kính mọi sinh vật sống - từ côn trùng thấp nhất đến đại bàng vĩ đại trên bầu trời. Chúng ta không nhận ra bổn phận phải cúi đầu trước sự hùng vĩ của ngọn núi và dòng sông, của cánh rừng, đồng cỏ, vùng sa mạc, bờ biển. Những người dân bản xứ của lục địa này đã cố gắng dạy cho chúng ta giá trị của đất đai, nhưng thật không may chúng ta không thể hiểu được chúng, vì chúng ta đã mù quáng bởi giấc mơvề vận mệnh khai thông (manifest destiny). Thay vào đó, chúng ta đã bị tha hóa, vì họ chỉ muốn sống giản dị hơn là làm việc tận tụy. Chúng ta mong muốn dạy họ phương pháp của mình, mà không bao giờ nghĩ rằng họ có thể dạy chúng ta. Mặc dù chúng ta liên tục phụ thuộc vào các dân tộc sống ở đây để họ hướng dẫn chúng ta thiết lập các khu định cư, chúng ta không bao giờ nhìn thấy mình như đi vào một vùng đất thiêng liêng, một không gian thiêng liêng. Chúng ta chưa bao giờ được trải nghiệm trên mảnh đất này như họ đã làm - như là một sự hiện diện đời sống không đơn giản chỉ là được sử dụng mà phải được tôn kính và giao tiếp với nhau. René Descartes đã dạy chúng ta rằng không có nguyên tắc đời sống trong tiếng hót của chim gõ kiến hay dáng nhảy lên của con sói, hay con gấu mẹ âu yếm gấu con. Không có nguyên lý sống trong con chim ưng lang thang khi nó bay qua những không gian rộng lớn của bầu trời. Không có gì để trao đổi với nhau, không có gì để được tôn sùng. Đàn ong mật chỉ có một cơ chế thu thập mật ngọt trong những đóa hoa và biến nó thành mật ong để nuôi dưỡng tổ ong, và cây phong chỉ là một phương tiện để cung cấp nước ngọt. Theo những lời của một nhà khoa học nổi tiếng: “Với tất cả trí tưởng tượng, tính dồi dào và sức mạnh của chúng ta, chúng ta không hơn gì những cộng đồng vi khuẩn, những hiện hữu rời rạc của tế bào hạt nhân”. Để chống lại quan điểm giản hóa luận và thuyết cơ giới về vũ trụ như thế, chúng ta cần khôi phục lại tầm nhìn và khả năng để có thể nghiên cứu. Trong đoạn mở đầu của Hiện tượng con người, Pierre Teilhard de Chardin (1881 - 1955) đã nói: “Người ta có thể cho rằng cả cuộc đời đều nằm trong những điều trông thấy. Đó có lẽ là lý do tại sao lịch sử của thế giới sống có thể bị giản lược những phức tạp để xây dựng đôi mắt hoàn hảo hơn Hoặc xem như không hề có. Đây là trạng thái áp đặt lên mọi yếu tố của vũ trụ bằng món quà huyền bí của sinh tồn”. Chúng ta cần phải bắt đầu PL 10 xem xét toàn bộ vùng đất này. Để hiểu rõ lục địa này, chúng ta có thể tưởng tượng mình đang ở trong thung lũng trung tâm tuyệt vời nằm giữa dãy núi Appalachia về phía đông và dãy núi Rocky về phía tây. Ở đó, chúng ta sẽ ngạc nhiên trước dòng sông Mississippi rộng lớn, chảy xuống thung lũng và rồi vào trong vùng vịnh bao la nằm sát biên giới phía nam của lục địa. Dòng chảy khổng lồ của nước, bao gồm cả nhánh sông Missouri, chảy từ phía tây bắc, tạo thành một trong những hệ thống sông lớn nhất trên hành tinh, rút kiệt nước hầu hết toàn bộ lục địa, từ New York và Appalachian Mountains ở phía đông đến Montana và Rocky dãy núi phía tây. Khu vực này gồm cao nguyên Great Plains, những đồng cỏ ngút ngàn, trải dài từ Indiana đến sông Mississippi, đến các đồng cỏ ngắn bắt đầu bên kia sông và kéo dài đến các ngọn núi. Đây là lãnh địa được tôn kính theo cách đặc biệt. Vùng phía tây dòng sông có những dải đất sâu nhất và màu mỡ nhất trên hành tinh này. Đất ở những nơi khác chỉ dày khoảng vài inch nhưng ở đây có chiều sâu vài feet, đất được hình thành từ những mảnh vụn được bồi đắp từ những ngọn núi trong nhiều thế kỷ. Sự trú ngụ của một lượng lớn người dân phụ thuộc vào khu vực này. Đất quý giá như vậy là một món quà được chăm sóc cẩn thận. Trung tâm của mậu dịch lúa mỳ, và sau đó là sản xuất ngô này, bắt đầu ở New York vào đầu thế kỷ XIX và kéo dài về phía tây cho đến bây giờ, nó có thể được đặt trong những cánh đồng lúa ở Kansas trải dài vượt quá chân trời. Khi đứng trong lưu vực sông Mississippi, chúng ta có thể quay về phía tây và trải nghiệm những điều huyền bí, phiêu lưu và đầy hứa hẹn của lục địa này; chúng ta có thể hướng về phía đông và cảm nhận được lịch sử, sự thống trị chính trị và các mối quan tâm thương mại. Về hướng tây là những cây gỗ đỏ đang lớn mạnh, cây cù tùng, cây thông Douglas, cây thông đen; về phía đông là những cây sồi, cây giẽ gai, cây ngô đồng, cây phong, cây vân sam, bạch dương tulip (tulip poplar), cây thiết sam. Quần tụ với nhau, những chứng cớ đầy thuyết phục này cho thấy sự kỳ diệu của lục địa và vùng biển bao trùm toàn bộ. Chúng ta cũng có thể đi đến sa mạc, hay trên những ngọn núi cao, hoặc tới bờ biển, nơi có lẽ lần đầu tiên chúng ta có thể thấybình minh xuất hiện ở bầu trời đằng đông - làn sóng tím mờ đầu tiên trải dài trên đường chân trời, sự xuất hiện chầm chậm của quả cầu vàng tuyệt diệu. Vào buổi tối, chúng ta có thể nhìn thấy hoàng hôn đang cháy rực ở phía tây. Chúng ta có thể nhìn thấy những ngôi sao rơi xuống từ các tầng trời xa xôi và PL 11 khoảnh khắc hiện hữu của chúngtưởng gần như chạm tới trong vòng tay của chúng ta nếu chúng ta đứng trên ngón chân. Vì vậy, chúng ta cũng có thể bắt đầu quan sát sự thay đổi của các mùa: sự thức tỉnh mùa xuân trên vùng đất khi hoa cúc nở trên đồng cỏ và cây dương đào bung nở những cánh hoa màu trắng mỏng manh về phía trước. Chúng ta có thể trải nghiệm những khoảnh khắc đáng sợ khi những cơn bão mùa hè phá tan đường chân trời và sấm sét chớp qua bầu trời, những khoảnh khắc khi bóng tối bao phủ mọi người trong rừng sâu, hoặc khi chúng ta trải nghiệm thế giới của chúng ta như là một cường quốc quyền lực tự khẳng định mình. Khi chúng ta quan sát tất cả những điều này, và có thể bắt đầu tưởng tượng ra con đường của nhân loại trong tương lai. Liên quan đến tương lai này chúng ta có thể đưa ra hai quan sát. Thứ nhất, Trái đất là một công trình tồn tại duy nhất. Không có thay đổi thực sự lần thứ hai. Rất nhiều thứ có thể được chữa lành vết thương bởi vì hành tinh này có sức mạnh hồi phục lớn, mặc dù hạn chế. Các lục địa Bắc Mỹ sẽ không bao giờ trở lại được những gì trước đây nữa. Cách thức mà chúng ta đã tàn phá lục địa chưa bao giờ xảy ra trước đó. Trong những lần tuyệt chủng nguyên thủy, bản thân đất vẫn có khả năng biến đổi, nhưng bây giờ có rất nhiều khó khănđể đạt được hiệu quả. Thứ hai, chúng ta đã xâm nhập vào chính mình và làm suy yếu lục địa trong quyền năng nguyên thủy của nó khiến lục địa không còn tự mình có thể tiếp diễn dễ dàng. Chúng ta phải chú tâm vào tương lai lục địa một cách toàn diện hơn. Rõ ràng, sẽ có rất ít sự phát triển sinh tồn ở đây trong tương lai nếu chúng ta không bảo vệ và nuôi dưỡng các dạng sống của lục địa này. Để làm điều đó, cần có một sự thay đổi diễn ra tận sâu trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta cần công nghệ, nhưng điều này đã vượt quá công nghệ. Công nghệ của chúng ta đã phản bội chúng ta. Đây là một sự mạo hiểm bí ẩn, một công việc của vùng hoang dã. Chúng ta cần một sự chuyển đổi như nhà bảo vệ môi trường Aldo Leopold (1887 - 1948) chia sẻ kinh nghiệm khi ông nhìn thấy ngọn lửa đang cháy trong mắt của một con sói mà ông ta bắn. Vì đó là hoang dã có tính sáng tạo. Như Henry David Thoreau (1817 - 1862) đã nói, “Trong sự hoang dã là sự bảo tồn của thế giới”. Sự giao thiệp xảy ra thông qua những trải nghiệm của thế giới hoang dã, nơi chúng ta cảm nhận được điều gì đó hiện tại và thoái chí, choáng ngợp trước cái đẹp của nó, là vượt khỏi sự hiểu biết trong thực tế, nhưng nó chỉ đơn giản là sự thánh thiện, thiêng liêng. PL 12 Vũ trụ là biểu hiện tối cao của sự thiêng liêng. Quan niệm này là nền tảng để thiết lập một thế giới, một cách dễ hiểu trong sự nhận thức về vũ trụ hoặc thậm chí là bất kỳ phần nào của vũ trụ. Đó là lý do tại sao câu chuyện về nguồn gốc của sự vật được chứng nghiệm như là một nguyên tắc nuôi dưỡng tuyệt vời, như là một nguyên tắc nguyên mẫu của mẹ, hay như Mẹ vĩ đại, trong những giai đoạn đầu của ý thức con người. Một số người dân bản địa của đất nước này đã chứng nghiệm điều này với tư cách là Mẫu ngô hay Đàn bà Nhện. Những người tôn kính người Mẫu ngô đặt một trái ngô bên cạnh đứa trẻ sơ sinh trong nôi để mang lại sự dịu dàng và an toàn mà đứa trẻ cần, giúp chúng cảm nhận được sự hiện diện sâu sắc của nó. Khi đứa trẻ sơ sinh chào đời, chúng bước ra khỏi sự ấm áp và an toàn trong tử cung để đến với đời sống lạnh giá và thế giới thay đổi, trái ngô là một sự hiện diện thiêng liêng, một phước lành. Chúng ta phải nhớ rằng đó không chỉ là thế giới nhân loại được gìn giữ an toàn trong sự bảo bọc thiêng liêng này mà là toàn bộ hành tinh. Chúng ta cần sự bảo toàn này, sự hiện diện này trong suốt cuộc đời của mình. Sự thiêng liêng là cái gợi lên những chiều sâu của điều huyền diệu. Chúng ta có thể biết một số điều, nhưng thực sự chúng ta chỉ biết bóng tối của sự vật. Chúng ta đi về biển và đứng dọc theo bờ vào ban đêm. Chúng ta lắng nghe những cuộn xoáy ạt ào của những đợt sóng lên cao ngút cho đến khi chúng đạt đến giới hạn của nó và không thể đi xa hơn nữa, sau đó trở lại với mặt biển yên tĩnh trong lành đến khi mặt trăng soi chiếu bóng dáng hiện diện của mình trên bờ biển này. Vì thế, đó là với một tầm nhìn đầy ý nghĩa mà chúng ta có thể đạt được - trong một khoảnh khắc ngắn ngủi. Rồi nó biến mất, chỉ quay trở lại trong nhận thức sâu sắc về một sự hiện diện đã níu giữ tất cả mọi thứ lại với nhau.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftieu_thuyet_viet_nam_giai_doan_1986_2014_tu_goc_nhin_phe_binh_sinh_thai_7612_2076187.pdf
Luận văn liên quan