Nghiên cứu tự truyện Việt Nam đương đại từ góc nhìn xã hội học còn
có thể được thực hiện từ cái nhìn giới hoặc từ góc độ lịch sử với những thay đổi nội
tại của các yếu tố tự sự. Song, giới hạn của chúng lại là việc khó có thể bao quát
toàn bộ hiện tượng tự truyện. Đối với chúng tôi, bản thân sự thực tự truyện với
gương mặt xã hội của nó là một phương diện không thể thiếu để giải thích về một
hiện tượng văn học hay văn hóa. Bởi tự truyện chính là sản phẩm của quá trình
tương tác giữa cá nhân và xã hội mà ở đó có thể thấy rõ một mặt sự vận động của ý
thức chủ thể, mặt khác là những tác động của xã hội lên chính hành vi tự truyện của
chủ thể ấy. Chúng là nhân tố tạo nên diện mạo của tự truyện trong mỗi nền văn hóa
nói chung. Cũng trong quá trình này, các giá trị của thể loại sẽ được hình thành bởi,
như quan niệm của P. Bourdieu, “văn học”, “tác phẩm”, “nhà văn” vào một thời
điểm lịch sử và trong một xã hội nhất định, không phải là một điều đương nhiên mà
là kết quả của những đánh giá của những tác nhân và các thể chế
195 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 1521 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tự truyện Việt Nam đương đại: nghiên cứu từ xã hội học văn học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dưới gió, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh
60. Hồ Hương Giang: Xuyên Mỹ khơi mở vùng nội tâm sâu kín của giới nữ Việt
cua-phu-nu-viet.html
61. G. G. Macket (2007), Sống để kể lại, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh
62. I. Ganhdi (1987), Chân lý của tôi, Nxb Phụ nữ, Hà Nội
63. M. Gorky (2007), Thời thơ ấu, Nxb Thanh niên, Hà Nội
64. M. Gorky (2007), Kiếm sống, Nxb Thanh niên, Hà Nội
155
65. M. Gorky (2007), Những trường đại học của tôi, Nxb Thanh niên, Hà Nội
66. Hương Giang Idol (2014), Tôi vẽ chân dung tôi, Nxb Hồng Đức
67. Tịnh Hà (1989), Đi hoang, Nxb Văn học, Hà Nội
68. Phạm Minh Hạc - Lê Đức Phúc (2004), Một số vấn đề nghiên cứu nhân cách,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
69. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Cb) (2007), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb giáo dục, Hà Nội
70. Đặng Thị Hạnh (1998), Tự thuật và tiểu thuyết pháp thế kỷ XXI, Tạp chí văn
học (5)
71. Đặng Thị Hạnh (2008), Cô bé nhìn mưa, Nxb Phụ nữ, Hà Nội
72. Đinh Hằng (2013), Qúa trẻ để chết, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh
73. Tô Hoài (2005), Cát bụi chân ai, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
74. Tô Hoài (1999), Chiều chiều, Nxb Thanh niên, Hà Nội
75. Tô Hoài (1978), Tự truyện, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
76. Nguyên Hồng (2007), Những ngày thơ ấu, Nxb Thanh niên, Hà Nội
77. Trần Thị Xuân Hợp (2006), Yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết Nguyễn Khải
thời kỳ đổi mới, Luận văn, Đại học quốc gia Hà Nội
78. Kate Hamburger (2004), Lôgic học các thể loại văn học (Vũ Hoàng Địch,
Trần Ngọc Vương dịch) Nxb ĐH quốc gia, Hà Nội
79. Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Hồng Công, Nguyễn Thống Nhất (2007), Qùa
tặng mai sau, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội
80. Ngô Công Hoàn - Nguyễn Thị Khánh Hà (2012), Tâm lý học khác biệt, Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội
81. Ngô Thị Huệ (2006), Tiếng sóng bủa ghềnh, Nxb Trẻ, TP HCM
82. Lê Ngọc Hùng (2002), Lý thuyết và lịch sử xã hội học, Nxb Đại học quốc gia,
Hà Nội
83. Nguyễn Thị Huế, Nguyễn Thị Khánh Thu (2010), Yếu tố tự truyện trong tiểu
thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng, Tạp chí Diễn đàn văn nghệ
Việt Nam
156
84. Nguyễn Thị Từ Huy (2009), Alain Robbe – Grillet: Sự thật và diễn giải, Nxb
Hội nhà văn, Hà Nội
85. Tố Hữu (2002), Nhớ lại một thời, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội
86. Vũ Thư Hiên (1987), Miền thơ ấu, Nxb Kim Đồng, Hà Nội
87. Nguyễn Khải (2012), Thượng đế thì cười, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh
88. Nguyễn Khải (2008), Trôi theo tự nhiên, Tạp chí nhà văn (số tháng 3/ 2008, tr
114 - 141)
89. Nguyễn Khải (2004), Đối mặt, Tạp chí nhà văn (số 4/ 2004, tr 111 - 130)
90. Ma Văn Kháng (2010), Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương, Nxb
Hội nhà văn, Hà Nội
91. Ma Văn Kháng (2009), Một mình một ngựa, Nxb Phụ nữ, Hà Nội
92. Duy Khán (2008), Tuổi thơ im lặng, Nxb Giáo dục, Hà Nội
93. Lê Thế Kiên (2011), Vĩnh biệt những ngày buồn, Nxb Lao động. Hà Nội
94. Trần Văn Khê (2010), Những câu chuyện từ trái tim, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh
95. Thụy Khuê (2000), Bùi ngọc Tấn, Chuyện kể năm 2000. nguồn:
96. Knud. S. Larsen (2010), Tâm lý học xã hội, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội
97. Đông La (2004), Đôi nét về Nguyễn Khải qua Thượng đế thì cười, Báo Văn
nghệ (35), (36)
98. Nguyễn Bích Lan (2012), Không gục ngã, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
99. Nguyễn Hiến Lê (1993), Hồi ký, Nxb Văn học, Hà Nội
100. Phong Lê (2005), Tiểu thuyết mở đầu thế kỷ XXI trong tiến trình văn học Việt
Nam từ tháng 8 - 1945, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (9)
101. Iu. Lotman (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật (Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá
Đĩnh, Nguyễn Thị Thu Thủy dịch) Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội
102. Phương Lựu (2005), Tuyển tập: Lý luận văn học phương Tây hiện đại, Nxb
Giáo dục, Hà Nội (Tập 2)
103. Lưu Trong Lư (1996), Nửa đêm sực tỉnh, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
104. Nguyễn Hải Lý, Nguyễn Thị Quỳnh Như (2007), Chuyện đời tôi, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội
157
105. Đỗ Long, Phan Thị Mai Hương (2002), Tính cộng đồng, tính cá nhân và cái
Tôi của người Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
106. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2006), Văn học Việt Nam sau 1975:
Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội
107. Thành Lộc - Nguyễn Thị Minh Ngọc (2014) Tâm Thành Lộc Đời, Nxb Văn
hóa - văn nghệ, TP Hồ Chí Minh
108. Phan Thị Lúy (2006 ), Hồi ký, tự truyện của Nguyễn Khải, Luận văn Đại học
sư phạm Hà Nội, Hà Nội
109. Fischer (1992), Những khái niệm cơ bản của Tâm lý học xã hội (Huyền Giang
dịch), Nxb Thế giới, Hà Nội
110. Sao Mai (2008), Sáng tối mặt người, Nxb Hội nhà văn. Hà Nội
111. Lê Minh (2008), Cánh buồm nhỏ, Nxb Thanh niên, Hà Nội
112. Nguyễn Chí Mỹ (2012) Tác động hai mặt của kinh tế thị trường và toàn cầu
hóa Nguồn:
113. Hoài Nam (2006), Bốn lời bình về Gia đình bé mọn
Nguồn:danganga.googlepages.com
114. Hoài Nam (2009), Một mình một ngựa - cuốn sách có từ một đoạn đời, Người
đại biểu nhân dân (số ra ngày 13/5/ 2009)
115. Đỗ Hải Ninh (2012), Tiểu thuyết có khuynh hướng tự truyện trong văn học
Việt Nam đương đại, Luận án tiến sĩ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam
116. Đỗ Hải Ninh (2011), Mối quan hệ giữa tự truyện - tiểu thuyết và một số dạng
thức tự thuật trong văn học Việt Nam đương đại, Tạp chí Nghiên cứu văn học (8)
117. Tôn Nữ Thị Ninh (2015), Tư duy và chia sẻ, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh
118. Bảo Ninh (2006), Về tự truyện Lê Vân, Văn nghệ trẻ (11- 2006)
2489291.html
119. Vương Trí Nhàn (2004), Trở lại cái thời lãng mạn - Một vài nhận xét về tiểu
thuyết Thượng đế thì cười của nhà văn Nguyễn Khải, Báo Văn nghệ (32)
120. Vương Trí Nhàn (2005), Tô Hoài và thể hồi ký, Lời bạt trong sách Hồi ký Tô
Hoài, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
158
(Đăng lại trên
121. Vương Trí Nhàn (2009), Nhân đọc Lê Vân yêu và sống, nghĩ thêm về sách và
công chúng thời nay
Nguồn:[
song_08.html]
122. Vương Trí Nhàn (2015) Điểm lại quan niệm về hồi ký và các hồi ký đã in
trong khoảng 1990-2000 nguồn
cac-hoi.html
123. Vương Trí Nhàn (2008 ), Nguyễn Khải viết để chinh phục bạn đọc,
Nguồn:
chinh-phc-bn.html
124. Lê Thị Phương Nga (2014), Đưa con trở lại thiên đường (tái bản lần 3), Nxb
Phụ nữ, Hà Nội
125. Dạ Ngân (2003), Gia đình bé mọn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội
126. Nguyên Ngọc (2014), Di sản của người kể chuyện
Nguồn
quanh-ta46/di-san-cua-nguoi-ke-chuyen
127. Nguyên Ngọc và(2008), Thương nhớ Nguyễn Khải - Nhà văn có những
bước đi nhọc nhằn và dũng cảm, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
128. Nguyễn Phương Ngọc (2010), “Nghiên cứu văn học nghệ thuật và lý thuyết
“trường lực” của P. Bourdieu”, Phương pháp nghiên cứu xã hội và lịch sử,
Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội tr 249 – 268
129. Phạm Xuân Nguyên (2010), Bùi Ngọc Tấn, nhà văn và hắn,
nguồn:
130. Phạm Xuân Nguyên (2006) Văn học 2006 - một cái nhìn.
Nguồn:
px?ItemID=1352
131. Phạm Xuân Nguyên (2006), Tầm nhìn xa trong cõi nhân gian, nguồn:
159
132. Phan Ngọc (2006), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội
133. Nhiều tác giả (2003), Nhớ Phùng Quán, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh
134. Nhiều tác giả (2003), Từ điển văn học (Bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội
135. Nhiều tác giả (2011), Sự hồi sinh từ trong tuyệt vọng : Những tác giả được
giải trong cuộc thi: Sự hối hận và niềm tin hướng thiện” - 2011, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội
136. Nhiều tác giả (1996), Từ điển triết học phương Tây hiện đại, Nxb Tri thức,
Hà Nội
137. Nhiều tác giả (2005), “Báo cáo chính trị của BCH Trung ương Đảng cộng sản
Việt nam khóa V” trình bày ngày 15 tháng 12 năm 1986, Môt số văn kiện của
Đảng về công tác tư tưởng và văn hóa, Tập 2 (1996 – 2000), Nxb Chính trị
quốc gia
138. Nhiều tác giả (2005), “Nghị quyết của BCT: Đổi mới và nâng cao trình độ
lãnh đạo quản lý văn học nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo,
đưa văn học nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới”, ngày 28
tháng 11 năm 1987, Môt số văn kiện của Đảng về công tác tư tưởng và văn
hóa, Tập 2 (1996 – 2000), Nxb Chính trị quốc gia
139. Nhiều tác giả (1986), Từ điển triết học, Nxb Tiến bộ, Matxcova
140. Nhiều tác giả (2014), Câu chuyện văn chương, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh
141. Mai Hải Oanh (2009) Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt nam
đương đại giai đoạn 1986 - 2006, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
142. Nhiều tác giả (2008), Người kể chuyện trong văn xuôi, Đề tài khoa học cấp
Viện, Viện văn học
143. Vũ Ngọc Phan (1998), Nhà văn hiện đại, Nxb Văn học, Hà Nội, Tập 2
144. Đỗ Hải Phong (2007), “Vấn đề người kể chuyện trong thi pháp tự sự hiện
đại”, Tự sự học - Một số vấn đề lý luận và lịch sử (phần 1) Nxb Đại học sư
phạm, Hà Nội
145. Huỳnh Như Phương (2010), Lý luận văn học (nhập môn), Nxb Đại học quốc
gia TP Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh
160
146. Trần Thị Mai Phương (2009), Nhân vật người kể chuyện trong hồi ký và tự
truyện Tô Hoài, Luận văn, Đại học quốc gia, Hà Nội
147. Nguyễn Thị Hải Phương (2008), “Người kể chuyện - Nhân vật mang tính
chức năng trong tác phẩm tự sự”, Tự sự học - Một số vấn đề lý luận và lịch sử
(phần 2), Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội
148. Phùng Quán (2010), Ba phút sự thật, Nxb Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh
149. Phùng Quán (2007), Tôi đã trở thành nhà văn như thế nào, Nxb Văn nghệ TP
Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh
150. Lê Xuân Quang (2006), Lê vân - Yêu và sống: Một hiện tượng văn học
Nguồn:
151. J.J. Rousseau (2012), Những lời bộc bạch (Lê Hồng Sâm dịch và giới thiệu),
Nxb Tri Thức, Hà Nội
152. Lê Hồng Sâm (1997), Tuổi thơ của Nathalia Sarautte và sự đổi mới thể loại
tự thuật, Tạp chí văn học (11)
153. Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang(2010), Về con người cá
nhân trong văn học cổ Việt Nam, Nxb giáo dục Việt Nam, Hà Nội
154. Sokolov (2010), Văn hóa Việt Nam: toàn cầu hóa và thị trường (Lê Sơn dịch)
nguồn:
ung-xu-voi-moi-truong-xa-hoi/1485-aa-sokolov-van-hoa-viet-nam-toan-cau-
hoa-va-thi-truong.html
155. Jonh C Schafer (2013), Lê vân và quan niệm về giới nữ Việt,
Nguồn:
156. Bùi Ngọc Tấn (2012), Viết về bè bạn, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
157. Bùi Ngọc Tấn (2012), Một thời để mất, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
158. Bùi Ngọc Tấn (2000), Chuyện kể năm 2000, Nxb Thanh niên, Hà Nội, Tập 1
159. Bùi Ngọc Tấn (2000), Chuyện kể năm 2000, Nxb Thanh niên, Hà Nội,Tập 2
160. Bùi Ngọc Tấn (2012),
Nguồn:
v%e1%ba%a5n/
161
161. Trương Thị Hồng Tâm (2012), Hồi ký Tâm “si-đa”, Nxb Trẻ - TP Hồ Chí
Minh.
162. Trần Luân Tín (2009), Được sống và kể lại, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh
163. Thương Tín (2016), Hồi ký Thương Tín: Một đời giông bão, Nxb Hội nhà
văn, Hà Nội
164. Đặng Tiến (2012), Tổng quan về hồi ký Tô Hoài.
Nguồn:
hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/tong-quan-ve-hoi-ky-to-hoai
165. Phùng Văn Tửu (2002), Tiểu thuyết Pháp hiện đại, những tìm tòi đổi mới,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
166. Phùng Văn Tửu (2004), Tiểu thuyết Pháp bên thềm thế kỷ XXI, Nxb Khoa học
xã hội, Hà nội
167. Trần Văn Toàn (2008), Viết tự truyện khi nào và vì sao?
Nguồn: default.aspesaction=article&ID=5337
168. Trần văn Toàn (2015), Dẫn nhập về lý thuyết diễn ngôn của M.Fuocault và
nghiên cứu văn học, Tạp chí nghiên cứu văn học, (5)
169. Ngô Thảo (2010) Dĩ vãng phía trước, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
170. Hoài Thanh (2010), Thi nhân Việt Nam, Nxb Thời đại, Hà Nội
171. Hồ Anh Thái (2006), Lê Vân Yêu và Sống đúng nghĩa tự truyện, Người đại
biểu nhân dân (06-11- 2006)
172. Đồng Đức Thành (2008), Cuộc sống vẫn tiếp diễn, Nxb Văn học, Hà Nội
173. Hoài Thanh (2010), Thi Nhân Việt Nam, Nxb Thời đại, Hà Nội
174. Đoàn Cầm Thi (2016), Đọc Tôi bên bến lạ, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
175. Nguyễn Phong Thu (2008), Tiểu thuyết có khuynh hướng tự truyện trong văn
học Việt Nam từ sau 1975, Luận văn, Đại học sư phạm Hà Nội
176. Nguyễn Mạnh Trinh (2007), Ba người khác và Tô Hoài, tiểu thuyết hay hồi
ký? Nguồn:
177. Bùi Thị Kim Thư (2012), Nước mắt và nụ cười, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
178. Lộc Phương Thủy, Nguyễn Phương Ngọc, Phùng ngọc Kiên (2014), Xã hội
học văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội
162
179. Lê Thị Lệ Thủy (2012), Ngôn ngữ trần thuật trong hồi ký Tô Hoài
Nguồn:
ky-To-Hoai-12474/
180. Hồ Thị Trang (2010), Chùm hoa trang vẫn nở, Nxb Thanh niên, Hà Nội
181. Thành Trung (2008), Không lạc loài, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
182. Lý Qúy Trung (2014), Bầu trời không chỉ có màu xanh, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí
Minh (tái bản lần 3)
183. Lê Vân (2006), Yêu và Sống, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
184. Ái Vân (2016), Để gió cuốn đi, NxbTrẻ, TP Hồ Chí Minh
185. Nguyễn Khắc Viện (2007), Tự truyện, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
186. Phan Việt (2013), Một mình ở châu Âu, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh
187. Phan Việt (2014), Xuyên Mỹ, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh
188. Mai Vũ (2006), Viết tự truyện - nhu cầu hay trách nhiệm,
Nguồn:
truyen-nhu-cau-hay-trach-nhiem.html)
189. Triệu Xuân (2008), Tự truyện không hẳn là văn học,
Nguồn:
190. Nguyễn Đắc Xuân (2012), Từ Phú Xuân đế Huế, Nxb Trẻ (4 tập), TP Hồ Chí
Minh
191. P.V. Zima (1971), Giáo trình xã hội phê bình (Bản dịch của Phạm Xuân
Thạch), tài liệu lưu hành nội bộ
192. Max Weber (2008), Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản
(Bùi Văn Nam Sơn, Nguyễn Nghị, Nguyễn Tùng, Trần Hữu Quang dịch), Nxb
Tri thức, Hà Nội
193. Báo văn nghệ (1990), Hội thảo về tình hình văn xuôi hiện nay, số 14 thứ 7
ngày 7 tháng 4 năm 1990
194. Báo Thể thao văn hóa (5/5/2016)
Nguồn
soc-voi-6-trang-sach-khong-co-chu-n20160505201809273.htm
195. Báo An Ninh thế giới (2002), Nhà văn Nguyễn Khải và cuôn tiểu thuyết cuối cùng.
163
Nguồn:
cuoi-cung/10788454/104/
196. Tập hợp các bài bình luận về Yêu và sống tại
Nguồn:
so-ng-viet-nhu-mot-su-sa-m-ho-i-1890443.html
Tiếng Anh
1. Paul John Eakin (1992) Touching the World: Reference in Autobiography,
Princeton University Press
2. Leigh Gilmore (2001), The Limit of Autobiography: Trauma and Testimony,
Cornell university press, Ithaca and London
3. Wendy Grisword (1987), A methodologycal for the sociology of culture ,
Sociological Methodology, American Socilogycal Association Vol.17, tr 1- 35
Nguồn: http:// www. Jstor.org
4. Sidonie Smith and Julia Watson (2002), Reading Autobiography: Aguide for
Interpresting Narratives, University of Minesota Press, Tập 2
5. Sidonie Smith and Julia Watson (1998), Women, Autobiography, Theory: A
Reader, The University of Wincosin Press
164
PHỤ LỤC 1
PHỎNG VẤN CÁC NHÀ VĂN
- Đề cương phỏng vấn
- Phỏng vấn số 1: nhà văn Phan Việt
- Phỏng vấn số 2: Nhà văn Ma Văn Kháng
- Phỏng vấn sô 3: Nhà văn Bùi Ngọc Tấn
- Phỏng vấn số 4: Nhà văn Tô Hoài
165
ĐỀ CƯƠNG PHỎNG VẤN
1. Tìm hiểu về những nhân tố chủ quan và khách quan của hành động tự
truyện
- Đánh giá về hiện tượng tự truyện từ đầu thế kỷ XX đến nay
- Những động lực chủ quan của hành động tự truyện
- Các yếu tố chi phối hành động tự truyện
2. Xác định đặc điểm của tác phẩm tự truyện
- Yếu tố sự thật
- Yếu tố hư cấu
- Quan niệm về tự truyện
3. Những kỹ thuật trong tự truyện
4. Mối quan hệ với người đọc
166
PHỎNG VẤN SÂU SỐ 1
(PHỎNG VẤN NHÀ VĂN PHAN VIỆT)
Thời gian: 8h 30 ngày 1/7/2012
Tác giả (TG): Chào chị. Gần đây tự truyện xuất hiện khá sôi nổi trong
văn học. Chị có nhận xét gì về điều này? Những nhân tố nào chi phối sự xuất
hiện tự truyện?
Nhà văn Phan Việt (NVPV): Đây là một xu hướng chung trong đời sống
mà không chỉ riêng văn học. Nhìn sang các ngành nghệ thuật, càng ngày người ta
càng tiến đến cái chỗ mô tả đời sống đến cái gần nhất của sự thật. Ví dụ ngày xưa,
con người mô phỏng thần thánh, người giống thần nhưng càng ngày thần lại càng
giống người, là người - thần. Truyền hình cũng vậy, từ chỗ đen trắng, không có
tiếng, đến có tiếng, từ những chương trình thu sẵn đến giờ đây, nó gần hơn với hiện
thực hơn, các chương trình TV theo xu hướng truyền hình thực tế ngày càng nhiều.
Người ta ngày càng đến gần thực tế, muốn biết hàng ngày cuộc sống diễn ra như
thế nào. Nghĩa là người ta càng muốn tiệm cận càng ngày càng sâu vào cuộc sống
như chính nó đang diễn ra. Tất nhiên có sự chi phối của của công nghệ nữa. Công
nghệ là một điều kiện thúc đẩy làm cho xu hướng ngày càng rõ rệt. Người ta không
tin vào những gì có tính chất mô phỏng, ước lệ mà muốn cảm giác thật. Như thế,
những chia sẻ, đồng cảm và bài học lớn hơn nhiều.
Việt Nam (VN) cũng nằm trong xu hướng đó do toàn cầu hóa. VN bắt đầu
xuất bản, dịch các tác phẩm có tính chất hồi ký. Cứ nói nguyên, không tính đến
dòng tiểu thuyết, Ngay ở các tiểu thuyết ăn khách, khá nhiều tác phẩm được đọc là
những tự truyện như Nhật ký tiểu thư John, sự xuất hiện dòng sách tâm linh, dòng
sách New Ages kể về những kinh nghiệm thật của bản thân tác giả khiến người đọc
đồng cảm và khóc. Bản thân văn học cũng nằm trong cảm xúc ấy. Đến lúc nhà văn
nhận ra việc viết tác phẩm hư cấu dù có khả năng khái quát thực tế cao song một
tác phẩm tự truyện, có yếu tố thật lại có sức lay động nhiều hơn. Đó là sức mạnh
của sự thật. Sự thât là cái có sức mạnh tự thân. Sự thật chỉ cần đúng như sự thật đã
khiến tác phẩm có sức mạnh, trực tiếp và lay động người đọc rồi. Không gì thay thế
được sự thật. Chỉ cần trình bày nó đúng như sự thật là đã có giá trị. Đến lúc ở Việt
Nam, khi xã hội cho phép, khi xã hội nhận ra giá trị của sự thật, khi xã hội đủ cởi
167
mở để cho phép người ta viết sự thật mà không phải bóng gió, thì sẽ xuất hiện tác
phẩm có yếu tố tự truyện. Thế thôi.
Về việc nói sự thật của nhà văn, ở điểm này hơi có tính cá nhân một chút
nữa, rất nhiều người trở thành nhà văn vì họ có những câu chuyện đời đau lòng
hoặc nếu không đau lòng cũng khác biệt. Họ nén nhiều thứ trong lòng và đến một
lúc nào đó, họ cảm thấy không cần né tránh nữa, bản năng tự vệ mất đi, bản năng
nhà văn lớn hơn bản năng tự vệ của con người thì họ sẽ viết ra mà không cần che
đậy nữa.
TG: Như thế, tự truyện thực ra là một kỹ thuật hay là một nhu cầu tâm
lý, thưa chị?
NVPV: Tôi muốn thể nghiệm viết một cái gì đó làm cho người ta có thể
tiếp cận vào dòng cảm xúc của tôi một cách trực tiếp nhất, họ có thể nhập
luôn vào người viết. Nếu chị đọc Tiếng người hoặc Nước Mĩ, nước Mĩsẽ
thấy. Ví dụ khi tôi viết: tôi đang mở cửa thì về mặt logic là không đúng bởi
thật ra lúc đó tôi đang ngồi viết. Song như thế, người đọc được nhập vào
hành động mở cửa của tôi. Cũng giống như việc chuyển từ phim 2D sang
phim 3D, khiến người đọc có cảm giác được tiếp xúc với đời sống thật.
Về sự thật, các nhân tố khiến tự truyện xuất hiện là:
-Nhận thức về sức mạnh sự thật trong văn chương
- Nền tảng văn hóa cho phép được viết sự thật
- Kỹ thật và các nền tảng khác làm cho người ta có thể trình bày sự
thật ở cách trực tiếp nhất
TG: Vậy chị quan niệm thế nào là tự truyện?
NVPV: Tự truyện nó vốn là một hình thức văn học. Tôi nghĩ là không
có gì là không hư cấu bởi vì khi kể một câu chuyện là đã chọn một điểm nhìn
như mình nhìn thấy. Khi kể lại bao giờ cũng có tính chất phiên dich, và có thể
có những cái sẽ bị quên bởi chính ký ức đã tự động xóa.
168
Nhiều sự việc được coi là hư cấu bởi nó chỉ là sự thật của tôi, nó vẫn là
một câu chuyện kể, vì thế, nó vẫn là văn học. Tất nhiên ở đây có sự phân biệt
ở tự truyện có nhiều hay ít hơn yếu tố văn học.
Những trường hợp phi hư cấu mà thiếu yếu tố văn học, trường hợp đó
có thể phân biệt ở chỗ: một bên là một sự việc còn một bên là một câu chuyện
có ý nghĩa văn học bởi chúng có yếu tố kỹ thuật. Những người viết các câu
chuyện kia, có thể là một tác giả, song không phải là một nhà văn.
Do thế, câu chuyện của cá nhân một người và được cho là sự thật, phải
là một câu chuyện văn học, có yếu tố thẩm mĩ mà không thể chỉ là những sự
việc xảy ra và những sự thật trần trụi.
TG: theo chị, yếu tố thầm mĩ có thể hiểu là gì? Đó có phải là khả
năng khái quát hóa, khả năng gợi sự liên tưởnghay không?
NVPV: Khá khó khái quát nhưng có thể so sánh như thế này: một
người chụp ảnh nghiệp dư chụp ảnh sẽ khác với một nhiếp ảnh gia chụp.
Người ta phải ngầm nhìn thấy cái đẹp trong những sự việc mà người ta kể ra
và để nói một cái gì đấy chứ không chỉ là bản thân sự việc. Ngay ở cái ảnh
nghệ thuật có thể thấy nó đã được sắp xếp ánh sáng, khoảnh khắc chụp.
Chúng có bố cục riêng, điểm nhìn riêng tạo nên tính nghệ thuật. Nó phải có
độ nén và gợi lên nhiều hơn bản thân sự việc.
TG: Vâng, Cảm ơn chị. Theo chị những yếu tố nào chi phối việc
viết sự thật của nhà văn?
NVPV: Thực ra tiểu thuyết lại thật hơn sự thật. Một nhà văn khi con
người văn học lớn hơn thì người ta không ngại kể sự thật bởi động lực lớn
nhất là động lực kể chuyện. Những nỗi đau sẽ trở nên nhỏ nhoi trước đam mê
viết. Họ nhìn thấy cái đẹp trong những nỗi đau ấy. Có những nhà văn có
duyên kể về những sự thật hàng ngày làm cho chúng trở nên đẹp
Còn lại tất nhiên, người viết trong quá trình viết sự thật luôn phải trải
qua những đắn đo bởi sự thật luôn không chỉ có một mình mình, mà liên quan
đến nhiều người. Tôi nghĩ, nếu những gì mình viết ra có khả năng phá hỏng
169
cuộc đời một người khác thì họ sẽ lựa chọn có kể câu chuyện này hay không
và nó có đáng không. Viết bao nhiêu sự thật sẽ phụ thuộc và chính tuổi đời
của bản thân người viết.
Nếu sự thật chỉ thuộc về bản thân thì có lẽ sự lựa chọn sẽ dễ dàng hơn.
Mội chuyện chỉ khó khăn khi nó liên quan đến người khác. Tùy từng người sẽ
xử lý vấn đề thế nào.
Vấn đề văn hóa có liên quan đến việc viết sự thật. Điều này là câu
chuyện cá nhân. Nó là sự xử lý trên góc độ một nhà văn và góc độ một con
người. Tùy từng người để xử lý thế nào do mức độ trưởng thành của họ.
TG: Thế thì trường hợp tự truyện - tiểu thuyết là ứng xử hay chỉ
thuần túy là kỹ thuật?
NVPV: Nó là cả hai. Người đọc vốn thông minh, việc gọi đó là cái gì
không quan trọng. Quan trong là viết cái gì.
Hầu hết nhà văn trong thời kỳ đầu thì bản năng con người lớn. Song
càng trưởng thành thì con người văn chương sẽ lớn hơn. Faulkner có nói nếu
nhà văn thực sự là một nhà văn thì việc viết sách là mục đích tối cao (anh ta
có thể giết cả người thân của mình chỉ để viết) Mọi thứ như danh dự, tự trọng
đều không còn quan trọng.
Với sự thật, điều quan trọng là mình ứng xử như thế nào đối với sự
thật. Nếu nhà văn coi sự thật là cái đẹp hay cái đẹp cao hơn sự thật thì họ sẽ
không còn nhu cầu tự vệ. Cái mà họ muốn cho người khác thấy vẻ đẹp của sự
thật lớn hơn nhiều bản năng sinh tồn.
TG: Chị có nhận xét gì về hiện tượng những người trẻ viết tự
truyện gần đây?
NVPV: Nói sự thật với những dồn nén về mặt xã hội là hành trình dẫn
đến nhu cầu tự truyện. Song đối với giới trẻ lại có điểm khác. Họ viết là để
tránh bị cuốn trôi, bị hòa lẫn và vì thế họ viết về mình.
TG: Xin cảm ơn chị.
-------------------------------------
170
PHỎNG VẤN SÂU SỐ 2
(PHỎNG VẤN NHÀ VĂN MA VĂN KHÁNG)
Thời gian: 14h ngày 2/ 7 /2012
Tác giả (TG): Cháu cháo bác, gần đây, tự truyện đang trở thành
một hiện tượng văn hóa thu hút sự quan tâm của nhiều người viết và
người đọc. Bác là tác giả của Một mình một ngựa, một tác phẩm được
nhiều người đọc cho rằng đó là tự truyện. Bác có nhận xét gì về điều này?
Nhà văn Ma Văn Kháng (NVMVK): Tôi muốn nói về xuất phát của
cuốn Một mình một ngựa.
Sau năm 2007 tôi rất yếu. Khi nằm viện tôi bỗng nhớ tới một đoạn đời.
Cuốn tiểu thuyết này là một đoạn đời tách riêng khỏi các đoạn đời khác. Đó
là một môi trường riêng, một khoảng riêng tách khỏi lộ trình của cuộc đời
của tôi. Nó có những nét riêng độc đáo đối với cuộc đời tôi và đối với chính
bản thân tôi. Có lẽ điều đó đã tạo nên nhu cầu tự truyện.
Và tôi nghĩ, giữ lại một thời kỳ lịch sử, một thế hệ vàng của cách mạng
Việt Nam với những ấu trĩ, hồn nhiên và nhiệt huyết tạo nên một vẻ đẹp không
thể lẫn. Đó là hình ảnh của đời sống, là hình ảnh đời sống trong sự tồn tại
của nó. Những tính cách của các nhân vật là sự thật, các chi tiết là sự thật.
Ngay bản thân các nét tính cách của nhân vật cũng hoàn toàn thật bởi vốn
chính nó cũng đã khá điển hình. Những diễn biến của câu chuyện Một mình
một ngựa cũng hoàn toàn là những sự thật đã diễn ra
Thứ hai là yếu tố tự truyện là rất đậm đặc. Là nét chủ yếu tạo nên cốt
truyện. Các yếu tố cấu thành cũng đều là tự truyện. Song tất nhiên chúng đã
có những khúc xạ nghệ thuật. Nghĩa là nó đã có một khoảng lùi. Nói chính
xác hơn: cốt truyện là sự thật, song sự tham gia chủ quan của nghệ sĩ tạo
thành chất tiểu thuyết.
171
TG: Bác muốn người đọc đọc Một mình một ngựa như một tự
truyện hay như một tiểu thuyết có yếu tố tự truyện?
NVMVK: Sự thật của sự việc này là: Tôi đang là giáo viên ở Lao Cai
sau đó được điều về tỉnh ủy tỉnh Lao Cai. Thời gian đó khoảng 2 năm. Toàn
bộ công việc đều được kể lại trong tác phẩm. Lộ trình công tác của Toàn gần
như là sự thật hoàn toàn. Các nhân vật cũng là sự thật. Năm ông thường vụ
đều có cái tên cũng như hành động, tính cách của họ ngoài đời Muôi = Mười,
Bích = Địch, Tiến = Kiến Thực sự, sự thật về họ đã là những nét khá điển
hình cho con người của thời đại đó rồi. Tất nhiên có sự tham gia của nhà văn.
Ví dụ nhân vật ông Quyết Định, mọi tính cách và sư việc đều là sự thật. Song
tôi có tô đậm hình ảnh một mình một ngựa và làm nổi bật cảm giác cô đơn
của ông ấy.
Người đọc đọc Một mình một ngựa sẽ thấy yếu tố tự thuật khá đậm đà.
Và nếu so sánh chuyện này với hồi ký Năm tháng nhọc nhằn năm tháng
nhớ thương sẽ sẽ thấy hoàn toàn khác.
Về cách đọc, người đọc phải phân biệt thành hai loại: một đọc theo
kiểu đối chiếu. bởi họ bị ám ảnh bởi sự thật quá nhiều. Những người này
thường có trình độ thấp. Một số coi là tiểu thuyết và chấp nhận những sự thật
được kể, những người này có trình độ cao hơn. Ví dụ các con của ông Quyết
Định (tên thật của ông ấy là Hoàng Khải Luận) đã đến gặp và cảm ơn tôi đã
viết về bố chúng, để chúng hiểu ông hơn.
Thực tế, sự hư cấu của tôi đối với nhân vật Quyết Định là nhằm xây
dựng nhân vật cao hơn hiện thực một chút. Các nhân vật đều được nâng lên
để mang tính đánh giá, tính khái quát. Còn tính tự thuật của nhân vật Toàn là
ở chỗ mang cái nhìn của tác giả và đánh giá các nhân vật khác.
Song tác phẩm vẫn là tiểu thuyết. Tinh tiểu thuyết cao hơn tự truyện.
Tôi nghiệm rằng, trong đời viết của mình, các nhà văn trải qua hai giai
đoạn: thời kỳ đầu là viết cho người khác, cho đời sống xã hội, chỉ đến một độ
172
nhất định, khi già, mới viết cho mình. Đó là quá trình phát triển của ý thức cá
nhân và những trải nghiệm. Bộc lộ cái gì của mình, những trải nghiệm và
chia sẻ. Đó là nhu cầu viết tự truyện.
TG: Khi viết câu chuyện này, ông có gặp những cản trở nào
không? Nghĩa là những băn khoăn, vướng mắc trong quá trình viết?
NVMVK: Không, tôi không ngại. Bởi vì tất cả những người liên quan
đều đã mất. Tôi nghĩ, đó là một giai đoạn đã kết thúc, những người ấy đã
hoàn thành sứ mệnh của mình. Việc viết như vậy cũng không ngại gì. Điều
quan trong với tôi là phải dựng lên hình ảnh của cái thời ấy. Cũng không sợ
hiểu lầm bởi mình có tấm lòng và trái tim chân thật. Nhưng bởi muốn nói sự
thật nên nhiều khi cũng bị hạn chế về tưởng tượng và hư cấu
TG: Bác có nhận xét gì về hiện tượng những người trẻ viết tự
truyện hiện nay?
Hơi vội. Cá nhân phải trải qua những trải nghiệm nhất định mới có thể
tự truyện. theo quy luật phát triển, cái tôi phải bắt đầu từ cái ta. Cái tôi cần
trưởng thành thì mới có thể viết và chiêm nghiệm được
TG: Xin cảm ơn bác
173
PHỎNG VẤN SÂU SỐ 3
(PHỎNG VẤN NHÀ VĂN BÙI NGỌC TẤN)
Thời gian: 13h30 ngày 5/7/2012
Tác giả (TG): Chào Bác ạ. Gần đây, tự truyện đang ngày một thu hút sự
quan tâm của cả xã hội, không chỉ là người đọc và người phê bình mà cả
những cá nhân có nhiều điều muốn bộc lộ. Với tư cách là một nhà văn, bác có
nhận xét gì về hiện tượng tự truyện xuất hiện khá sôi nổi trong đời sống và văn
học hiện nay?
NV Bùi Ngọc Tấn ( NVBNT): Theo ý tôi thì là: có tự truyện là biểu hiện
thoáng hơn, dân chủ hơn. Đứng về nghệ thuật, đây là một tiến bộ. Ở các nước khác,
vấn đề này không phải đặt ra, nhưng ở nước ta, đó là một tiến bộ bởi trước đây, bao
nhiêu lâu rồi, các nhà văn việt nam phải viết về những cái mình chưa thật sự hiểu. Ví
dụ ông Đào Vũ viết Cái sân gạch hay ông Võ Huy Tâm viết Vùng mỏ là viết theo định
hướng. Có đi thâm nhập thực tế một thời gian song đó cũng chưa đủ để gọi là
hiểuthành ra là viết nhưng phải cắt gọt thực tế theo một định hướng có sẵn. Vì thế,
đây (sự xuất hiện tự truyện) là một bước tiến bộ thể hiện dân chủ hóa trong đời sống
và nghệ thuật. Cũng nhấn mạnh rằng không ai ban phát dân chủ mà phải tự mình tạo
ra, mỗi nhà văn phải nong nó một tí thì mới có thể có được sự tự do để viết.
Bao nhiêu lâu nay, người đọc chán ngắt về cái mà mình không thực sự hiểu,
theo những mô thức, bây giờ được viết về cái mình hiểu nhất, đó là bản thân mình.
Nó làm nên trào lưu hấp dẫn.
Một vấn đề nữa là dân chủ thì văn chương phải được tự do. Văn chương
phải có những đề tài gần gũi với cuộc đời, với con người. Tôi nhớ là cuốn Số đỏ
từng được gọi là “tiểu thuyết cười dài”. Văn chương không nên đạo mạo, không chỉ
là sự đạo mạo mà cần phải là cuộc đời. Trách nhiệm của nhà văn, chính là phải
nhận ra chân lý cuộc sống ấy qua những chi tiết rất đời. Cuộc sống tù đày của tôi
được viết lại trong Chuyện kể năm 2000 (CKN2000) là một sự thực. Một sự thực
mà những con người trong đời sống bình thường không dễ tưởng tượng ra. Cuộc
sống của những năm tháng ấy thôi thúc được viết, được nói thật.
174
Nhưng viết tự truyện luôn đòi hỏi lòng trung thực và tinh thần dũng cảm.
Nhà văn phải dũng cảm thì mới có được tự do.
TG: Bác có nói rằng, viết tự truyện, sự trung thực là quan trọng. Sự
trung thưc đó, theo bác, là trách nhiệm nhà văn hay trách nhiệm công dân?
NV BNT: Với tôi, hai cái là một, không có đối lập nhau. Nhà văn trước tiên
phải nói sự thật. Nhà văn còn là người viết tác phẩm chân thực, đạt tới một cách
giản dị nhất, là đã hoàn thành trách nhiệm nhà văn. Biển và chim bói cá của tôi
được giải là vì nó nói thật nhất về đời sống của người Việt Nam. Cái làm tác phẩm
hay phải là 3 trong 1. Dấu ấn của riêng của tác giả, dấu ấn Việt Nam (dấn ấn dân
tộc) và tính chung nhân loại.
Còn dũng cảm là viết phải tin mình là người yêu nước để không run tay khi
thực tế, như tôi đã viết trong hồi ký về Nguyên Hồng, luôn có một ông kiểm duyệt,
một ông biên tập ngồi trên đầu ngọn bút. Dũng cảm mà tôi muốn nói, là phải viết
được cái căn cốt, không hớt váng.
TG: Trong tác phẩm của mình, tại sao bác chọn hình thức đề trên bìa là
tiểu thuyết mà không phải là tự truyện?
NVBNT: Viết tiểu thuyết thì tôi có quyền hư cấu hơn. Cuộc đời tôi là sự thật.
Nhưng cách lưu giữ của tôi khác với người khác. Hơn nữa, mỗi người có một cái
ăng ten riêng, để bắt sóng của hiện thực theo cách của mình. Hơn nữa, cách lưu giữ
của trí nhớ cũng thật đặc biệt. Nó chỉ lưu giữ những hạt vàng. Vì thế CKN2000 chỉ
viết những ký ức đậm nét, tiêu biểu, và đã có được một độ lùi nhất định.
TG: Dòng ký ức là một kỹ thuật khá tiêu biểu của tự truyện. Trong
CKN2000, đặc điểm này khá nổi bật, Bác có ý thức rằng mình đang tự truyện?
NVBNT: Tôi viết theo suy nghĩ, không chăm chăm nghĩ tới thể loại. Đối với
tôi, câu đầu tiên trong tự truyện rất quan trọng. Nó định vị thời gian và không gian
kể. Nó quyết định cách kể của toàn bộ câu chuyện. Trong CKN2000 có những
chương viết rất trong sáng về tình yêu, tình bạn, những cảm xúc về con cái rất nhỏ
như giặt quần áo cho chúng, dạy chúng câu cá chỉ có thể là trải nghiệm thật,
phải là tự truyện.
175
TG: Trong truyện có hai khoảng, hai không gian kể chuyện đối lập
nhau, thời thanh niên được kể với những hồi ức tươi sáng, đẹp đẽ, nhưng đoạn
đời sau này thì trầm uất. Đây có phải là chủ ý?
NVBNT: Về khoảng trong sáng, đó là sự thật, sự thật về một thế hệ được
đào tạo, trưởng thành, chứng kiến trào lưu của cách mạng. Thế nhưng cuối cùng là
thất bại. Đó là sự thật. Tôi muốn nói tới sự thật đau đớn, những vận hành đau đớn
trong hành trình sống với lý tưởng.
Tôi cũng không định viết một câu chuyện tù. Có bạn đọc cho rằng đó chuyện
về tình yêu, có bạn đọc gọi đó là chuyện về gia đìnhThực chất đây là tự sự của
một thế hệ thanh niên với tâm hồn trong trẻo đến với cách mạng nhưng cuối cùng
thất bại.
TG: Với CKN2000 bác muốn người đọc đọc như tự truyện hay đọc như
tiểu thuyết?
Tôi muốn gọi đó là tiểu thuyết có tính tự truyện hơn. Bởi vì vẫn có nhân vật
hư cấu như Gìa Đô là sự tổng hợp của nhiều nhân vật. Tuy nhiên, các nhân vât hai
vợ chồng anh tù, ông Trần và ông Hoàng được viết đúng như sự thật, nhhững chi
tiết tả cuộc sống trong tù, sự kiện những tù nhân tranh nhau những quả ớtlà sự
thật. Tôi không thể bịa những gì mà cảm giác chưa được biết.
TG:Đối với một tác phẩm văn học, hai yếu tố là thẩm mĩ và sự thật cái
gì quan trong hơn?
NV BNT: Cái đẹp trong nghệ thuật là sự thật được viết nghệ thuật. Sự thật
văn học càng giản dị, chân xác càng có giá trị. Sự thật kiểu tự truyện và sự thật văn
học bổ sung cho nhau. Bây giờ người ta viết tự truyện chính bởi vì bị dồn nén hơn
nửa thế kỷ rồi. Bao nhiêu lâu người ta phải viết theo định hướng, và không được
viết về mình.
Bây giờ mới được viết.
TG: Vâng ! Xin cảm ơn bác!
176
PHỎNG VẤN SÂU SỐ 4
(PHỎNG VẤN NHÀ VĂN TÔ HOÀI)
Thời gian: 14h ngày 8/7/ 2012
Tác giả (TG): Cháu chào Bác, Bác là người viết tự truyện khá sớm, ngay
từ những năm 40, khi tuổi còn khá trẻ (khoảng 24 tuổi). Động lực nào thôi thúc
bác viết tự truyện? Gần đây, phong trào tự truyện đang diễn ra khá sôi nổi
trong đời sống và văn học. Bác có nhận xét gì về điều này.
Nhà văn Tô Hoài (NVTH): Tôi năm nay 91, cuộc đời tôi là một tự truyện.
Làng tôi là làng Nghĩa Đô, quê nội ở Thanh Oai. Tôi ở đây cho đến tận bây giờ.
Vừa rồi Thành ủy Hà nội tổ chức liên hoan 65 năm tuổi Đảng cũng ở đây.
Thuở nhỏ, tôi học sơ học ở trường Yên Thái, rồi sau đó là Yên phụ từ lớp
nhất. Ban đầu tôi làm thơ, sau mới viết văn xuôi. Tôi đỗ tiểu học Pháp Việt, cũng
thi vào trường Bưởi, trường Sư phạm nhưng không đỗ Dipplom, nên tôi đi làm cho
hãng giày Bata. Khi đó tôi bắt đầu viết. Chuyện Ông Dầu bà Dầu, Sự tích nước lên
cho báo Hà Nội Tân Văn và Tiểu thuyết thứ Bảy là thời kỳ này. Truyện đầu tiên mà
tôi viết là Dế mèn phiêu lưu ký. Tên của nó ban đầu là Con đế mèn. Các nhà văn Vũ
Ngọc Phan, Nguyễn Công Hoan là những người phát hiện và cổ vũ tôi. Cụ Vũ Ngọc
Phan đưa Con dế mèn đến nhà xuất bản của Vũ Đình Long và in ở đấy. Nhuận bút
Con dế mèn là 10 đ. Tiếp tinh thần ấy, tôi viết thành Dế mèn phiêu lưu ký, được
nhiều người đọc. Dế mèn phiêu lưu ký là tác phẩm giúp tôi trở thành nhà văn.
Những tác phẩm tự truyện mà tôi đã viết trước đây có Cỏ dại, trong kháng
chiến có Tự truyện. Sau này có Cát bụi chân ai, Ba người khác, Chiều chiều.
Cát bụi chân ai viết về các nhà văn, tôi viết ông Xuân Diệu đồng tính. Đầu
tiên tác phẩm có bị cấm. Có một anh sinh viên người Mỹ đã mời tôi làm chủ tịch hội
đồng tính. Cũng buồn cười. Bây giời Cát bụi chân ai đã được in. Cả Mười năm
cũng vậy.
Tất cả những gì tôi viết là câu chuyện đời tôi, gọi là tiểu thuyết cũng được,
gọi là tự truyện cũng đúng. Truyện Mười năm kể về phong trào cách mạng ở làng
177
tôi. Trong truyện có một cô gái, xinh đẹp, cách mạng song cũng khá lẳng lơ. Vì
nhân vật này nên tôi cũng bị phê bình.
Chiều chiều cũng vậy. Tất cả mọi chuyện tôi viết đều là thật. Chuyện có kể
về đợt đi học Nguyễn Ái Quốc. Cũng bị cấm. Bây giờ cũng in rồi, cả in chui, cứ in
chui. Mà in chui cũng nhiều.
TG: Khi viết những cuốn sách ấy, Bác có ý thức là mình đang viết tự
truyện không?
NVTH: Tôi cho đó là sáng tác. Những sáng tác của tôi dựa trên các câu
chuyện thật ấy. Tự truyện đối với tôi là sáng tác. Cuộc đời tôi không khác những gì
tôi viết. Trong Chiều chiều, tôi viết nhiều chuyện, ví như làm chủ tịch hội nhà văn Á
phi, chủ tịch ủy ban đoàn kết nhà văn, đi công tác nhiều nước. Tất cả những chuyện
đó là thật. Tôi cứ viết lẫn lộn giữa sáng tác và những sự thật như vậy. Từ những
chuyện đầu tiên là Con đế mèn. Con dế mèn bắt đầu từ hai thực tế: thực tế đời sống
và thực tế tư tưởng. Lúc bấy giờ ở thành phố có phong trào Ái Hữu và mặt trận
Bình dân. Lúc đó tôi làm thư ký hội ái hữu thợ dệt. Ông Văn Tiến Dũng làng bên
làm hội ái hữu thợ may. Lúc đó tư tưởng thế giới đại đồng đang sôi nổi. Nó chính
là Chủ nghĩa cộng sản sau này. Con dế mèn đi tìm thế giới đại đồng xuất phát từ sự
thật này.. Đó là những thực tế của riêng tôi, của chúng tôi ở thời đại ấy.
Ngoài ra thì có phong trào Âu tây tư tưởng cũng đang nở rộ. Các ông lý
trưởng chánh tổng của làng mang về các loại sách báo in tiếng Pháp. Chúng tôi
cũng được đọc. Các cuốn sách như Giulive du ký, Con chim xanh của
Mateclinhlà những cuốn sách mà tôi được đọc và chịu ảnh hưởng.
.Đời tôi luôn được thể hiện trong sáng tác của tôi.
(Về đời tôi còn có những chuyện tình nữa: Chuyện tình đầu tiên)
TG: Một chủ đề xuất hiện trong tự truyện là chuyện về CCRĐ. Viết về
những sự thật này, Bác mong muốn điều gì ở người đọc?
NVTH: Những vấn đề này tôi rất thiết tha bởi những thực tế đó là những sự
thực lớn, từ vấn đề nông dân, đến những vấn đề chính trị. Thêm nữa, tôi luôn coi
trong thực tế (nghĩa là sự thật). Tôi cũng hết sức chú ý vấn đề ngôn ngữ, người ta
ăn nói thế nàovà đó chính là đặc điểm văn học của tôi. Ví dụ truyện Kim đồng,
truyện nhà Chử, tôi phải học lại sách tiếng Mường khá nhiều. Ngôn ngữ của văn
178
học đòi hỏi rất lớn, mình phải học. Kể những sự thật như thế, tôi rất chú ý đến ngôn
ngữ, sao cho nó phải thật. Ví dụ chữ ăn nằm, đừng nói là biết rồi, mà vẫn phải học,
phải học vô cùng.
TG: Với những chủ đề bị cấm, Bác có nghĩ là mình có những cách để
tránh không?
NVTH: Từ những câu chuyện về làng quê, ngày thơ ấu, khi trưởng thành
cho đến những bức chân dung các anh nhà văn, chuyện đi thực tế cho đến chuyện
đi học, chuyện làm ở khu phố của tôi đều là chuyện thật. Ngay chuyện học ở trường
Nguyễn Ái Quốc, rất thật, cả ở chuyện ăn cắp chuối, chuyện anh cán bộ ra
tòacũng là chuyện đã diễn ra thật. Vì điều đó mà đôi khi gặp những “hiểu
lầm”như chuyện Mười năm
Nhưng tôi không sợ những cái đó, tôi không để ý mà ngược lại rất thiết tha.
Bằng chứng là những cuốn đó đều được xuất bản, không có ai kỷ luật tôi.
TG: Bác có nghĩ rằng nếu không viết những chuyện như thế thì thế hệ
sau sẽ không biết về những gì xảy ra? và vì thế mà cần phải viết?
NV TH: Tôi cũng nghĩ như thế, nên tôi không e dè. Tôi nói vấn đề rất lớn
nhưng lại được viết rất cụ thể, đó là vấn đề ngôn ngữ. Thực sự tôi rất yêu và thiết
tha vấn đề ngôn ngữ.
Cô hỏi tôi có dự định viết hồi ký nữa không? Tôi cũng cứ nghĩ, ngày nào
đêm nào tôi vẫn cứ nghĩ đến ngày xưa, cuộc đời mình ra sao? Như thế nào? Nhưng
có lẽ cũng khó bởi cuộc sống của mình có nhiều cái gian truân .nên cũng khó.
Có một chuyện tình với một cô ở Dầu Tiếng. Cũng nhiều trăn trở băn khoăn, nhưng
thôi
TG: Thời gian làm việc ở Hội nhà văn điều gì đọng lại nhiều nhất mà
bác muốn nói thêm?
NVTH: Cũng khó. Tình cảm cũng vừa vừa, còn chuyện thì cũng không có gì
đọng lại.
Sau giải phóng thủ đô, Tôi được bầu vào BCH Hội nhà văn, ông Nguyễn
Đình Thi làm tổng thư ký. Trong Nhân văn giai phẩm cũng không bị sai lầm gì. Sau
này, thời kỳ ông Nguyễn Bắc làm Hội nhà văn Hà nội, tôi ra làm Hội nhà văn Hà
Nội, cả anh Bằng Việt. Thời gian đó cũng dài, cho đến lúc về hưu. Tôi không kể tí gì
179
về thời kỳ đó, vì tôi cho rằng mình có kinh nghiệm, làm cho hết thì thôi, không có
giận dỗi gì, không yêu ai ghét ai. Ở Hội nhà văn cũng thế. Không có xung đột cũng
không có bon chen.
Về cuộc đời một số nhà văn mà Bác kể trong Cát bụi chân ai và Chiều
chiều có liên quan đến vụ Nhân văn giai phẩm, Bác có suy nghĩ gì?
Có một số nhà văn được kể như Đặng Đình Hưng, Trần Đức Thảo. Nhưng
cũng có một số người tôi không kể nhiều. Tôi cũng không đặt vấn đề chính trị với
các anh ấy. Người đầu tiên nhân văn là anh Nguyễn Hữu Đang. Anh Đạng vận
động cụ Phan khôi ra báo Nhân văn. Ông Nguyễn Hữu Đang là người thiết kế lễ
đài độc lập năm 1945.
Còn chuyện về Hoàng Minh Chính? Tôi cũng chỉ đánh giá rằng đó là người
rất hùng hồn, nhưng cuối cùng bị quy kết phản động. Ở trường Nguyễn Ái Quốc
ông ấy bị quy là Đảng viên xét lại.
.
Về những chuyện này, tôi cũng chả nói gì nữa. Sự đời giờ cũng xa xôi quá
rồi.
Về Ba người khác: Các nhân vật đều có thật. Anh Bối là tôi, là thật. Miêu tả
anh này, là tôi miêu tả sự thực đã xảy ra, không mang tính chính trị. Những chuyện
tình với các cô rễ, chuỗi đều có thật. Nhưng anh ta không hỏng về chính trị. Còn
anh đội trưởng người khu Năm thì có vấn đề. Sau cải cách về, năm 1955 thì dinh tê
vào Sài Gòn. Sau này phản động, và bị ta xử. Các nhân vật khác còn lại cũng là
thật cả. Chuyện kỷ luật, sai lầm rồi sửa sai cũng là thật.
Tất các tiểu thuyết của tôi đều có yếu tố đời thật của tôi. Chúng khá rõ tính
tự truyện. Bởi vì đối với tôi, viết là thật. Tôi luôn quan niệm: thực tế, thực tế, thực
tế.
TG: Vâng, Xin cảm ơn bác! Chúc bác luôn mạnh khỏe!
180
PHỤ LỤC 2
TRƯNG CẦU Ý KIẾN NGƯỜI ĐỌC
- Phiếu trưng cầu ý kiến
- Xử lý số liệu thống kê
181
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
------------&------------
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
Phiếu số
Xin chào!
Chúng tôi đang thực hiện một nghiên cứu về vấn đề tiếp nhận các tác phẩm tự truyện trong
đời sống văn hóa Việt Nam hiện nay. Chúng tôi hi vọng nhận được sự đóng góp ý kiến của
quý anh/ chị vào nghiên cứu này bằng cách trả lời các câu hỏi dưới đây. Những ý kiến của
anh ( chị) chỉ để phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
Cách trả lời: Anh ( chị) đọc kỹ câu hỏi và lựa chọn cho mình phương án trả lời phù
hợp nhất với ý kiến của bản thân (đánh dấu vào ô vuông tương ứng), hoặc viết ra câu
trả lời ở những chỗ được yêu cầu.
Anh ( chị) không cần ghi tên vào phiếu này!
________________________________________________________________________
Câu 1. Cho biết mức độ đọc sách của anh/ chị
Thường xuyên
Không thường xuyên
Câu 2. Trong các loại sách anh/chị đọc có tự truyện không?
(Ghi chú: tự truyện là một loại văn xuôi viết về đời tư tác giả, do tác giả viết hoặc kể lại.
Chuyện thường đươc kể từ ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba).
Có
Không
Nếu có, xin tiếp tục câu tiếp theo, nếu không, xin dừng tại đây.
Câu 3. Anh/chị đọc loại sách này là vì:
(Đánh dấu vào ô vuông tương ứng)
Nghe giới thiệu trên truyền hình, đài phát thanh, báo, mạng Internet
Nghe bạn bè giới thiệu
Vì sở thích cá nhân
Thấy mọi người đọc thì cũng đọc
Vì tò mò muốn xem thực hư thế nào
Ý kiến khác (Xin ghi rõ)
Câu 4. Mục đích đọc loại sách này đối với anh/ chị:
(Đánh dấu vào ô vuông tương ứng)
Hiểu thêm về đời tư của những người nổi tiếng
Hiểu về những sự thật mà mình chưa hề được biết hoặc biết chưa rõ ràng
Có thể học hỏi thêm những kinh nghiệm sống bổ ích
Mang lại những cảm xúc sâu sắc về con người và cuộc sống
Để giải trí và thư giãn
Để phục vụ cho nhu cầu công việc
182
Câu 5. Mức độ đọc loại sách tự truyện của anh/chị:
5.1. Tự truyện của các tác giả Việt Nam
Thường xuyên Lý do
Thỉnh thoảng Lý do
Hiếm khi Lý do
Không bao giờ Lý do
5.2. Tự truyện của các tác giả nước ngoài
Thường xuyên Lý do
Thỉnh thoảng Lý do
Hiếm khi Lý do
Không bao giờ Lý do
Câu 6. Anh (chị) thích đọc loại tự truyện nào sau đây:
Tự truyện của các diễn viên, nghệ sĩ, người mẫu, cầu thủ bóng đá
Tự truyện của các doanh nhân, chính trị gia
Tự truyện của các nhà văn
Tự truyện của những người vượt lên hoàn cảnh
Câu 7. Nếu giới thiệu một cuốn tự truyện cho bạn bè của mình đọc, anh/chị sẽ giới
thiệu cuốn nào? Xin nói đôi nét về cuốn sách
Xin anh/chị vui lòng cho biết các thông tin về bản thân:
Tuổi:
Giới tính:
Trình độ học vấn:
Nghề nghiệp hiện tại :
Nơi ở hiện tại:
Cảm ơn anh/chị đã tham gia trả lời!
183
BẢNG XỬ LÝ SỐ LIỆU THỐNG KÊ
Muc do doc sach cua anh/ ch?
Frequenc
y
Percent Valid
Percent
Cumulative Percent
Va
lid
thuong xuyen 150 74.6 74.6 74.6
khong thuong
xuyen
51 25.4 25.4 100.0
Total 201 100.0 100.0
Trong cac loai sach anh/chi doc co tu truyen ko?
Frequency Percent Valid
Percent
Cumulative Percent
Va
lid
co 145 72.1 72.1 72.1
khong 56 27.9 27.9 100.0
Total 201 100.0 100.0
Anh/ chị đọc loại sách này là vì lý do
Neu co doc
loai sach
nay la vi li
do/nghe
gioi thieu
tren truyen
hinh, dai
phat thanh,
bao mang,
internet..
Neu co doc
loai sach
nay la vi li
do/nghe ban
be gioi thieu
Neu co doc
loai sach
nay la vi li
do/so thich
ca nhan
Neu co doc
loai sach
nay vi li
do/thay
moi nguoi
doc minh
cung doc
Neu co
doc loai
sach nay
vi li do/to
mo muon
doc xem
thuc hu
the nao
Neu co
doc loai
sach nay
la vi li do
/khac (ghi
ro)
N
Vali
d
52 39 64 8 21 201
Miss
ing
149 162 137 193 180 0
184
Mục đích đọc loại sách này đối với của Anh / Chị
Muc
dich doc
loai
sach
nay/hieu
them
doi song
cua
nguoi
noi
tieng
Muc
dich
doc
loai
sach
nay/hie
u them
nhung
su that
ma
minh
chua he
biet
hoac
chua
biet ro
rang
Muc dich
doc loai
sach nay/co
the hoc hoi
them nhung
kinh nghiem
song
Muc dich
doc loai
sach
nay/mang
lai nhung
cam xuc
sau sac ve
con nguoi
va cuoc
song
Muc dich
doc loai
sach
nay/de giai
tri va thu
gian
Muc dich doc loai
sach nay/de phuc vu
nhu cau cong viec
N
Vali
d
33 57 59 65 36 24
Miss
ing
168 144 142 136 165 177
M?c do doc tu truyen cua anh/chi (cua tac gia Viet Nam)
Frequenc
y
Percent Valid
Percent
Cumulative Percent
Vali
d
thuong xuyen 6 3.0 4.1 4.1
thinh thoang 90 44.8 60.8 64.9
hiem khi 42 20.9 28.4 93.2
khong bao
gio
10 5.0 6.8 100.0
Total 148 73.6 100.0
Mis
sing
System 53 26.4
Total 201 100.0
185
M?c do doc tu truyen cua anh/chi (cua tac gia nuoc ngoai)
Frequency Percent Valid Percent Cumulative
Percent
Vali
d
thuong xuyen 12 6.0 8.3 8.3
thinh thoang 80 39.8 55.6 63.9
hiem khi 35 17.4 24.3 88.2
khong bao
gio
17 8.5 11.8 100.0
Total 144 71.6 100.0
Mis
sing
System 57 28.4
Total 201 100.0
Anh/ chị thích đọc loại tự truyện nào?
Anh/chi thich doc
loai tu truyen/cua
dien vien, nguoi
mau, cau thu bong
da
Anh/chi thich
doc loai tu
truyen/cua
doanh nha,
chinh tri gia
Anh/chi thich
doc loai tu
truyen/nha van
Anh/chi thich doc
loai tu
truyen/nhung
nguoi vuot len
hoan canh
N
Valid 27 60 71 52
Missing 174 141 130 149
Percenti
les
25 1.0000 1.0000 1.0000 1.0000
50 1.0000 1.0000 1.0000 1.0000
75 1.0000 1.0000 1.0000 1.0000
Mục đích đọc tự truyện của Anh / chị và Giới tính
Muc đích đọc tự truyện
Giới tính Tổng
Nam Nữ
1. Hiểu thêm về đời tư của người nổi tiếng 12 21 33
2. Hiểu về những sự thật mà mình chưa biết 6 49 56
3. Học hỏi thêm những kinh nghiệm sống bổ ích 11 46 57
4. Mang lại những cảm xúc sâu sắc về con người và cuộc
sống 8 56 64
5. Để giải trí, thư giãn 1 34 35
6. Phục vụ nhu cầu công việc 7 16 24
186
Anh chị thich đọc loại tự truyện nào và Giới tính
Loại tự truyện
Giới tính Tổng
Nam Nữ
1. Tự truyện của diễn viên, người mẫu, cầu thủ 5 22 27
2. Tự truyện của chính trị gia, doanh nhân 14 44 58
3. Tự truyện của nhà văn 9 62 71
4. Tự truyện của người vượt lên hoàn cảnh 6 45 51
Giới thiệu một tự truyện mà Anh/ Chị biết
Tự truyện của tác giả Trong
nước
Tự truyện của tác giả nước ngoài
N
Valid 55 54
Missing 146 147
gioi thieu
Frequency Percent Valid
Percent
Cumulative
Percent
V
al
id
97 48.3 48.3 48.3
ai da an het nhung c 1 .5 .5 48.8
ba nguoi khac 1 .5 .5 49.3
Ben thang cuoc 1 .5 .5 49.8
bong 1 .5 .5 50.2
bong, co dai 1 .5 .5 50.7
burning alive 2 1.0 1.0 51.7
cat bui chan ai 5 2.5 2.5 54.2
chien binh cau vong 1 .5 .5 54.7
co mot pho vua di qua pho 1 .5 .5 55.2
cuoc doi Henry ford 1 .5 .5 55.7
dung bao gio di an m 1 .5 .5 56.2
dung bao gio tu bo khat
vong
2 1.0 1.0 57.2
dung vung tuoi 24 1 .5 .5 57.7
duong ra bien lon 2 1.0 1.0 58.7
eat,play,love 1 .5 .5 59.2
em se den cung con m 1 .5 .5 59.7
187
hat giong tam hon 1 .5 .5 60.2
hay cham soc me 1 .5 .5 60.7
hoi ky ly quang dieu 1 .5 .5 61.2
Hoi ky Obama 1 .5 .5 61.7
hoi ky song doi 2 1.0 1.0 62.7
jack Ma, tt steve job 1 .5 .5 63.2
k gia dinh 2 1.0 1.0 64.2
k gioi han 3 1.5 1.5 65.7
khong lac loai 1 .5 .5 66.2
khong phai huyen thoai 1 .5 .5 66.7
ky uc vun 1 .5 .5 67.2
luoc su thoi gian 1 .5 .5 67.7
Ma van : triet ly sô 1 .5 .5 68.2
Madam Nhu 2 1.0 1.0 69.2
mai mai tuoi 20 5 2.5 2.5 71.6
nguyen oi 1 .5 .5 72.1
nhat ky son moi - ga 1 .5 .5 72.6
nhung mau chuyen ve 1 .5 .5 73.1
nhung ngay tho au 4 2.0 2.0 75.1
nk dang thuy tram 14 7.0 7.0 82.1
nk dang thuy tram, duong
den tay tang
1 .5 .5 82.6
nk dang thuy tram, phia sau
buc tuong
1 .5 .5 83.1
nk dang thuy tram. 1 .5 .5 83.6
Oscar va ao hong 1 .5 .5 84.1
phia sau buc tuong 1 .5 .5 84.6
Song va khat vong 1 .5 .5 85.1
tat ca chi la thu thach 1 .5 .5 85.6
that lac coi nguoi 1 .5 .5 86.1
the gioi qua la rong lon 2 1.0 1.0 87.1
The story of my expr 1 .5 .5 87.6
toi di hoc 3 1.5 1.5 89.1
Toi la con gai cua m 1 .5 .5 89.6
toi la Zlatan 1 .5 .5 90.0
tottochan 2 1.0 1.0 91.0
tottochan, cho toi x 1 .5 .5 91.5
188
tottochan, nk dang thuy
tram
1 .5 .5 92.0
Tren duong 1 .5 .5 92.5
tt Alex Ferguson 1 .5 .5 93.0
tt Benjamin 1 .5 .5 93.5
tt Benjamin, tt ng hien le 1 .5 .5 94.0
tt cua mot pn An Do 1 .5 .5 94.5
tt Dang tieu binh 1 .5 .5 95.0
tt Mandela 1 .5 .5 95.5
tt Miley Cyrus 1 .5 .5 96.0
tt steve job 2 1.0 1.0 97.0
tt ve ho chi minh 1 .5 .5 97.5
tu duy va chia se 1 .5 .5 98.0
tu su mot nguoi ixlam 1 .5 .5 98.5
yeu va song 3 1.5 1.5 100.0
Total 201 100.0 100.0
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tu_truyen_viet_nam_duong_dai_nghien_cuu_tu_xa_hoi_hoc_van_hoc_0079.pdf