Đây có thể nói là một nghiên cứu đầu tiên về ứng dụng mảnh ghép
polypropylene trong điều trị thoát vị vết mổ được thực hiện bằng phương
pháp có so sánh và có theo dõi lâu dài. Qua nghiên cứu này chúng tôi nhận
thấy thoát vị vết mổ vẫn không giảm và trở thành một thử thách đối với phẫu
thuật viên mặc dù ngành ngoại khoa đã phát triển vượt bậc trong 20 năm trở
lại đây. Nghiên cứu của chúng tôi có giới hạn là chưa thể xác định được tiêu
chuẩn cụ thể về độ chắc nhão cũng như tính đàn hồi của thành bụng bệnh
nhân có thoát vị vết mổ. Tuy nhiên trong nghiên cứu không có trường hợp
nào mảnh ghép gây hạn chế vận động thành bụng. Trong nghiên cứu chúng
tôi chưa thể liệt kê hay đưa ra nhận xét về vai trò của các yếu tố nguy cơ thoát
vị vết mổ tái phát như những công trình đã báo cáo ngoài nước. Với nghiên
cứu đoàn hệ trên 139 bệnh nhân trong 10 năm (2000 – 2010) nhằm so sánh
hiệu quả của hai phuơng pháp khâu thành bụng và đặt mảnh ghép cho bệnh
nhân bị thoát vị vết mổ thành bụng, chúng tôi rút ra kết luận sau:
1) Tỉ lệ tái phát của phương pháp đặt mảnh ghép thấp hơn có ý nghĩa
thống kê so với phương pháp khâu (p = 0,005).
2) Trong mẫu nghiên cứu, phuơng pháp đặt mảnh ghép là yếu tố duy
nhất làm giảm tái phát (HR = 0,1; p = 0,002). Tuổi cao (HR = 1,05; p = 0,01)
và tiền căn thoát vị tái phát (HR = 3; p = 0,005) là hai yếu tố làm tăng tái phát
sau khi phẫu thuật điều trị thoát vị vết mổ thành bụng.
3) Phương pháp đặt mảnh ghép không có biến chứng nặng, không có tử
vong và không có trường hợp nào phải lấy bỏ mảnh ghép vì nhiễm trùng.
151 trang |
Chia sẻ: tienthan23 | Lượt xem: 2966 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Vai trò của mảnh ghép polypropylene trong điều trị thoát vị vết mổ thành bụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thể tồn tại ở dạng đa ổ. Trong các vị trí đặt mảnh ghép thành bụng, vị trí trước
cân hay để lại hậu quả tụ thanh dịch nhiều nhất [78]. Ở một trường hợp tụ
dịch đã can thiệp, chúng tôi nhận thấy băng ép đàn hồi thành bụng bị lỏng lẻo,
ống dẫn lưu không hút hiệu quả mặc dù dịch tụ không đáng kể. Do vậy, kinh
nghiệm cho thấy cần phải kiểm tra lại ống dẫn lưu và băng ép đàn hồi thành
bụng vào ngày hậu phẫu thứ nhất nhằm mục đích can thiệp kịp thời như tạo
thêm lực hút chân không, thay băng thun mới. Đối với những trường hợp có
tụ dịch trên siêu âm nhưng khám lâm sàng không có dấu hiệu nhiễm trùng
cũng như bệnh nhân không than phiền khó chịu gì, chúng tôi chỉ theo dõi và
xem như tụ dịch không triệu chứng (hình 4.8). Chọc dò bằng kim chỉ giúp biết
được tính chất của dịch tụ trong thành bụng nhưng động tác này dễ dẫn đến
một biến chứng đáng ngại là nhiễm trùng. Chọc dò bằng kim không là giải
pháp điều trị trong hai trường hợp tụ thanh dịch không triệu chứng và tụ dịch
mạn tính đã thành nang.
A B
Hình 4.8: Bệnh nhân nữ, 64 tuổi, số nhập viện: 27193, sau mổ 1 tháng.
A: Thành bụng, B: Hình ảnh tụ thanh dịch trên siêu âm (mũi tên)
97
Đối với biến chứng tụ thanh dịch tồn tại sau tuần thứ 8, hoặc diễn tiến
tạo thành nang to chứa dịch vàng có khi lẫn máu nhưng cấy vô trùng (Hình
4.9), các tác giả Fawcett và Juan Carlos khuyên nên can thiệp lại để cắt nang
thì mới chấm dứt được biến chứng tụ và chảy dịch sau đặt mảnh ghép. Đồng
thời lấy bỏ mảnh ghép không cần thiết trong trường hợp này [37], [69].
Hình 4.9: Nang to (mũi tên) chứa thanh dịch sau đặt mảnh ghép
Nguồn: Mayagoitia J.C, 2006, Hernia [69].
4.5.5. Nhiễm trùng
Biến chứng sau đặt mảnh ghép trong thoát vị vết mổ có những đặc
điểm chung của tất cả những phẫu thuật điều trị thoát vị có dùng mảnh ghép.
Trong đó đáng ngại nhất vẫn là nhiễm trùng. Biến chứng nhiễm trùng thành
bụng sau điều trị thoát vị thành bụng vẫn xảy ra mặc dù những biện pháp vô
trùng ngoại khoa đã được áp dụng. Một nghiên cứu đa trung tâm (13 trung
tâm) được thực hiện tại Mỹ đưa ra những yếu tố dự đoán có giá trị của biến
chứng nhiễm trùng thành bụng sau đặt mảnh ghép bao gồm: đang hút thuốc,
dùng corticoide mạn tính, thời gian mổ, mảnh ghép tan. Trong đó yếu tố đang
hút thuốc lá được xem như một yếu tố nguy cơ. Theo dõi ngắn hạn cho thấy
mảnh ghép không tan được chứng minh là không gây tăng tỉ lệ nhiễm trùng
mảnh ghép [55]. Tác giả S. Petersen rút ra được nhận xét từ 175 ca đặt mảnh
ghép tan và không tan rằng vị trí đặt mảnh ghép trong thành bụng không liên
quan đến tỉ lệ nhiễm trùng. Nhiễm trùng mảnh ghép chỉ liên quan đến thuốc
98
lá, thời gian mổ, dùng thuốc steroide và mảnh ghép tan [76]. Hầu hết các phẫu
thuật viên có số liệu thuyết phục về nhiễm trùng mảnh ghép đều nhận xét
không cần lấy lưới polypropylen nhờ cấu trúc đơn sợi và những lỗ cho mô hạt
cài vào. Tuy nhiên để mô hạt cài tốt, mảnh ghép polypropylene phải được cố
định và căng đều mảnh ghép tốt. Một vấn đề rất quan trọng là phải phân biệt
chắc chắn nhiễm trùng chỉ xảy ra ở lớp nông chưa lan đến lớp sâu và chưa
đến vị trí mảnh ghép. Sự chăm sóc tại chỗ đối với nhiễm trùng lớp nông
không thông thương với vị trí mảnh ghép sẽ giống như các vết thương khác.
Thường tần suất nhiễm trùng nông là trên dưới 10% theo Hội ngoại khoa
Pháp. Nhìn chung tần suất nhiễm trùng sau đặt mảnh ghép điều trị TVVM
xung quanh con số 2%. Sự chênh lệch giữa các nghiên cứu còn tùy thuộc vào
nhóm bệnh nhân nghiên cứu có ít hay nhiều yếu tố nguy cơ như thừa cân, thoát
vị to, có bệnh nội khoa kèm theo (Bảng 4.3). Trong nghiên cứu của Thomas
Anthony có hơn 50% bệnh nhân có bệnh lý tim phổi hoặc thừa cân. Điều này
giải thích vì sao tỉ lệ nhiễm trùng là 10% và tỉ lệ thoát vị tái phát là 29%.
Bảng 4.2: Tỉ lệ nhiễm trùng sau đặt mảnh ghép trước cân
Tác giả Năm Nhiễm trùng
Lawson-Smith (n =34) [62] 2006, Anh 2,9%
Mahmoud Uslu (n = 291) [67] 2006, Thổ Nhĩ Kỳ 2,7%
Thomas Anthony (n = 29) [89] 2000, Hoa Kỳ 10%
Andersen (n = 56) [7] 2009, Đan Mạch 1,8%
Israelsson (n = 281) [49] 2006. Thụy Điển 8,1%
Licheri (n = 64) [65] 2008, Ý 5%
Chúng tôi (n = 69) 2010, Việt Nam 2,9%
99
Trường hợp nhiễm trùng của chúng tôi, mảnh ghép được giữ lại vì vết
mổ được tách rộng ngay và mảnh ghép nằm ngay dưới da, dẫn lưu rất hiệu
quả không còn xoang tụ dịch nào khác. Mô hạt sẽ mọc dần dần và cài vào
mảnh ghép trong một hoặc hai tuần và che kín mảnh ghép bằng mô liên kết,
sẵn sàng để ghép da (hoặc thượng bì hoá một cách tự nhiên). Điều này được
chứng minh bằng quá trình chăm sóc và theo dõi cả ba bệnh nhân (1 nhiễm
trùng, 2 hoại tử da) đến ngày lành sẹo hoàn toàn. H. Harlan Stone tổng kết
công trình 20 năm với 101 trường hợp mất thành bụng do nhiễm trùng hoại tử
được đặt mảnh ghép polypropylene [88]. Ông nhận xét rằng mảnh ghép
polypropylene có thể thích nghi với tình trạng nhiễm trùng và đảm bảo nhiệm
vụ làm khung cho mô hạt phát triển. Gilbert có tỉ lệ tụ thanh dịch 14% (5/36),
nhiễm trùng 6% (2/36). Tất cả bệnh nhân nhiễm trùng, lộ mảnh ghép và mất
da đều phục hồi tốt với tưới rửa vết thương mà không cần lấy mảnh ghép
được. Mặc dù việc chăm sóc vết thương chỉ cần được thực hiện tại phòng
khám ngoại trú nhưng vì thời gian chờ đợi liền da hoàn toàn được tính bằng
tháng nên đòi hỏi sự kiên nhẫn của phẫu thuật viên và bệnh nhân [44], [65],
[69]. Trong thời gian dài chăm sóc vết thương, bệnh nhân sẽ yên tâm và hợp
tác tốt với phẫu thuật viên nếu họ không có những khó chịu như đau, nhiễm
trùng tồn đọng, lòi tạng qua vết mổ nhiễm trùng. Nhiễm trùng thành bụng
hoặc nhiễm trùng mảnh ghép đều trở thành một gánh nặng tài chính cho bệnh
nhân và xã hội. Do vậy phòng ngừa không để biến chứng này xảy ra vẫn là
biện pháp tốt nhất và là yêu cầu nghiêm ngặt phải tôn trọng trong suốt thời
gian trước và trong mổ.
4.5.6. Rò mảnh ghép
Trong thời gian nghiên cứu chúng tôi đã thực hiện 3 mảnh ghép sau cơ,
14 mảnh ghép tiền phúc mạc và 52 mảnh ghép trước cân. Không có trường
hợp nào bị rò mảnh ghép vào ruột hay bàng quang. Y văn cho biết các biến
100
chứng rò mảnh ghép-ruột, rò mảnh ghép-bàng quang (Hình 4.10) xảy ra nhiều
năm sau phẫu thuật. Biến chứng này chỉ xảy ra đối với vị trí đặt mảnh ghép là
tiền phúc mạc và trong phúc mạc. Có thể dự phòng biến chứng này bằng cách
lót mạc nối lớn ngăn cách tiếp xúc giữa các quai ruột và thành bụng trước.
Động tác này được thực hiện cho tất cả những trường hợp mảnh ghép tiền
phúc mạc và mảnh ghép sau cơ. Trong phần chuẩn bị, mảnh ghép luôn được
cắt tù các góc nhằm ngăn ngừa hiện tượng mảnh ghép chọc thủng phúc mạc
thành. Nếu phúc mạc thành không còn đủ hoặc mạc nối lớn không thể thay
thế phúc mạc trong nhiệm vụ phòng chống dính cũng như phòng chống rò
mảnh ghép, chúng ta nên chọn vị trí ngoài phúc mạc để đặt mảnh ghép [39].
Hình 4.10: Hình minh họa, 5 năm sau đặt mảnh ghép tiền phúc mạc,
mảnh ghép ăn mòn vào bàng quang (mũi tên trắng) gây rò và tiểu máu.
Nguồn: Riaz A.A, 2004, Hernia [79].
4.5.7. Biến chứng hô hấp
Thật sự số lượng bệnh nhân có bệnh phổi mạn tính không nhiều nên
chúng tôi không đưa ra nhận xét về biến chứng hô hấp trong phẫu thuật. Kinh
nghiệm của Munnegato về 10 bệnh nhân có lỗ TVVM hơn 10 cm kèm theo
bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) cho thấy không xảy ra biến chứng hô
101
hấp nào nếu như giữ ổn định được kháng lực hô hấp trong suốt quá trình thở
máy [41].
4.5.8. Biến chứng tử vong
Biến chứng tử vong được nói đến trong những trường hợp chèn ép
khoang bụng dẫn đến suy hô hấp và suy đa cơ quan sau mổ. Năm 1990, Hội
Ngoại khoa Pháp tổng kết được tổng số 1825 đặt mảnh ghép điều trị những
thoát vị to. Trong đó tỉ lệ tử vong là 1,2% [28]. Năm 1999, Flament có tỉ lệ tử
vong 0,6% trên 1517 trường hợp đặt mảnh ghép [64]. Nguyên nhân chủ yếu
của biến chứng tử vong là thuyên tắc tĩnh mạch. Ngoài nguyên nhân thuyên
tắc tĩnh mạch, nhiễm trùng khoang bụng và thủng ruột xảy ra sau phẫu thuật
đặt mảnh ghép nội soi chiếm vị trí thứ hai. Trong khi đó, biến chứng thành
bụng là biến chứng thường được nói đến của mổ mở đặt mảnh ghép.
4.6. THEO DÕI LÂU DÀI
4.6.1. Tái phát
TVVM tái phát là thoát vị vết mổ xảy ra sau lần phục hồi thành bụng.
Lần phục hồi trước có thể là phương pháp khâu hay thậm chí là phương pháp
đặt mảnh ghép. Tần suất TVVM tái phát không giống nhau giữa các quốc gia
hay giữa các báo cáo nhưng sự khác biệt không thật đáng kể. Theo Y văn thế
giới, tỉ lệ tái phát sau khâu thành bụng rất khác nhau tùy theo tổng kết của các
tác giả ở các quốc gia khác nhau. Nhìn chung tỉ lệ tái phát sau khâu dao động
từ 12% đến 54% và sau đặt mảnh ghép là 2% đến 36% [5], [13]. Trong trường
hợp tái phát sau khâu thành bụng, tỉ lệ tái phát từ 25% đến 54% với thời gian
theo dõi trung bình từ 1,1 năm đến 7 năm [40].
Phân tích 15 trường hợp tái phát ở nhóm khâu, có 13/15 bệnh nhân ở độ
tuổi trên 50. Phân tích sâu thêm bằng mô hình hồi qui tương xứng Cox chứng
minh rằng bệnh nhân mang TVVM có tuổi càng cao càng dễ tái phát
(p = 0,01). Mặt khác trong thực tế ngoại khoa, các phẫu thuật viên ưu tiên
102
chọn phương pháp đặt mảnh ghép cho những bệnh nhân cao tuổi. Khi phân
tích kết quả của toàn bộ 139 bệnh nhân chúng tôi nhận thấy khi đã có TVVM
tái phát thì không nên tiếp tục chọn phương pháp khâu vì nguy cơ tái diễn tái
phát là rất cao (HR = 3,1 và p = 0,005). Kết quả phân tích của riêng nhóm
khâu thành bụng cũng cho kết quả tương tự (p = 0,007).
Chúng tôi liên kết công trình nghiên cứu của mình với các tác giả đã
thực hiện phương pháp đặt mảnh ghép trước cân cơ cho thấy tỉ lệ các di
chứng, tái phát sau thời gian theo dõi lâu dài không có sự khác biệt lớn (Bảng
4.4). Mặc dù chúng tôi theo dõi được 86,9% bệnh hhân nhóm đặt mảnh ghép
và 71,4% nhóm khâu sau thời gian 10 năm, nhưng theo kết quả phân tích tần
suất tái phát tích lũy chứng minh phương pháp đặt mảnh ghép ít gặp tái phát
hơn phương pháp khâu (phép kiểm log-rank với p = 0,005).
Bảng 4.3: So sánh kết quả của các nghiên cứu khác về mảnh ghép trước cân
Tác giả (n) Thời gian theo dõi Đau Tái phát
Lawson-Smith (n =34) [62] 12 năm 1 2,9%
Mahmoud Uslu (n =232) [67] 10 năm 0 2,1%
Thomas Anthony* (n = 29) [89] 04 năm 0 29%
Andersen (n = 56) [7] 12 năm 0 14,3%
Israelsson (n = 171)** [49] 2 năm 0 19,3%
Licheri (n = 64) [65] 10 năm 0 3,1%
Chúng tôi (n=69) 10 năm 0 3,3%
* hơn 50% bệnh nhân: cân nặng lý tưởng > 120% và BMI > 30.
** BMI trung bình = 29.
103
Nghiên cứu sâu về giải phẫu bệnh lý thành bụng bị thoát vị chúng tôi
rút ra nhận xét rằng thành bụng đã qua một vài lần khâu nên các cấu trúc giải
phẫu bị thay đổi nhiều. Các lá cân, cơ bị rách và bị toác ra xa dẫn đến hậu quả
lỗ khuyết cân thành bụng khá to. Vị trí tái phát trên vết mổ cũ có thể ở cực
trên, cực dưới hoặc ở trung tâm đường mổ. Một nghiên cứu mang tính cộng
đồng về 10822 trường hợp thoát vị thành bụng của tác giả Flum cho thấy vài
điều quan trọng sau: 1) Thoát vị tái phát không chỉ giới hạn trong 2 – 5 năm
đầu sau mổ mà nó tiếp diễn theo thời gian theo dõi; 2) sau mỗi lần mổ lại thì tỉ
lệ tái phát cao hơn; 3) sử dụng mảnh ghép đã làm giảm tái phát sau mổ; 4) tỉ
lệ tái phát không hề thay đổi trong thời gian qua mặc dù nhiều kỹ thuật và vật
liệu mới được áp dụng [40].
Các tác giả Thụy Điển tổng kết 290 TVVM với thời gian theo dõi 2
năm đã cho thấy tỉ lệ tái phát tăng cao ở nhóm lỗ thoát vị có kích thước trên
3cm [49]. Trong khi đó một nghiên cứu hồi cứu của bệnh viện Shouldice dựa
trên phân tích đơn biến cho thấy những yếu tố liên quan đến tái phát là kích
thước lỗ thoát vị > 6 cm (Bảng 4.5), có biến chứng đường tiêu hóa và nhiễm
trùng. Còn yếu tố không liên quan đến tái phát là tuổi, cân nặng và giới tính.
Tuy nhiên các tác giả nhận xét rằng cần nghiên cứu sâu hơn nữa để đưa ra kết
luận tin cậy [27]. Xu hướng của phẫu thuật viên chọn phương pháp mảnh
ghép đối với bệnh nhân có BMI trên 30 sau khi nhận thấy thoát vị tái phát xảy
ra ở nhóm bệnh nhân có BMI trên 30 nhiều hơn (p = 0,03) [81], [89], [90].
Điểm chung của ba công trình trên là đưa ra tỉ lệ tái phát chung sau điều trị
mà không chia ra rõ ràng tỉ lệ của từng nhóm khâu hay mảnh ghép. Có một
nghiên cứu của Thomas Anthony (n = 77) về yếu tố ảnh hưởng tỉ lệ tái phát
sau điều trị TVVM đã chia rõ ràng hai nhóm khâu và mảnh ghép. Tỉ lệ tái
phát sau thời gian theo dõi trung bình 45 tháng là 54% của nhóm khâu và
29% của nhóm mảnh ghép (p < 0,05). Riêng ở nhóm mảnh ghép, tỉ lệ tái phát
104
cao có ý nghĩa ở nhóm bệnh nhân vượt trên 120% cân nặng lý tưởng và chỉ số
BMI > 30 so với nhóm có cân nặng lý tưởng [61], [89]. Trong nghiên cứu của
chúng tôi số lượng bệnh nhân có BMI > 30 quá ít nên chưa thể đưa ra nhận
xét về sự liên quan giữa thừa cân và tần suất tái phát TVVM.
Bảng 4.4: Kích thước lỗ thoát vị ảnh hưởng tỉ lệ tái phát [90].
Kích thước lỗ thoát vị (cm) Tái phát (%) Không tái phát (%)
5
5 – 10
> 10
6,8
17,5
68,7
93,2
82,5
31,3
[
Không để xảy ra căng thành bụng là cách chủ yếu để phòng ngừa
TVVM tái phát [5]. Tác giả Antonio cho rằng phương pháp tạo hình thành
bụng và dùng mô ghép tự thân để điều trị thoát vị thành bụng sau mổ cũng an
toàn và tỉ lệ tái phát thấp. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của Antonio tỉ lệ tái
phát chung của 188 bệnh nhân TVVM là 13%, đồng thời tác giả không chia
bệnh nhân thành hai nhóm khâu-tạo hình và nhóm mảnh ghép riêng biệt [9].
Trong trường hợp tái phát TVVM đường giữa sau đặt mảnh ghép, tỉ lệ
tái phát sau kỹ thuật sau cơ-trước cân từ 1% đến 23% với thời gian theo dõi
trung bình 1,7 năm đến 6,7 năm. Nguyên nhân do những lỗi kỹ thuật được tác
giả V. Schumpelick mô tả trong hình 4.11. Khi phẫu tích bộc lộ thành bụng để
đặt mảnh ghép, phẫu thuật viên không bộc lộ hết toàn bộ lỗ khuyết cân mà để
lại một phần ở cực trên gây nên một dạng thoát vị giả tái phát (Hình 4.11a),
cũng có thể gặp thoát vị tái phát ở hai cực của đường mổ do mảnh ghép không
phủ đủ rộng (Hình 4.11b). Tại vị trí mũi ức, nơi hai cân-cơ thẳng bám vào các
sụn sườn, mảnh ghép khó che phủ và khó cố định chắc chắn nên có thể thoát
vị phát triển ra trước mảnh ghép (Hình 4.11c). Hoặc một dạng đặc biệt nữa là
thoát vị tại trung tâm mảnh ghép khi lỗ khuyết cân không được khâu kín
(Hình 4.11d).
105
Hình 4.11a: Lỗ thoát vị do bộc lộ sẹo cân không đủ.
Hình 4.11b: Lỗ thoát vị ở hai bờ trên, dưới mảnh ghép
do mảnh ghép phủ không đủ rộng.
Hình 4.11c: Thoát vị tại mũi ức do phẫu tích vùng này không đủ.
Hình 4.11d: Thoát vị trung tâm mảnh ghép do đóng lá trước bao cơ thẳng không kín hoặc
do mảnh ghép di lệch.
Hình 4.11: Nguyên nhân của thoát vị tái phát sau đặt mảnh ghép [50], [83], [84].
Thoát vị
Sẹo cân Giả tái phát
a
d Thoát vị
Sẹo cân
Tái phát trung tâm mảnh ghép
b
Thoát vị
Sẹo cân Tái phát ở bờ mảnh ghép
Thoát vị
Sẹo cân
Tái phát trước mảnh ghép c
106
Tình trạng thoát vị rốn tái phát sau khâu có thể lý giải bằng những lý
do: 1. Tâm lý phẫu thuật viên nghĩ rằng điều trị thoát vị rốn đơn giản chỉ cần
khâu thành bụng, 2. Phẫu tích không đủ bờ cân quanh lỗ rốn nên đường khâu
chỉ lấy được lớp sợi cân của túi thoát vị, 3. Rốn là trung tâm gân chịu lực căng
của thành bụng, 4. Bỏ qua những yếu tố nguy cơ tái phát (thừa cân, tiểu
đường,...). Thực tế chúng tôi có gặp 1 trường hợp tái phát sau khâu lỗ rốn đến
3 lần. Trường hợp này chúng tôi đã đặt mảnh ghép cho bệnh nhân.
Có thể nói J.P. Chevrel là người tiên phong và nhiều kinh nghiệm nhất
về phương pháp đặt mảnh ghép trước cân. Từ năm 1980 đến 1996, tác giả này
có 389 trường hợp TTVM với các biến chứng lần lượt là nhiễm trùng 2,27%,
tụ thanh dịch 5,45%, tụ máu 1,8%, và hoại tử da 0,9%. Trên 153 trường hợp
khâu thành bụng không mảnh ghép tỉ lệ tái phát là 18,3%, trong khi 236
trường hợp đặt mảnh ghép trước cân có tỉ lệ tái phát là 5,5% [28]. J.P. Chevrel
đã sử dụng keo sinh học cho 103/236 trường hợp đặt mảnh ghép nói trên. Keo
sinh học có thành phần là fibrinogen, fibrinectin và yếu tố XII sẽ gây hiện
tượng cầm máu tức thì tạo lành sẹo và kết dính (hình 4.12). Cơ chế chính của
keo sinh học là tạo ra sự cố định ngay tức thì trên toàn bề mặt mảnh ghép do
đó thành bụng vững chắc ngay thì đầu tiên giúp phòng ngừa tái phát về sau.
Có tác giả chứng minh hiệu quả của phun keo sinh học trên mảnh ghép bằng
tỉ lệ tái phát 0,97%. Tuy nhiên chúng ta cũng phải lưu ý đến những tiêu chuẩn
nghiêm ngặt của keo sinh học trong nguyên tắc phòng ngừa lây nhiễm siêu vi
trùng. Thực tế là keo sinh học chưa được sử dụng ở Việt Nam nhưng ai cũng
đều biết keo sinh học đã được ứng dụng trong ngoại khoa từ lâu và trong
nhiều mục đích khác nhau như tạo dính, cầm máu, chống tiết dịch sau mổ,
chống rò đường khâu.
107
Hình 4.12: Phun keo sinh học khi kết thúc đặt mảnh ghép
Nguồn: Chevrel J.P, 1990, Les éventrations de la paroi abdominale [28].
4.6.2. Đau mạn tính- hạn chế vận động
Kết quả tái khám bệnh nhân ghi nhận nhóm khâu có tỉ lệ căng thành
bụng cao hơn nhóm đặt mảnh ghép (p = 0,01). Cảm nhận của bệnh nhận vẫn
không hoàn toàn khách quan và lệ thuộc vào nhu cầu vận động thành bụng
nhiều hay ít. Do vậy chúng tôi nghĩ rằng trong thực tế mảnh ghép
polypropylene đã ảnh hưởng đến tính đàn hồi thành bụng bệnh nhân.
Biểu đồ 4.2: Đàn hồi của vật liệu mảnh ghép dưới lực kéo căng 16N.
Dãy sậm màu diễn đạt lực căng yêu cầu (25 ± 7%). (PP: polypropylene).
108
Nghiên cứu của Junge [52] và cộng sự trên sự tương xứng về tính đàn hồi
sinh lý giữa thành bụng người và các loại mảnh ghép dùng trong điều trị TVVM
đưa ra nhận xét rất có giá trị thực tế. Ở lực kéo căng 16N/cm, thành bụng người có
thể đạt 23 ± 7% đối với nam và 32 ± 17% đối với nữ. Trong khi đó chỉ có ít mảnh
ghép hiện tại đạt được tính đàn hồi sinh lý như thành bụng người (Biểu đồ 4.2).
Khi nghiên cứu thực nghiệm về thay đổi tính đàn đồi của thành bụng sau
đặt mảnh ghép polypropylene, Klosterhalfen có được 25% mẫu nghiên cứu có
hiện tượng giảm đàn hồi và vận động của thành bụng. Hiện tượng này xảy ra ít
hơn nếu dùng mảnh ghép nhẹ hơn [58]. Nhóm nghiên cứu lâm sàng của Giáo sư
Schumperlick [93] về thay đổi tính đàn hồi, vận động thành bụng sau đặt mảnh
ghép cho thấy sự khác nhau rõ giữa hai nhóm mảnh ghép nặng (Mhw: 95g/m2,
Ahw: 90g/m
2) và nhẹ (Vlw: 27g/m2). Cả hai loại mảnh ghép đều làm giảm độ
cong cũng như chiều cao thành bụng sau mổ so với nhóm chứng (Biểu đồ 4.2,
4.3). Ngược lại, ở nhóm mảnh ghép nhẹ có sự cải thiện dần dần theo thời gian về
độ cong cũng như chiều cao thành bụng. Tuy nhiên, cần có một nghiên cứu mù
đôi-tiền cứu để xác định hậu quả của mảnh ghép trên thành bụng [58], [93].
Biểu đồ 4.3: Độ cong trung bình thành bụng đo bằng 3D-stereography: 4 tháng đầu
và sau 4 tháng. Mhw, Ahw: mảnh ghép nặng, Vlw: mảnh ghép nhẹ.
Nguồn: Welty G, 2001, Hernia [93].
4 tháng
Nhóm chứng
cm
109
Biểu đồ 4.4: Chiều cao trung bình của thành bụng
Nguồn: Welty G, 2001, Hernia [93].
Về mặt lý thuyết các mũi khâu cố định mảnh ghép có thể gây đau mạn
tính nên tác giả S. Licheri khắc phục bằng cách dùng chỉ tan chậm cho các
mũi cố định ngoại vi mảnh ghép và dùng chỉ không tan cho bốn mũi cố định ở
bốn gốc mảnh ghép [65]. Trong y văn có ghi nhận vài trường hợp riêng lẻ đau
kháng trị sau khi đặt mảnh ghép vài tháng để điều trị TVVM tái phát, phẫu
thuật viên phải lấy mảnh ghép ra khỏi thành bụng vì bệnh nhân bị đau kéo dài
và không chịu đựng được sự đau này [63]. Tỉ lệ đau nhẹ thành bụng của
chúng tôi thấp, bệnh nhân chỉ cảm giác căng khi gập và xoay người. Không
có trường hợp nào buộc phải lấy mảnh ghép ra khỏi thành bụng.
4.7. THỂ LÂM SÀNG ÍT GẶP
4.7.1. Thoát vị hai nơi khác nhau trên thành bụng
Thể lâm sàng này xảy ra đối với bệnh nhân sau nhiều phẫu thuật lớn
của khoang bụng và có đưa ruột ra ngoài làm hậu môn nhân tạo. Thoát vị xảy
ra tại đường mở bụng và tại vị trí đưa đại tràng ra ngoài (Hình 4.13).
4 tháng
Nhóm chứng
110
Hình 4.13: Thoát vị đường giữa và thoát vị vết mổ hậu môn nhân tạo.
Bệnh nhân nam, 60 tuổi.
Thành bụng gần như bị hư hại nhiều, không thể áp dụng phương pháp
khâu hay phương pháp tạo hình bằng lớp cân vì không còn cấu trúc cân
nguyên vẹn cũng như việc định danh giải phẫu các lớp thành bụng gặp nhiều
khó khăn. Theo chúng tôi xử lý tình huống này bằng biện pháp đặt mảnh ghép
chứ không cố gắng khâu thành bụng. Trong trường hợp hai vị trí xa nhau quá
hoặc tiên lượng cuộc mổ sẽ kéo dài, chúng tôi sẽ chọn vị trí nào gây triệu
chứng để can thiệp trước, vị trí thoát vị còn lại sẽ được đánh giá và theo dõi
tiếp tục. Quan điểm không can thiệp những thoát vị vết mổ “câm” hay không
triệu chứng đã được đề cập từ lâu. Bên cạnh những thử thách của phẫu thuật,
bệnh nhân còn phải đối diện với tỉ lệ tái phát về sau. Bệnh nhân có nhiều bệnh
nội khoa được phát hiện tình cờ mang TVVM bởi khám lâm sàng được
khuyên không nên can thiệp ngoại khoa vì không cần thiết [72].
4.7.2. Thoát vị vết mổ có rò và loét da
Cả hai trường hợp loét da và rò da đều hiếm gặp thời nay. Chúng tôi
tìm trong y văn thấy một vài ghi nhận trường hợp lâm sàng. Nguyên nhân của
loét da là tình trạng thiểu dưỡng lâu ngày của lớp da phủ ngay bên trên khối
thoát vị. Nguy cơ của trường hợp này là vỡ tự nhiên của khối thoát vị sau một
gắng sức như ho mạnh hoặc nâng một vật nặng. Lúc này tạng trong khoang
111
bụng sẽ thoát ra ngoài theo lỗ vỡ gây nên bệnh cảnh khẩn cấp ngoại khoa
[48]. Trường hợp rò da của chúng tôi không thông thương vào khoang bụng
(hình 4.14). Độ sâu của đường rò chỉ dừng lại tại lớp cân do vậy chúng tôi cắt
bỏ đường rò và cắt lớp da teo mỏng chung một khối. Chúng tôi sử dụng
đường mổ ngang tỏ ra phù hợp và tiện dụng khi phẫu tích cũng như đặt mảnh
ghép. Cả hai trường hợp đều phục hồi tốt sau mổ và không biến chứng gì.
Trước mổ Sau mổ
Hình 4.14: TTVM có rò thành bụng (Bệnh nhân nữ 82 tuổi).
Trước mổ Sau mổ
Hình 4.15: Da bị teo mỏng và có loét (Bệnh nhân nữ 92 tuổi).
Lỗ rò
Thoát vị
112
4.7.3. Thoát vị to trên cơ địa thừa cân và béo phì
Trong phẫu thuật bụng, béo phì đã được nhận định từ lâu như một yếu
tố cơ địa dễ có những biến chứng nhất. Đứng trên phương diện gây mê hồi
sức trong phẫu thuật phục hồi thoát vị, Hiệp Hội Gây Mê Hoa Kỳ (ASA) xếp
béo phì kèm theo suy hô hấp vào nhóm nguy cơ III-IV [38]. Một vấn đề rất
thực tế là tình trạng béo phì luôn đi kèm với một vài bệnh lý nội khoa mạn
tính khác như rối loạn chuyển hóa, tăng huyết áp, bệnh mạch vành, hội chứng
ngưng thở trong lúc ngủ. Thông thường bệnh nhân sẽ có hai chọn lựa: 1, phẫu
thuật điều trị TVVM cùng lúc với phẫu thuật điều trị bệnh béo phì (làm bao tử
nhỏ lại để giảm hấp thu). 2, tạm hoãn phẫu thuật điều trị TVVM cho đến khi
bệnh nhân đạt được cân nặng lý tưởng hay giảm cân có ý nghĩa. Theo
Downey, nếu kích thước thoát vị nhỏ dưới 5 cm bệnh nhân sẽ được tiến hành
hai phẫu thuật cùng lúc. Riêng về phẫu thuật điều trị TVVM, tác giả khuyên
nên sử dụng mảnh ghép nhằm giảm tỉ lệ tái phát. Nếu kích thước thoát vị trên
5cm thì cần bàn luận hết sức cẩn thận về nguy cơ thật sự là những biến chứng
sau mổ cũng như khả năng phải mổ lại [35]. Thật sự đây không những là một
thách thức cho bệnh nhân mà còn dành cho phẫu thuật viên và bác sĩ gây mê
(Hình 4.16). Tỉ lệ biến chứng chu phẫu khá cao bao gồm biến chứng thành
bụng (30%) và biến chứng tim mạch-hô hấp (10%). Kinh nghiệm của nhiều
đồng nghiệp đối với tình huống lâm sàng thoát vị vết mổ trên cơ địa béo phì
là theo dõi sát bệnh nhân trong giai đoạn hậu phẫu giúp phòng ngừa tốt cũng
như can thiệp kịp thời khi phát hiện biến chứng sớm xảy ra [56], [74], [89]. Tỉ
lệ TVVM tái phát ở bệnh nhân béo phì cũng rất đáng kể so với bệnh nhân có
cân nặng bình thường [49], [89]. Việt Nam không phải là dân số thừa cân do
đó tỉ lệ bệnh nhân béo phì trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ là 8,7% đối với
nhóm mảnh ghép và 2,9% đối với nhóm khâu.
113
Hình 4.16: Thoát vị quá to trên cơ địa thừa cân.
Nguồn: Paajanen H, 2005, Hernia [74]
Một trong những vấn đề nan giải đặt ra trong quá trình đặt mảnh ghép
thành bụng là xử lý khối da và mỡ dư thừa. Thật sự chúng ta không thể để lại
da và lớp mỡ dưới da dư thừa vì nguy cơ tụ dịch cũng như vấn đề phục hồi lại
hình dáng bề mặt thành bụng là một yêu cầu bắt buộc sau khi đặt mảnh ghép.
Các tác giả đều chọn giải pháp cắt tiết kiệm vừa phải nhằm đạt được hai yêu
cầu: 1. Phục hồi sự bằng phẳng bề mặt thành bụng, 2. Không tụ dịch dưới da,
không thiếu máu nuôi và không căng da. Tác giả Paajanen chọn đường rạch
da dọc hay ngang tùy thuộc vào hình dáng, kích thước và vị trí của TVVM so
với hình dáng bệnh nhân (hình 4.16).
114
Cuối cùng để có một cách nhìn bao quát về xu hương phát triển kỹ
thuật điều trị thoát vị thành bụng, chúng tôi giới thiệu tổng kết 25 năm kinh
nghiệm điều trị của các tác giả Đức. Theo thời gian, phương pháp mảnh ghép
dần dần được chọn lựa nhiều nhất trong khi phương pháp khâu ngày càng ít
dần. Đồng thời, mảnh ghép nhẹ bằng polypropylene với ưu điểm ít di chứng
thành bụng ngày càng được quan tâm nhiều hơn [61].
Biểu đồ 4.5: Xu hướng dùng mảnh ghép điều trị thoát vị thành bụng
Nguồn: Langer C, 2005, Hernia [61].
115
KẾT LUẬN
Đây có thể nói là một nghiên cứu đầu tiên về ứng dụng mảnh ghép
polypropylene trong điều trị thoát vị vết mổ được thực hiện bằng phương
pháp có so sánh và có theo dõi lâu dài. Qua nghiên cứu này chúng tôi nhận
thấy thoát vị vết mổ vẫn không giảm và trở thành một thử thách đối với phẫu
thuật viên mặc dù ngành ngoại khoa đã phát triển vượt bậc trong 20 năm trở
lại đây. Nghiên cứu của chúng tôi có giới hạn là chưa thể xác định được tiêu
chuẩn cụ thể về độ chắc nhão cũng như tính đàn hồi của thành bụng bệnh
nhân có thoát vị vết mổ. Tuy nhiên trong nghiên cứu không có trường hợp
nào mảnh ghép gây hạn chế vận động thành bụng. Trong nghiên cứu chúng
tôi chưa thể liệt kê hay đưa ra nhận xét về vai trò của các yếu tố nguy cơ thoát
vị vết mổ tái phát như những công trình đã báo cáo ngoài nước. Với nghiên
cứu đoàn hệ trên 139 bệnh nhân trong 10 năm (2000 – 2010) nhằm so sánh
hiệu quả của hai phuơng pháp khâu thành bụng và đặt mảnh ghép cho bệnh
nhân bị thoát vị vết mổ thành bụng, chúng tôi rút ra kết luận sau:
1) Tỉ lệ tái phát của phương pháp đặt mảnh ghép thấp hơn có ý nghĩa
thống kê so với phương pháp khâu (p = 0,005).
2) Trong mẫu nghiên cứu, phuơng pháp đặt mảnh ghép là yếu tố duy
nhất làm giảm tái phát (HR = 0,1; p = 0,002). Tuổi cao (HR = 1,05; p = 0,01)
và tiền căn thoát vị tái phát (HR = 3; p = 0,005) là hai yếu tố làm tăng tái phát
sau khi phẫu thuật điều trị thoát vị vết mổ thành bụng.
3) Phương pháp đặt mảnh ghép không có biến chứng nặng, không có tử
vong và không có trường hợp nào phải lấy bỏ mảnh ghép vì nhiễm trùng.
116
KIẾN NGHỊ
1) Phuơng pháp đặt mảnh ghép nên đuợc sử dụng trong điều trị thoát vị
thành bụng vì có tỉ lệ tái phát thấp hơn so với phuơng pháp khâu và ít biến
chứng, đặc biệt ở nhóm bệnh nhân có tiền căn thoát vị tái phát.
2) Cần có nghiên cứu đánh giá sự thay đổi cuả tính đàn hồi của thành
bụng sau đặt mảnh ghép.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÓ LIÊN QUAN
ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Phan Minh Trí, Đỗ Đình Công, Phạm Hữu Thông (2003), “Điều trị thoát
vị vết mổ bằng mảnh ghép Polypropylen”, Y học Thành phố Hồ Chí Minh,
Tập 7, Phụ bản số 1, Trang 203 - 205.
2. Phan Minh Trí, Đỗ Đình Công, Nguyễn Mậu Anh (2008), “Kết quả
của phương pháp đặt lưới thành bụng trong điều trị thoát vị thành bụng
sau mổ”, Y học Thành phố Hồ Chí Minh, Tập 22, Phụ bản số 4,
Trang 230 - 236.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Đỗ Đình Công, Phan Minh Trí, Nguyễn Hữu Thịnh (2003), "Đặt lưới
polypropylene ngã tiền phúc mạc trong điều trị thoát vị bẹn", Y học
thành phố Hồ Chí Minh, tập 7 (1), trang 187-191.
2. Vương Thừa Đức (2006), "So sánh kết quả sớm và lâu dài giữa
Lichtenstein và Bassini trong điều trị thoát vị bẹn", Thời sự Y học,
số 8, trang 3-7.
3. Nguyễn Quang Quyền (2004), Bài Giảng giải phẫu học, Nhà xuất bản Y
học, tập 2, trang 33-37.
4. Lê Thương, Trịnh Ngọc Hiệp, Đỗ Hoài Kỹ (2009), "Kết quả bước đầu
nghiên cứu áp lực khoang bụng tại khoa ngoại tổng quát Bệnh viện
đa khoa tỉnh Khánh Hòa", Tạp chí khoa học tiêu hóa Việt Nam, tập
IV, số 6, tr. 1090-1097.
TIẾNG ANH
5. Ammaturo C, Bassi G (2005), "The ratio between anterior abdominal
wall surface/wall defect surface: a new parameter to classify
abdominal incisional hernias"", Hernia, Vol. 9, pp. 316-321.
6. Anastasios K.K (2000), "Repair of McBurney Incisional Hernias After
Open Appendectomy", The Association of Program Directors in
Surgery, Vol. 57, pp. 79-80.
7. Andersen Lars Peter Holst, Mads Klein, Ismail Gögenur, Jacob
Rosenberg (2009), "Long-term recurrence and complication rates
after incisional hernia repair with the open onlay technique", BMC
Surgery, Vol. 9, pp. 1-5.
8. Anson, Mac Vay (1971), “Insional hernias”, Surgical Anatomy, Vol. 1,
pp. 77-79.
9. Antonio Espinosa-de-los-Monteros (2006), "Reconstruction of the
abdominal wall for incisional hernia repair", The American Journal
of Surgery, Vol. 91, pp. 173-177.
10. Anurov M (2008), "Experimental study of the impact of the textile
structure of mesh endoprotheses for the efficiency of recontruction
of the anterior abdominal wall", Bulletin of Experimental Biology
and Medecine, Vol. 145, pp. 642-646.
11. Arnaud J.P (1977), "Critical evaluation of prosthetic materials in repair
of abdominal wall hernias: new criteria of tolerance and resistance",
Am J Surg, Vol. 133, pp. 338-345.
12. Askar O.M (1977), "Surgical anatomy of the aponeurotic expansions of
the anterior abdominal wall", Annals of the Royal College of
surgeons of England, 59, 313-321.
13. Bauer J.J (2002), "Rives-Stoppa procedure for repair of large incisional
hernias: experience with 57 patients", Hernia, Vol. 6, pp. 120-123.
14. Bencini L (2003), "Incisional hernia repair Retrospective comparison of
laparoscopic and open techniques", Surgical Endoscopy, Vol. 17,
pp. 1546-1551.
15. Bezzi M (2005), "Large incisional hernia in the elderly: which kind of
treatment?", Acta Biomed, 76, pp. 21-23.
16. Brent D.M (2003), "Assessment of adhesion formation to intra-
abdominal polypropylene mesh and polytetrafluoroethylene
mesh"", Journal of Surgical Research, Vol. 114, pp. 126-132.
17. Burger J.W (2004), "Long-term Follow-up of a Randomized Controlled
Trial of Suture Versus Mesh Repair of Incisional Hernia", Annals of
Surgery, 240, 578-585.
18. Burger J.W (2005), "Early Complication of Abdominal Surgery", World
J Surg, 29, 1608-1613.
19. Caasar K, Munro A (2002), "Surgical Treatment of incisional hernia",
British Journal of Surgery, Vol. 89, pp. 534-545.
20. Campanelli G (2000), "Surgical treatment of incisional hernias with
marked loss of substance", Hernia, 4, 202-205.
21. Campanelli G (2004), "Prosthetic repair, intestinal resection, and
potentially contaminated areas: Safe and feasible?", Hernia, 8, 190-
192.
22. Carlson M.A, Condon R.E (1995), "Ventral hernia and other
complication of 1000 midline laparotomies", South Med J, Vol. 88,
pp. 450-453.
23. Carlos Guitezrez de la Pena (2004), “Polypropylene onlay mesh in the
prevention of incisional hernia”, Hernia, Vol. 8, pp. 289.
24. Carriquiry C.E (1999), Anatomy and Physiology of the abdominal wall.
25. Cengiz Y, Israelsson L.A (1998), "Incisional hernias in midline
incisions: an eight-year follow up", Hernia, Vol. 2, pp. 175-177.
26. Champetier J (1992), "Les prothèses synthétique dans la chirurgie
réparatrice de la paroi abdominal (hernie de l’aine exceptées),
Caractéristiques, comportement in situ et applications", J. Chir
(Paris), Vol. 129(No. 8-9), pp. 375-383.
27. Chan G (2005), "A review of incisional hernia repairs: preoperative
weight loss and selective use of the mesh repair", Hernia, Vol. 9,
pp. 37-41.
28. Chevrel J.P (1990), "Les éventrations de la paroi abdominale", Rapport
présenté au 92e Congrès Francaise de Chirurgie, pp. 13-22.
29. Chevrel J.P (1997), "The use of fibrin glues in the surgical treatment of
incisional hernias", Hernia, Vol. 1, pp. 9-14.
30. Claudio M. Birolini (2000), "Elective Colonic Operation and Prosthetic
Repair of Incisional Hernia: Does Contamination Contraindicate
AbdominalWall Prosthesis Use?", The American Journal of
Surgery, Vol. 191, pp. 366-372.
31. Cleva R (2001), "Acute renal failure due to abdominal compartment
syndrome: report on four cases and literature review", Rev. Hosp.
Clin. Fac. Med. S. Paulo, Vol. 56, pp. 123-130.
32. Dan S.I (2008), "Open repair of ventral Inusiond Hernias", Surg Clin
N.am, Vol. 88, pp. 61-83.
33. Daniele G (2003), "Abdominal wall closure with ePTFE - Goretex Dual
Mesh after detensive laparotomy for abdominal compartment
syndrome", Acta bio medica, Vol. 74, pp. 51-54.
34. Deysine M (1998), "Ventral herniorrhaphy: treatment evolution in a
hernia service", Hernia, 2, pp. 15-18.
35. Downey S.E, Morales C, Kelso R.L, Anthone G (2005), "Review of
technique for combined closed incisional hernia repair and
panniculectomy status post-open bariatric surgery,", Surg Obes Rel
Dis, Vol. 1, pp. 458-461.
36. Duce A.M (1998), "Incisional hernia following appendectomy, Surgical
experience", Hernia, Vol. 2, pp. 169-171.
37. Fawcett A.N (1998), "A complication of the use of Prolene mesh in the
repair of abdominal wall hernias", Hernia, Vol. 2, pp. 173 – 174.
38. Feliciano C (2008), Incisional hernia, Springer-Verlag Italia S.r.l.
39. Fernandez R.L (2001), "Colocutaneous fistula due to propylene mesh",
Hernia, 5, 107-109.
40. Flum DR, Horvath K, Koeprell T (2003), "Have outcomes of incisional
hernia repair improved with time? A population-based analysis",
Ann Surg, Vol. 237(1), pp. 129-135.
41. Gabriele Munegato M (2001), "Respiratory Physiopathology in Surgical
Repair for Large Incisional Hernias of the Abdominal Wall", The
American Journal of Surgery, Vol. 192, pp. 298-304.
42. Garcia Urena, Miguel Ange (2007), "Differences in polypropylene
shrinkage depending on mesh position in an experimental study",
The American Journal of Surgery, Vol. 193, pp. 538-542.
43. Ghahremani G, Gary M.A, Mark Rosenfeld, David Rochester (1986),
"CT Diagnosis of Occult Incisional Hernia", AJR, Vol. 148, pp.
139-142.
44. Gilbert A.I (1997), "Infected grafts of incisional hernioplasties", Hernia,
Vol. 1, pp. 77-81.
45. Gregory A, Dumanian M.D (2003), "Comparison of repair techniques
for major incisional hernias", The American Journal of Surgery,
Vol. 185, pp. 61-65.
46. Heartsill L (2005), "Open Rives-Stoppa ventral hernia repair made
simple and successful but not for everyone", Hernia, 9, pp. 162-
166.
47. Hoer J.J (2002), "Influence of laparotomy closure technique on collagen
synthesis in the incisional region", Hernia, Vol. 6, pp. 93-98.
48. Husain M (2007), "Spontaneous rupture of incisional hernia: A case
report", The Internet Journal of Surgery, Vol. 11.
49. Israelsson L.A, Montgomery P, Nordin L.S (2006), "Incisional hernia
repair in Sweden 2002", Hernia.
50. Itani K.M (2007), "Present State of Failure Rates", Recurrent Hernia,
Prevention and Treatment, Springer-Verlag Berlin Heidelberg, pp.
10-17.
51. Ivatury RR, Porter JM, et al (1997), "Intra-abdominal hypertension and
abdominal compartment syndrome,", Surg Clin North Am, Vol. 77,
pp. 783-800.
52. Junge Karsten, Klinge U, Schumperlick V (2001), "Elasticity of the
anterior abdominal wall and impact for reparation of incisional
hernias using hernias using mesh implants", Hernia, 5, 113-118.
53. Junge Karsten, Raphael Rosch, Peter R, Mertens, Jochen Kirch, Bernd
Klosterhalfen, Petra Lynen, Schumpelick V (2004), "Decreased
collagen type I/III ratio in patients with recurring hernia after
imantation of alloplastic prostheses", Langenbeck’s Arch Surg, Vol.
389, pp. 17-22.
54. Kapischke M, Tepel J, Tensfel T, Schulz (2005), "Comparative
investigation of alloplastic materials for hernia repair with
improved methodology", Surgical Endoscopy, 19, 1260-1265.
55. Kelly R, Finan C, Catarina I, Kiefe, Leigh Neumayer (2005), "Predictors
of wound infection in ventral hernia repair", The American Journal
of Surgery, Vol. 190, pp. 676-681.
56. Kingsnorth A, N Sivarajasingham, S Wong, M Butler (2004), "Open
mesh repair of incisional hernias with significant loss of domain",
Ann R Coll Surg Engl, Vol. 86, pp. 363-366.
57. Klinge U (1996), "Changes in abdominal wall mechanics after mesh
implantation, Experimental changes in mesh ctability",
Langenbecks Arch Chir, Vol. 381, pp. 323-332.
58. Klinge U, Conze W, Limberg B, Obolonski A, Ottinger P, Schumbelick
V (1998), "Modified mesh for hernia repair that is adapted to the
physiology of the abdominal wall", European Journal of Surgery,
Vol. 164, pp. 951-960.
59. Klinge Uwe (2005), "Incisional Hernia: Open Techniques", World
journal of Surgery, Vol. 29, pp. 1066-1072.
60. Korenkov M (2001), "Classification and surgical treatment of incisional
hernia Results of an experts’ meeting", Langenbeck’s Arch Surg,
386, 65-73.
61. Langer C (2005), "Prognosis factors in incisional hernia surgery: 25
years of experience", Hernia, Vol. 9, pp. 16-21.
62. Lawson-Smith M.J (2006), "Combined fascia and mesh repair of
incisional hernias", Hernia.
63. LeBlanc K.A, Whitaker J.M (2002), "Management of chronic
postoperative pain following incisional hernia repair with
Composix mesh: a report of two cases", Hernia, Vol. 6, pp. 194-
197.
64. Lechaux J.P, Lechaux D, Chevrel J.P (2004), "Traitement des
éventrations de la paroi Abdominale", EMC-Chirurgie, pp. 601-
619.
65. Licheri S.E, Pisano A, Garau E, Ghinami M.P (2008), "Chevrel
technique for midline incisional hernia: still an effective
procedure", Hernia, Vol. 12, pp. 121-126.
66. Luijendijk W.R (1997), "Incisional Hernia Recurrence following “Vest-
Over-Pants” or Vertical Mayo Repair of Primary Hernias of the
Midline", World Journal of Surgery, Vol. 21, pp. 62-66.
67. Mahmoud Uslu H.Y, Cakmak U, Sozener L.S, G. Turkcapar, Kuterdem
E (2006), "Incisional hernia treatment with polypropylene graft:
results of 10 years", Hernia.
68. Mandalà V.G, Darca F, Di Marco A, Luzza M, Mirabella A. (2000),
"Some considerations on the use of heterologous prostheses in
incisional hernias at risk of infection", Hernia, Vol. 4, pp. 268-271.
69. Mayagoitia J.C (2006), "Two cases of cystic seroma following mesh
incisional hernia repair", Hernia, Vol. 10, pp. 83-86.
70. Miedema D.B (2004), "Repair techniques for major incisional hernias",
The American Journal of Surgery, 187, 148-152.
71. Muysoms F.E (2009), "Classification of primary and incisional
abdominal wall hernias", Hernia, Vol. 13, pp. 407-414.
72. Nieuwenhuizen J.W, Hop C, Jeekel J, Lange J.F (2008), "Indications for
incisional hernia repair: an international questionnaire among
hernia surgeons", Hernia, Vol. 12, pp. 223-225.
73. Ohana G, Miller A, Seror D, Ariche A, Belavsky R, Dreznik Z (2006),
"Treatment of large incisional abdominal wall hernias, using a
modified preperitoneal prosthetic mesh repair", Hernia.
74. Paajanen H (2005), "Operative treatment of massive ventral hernia using
polypropylene mesh: A challenge for surgeon and anesthesiologist",
Hernia, Vol. 9, pp. 62-67.
75. Pena C.G (2003), "Primary closure of laparotomies with high risk of
incisional hernia using prosthetic material: analysis of usefulness",
Hernia, Vol. 7, pp. 134-136.
76. Petersen S (2004), "Ventral Rectus fascia Closure on top Mesh Hernia in
Sublay Technique", Journal of American Society of Plastic
Surgeons, Vol. 114, pp. 1754-1760.
77. Plessis D.J (2008), "A Synopsis Surgical Anatomy, The Anatomy of
Abdominal Incisions", PG Publishing, pp. 743-760.
78. Reilingh T.V (2004), "Repair of large midline incisional hernias with
polypropylene mesh: Comparison of three operative techniques",
Hernia, Vol. 8, pp. 56–59.
79. Riaz A.A (2004), "Mesh erosion into the bladder: A late complication of
incisional hernia repair, A case report and review of the literature",
Hernia, Vol. 8, pp. 158-159.
80. Rozen W.M, Taylor G.I (2008), Clinical Anatomy, Vol. 21, pp. 89-98.
81. Sauerland S (2004), "Obesity is a risk factor for recurrence after
incisional hernia repair", Hernia, 8, 42-46.
82. Sauerland S (2005), "Primary incisional hernia repair with or without
polypropylene mesh: a report on 384 patients with 5-year follow-
up", Langenbeck’s Arch Surg, 390, 408-412.
83. Schumpelick V (2004), "Incisional abdominal hernia: the open mesh
repair", Langenbeck’s Arch Surg, Vol. 389, pp. 1-5.
84. Schumpelick V (2007), "How to Treat the Recurrent Incisional Hernia:
Open Repair in the Midline", Recurrent Hernia Prevention and
Treatment, pp. 191-197.
85. Schumpelick V.U, Rosch R, Conze J, Junge K (2007), "How to Treat the
Recurrent Incisional Hernia: Open Repair in the Midline",
Recurrent Hernia Prevention and Treatment, pp. 191-197.
86. Sorensen L (2006), "Effect of lifestyle, gender and age on collagen
formation and degradation", Hernia, Vol. 10, pp. 456-461.
87. Sorensen L.T, Kallehave F, et al (2005), "Risk factors for tissue and
wound complications in gastrointestinal surgery", Ann Surg, Vol.
241(4), pp. 654-658.
88. Stone H.H (1981), "Management of Acute Full-thickness Losses of the
Abdominal Wall", Annals of Surgery, Vol. 193(5).
89. Thomas Anthony (2000), "Factors Affecting Recurrence following
Incisional Herniorrhaphy", World journal of surgery, Vol. 24, pp.
95-101.
90. Vidovic D (2006), "Factors affecting recurrence after incisional hernia
repair", Hernia, Vol. 10, pp. 322–325.
91. Waele J.D (2006), "Decompressive laparotomy for abdominal
compartment syndrome - a critical analysis", Critical Care, Vol. 10,
pp. 1-9.
92. Wantz (1999), "Incisional Hernia: the Problem and the Cure", J Am Coll
Surg, Vol. 188, pp. 429-447.
93. Welty G (2001), "Functional impairment and complaints following
incisional hernia repair with different polypropylene meshes",
Hernia, Vol. 5, pp. 142-147.
94. William S.C (2006), "Textile Analysis of Heavy Weight, Mid-Weight,
and Light Weight Polypropylene Mesh in a Porcine Ventral Hernia
Model", Journal of Surgical Research, Vol. 136, pp. 1-7.
95. Yuri W.N (2007), "Comparative evaluation of adhesion formation,
strength of ingrowth, and textile properties of prothestic meshes
after long-term intra-abdominal implantation in a rabbit", Journal of
Surgical Research, Vol. 140, pp. 6-11.
96. Yves M (2000), "Biostability, imflammatory response, and healing
characteristics of a fluoropassivated polyester- knit mesh in the
repair of experimental abdominal hernias ", Artif Organs, Vol. 24,
pp. 533-543.
Phụ lục 1. MẪU BỆNH ÁN
Họ và tên: Tuổi: . SNV:
Địa chỉ .. Tel: NNV:
Nghề nghiệp:
Vận động thể lực: Thể thao Không thể thao Vận động hạn chế
TIỀN CĂN:
Mổ lần I NTVM:
Mổ lần II Lý do:
COPD Tiểu đường:
Rối loạn đi tiểu: Suy dinh dưỡng
Thuốc lá: điếu/ngày Bệnh lý nội khoa khác...............
BỆNH SỬ:
Thời gian xuất hiện TVVM kể từ thời điểm hâu phẫu:
Thời gian mang thoát vị vết mổ.
Đau tức nơi vết mổ.
KHÁM:
BMI (Kg/CC
2).
Alb máu Creactive proteine.
Chức năng hô hấp: hạn chế. tắc nghẻn
Seo cũ đường Dài
Da trên túi thoát vị: teo-mỏng..... loét.. bình thường
Bệnh gồng bụng:
Sờ bờ cân chắc chắn
Bờ cân nhão
PHẪU THUẬT
Vô cảm . thời gian mổ Ngày: PTV:
Loại kháng sinh:
THƯƠNG TỔN
Đường rạch da
Dính ruột lên túi thoát vị . dính ruột lên thành bụng..
Túi thoát vị có nghách luồn dưới da
Chiều dài lỗ thoát vị chiều ngang lỗ thoát vị
Cân-cơ:
CAN THIỆP
Gở dính
Lót mạc nối lớn khâu mạc nối lớn vào phúc mạc
Vị trí lưới: TPM SCTC TCC ..
Cố định lưới:
Vào bờ thoát vị: Loại chỉ. Mũi khâu: rời. Liên tục
Vào cân cách bờ thoát vị 4cm: Loại chỉ. Mũi khâu: rời.
Liên tục Xuyên..
Kích thước lưới: ..
Lớp cân: Khâu: loại chỉ. Mũi khâu: rời. Liên tục
Để hở:
Phúc mạc: Khâu: loại chỉ. Mũi khâu: rời. Liên tục
Để hở: che bằng MNL bằng mesh
Dẫn lưu: số ống vị trí.
Băng thun ép Bao cát..
BIẾN CHỨNG
Nhiễm trùng: Lớp mỡ lớp cân – cơ Cấy:
Xử trí:
Tụ dịch: thanh dịch máu cấy:
Chảy máu:
Rò tiêu hóa:
Bung thành bụng (lòi phủ tạng)
Biến chứng khác: hô hấp tim mạch
Tử vong: nguyên nhân
Thời gian nằm viện
THEO DÕI
Thời gian theo dõi được
Thời điểm phát hiện tái phát
Phụ lục 2. DANH SÁCH BỆNH NHÂN
STT Họ và tên Tuổi SNV Nhóm
1 Nguyễn Văn M 67 YD020006133 Khâu
2 Nguyễn Thị A 72 YD070005180 Khâu
3 Đoàn Thị N 64 YD030003718 Khâu
4 Phạm Thị H 47 YD060005675 Khâu
5 Nguyễn Thị T 69 YD058110 Khâu
6 Huỳnh Thị T 71 YD040007206 Khâu
7 Bùi Thị C 50 YD0411318 Khâu
8 Võ Thị S 46 GDL03A1939 Khâu
9 Trần Thị T 81 YD060018253 Khâu
10 Châu Tô M 57 YD023384 Khâu
11 Văn Bích Đ 52 GD03A6736 Khâu
12 Nguyễn Thị D 56 50793 Khâu
13 Bùi Thị D 69 YD053882 Khâu
14 Lê Kim L 42 YD0512177 Khâu
15 Nguyễn Thị H 50 YD040000588 Khâu
16 Nguyễn Thị Thu H 50 YD040006721 Khâu
17 Văn Thị M 50 YD01769 Khâu
18 Nguyễn Thị T 52 GD03A5550 Khâu
19 Đoàn Thị C 57 GD0437347 Khâu
20 Diệp Hữu L 38 YD0515099 Khâu
21 Phạm Thị Bé N 51 YD00025 Khâu
22 Mai Thị T 61 YD06001421 Khâu
23 Nguyễn Thị N 57 GD049289 Khâu
24 Phan Thị B 75 YD060015507 Khâu
25 Trần Thị B 77 GD02A8379 Khâu
STT Họ và tên Tuổi SNV Nhóm
26 Gia R 61 GD03A9634 Khâu
27 Mạc N 55 YD022325 Khâu
28 Ngô Thị Đ 73 YD070003627 Khâu
29 Nguyễn Văn H 52 GD03A7193 Khâu
30 Nguyễn Thị S 71 GD00A6060 Khâu
31 Bùi Thị T 61 YD04000814 Khâu
32 Huỳnh Thị Huỳnh H 58 GD0429058 Khâu
33 Nguyễn Văn B 47 GD01A1420 Khâu
34 Đỗ Trường Thanh G 29 GD068803 Khâu
35 Huỳnh Thị V 78 GD0511040 Khâu
36 Phan Thị M 29 GD0428721 Khâu
37 Huỳnh N 52 YD060006263 Khâu
38 Trần Mỹ T 61 YD060016394 Khâu
39 Nguyễn Minh N 61 YD054640 Khâu
40 Huỳnh Thị D 66 YD060003557 Khâu
41 Đặng Thị L 57 YD046034 Khâu
42 Lương Quý T 82 GD00A3373 Khâu
43 Huỳnh Tú K 65 YD024292 Khâu
44 Nguyễn Văn T 58 GD03A6272 Khâu
45 Lê Thị N 73 GD02A5219 Khâu
46 Nguyễn Thị C 73 YD0512423 Khâu
47 Lê Thị L 78 GD02A7089 Khâu
48 Nguyễn Thị T 78 YD021058 Khâu
49 Đỗ Thị Thu H 37 GDL047199 Khâu
50 Phan Thị Kim H 40 YD030284 Khâu
51 Bửu H 68 GDL036741 Khâu
52 Nguyễn Thị M 62 YD050009500 Khâu
STT Họ và tên Tuổi SNV Nhóm
53 Nguyễn Thị H 60 GD0440350 Khâu
54 Nguyễn Thị L 56 GD01A4311 Khâu
55 Nguyễn Thị L 60 GDL031035 Khâu
56 Hồ Thị Đ 67 GD03A956 Khâu
57 Trần Khắc M 76 YD02989 Khâu
58 Lê Thị Thanh X 24 GD0436445 Khâu
59 Lê Thị N 92 GDL0427380 Khâu
60 Lê Thị Y 41 GD02A7846 Khâu
61 Lê Thị K 68 GD01A6300 Khâu
62 Nguyễn Thị D 56 GD0310496 Khâu
63 Trần Thị H 75 YD00645 Khâu
64 Lý H 71 YD030002465 Khâu
65 Vũ Thị H 54 GD03A8474 Khâu
66 Nguyễn Đình K 64 GD02A3290 Khâu
67 Nguyễn Thị V 53 GD0512586 Khâu
68 Nguyễn Văn V 52 GD0526317 Khâu
69 Vũ Thị T 48 GD039559 Khâu
70 Hồ Thị B 47 GD01A5146 Khâu
71 Nguyễn Thị A 72 YD070005180 Lưới
72 Nguyễn Đức T 46 GDL02A1860 Lưới
73 Trang Văn X 78 GDL0444895 Lưới
74 Đoàn Thị N 64 YD030003718 Lưới
75 Phạm Kim L 53 YD036836 Lưới
76 Nguyễn Thị Kim O 32 GDL02A2605 Lưới
77 Nguyễn Thị T 80 GDL036314 Lưới
78 Đào Thị T 69 YD036844 Lưới
79 Trần Thị N 69 YD035614 Lưới
STT Họ và tên Tuổi SNV Nhóm
80 Bùi Thị C 50 YD0411318 Lưới
81 Võ Thị P 73 YD011987 Lưới
82 Nguyễn Thị Huỳnh H 48 YD060007211 Lưới
83 Võ Thị S 46 GDL03A1939 Lưới
84 La Kim L 63 YD030002737 Lưới
85 Trần Thị T 81 YD060018253 Lưới
86 Ngô Minh Đ 54 GDL0517971 Lưới
87 Nguyễn Thị D 56 50793 Lưới
88 Bùi Văn B 54 GDL0527070 Lưới
89 Nguyễn Thị Thu H 50 YD040006721 Lưới
90 Nguyễn thị L 78 GDL03A848 Lưới
91 Nguyễn Thị C 65 YD042321 Lưới
92 Nguyễn Thị S 40 GDA 41652 Lưới
93 Huỳnh Cuối H 51 YD011316 Lưới
94 Phan Thị Thu T 39 GDL03A3921 Lưới
95 Phan Thị B 75 YD060015507 Lưới
96 Ngô Thị Đ 73 YD070003627 Lưới
97 Trần Thị D 62 YD0512189 Lưới
98 Sui Phát L 67 YD0000447 Lưới
99 Huỳnh Thị C 63 GDL0618154 Lưới
100 Nguyễn Thị N 76 YD060009753 Lưới
101 Lâm Thị V 82 YDA0645729 Lưới
102 Trần Thị T 55 YD060014473 Lưới
103 Đặng Thị L 57 YD046034 Lưới
104 Nguyễn Thị H 81 YD060005435 Lưới
105 Trần Ái Ng 67 YD070003637 Lưới
106 Nguyễn Thị H 82 YD060005262 Lưới
STT Họ và tên Tuổi SNV Nhóm
107 Lê Thị T 49 YD048597 Lưới
108 Phan Minh T 80 YD070001249 Lưới
109 Lê Thị S 72 YD Lưới
110 Lý Thu N 50 YD070007466 Lưới
111 Huỳnh Thị Thanh T 58 YD04965 Lưới
112 Lê Thị Bạch T 47 GDL04A24899 Lưới
113 Đặng Thị N 70 GDL00A2550 Lưới
114 Nguyễn Thị N 80 GDL2000 Lưới
115 Tăng D 70 YD04540 Lưới
116 Nguyễn Thị T 77 GDL0546190 Lưới
117 Trần Thị L 50 YD020001842 Lưới
118 Trần Thị T 80 GDL01354 Lưới
119 Nguyễn Thị N 69 YD049171 Lưới
120 Nguyễn Thành X 60 GDL03A2183 Lưới
121 Đỗ Thị Thu H 37 GDL047199 Lưới
122 Nguyễn Thị C 67 GDL00A3301 Lưới
123 Bửu H 68 GDL036741 Lưới
124 Nguyễn Thị M 62 YD050009500 Lưới
125 Nguyễn thị N 71 GDL0518998 Lưới
126 Nguyễn Thị Kim H 50 GDL02A7323 Lưới
127 Nguyễn Tiến S 56 GDL03A2184 Lưới
128 Huỳnh Thanh V 41 GDL0517006 Lưới
129 Nguyễn Thị Phước T 49 GDL023221 Lưới
130 Nguyễn Thị L 60 GDL031035 Lưới
131 Võ Thị H 40 GDL0541350 Lưới
132 Nguyễn Thị P 72 GDL02A1487 Lưới
133 Lê Thị N 92 GDL0427380 Lưới
STT Họ và tên Tuổi SNV Nhóm
134 Nguyễn Văn L 49 GD0637183 Lưới
135 Nguyễn Thị N 48 34637 Lưới
136 Huỳnh Thị Q 80 36833 Lưới
137 Lê Hoàng Q 45 GDL2000 Lưới
138 Hồ Thị D 64 27193 Lưới
139 Huỳnh Thị Thúy H 49 YD060010284 Lưới
Xác nhận của phòng KHTH
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 635475213900444532_phanminhtri_la_4961.pdf