1. Trong thể chế tư pháp nào, ở lĩnh vực tố tụng nào (tố tụng hình sự, tố tụng dân
sự hay tố tụng hành chính), Tòa án cũng là cơ quan tiến hành tố tụng trung tâm. Hoạt
động áp dụng pháp luật của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân chịu sự quy định và chi phối của
nhiều yếu tố khác nhau như quan niệm về quyền tư pháp, đặc thù của hoạt động xét xử,
đặc điểm của tố tụng dân sự nói chung và tính chất của xét xử phúc thẩm vụ án chia di
sản thừa kế nói riêng.
2. Trong thực tiễn xét xử phúc thẩm vụ án phân chia dia sản thừa kế theo pháp
luật, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao về cơ bản đã thực hiện tốt hoạt động áp
dụng pháp luật của mình; tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn nhiều bất cập, tồn tại trong
việc áp dụng các quy định pháp luật vào từng vụ án cụ thể. Trên cơ sở chỉ ra những bất
cập, tồn tại luận văn cũng chỉ ra các nguyên nhân của chúng.
95 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3916 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ũ cán bộ
Toà phúc thẩm Toà án nhân dân, đặc biệt là đội ngũ thẩm phán có trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ vững vàng, có phẩm chất đạo đức, chính trị, chí công vô tư.
Đề cập đến nhiệm vụ cải cách tư pháp, Hội nghị lần thứ ban Ban chấp hành Trung
ương Đảng khoá VIII (tháng 6/1997) đã yêu cầu xây dựng các cơ quan tư pháp phải mẫu
mực trong việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, phải thể hiện công lý, tính dân chủ, công
khai trong hoạt động của mình, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công
dân. Khắc phục tình trạng cơ quan tiến hành tố tụng xét xử không công minh, vi phạm
quyền dân chủ của công dân. Về cán bộ, Đảng ta chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ tư
pháp trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất chính trị, đạo đức và có năng lực chuyên môn
cao. Lập quy hoạch tuyển chọn, đào tạo, sử dụng cán bộ tư pháp theo từng loại chức danh
với tiêu chuẩn cụ thể. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra
đối với hoạt động của cán bộ tư pháp để có thể đánh giá và sử dụng tốt cán bộ; xử lý
nghiêm những cán bộ tham nhũng, tiêu cực.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ IX đã xác định: “cải cách
tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao tinh thần
trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ tư pháp trong công tác điều tra…xét xử, thi hành
án”, “tăng cường đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân về số lượng và chất lượng”
[7, tr.132]. Rà soát lại đội ngũ cán bộ toà án trong sạch, vững mạnh, xác định lại biên chế
cho phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ của mỗi toà án.
Tại Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX (tháng
01/2004), Đảng ta tiếp tục đề ra một số chủ trương, chính sách, giải pháp lớn nhằm thực
hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ IX của Đảng về
cải cách tư pháp, theo đó: Tiếp tục củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của Toà án,
Viện kiểm sát và cơ quan điều tra các cấp. Đổi mới công tác xét xử của Toà án về tất cả
các loại án khi xét xử theo hướng mở rộng tranh tụng tại phiên toà, coi trọng kết quả
tranh tụng tại phiên toà khi kết án, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp.
Từ những chủ trương trong các văn kiện nêu trên, cho thấy phương hướng cơ bản
nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà
phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao cần tập trung vào các hướng cơ bản sau:
- Xây dựng đội ngũ Thẩm phán của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao đủ về
số lượng, đảm bảo chất lượng, tuyệt đối trung thành với các chủ trương, đường lối của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, có phẩm chất đạo đức tốt, có lối sống giản dị, có tinh thần
vượt khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Thẩm phán Toà phúc thẩm Toà án nhân
dân tối cao ở ba khu vực: Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng.
Bốn là, kiện toàn tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân tối cao nói chung và
Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao nói riêng, thực hiện các biện pháp hữu hiệu, cụ
thể để từng bước đảm bảo tuyển dụng, tuyển chọn đủ cán bộ, Thẩm phán nâng cao chất
lượng đội đội ngũ cán bộ, công chức, thẩm phán cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối
cao.
Năm là, tăng cường tranh tụng tại phiên toà phúc thẩm, đó là một nội dung quan
trọng để nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong công cuộc cải cách tư pháp hiện
nay. Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, ngày
02/6/2005 của Đảng tiếp tục khẳng định tiếp tục viẹce đổi mới các phiên toà xét xử, xác
định rõ hơn vị trí, quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham
gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất
lượng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp. Mở rộng
tranh tụng tại phiên toà nói chung và phiên toà phúc thẩm nói riêng sẽ giúp cho việc áp
dụng pháp luật của Toà án nâng cao chất lượng khi ban hành các bản án, quyết định,
tránh những sai sót trong hoạt động tố tụng. Coi trọng và mở rộng tranh tụng tại phiên toà
phúc thẩm sẽ giúp đội ngũ Thẩm phán nâng cao kỹ năng trong quá trình xét xử.
Những nguyên tắc, chính sách của Đảng được nêu ra trong các Nghị quyết là
nền tảng tư tưởng, là quan điểm chỉ đạo cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động của
các cơ quan tư pháp nói chung và của các Toà án nhân dân nói riêng.
3.2. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ
PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT CỦA TOÀ PHÚC THẨM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO Ở VIỆT NAM
3.2.1. Các giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong áp dụng pháp luật
về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao
Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội là nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong Hiến
pháp. Do vậy, hoạt động của Toà án nhân dân cũng như hoạt động của các cơ quan khác
trong bộ máy nhà nước đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng ta về cải cách tư pháp trong những
năm tới. Mục tiêu của cải cách tư pháp là xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân
chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến
hành có hiệu lực và hiệu quả cao.
Nghị quyết 49-NQ/TW xác định rõ Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động
trọng tâm. Nghị quyết đã đề ra nhiệm vụ phải "phân định rõ thẩm quyền quản lý hành
chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng
quyền và trách nhiệm cho điều tra viên, kiểm sát viên và Thẩm phán để họ chủ động trong
thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi
và quyết định tố tụng của mình". Đây là nhiệm vụ được Nghị quyết đặt ở vị trí ưu tiên thực
hiện ngay từ năm 2005 đến năm 2010. Đồng thời, Nghị quyết cũng nêu cần phải:
Đổi mới việc tổ chức phiên toà xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn,
trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng
bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng
tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp [2].
Đảng lãnh đạo Nhà nước trên cả ba phương diện: tư tưởng, tổ chức và cán bộ. Sự
lãnh đạo của Đảng đảm bảo cho hoạt động của các cơ quan tư pháp ngày càng đạt chất
lượng cao và luôn đúng phương hướng vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng dân chủ văn minh. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với hoạt động của Toà phúc
thẩm Toà án nhân dân tối cao trong việc giải quyết các tranh chấp về phân chia di sản
thừa kế theo pháp luật không có nghĩa là tổ chức Đảng, Đảng viên can thiệp vào hoạt
động áp dụng pháp luật, quyết định thay cho Toà án. Sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt
động áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm
Toà án nhân dân tối cao là bằng đường lối xét xử, bằng phương hướng đổi mới và tổ
chức và hoạt động của Toà phúc phẩm Toà án nhân dân tối cao sao cho ngày càng có
hiệu quả hơn và chất lượng áp dụng pháp luật ngày càng tốt hơn. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, cán bộ ngành toà án nói chung và cán bộ Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao
phải nâng cao tinh thần, bản lĩnh chính trị, ý thức pháp luật trong suốt quá trình thực hiện
nhiệm vụ của mình theo quy định của pháp luật.
Đảm bảo sự đoàn kết nhất trí trong các tổ chức đảng tại các đơn vị của Toà án
nhân dân tối cao là đòi hỏi quan trọng. Tổ chức đảng trong cơ quan Toà án nhân dân tối
cao phải coi trọng công tác lãnh đạo giáo dục về tư tưởng cho các đảng viên, cán bộ toà
án. Hiện nay ở Toà án nhân dân tối cao và Toà án nhân dân cấp tỉnh đều có ban cán sự
Đảng để lãnh đạo toàn diện các mặt công tác của toàn ngành cũng như của từng đơn vị.
Những chủ trương lớn của Đảng đều được Toà án nhân dân tối cao quán triệt một cách
nghiêm túc. Trên cơ sở những chủ trương đó, Ban cán sự Đảng của Toà án nhân dân tối
cao đề ra các chương trình và kế hoạch hoạt động cụ thể có hiệu quả trong đội ngũ cán
bộ, đảng viên của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao.
Thực tế cho thấy trong thời gian qua, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao đã
thực hiện nghiêm túc nguyên tắc Đảng lãnh đạo toàn diện đối với các mặt công tác của
Toà án, đặc biệt là công tác xét xử và công tác cán bộ. Các Toà phúc thẩm Toà án nhân
dân tối cao đã thực hiện chế độ báo cáo cấp uỷ đảng để xin để xin ý kiến chỉ đạo của cấp
uỷ đảng về định hướng công tác của đơn vị. Các cấp uỷ đảng cho ý kiến chỉ đạo việc giải
quyết những vụ án phức tạp liên quan đến tranh chấp di sản thừa kế theo pháp luật. Các
cấp uỷ đảng luôn chăm lo công tác cán bộ của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao,
nhất là công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ, tuyển chọn thẩm phán, bố trí cán bộ tham gia
Hội đồng xét xử phúc thẩm. Cấp uỷ đảng toà án nhân dân tối cao, định hướng giới thiệu
các đồng chí đảng viên đủ tư cách, trình độ, năng lực, uy tín, trách nhiệm và bản lĩnh
chính trị tham gia cấp uỷ, giữ chức vụ lãnh đạo của các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân
tối cao.
Thực hiện đổi mới mạnh mẽ tổ chức và hoạt động của các Toà án theo tinh thần
Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị (khoá IX) về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2010 và việc triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm của Nghị quyết này trên các
mặt công tác của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao trong những năm qua được tăng
lên. Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao đã có nhiều cố gắng để đẩy nhanh tiến độ và
nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật theo
trình tự phúc thẩm. Tình trạng để các vụ án tranh chấp về di sản thừa kế theo pháp luật ở
Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao kéo dài đã được giảm thiểu.Trong thời gian tới
Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao cần tập trung hoàn thành các nhiệm vụ theo tinh
thần của Nghị quyết số 08, chú trọng đẩy nhanh tiến độ thực hiện đang triển khai như
nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà phúc thẩm đối với các vụ án về phân chia di
sản thừa kế theo pháp luật.
Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động áp dụng pháp luật của Toà phúc
thẩm Toà án nhân dân tối cao phải được thực hiện một cách toàn diện, chặt chẽ cả về
chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ, từ quá trình xây dựng chủ trương, đường lối, quan
điểm đến việc chỉ đạo thực hiện chủ trương, quan điểm đó. Khắc phục tình trạng cấp uỷ
buông lỏng lãnh đạo hoặc cấp uỷ can thiệp vào hoạt động áp dụng pháp luật của Toà
phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao, cán bộ Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao thoát
ly sự lãnh đạo của tổ chức Đảng hoặc thiếu tính chủ động, ỷ lại vào cấp uỷ. Tăng cường
công tác xây dựng Đảng, giáo dục quản lý, kiểm tra hoạt động của các tổ chức Đảng và
Đảng viên trong ngành toà án nói chung và trong Toà án nhân dân tối cao trong đó có
Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao. Không ngừng tăng cường công tác quy hoạch,
tuyển chọn, đào tạo bố trí sử dụng cán bộ trong Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao.
3.2.2. Nâng cao phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức cho đội ngũ Thẩm
phán của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao
Nghị quyết số 49 –NQ/TW ngày 02/6/2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2010” đã chi rõ: “đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp
vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ yếu, thậm chí một số cán bộ sa sút về
phẩm chất đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp” [2].
Số lượng, chất lượng đội ngũ Thẩm phán luôn là vấn đề mà Đảng, Nhà nước và xã
hội quan tâm. Cùng với việc tăng cường về tổ chức, đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ
cán bộ của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao cần được bổ sung cả về chất lượng và
số lượng.
Trình độ nhận thức chính trị, ý thức giác ngộ chính trị của Thẩm phán có vai trò
quan trọng trong việc hình thành nhân cách người Thẩm phán. Việc thấm nhuần chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp người thẩm phán có một thế giới quan
khoa học, nhân sinh quan cộng sản. Lập trường tư tưởng vững vàng, bản lĩnh chính trị
sâu sắc là tiền đề vững chắc đảm bảo cho hoạt động áp dụng pháp luật của người Thẩm
phán khi xét xử đúng với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Trong quá trình
giải quyết vụ án, bản lĩnh chính trị giúp giúp cho người thẩm phán cân nhắc, lựa chọn các
văn bản phù hợp, giúp người Thẩm phán can đảm gạt bỏ mọi cám dỗ về vật chất, thực
hiện đúng nguyên tắc chỉ tuân theo pháp luật. Ý thức chính trị của người Thẩm phán
không chỉ là nhân tố để bảo đảm các quy phạm pháp luật được áp dụng đúng, chính xác
mà còn giúp người Thẩm phán có được bản lĩnh để xử lý tình huống một cách linh hoạt.
Do vậy, một trong những tiêu chí của người Thẩm phán là “trung thành với Tổ quốc và
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Đạo đức cách mạng là cơ sở quan trọng để tạo nên nhân cách người Thẩm phán,
xác lập chỗ đứng của người Thẩm phán trong xã hội. Đạo đức, phẩm chất của người
Thẩm phán bao gồm đức tính trung thực, thẳng thắn, lòng nhân ái, sự dũng cảm, tính
công bằng, tinh thần trách nhiệm, sự tự tin, dám nghỉ, dám làm. Bác Hồ đã chỉ ra năm
đức tính của người cách mạng, đó là nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Người Thẩm phán cần
phải rèn luyện và học tập và làm theo năm đức tính nêu trên và không ngừng nâng cao
đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư”, người Thẩm phán phải có
“cái đầu lạnh, một trái tim nóng và đôi bàn tay sạch” để có cái tâm trong sáng, bản lĩnh
vững vàng khi xét xử, đánh giá các chứng cứ và các tình tiết vụ án một cách khách quan,
toàn diện, chính xác.
Trình độ nhận thức, ý thức giác ngộ chính trị của người Thẩm phán có vai trò cực
kỳ quan trọng trong việc hình thành lý tưởng sống và lập trường tư tưởng của cá nhân
người Thẩm phán. Lập trường tưởng chính trị vững vàng của người Thẩm phán sẽ là tiền
đề vững chắc bảo đảm cho hoạt động áp dụng pháp luật khi xét xử đúng với đường lối
của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Để đảm bảo cho Thẩm phán chuyên tâm thực hiện tốt công việc xét xử, độc lập,
công minh trong việc đưa ra phán quyết, một vấn đề rất quan trọng là phải có chế độ đãi
ngộ thoả đáng đối với Thẩm phán, phù hợp với đặc thù của hoạt động xét xử. Nếu lương
Thẩm phán cao sẽ đảm bảo cho người Thẩm phán có thể yên tâm hoàn thành tốt công
việc được giao, giúp Thẩm phán phát huy được tính độc lập, chủ động của mình trong
việc xét xử. Ngược lại, chỉ riêng việc trả lương thấp cũng đã làm tổn hại đến tính độc lập
và công tâm của Thẩm phán. Ở các nước có nền tư pháp phát triển như Nhật Bản,
Singapore, lương của Thẩm phán được xếp vào các thang bậc đặc biệt và trong suốt
nhiệm kỳ, thu nhập bằng lương của họ không bị cắt giảm vì bất kỳ lý do nào; cùng với đó
là một chế độ hưu trí thoả đáng. Đây là kinh nghiệm mà Việt Nam có thể tham khảo.
Ngoài ra, cơ sở vật chất cho hoạt động xét xử được bảo đảm cũng sẽ góp phần giúp Thẩm
phán thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ do Đảng, Nhà nước và xã hội giao phó.
Tăng cường các biện pháp bảo đảm cho Thẩm phán thực hiện tốt nhiệm vụ: cần
có những biện pháp bảo đảm về mặt an ninh nhằm mục đích bảo đảm an toàn về tính
mạng, sức khoẻ, tài sản cho Thẩm phán, ngăn chặn các hành vi xâm phạm Thẩm phán.
Các biện pháp này được bảo đảm thực hiện bởi các cơ quan chức năng và được tiến hành
khi có yêu cầu của Thẩm phán hoặc khi nhận được thông tin và căn cứ cho rằng đang có
hoặc sẽ có đe doạ từ thực tế. Có nhiều vụ án sau khi phiên toà kết thúc, các thành viên
Hội đồng xét xử không dám ra về vì những lời đe doạ trả thù từ phía đương sự. Gần
đây, Thẩm phán Nguyễn Thị Kim Loan ở Toà án nhân dân quận Đống Đa, thành phố
Hà Nội đã bị đương sự thuê người tạt axít ngay trước cửa nhà để trả thù do kết quả xét
xử không như mong muốn. Thẩm phán Vũ Ngọc Hoà, Phó Chánh án Toà án nhân dân
huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang đã 4 lần bị bị đơn đặt mìn ở nhà riêng với mục đích
sát hại Thẩm phán và gia đình. Vì vậy, một việc cấp bách hiện nay là cần nghiên cứu
áp dụng các biện pháp bảo đảm an toàn cho Thẩm phán, bao gồm cả các biện pháp an
ninh, các biện pháp pháp lý (ví dụ: quy định tăng nặng trách nhiệm pháp lý đối với
các hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản của Thẩm phán và người thân thích
của Thẩm phán) và các biện pháp xã hội (chẳng hạn như bảo hiểm nghề nghiệp).
3.2.3. Kiến nghị về hoàn thiện pháp luật và hướng dẫn kịp thời các văn bản
pháp luật về thừa kế theo pháp luật để có cơ sở áp dụng pháp luật
- Về hoàn thiện pháp luật:
Trước mắt, để hoàn thiện các quy định pháp luật trong hoạt động xét xử nói chung
vụ án dân sự nói riêng (trong đó có vụ án về phân chia di sản thừa kế) theo tinh thần cải
cách tư pháp, theo tác giả thì cần sửa đổi, bổ sung một số quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự, cụ thể là:
Thứ nhất: Bổ sung nguyên tắc tranh tụng vào Chương II "Những nguyên tắc cơ
bản" của Bộ luật Tố tụng dân sự. Mặc dù Bộ luật Tố tụng dân sự đã thể hiện một số yếu
tố của tranh tụng, nhưng chưa ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản. Việc luật
hoá nguyên tắc tranh tụng có ý nghĩa rất quan trọng, nguyên tắc này là "kim chỉ nam" cho
hoạt động của Toà án trong việc xét xử vụ án dân sự, đồng thời là một bảo đảm pháp lý
cho các đương sự và những người tham gia tố tụng khác trong việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình. Với nguyên tắc tranh tụng, Thẩm phán sẽ phải thực sự đóng vai
trò là người trọng tài, phán quyết vụ án chủ yếu trên cơ sở kết quả tranh tụng tại phiên toà
theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Hiện nay "tranh tụng" trong tố tụng dân sự được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa hẹp và
nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp thì tranh tụng là sự tranh luận, đối đáp, đấu tranh với nhau
bằng các chứng cứ, lý lẽ, lập luận tại phiên toà giữa các bên có quyền lợi đối lập nhau
nhằm chứng minh cho yêu cầu của mình và phản bác yêu cầu, lập luận của phía bên kia.
Còn theo nghĩa rộng, tranh tụng là một quá trình xác định sự thật khách quan về vụ án,
trong đó những người tham gia tố tụng được đưa ra chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để
chứng minh, biện luận nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Toà án theo
những trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng dân sự quy định. Như vậy, theo nghĩa rộng,
tranh tụng diễn ra trong suốt quá trình giải quyết vụ án.
Khi xây dựng nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật Tố tụng dân sự, cần hiểu tranh
tụng theo nghĩa rộng. Nguyên tắc tranh tụng chi phối hoạt động của Thẩm phán, đương
sự và các chủ thể khác trong toàn bộ quá trình tố tụng, chứ không chỉ tại phiên toà, mặc
dù phiên toà là nơi biểu hiện tập trung nhất của tranh tụng.
Nguyên tắc tranh tụng đã được ghi nhận trong pháp luật tố tụng dân sự một số
nước. Chẳng hạn, theo Điều 12 Bộ luật Tố tụng dân sự Liên bang Nga: "Việc xét xử được
tiến hành theo nguyên tắc tranh tụng và bình đẳng giữa các bên. Toà án điều khiển quá
trình tố tụng một cách độc lập, khách quan, vô tư, giải thích cho những người tham gia tố
tụng về quyền và nghĩa vụ của họ, báo trước về hậu quả pháp lý do thực hiện hoặc không
thực hiện hành vi tố tụng, giúp đỡ những người tham gia tố tụng trong việc thực hiện
quyền của mình, tạo mọi điều kiện để việc nghiên cứu chứng cứ được toàn diện và đầy
đủ, xác định sự thật vụ án và áp dụng đúng đắn những quy định của pháp luật khi giải
quyết những vụ án dân sự". Bộ luật Tố tụng dân sự Pháp cũng quy định rõ nguyên tắc
tranh tụng ở Điều 16: "Trong mọi trường hợp, Thẩm phán phải bảo đảm tôn trọng nguyên
tắc tranh tụng. Trong quyết định của mình, Thẩm phán chỉ có thể dựa trên những căn cứ,
văn bản giải thích và các tài liệu do các đương sự viện dẫn hoặc xuất trình, nếu những căn
cứ, những ý kiến lý giải và những tài liệu xuất trình cũng đã được thảo luận theo thể thức
tranh tụng".
Như vậy, nguyên tắc tranh tụng phải bao gồm ba nội dung cơ bản sau đây:
- Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, các đương sự có quyền liên tục đưa ra các
chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp
pháp và phản bác yêu cầu, lập luận của phía bên kia. Đồng thời, các đương sự phải có
nghĩa vụ thông tin cho nhau đầy đủ và kịp thời về các yêu cầu, chứng cứ, lập luận mà
mình đưa ra.
- Toà án (mà chủ yếu là Thẩm phán) có trách nhiệm tôn trọng và bảo đảm việc
tranh tụng của các bên.
- Việc xét xử phải căn cứ vào kết quả tranh tụng của các đương sự, người đại diện,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Nguyên tắc tranh tụng sẽ tạo ra sự ràng buộc pháp lý chặt chẽ đối với Hội đồng
xét xử. Đặc biệt theo quy định của pháp luật, thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm của
Toà án nhân dân tối cao không có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân, cho nên Thẩm
phán một mặt phải tự mình tuân thủ nguyên tắc tranh tụng, mặt khác có nghĩa vụ bảo
đảm việc tôn trọng nguyên tắc tranh tụng của các chủ thể khác. Thẩm phán phải kiểm tra,
giám sát việc thực hiện nghĩa vụ thông tin của các đương sự, đồng thời phán quyết của
Hội đồng xét xử phúc thẩm phải dựa trên cơ sở tranh tụng giữa các đương sự. Thẩm phán
có quyền không chấp nhận những chứng cứ mà các đương sự không thông báo cho nhau
hoặc thông báo không đúng thời hạn quy định.
Thứ hai: Sửa đổi các quy định về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự
theo hướng đề cao quyền tự định đoạt, tính chủ động của các đương sự và khuyến khích
tranh tụng, cụ thể là:
- Bỏ các quy định về những trường hợp Thẩm phán tự mình tiến hành các biện
pháp thu thập chứng cứ khi không có yêu cầu của đương sự (khoản 1 Điều 87, khoản 1
Điều 88, điểm b khoản 1 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự). Về lâu dài, tiến tới thực hiện
cơ chế Thẩm phán không xác minh, thu thập chứng cứ mà giải quyết vụ việc trên cơ sở
những chứng cứ do các bên đương sự đưa ra và dựa vào kết quả tranh tụng tại phiên toà.
- Quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho nhau giữa các đương sự, nhằm tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho đương sự trong việc thực hiện tranh tụng.
- Quy định rõ thời hạn cung cấp chứng cứ của đương sự để tránh tình trạng kéo dài
thời gian giải quyết vụ án, và cũng tránh được việc đương sự giấu chứng cứ ở cấp sơ
thẩm, chờ đến cấp phúc thẩm mới xuất trình chứng cứ làm ảnh hưởng đến chất lượng xét
xử của Toà án cấp sơ thẩm và làm số lượng án phúc thẩm tăng thêm.
Thứ ba: Sửa đổi các quy định về trình tự tiến hành phiên toà sơ thẩm theo hướng
khuyến khích tranh tụng hơn nữa. Theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 thì sau thủ tục
hỏi mới đến thủ tục tranh luận, dẫn đến một thực trạng là sau khi kết thúc thủ tục hỏi thì
những người tham gia tố tụng sẽ không tích cực tranh luận nữa vì họ đã trình bày ở thủ
tục hỏi, nếu có tranh luận thì cũng chỉ là giải quyết bức xúc, nói lại những vấn đề trước
đó đã trình bày. Vì vậy cần đưa thủ tục tranh luận lên trước thủ tục hỏi để những người
tham gia tố tụng trình bày, tranh luận về sự việc trước, sau đó có điểm nào chưa rõ thì
Hội đồng xét xử mới hỏi.
Về lâu dài, việc sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Toà án nhân dân cũng cần được
đặt ra. Theo kinh nghiệm của nhiều nước có nền tư pháp phát triển, một trong những điều
kiện thiết yếu để đảm bảo tính độc lập xét xử của Toà án và Thẩm phán là không để cho
Toà án chịu quá nhiều sự ràng buộc với chính quyền địa phương, do đó, Toà án thông
thường được tổ chức theo thẩm quyền xét xử.
Nghị quyết 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra
định hướng quan trọng về việc tổ chức hệ thống Toà án theo thẩm quyền xét xử, không
phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: Toà án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc
một số đơn vị hành chính cấp huyện; Toà án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử
phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Toà thượng thẩm được tổ chức theo khu vực
có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh
nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám
đốc thẩm, tái thẩm. Tổ chức Toà án theo thẩm quyền là điều kiện rất quan trọng bảo đảm
nguyên tắc độc lập xét xử.
Luật Tổ chức Toà án nhân dân cần thể chế hoá quan điểm này và quy định cụ thể
tổ chức hệ thống Toà án theo thẩm quyền xét xử. Trong đó, nội dung, phương thức chỉ
đạo, điều hành giữa lãnh đạo Toà án với Thẩm phán, giữa Toà án cấp trên và Toà án cấp
dưới cần được quy định rõ theo hướng phân biệt rõ quan hệ hành chính và quan hệ tố
tụng, đảm bảo trong hệ thống Toà án, quan hệ tố tụng phải được đề cao, quan hệ hành
chính phải bảo đảm cho Thẩm phán thực hiện tốt nhất quyền và nghĩa vụ của mình. Cần
xây dựng mối quan hệ giữa Toà án cấp trên và Toà án cấp dưới theo hướng chủ yếu là quan
hệ tố tụng, tránh hiện tượng thỉnh thị án, làm cho Toà án cấp dưới bị động, ỷ lại, giảm sút
tính độc lập của Thẩm phán. Việc xác định lại thẩm quyền của từng cấp Toà án theo hướng
tiến tới mỗi cấp Toà án chỉ có một thẩm quyền xét xử sơ thẩm, phúc thẩm hay giám đốc
thẩm, tái thẩm là tiền đề quan trọng bảo đảm cho quan hệ giữa các cấp Toà án sẽ chủ yếu là
quan hệ tố tụng.
- Về hướng dẫn, giải thích pháp luật:
Theo qui định của Luật tổ chức Toà án nhân dân, Toà án nhân dân tối cao có nhiệm
vụ hướng dẫn các Toà án áp dụng pháp luật thống nhất, tổng kết kinh nghiệm xét xử của các
toà án.
Theo qui định của pháp luật, Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ “hướng dẫn các
Toà án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử của các Toà án” [30].
Bất cứ văn bản pháp luật nào ra đời mà không đi vào thực tế, không phù hợp với
thực tế thì không những không phát huy được vai trò của pháp luật trong việc định hướng
hành vi xử sự của mỗi công dân, mà tự thân nó sẽ mất đi theo quy luật tự đào thải. Để
văn bản pháp luật đi vào thực tế. ngoài việc nâng cao chất lượng của văn bản pháp luật,
việc tuyên truyền giáo dục pháp luật đóng vai trò hết sức quan trọng. Kiến thức pháp luật
về thừa kế gắn liền với mỗi gia đình, hơn nữa nó cũng có cách giải quyết mang tính công
thức nhất định, rất thuận tiện cho công tác tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân. Hình
thức tuyên truyền có thể bằng tờ rơi, bằng hệ thống phát thanh, báo chí …Khi người dân
hiểu hết pháp luật về thừa kế thì tranh chấp thừa kế, số lượng cũng như tính chất phức tạp
sẽ giảm trong thực tế đời sống xã hội.
Thực tiễn hoạt động của Toà án trong thời gian qua cho thấy, công tác hướng dẫn áp
dụng pháp luật thống nhất của Toà án nhân dân tối cao chưa thực hiện đầy đủ, còn nhiều bất
cập. Công tác giải thích pháp luật thuộc quyền hạn của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội chưa
được chú trọng đúng mức. Đó là nguyên nhân làm cho việc áp dụng pháp luật trong hoạt
động áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án
nhân dân tối cao trong nhiều trường hợp còn lúng túng, chưa đạt kết quả cao.
Nhận thức được những bất cập trong công tác giải thích và hướng dẫn áp dụng pháp
luật thống nhất, Đảng Toà án nhân dân đã có những chỉ thị, nghị quyết chỉ đạo nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác này. Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội ngoài chức năng,
nhiệm vụ lập pháp và giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước, phải tăng
cường giải thích pháp luật bởi vì chỉ có Uỷ ban Thường vụ Quốc hội mới được Hiến pháp
trao quyền hạn và nhiệm vụ giải thích Hiến pháp, Luật và Pháp lệnh.
Đối với công tác hướng dẫn pháp luật của Toà án nhân dân tối cao, Nghị quyết Hội
nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VIII đã chỉ rõ:
Toà án nhân dân tối cao tập trung vào công tác tổng kết xét xử, hướng dẫn các toà án áp
dụng pháp luật thống nhất Trong những năm qua, hoạt động hướng dẫn áp dụng pháp luật
của Toà án nhân dân tối cao đối với Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao đạt được nhiều
kết quả nhất định và bằng nhiều hình thức khác nhau [6]; việc hướng dẫn áp dụng pháp luật
của Toà án nhân dân tối cao cần được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau: qua các
báo cáo tổng kết xét xử hàng năm của ngành, qua các văn bản hướng dẫn đơn hành đối với
từng vấn đề nhưng cần chú trọng nhất là hình thức hướng dẫn áp dụng pháp luật có hiệu lực
cao nhất và quan trọng nhất là các Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao. Đây là hình thức văn bản quy phạm pháp luật có tính bắt buộc thực hiện đối với các chủ
thể áp dụng pháp luật. Bên cạnh đó, Toà án tối cao cần cần quan tâm hơn công tác hướng
dẫn áp dụng pháp luật để đáp ứng tình hình thực tế, để đảm bảo tính thống nhất của pháp luật
trong việc thực hiện áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của các
Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao.
3.2.4. Không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán
bộ Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao
Hoạt động áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc
thẩm Toà án nhân dân tối cao là hoạt động tố tụng quan trọng, đòi hỏi các cán bộ, các thẩm
phán của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao phải có năng lực chuyên môn và nghiệp vụ
vững vàng, chủ động và sáng tạo khi thực hiện nhiệm vụ được giao. Trình độ, năng lực
chuyên môn là một trong những yếu tố rất quan trọng đảm bảo cho Thẩm phán có thể tự
tin độc lập xét xử và ra phán quyết đúng đắn. Để nâng cao trình độ, năng lực của Thẩm
phán, một mặt cần chăm lo bồi dưỡng Thẩm phán đương nhiệm theo hướng cập nhật các
kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế-xã hội, hội nhập quốc tế, bồi dưỡng kỹ năng
xét xử và kiến thức thực tiễn, mặt khác chú trọng đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo
cử nhân luật, đào tạo cán bộ nguồn để bổ nhiệm Thẩm phán. Đào tạo Thẩm phán phải
theo hướng ưu tiên bồi dưỡng kỹ năng mà không thiên về đào tạo theo bằng cấp, học vị.
Thẩm phán xét xử vụ án dân sự cũng cần được đào tạo kỹ năng xét xử chuyên sâu về các
lĩnh vực trong đó có lĩnh vực thừa kế.
Cần xem xét việc mở rộng nguồn tuyển chọn Thẩm phán; ngoài đội ngũ cán bộ tư
pháp, có thể bổ nhiệm Thẩm phán từ những luật sư, luật gia có kinh nghiệm và uy tín để
thu hút người thực sự có năng lực nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ xét xử có trình độ
chuyên môn cao. Áp dụng cơ chế thi tuyển cấp quốc gia để lựa chọn những người đủ
trình độ, năng lực vào vị trí Thẩm phán thay cho cơ chế xét tuyển Thẩm phán ở các cấp
Toà án như hiện nay. Cơ chế thi tuyển tạo điều kiện cho các ứng viên vào chức danh
Thẩm phán có điều kiện cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, hạn chế tiêu cực, đồng thời
giảm bớt sự phụ thuộc của Thẩm phán vào các thiết chế quyền lực ở địa phương, tăng
cường tính độc lập của Thẩm phán. Trong thực tế, Thẩm phán Toá án nhân dân tối cao là
những Thẩm phán được chuyển từ địa phương lên, là những người đang giữ cương vị là
Thẩm phán cấp tỉnh, hoặc là những người đang giữ chức Trưởng các đơn vị thuộc Toà án
nhân dân tối cao. Như vậy, Thẩm phán Toà phúc thẩm Toà án Toà án nhân dân tối cao
hầu hết chưa được đào tạo kỹ năng xét xử mà chủ yếu là những Thẩm phán có kinh
nghiệm xét xử và có thâm niên trong ngành toà án, số lượng Thẩm phán đã qua đào tạo
nghiệp vụ xét xử tại Học viện Tư pháp hiện đang giữ chức Thẩm phán Toà án tối cao la
rất ít (chỉ có một vài người).
Nhiệm kỳ của Thẩm phán cần được kéo dài và tiến tới bổ nhiệm không thời hạn.
Nhiệm kỳ ngắn cùng với cơ chế xét tuyển gây ra nhiều sức ép đối với Thẩm phán, làm
cho Thẩm phán không thực sự yên tâm với công việc xét xử, hạn chế khả năng tích
luỹ kinh nghiệm xét xử của Thẩm phán và đặc biệt là ảnh hưởng lớn đến tính độc lập
của Thẩm phán. Có thể quy định nhiệm kỳ đối với mỗi ngạch Thẩm phán như sau:
nhiệm kỳ 10 năm đối với Thẩm phán sơ thẩm, 12 năm đến 15 năm đối với Thẩm phán
phúc thẩm và xem xét áp dụng chế độ bổ nhiệm không thời hạn đối với Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao. Sau khi hết nhiệm kỳ, các Thẩm phán sơ thẩm và phúc thẩm
muốn được tái bổ nhiệm phải qua một kỳ sát hạch; kết quả kỳ sát hạch cùng với kết
quả công việc trong nhiệm kỳ vừa qua sẽ là căn cứ để ra quyết định tái bổ nhiệm.
Muốn vậy, ngoài nhiệm vụ tự trao dồi, học tập của từng cán bộ Toà phúc thẩm Toà án
nhân dân tối cao, Đảng, Nhà nước và ngành toà án nhân dân cần thường xuyên tổ chức các
lớp bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ cho họ, tổ chức các cuộc hội thảo theo các
chuyên đề, định kỳ mở các lớp tập huấn luyện sâu, tổ chức, cập nhật tình hình mới về các vi
phạm pháp luật dân sự, tổ chức các cuộc thi xử lý các tình huống trong hoạt động áp dụng
pháp luật.
Các trường đạo tạo ngành như Đại học Luật, Học viện Tư pháp cần quan tâm công
tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao về kiến thức
chuyên ngành, đặc biệt là kỹ năng và nghiệp vụ trong hoạt động áp dụng pháp luật, nhằm
không ngừng nâng cao năng lực công tác cho cán bộ Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao
trong việc thực hiện nhiệm vụ áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật,
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.
Thực hiện nghiêm túc những điều cấm đối với cán bộ ngành toà án nhân dân nói
chung và Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao nói riêng.
Đổi mới mạnh mẽ phương thức tổ chức chỉ đạo, điều hành và thủ tục hành chính - tư
pháp trong Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao theo hướng nhanh, gọn, hiệu quả và
thuận lợi cho công dân, phân công, phân cấp hợp lý, cải tiến chế độ làm việc, đề cao chế độ
trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, thẩm phán, gắn quyền hạn với trách nhiệm.
Các cấp uỷ đảng ngành toà án, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tăng cường
công tác quản lý cán bộ, kịp thời phát hiện những cán bộ có hành vi tiêu cực, vi phạm kỷ luật
nghiệp vụ để uốn nắn và xử lý kịp thời nhằm làm trong sạch bộ máy.
Ngoài ra, để đảm bảo hoạt động áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo
pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao có hiệu quả đòi hỏi mỗi cán bộ, thẩm
phán Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao phải có kiến thức sâu rộng về các chuyên
ngành, lĩnh vực khác có liên quan, kinh nghiệm và vốn sống phong phú, nhạy bén linh hoạt
trong việc năm bắt và xử lý các tình huống phát sinh. Do vậy, cần có chính sách và tạo điều
kiện thuận lợi, động viên, khuyến khích đội ngũ cán bộ, thẩm phán Toà phúc thẩm Toà án
nhân dân tối cao không ngừng tự học tập nâng cao trình độ. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế
để cử cán bộ, thẩm phán đi học tập ở nước ngoài nhằm nâng cao kiến thức, đáp ứng yêu cầu
hội nhập quốc tế hiện nay.
3.2.5. Coi trọng công tác tổng kết kinh nghiệm xét xử các vụ án về phân chia
di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao để hoạt
động áp dụng pháp luật sát thực tiễn hơn
Tổng kết kinh nghiệm xét xử các vụ án tranh chấp về phân chia di sản thừa kế theo
pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao là việc đánh giá hoạt động của cơ
quan này trên các vấn đề quyết định bản án, áp dụng pháp luật về nội dung cũng như luật
tố tụng, các vấn đề tác động đến việc đưa ra các phán quyết của Toà án. Từ đó, xác định
những bản án, quyết định chính xác, có tính mẫu mực làm căn cứ tham khảo cho các vụ
việc tương tự về sau. Ngoài ra, công tác tổng kết kinh nghiệm sẽ giúp Toà phúc thẩm Toà
án nhân dân tối cao phát hiện những bản án, quyết định đã ban hành chưa chính xác, chưa
thoả đáng, còn tồn tại những sai lầm trong việc xem xét đánh giá chứng cứ, trong việc lựa
chọn những quy phạm pháp luật để áp dụng và rút kinh nghiệm.
3.2.6. Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra đối với hoạt động xét xử các tranh
chấp về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân
tối cao để đảm bảo chất lượng áp dụng pháp luật
- Tăng cường vai trò giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội đối với hoạt động áp
dụng pháp luật của Toà án nhân dân nói chung và với hoạt động xét xử các tranh chấp về
phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao.
- Coi trọng hình thức giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội, của quần chúng
nhân dân và các phương tiện thông tin đại chúng với hoạt động xét xử của Toà phúc thẩm
Toà án nhân dân tối cao.
- Tăng cường công tác tự kiểm tra, thanh tra trong nội bộ Toà án nhân dân tối cao
đối với hoạt động của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao trong việc xét xử các vụ án
về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật.
- Xử lý nghiêm minh, kịp thời, các hành vi tham nhũng, hối lộ, tiêu cực trong đội
ngũ Thẩm phán và cán bộ công chức Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao.
3.2.7. Xây dựng và củng cố các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp nhằm nâng
cao chất lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử các vụ án về phân chia di
sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao
Hoạt động của các cơ quan tư pháp, các tổ chức bổ trợ tư pháp như Luật sư,
Giám định, Công chứng, Hộ tịch không trực tiếp quyết định các bản án về phân chia di
sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao nhưng có ý nghĩa
quan trọng trong việc nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật về lĩnh vực này. Trong hoạt
động áp dụng pháp luật về xét xử các tranh chấp về di sản thừa kế theo pháp luật của Toà
phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao các cơ quan bổ trợ tư pháp đã bổ sung, cung cấp tài
liệu, chứng cứ có giá trị chứng minh làm sáng tỏ các tình tiết khách quan của vụ án. Các
chứng cứ, tài liệu của các cơ quan bổ trợ tư pháp đều được xem xét, thẩm tra, đánh giá và
có giá trị chứng minh tại phiên toà khi tiến hành xét xử các vụ án về phân chia di sản thừa
kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao. Hoạt động của các cơ quan
bổ trợ tư pháp kém hiệu quả,, không chính xác, không kịp thời sẽ dẫn đến những khó
khăn trong việc đánh giá chứng cứ và xác định sự thật của vụ án tại phiên toà phúc thẩm.
Chính vì vậy, trong các nội dung cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước đang tiến hành
đều đề cập đến việc củng cố và nâng cao hoạt động của các cơ quan và tổ chức bổ trợ tư
pháp với những bước đi thích hợp.
Bên cạnh đó việc mở rộng tranh tụng, việc hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp
như luật sư, công chứng, giám định, thừa phát lại có ý nghĩa rất quan trọng, tạo điều kiện
cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình, giảm bớt gánh nặng cho Thẩm phán trong việc xác minh, thu thập chứng cứ.
Ngoài ra, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý
thức pháp luật cho các thành viên trong xã hội, bởi công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
không những góp phần hình thành ở người dân thái độ, ý thức chấp hành pháp luật, mà
còn giúp họ biết sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong
lĩnh vực tố tụng dân sự, khi ý thức pháp luật của các đương sự được nâng cao thì họ sẽ
tích cực, chủ động hơn trong việc thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh,
giảm dần sự ỷ lại vào Toà án, do đó Thẩm phán sẽ có điều kiện thực hiện tốt hơn vị trí,
vai trò là người trọng tài để đưa ra phán quyết khách quan, chính xác. Không những thế,
ý thức pháp luật của người dân được nâng lên sẽ góp phần phát huy được vai trò giám sát
của họ đối với hoạt động xét xử của Thẩm phán, khiến cho Thẩm phán phải có trách
nhiệm hơn đối với bản án, quyết định của mình.
Kết luận chương 3
Để nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử nói chung và
hoạt động xét xử các vụ án về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm
Toà án nhân dân tối cao, sự quan tâm lãnh đạo của Đảng là yếu tố quan trọng. Sự lãnh
đạo của Đảng đối với hoạt động áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp
luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao là bằng đường lối xét xử, bằng phương
hướng đổi mới và tổ chức và hoạt động của Toà phúc phẩm Toà án nhân dân tối cao sao
cho ngày càng có hiệu quả hơn và chất lượng áp dụng pháp luật ngày càng tốt hơn. Cùng
với việc coi trọng công tác tổng kết kinh nghiệm xét xử các vụ án về phân chia di sản
thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao, tăng cường công tác
giám sát, kiểm tra đối với hoạt động xét xử các tranh chấp về phân chia di sản thừa kế
theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao là những giải pháp cơ bản để
đảm bảo chất lượng áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, xây dựng và
củng cố các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp trong bối cảnh hiện nay là nhằm góp nâng
cao chất lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử các vụ án về phân chia di sản
thừa kế theo pháp luật của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao.
Trong những năm qua, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao đã có những cố
gắng trong việc áp dụng pháp luật về phân chia di sản thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên,
việc áp dụng pháp luật của vẫn còn nhiều bất cập, tồn tại. Một số nguyên tắc cơ bản của
luật tố tụng dân sự không được thực hiện đầy đủ, làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu
quả xét xử. Hoạt động của Toà án chưa thực sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, bao gồm cả nguyên nhân khách quan lẫn chủ
quan. Việc nhận diện đúng các nguyên nhân là cơ sở quan trọng để Luận văn đưa ra các
giải pháp nhằm khắc phục những bất cập, tồn tại hiện nay.
KẾT LUẬN
1. Trong thể chế tư pháp nào, ở lĩnh vực tố tụng nào (tố tụng hình sự, tố tụng dân
sự hay tố tụng hành chính), Tòa án cũng là cơ quan tiến hành tố tụng trung tâm. Hoạt
động áp dụng pháp luật của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân chịu sự quy định và chi phối của
nhiều yếu tố khác nhau như quan niệm về quyền tư pháp, đặc thù của hoạt động xét xử,
đặc điểm của tố tụng dân sự nói chung và tính chất của xét xử phúc thẩm vụ án chia di
sản thừa kế nói riêng.
2. Trong thực tiễn xét xử phúc thẩm vụ án phân chia dia sản thừa kế theo pháp
luật, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao về cơ bản đã thực hiện tốt hoạt động áp
dụng pháp luật của mình; tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn nhiều bất cập, tồn tại trong
việc áp dụng các quy định pháp luật vào từng vụ án cụ thể. Trên cơ sở chỉ ra những bất
cập, tồn tại luận văn cũng chỉ ra các nguyên nhân của chúng.
3. Luận văn đề xuất các kiến nghị nhằm khắc phục những bất cập, tồn tại đó và
tiếp tục hoàn thiện pháp luật trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án chia di sản thừa kế
theo pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án. Các kiến nghị được đặt
trong tổng thể các biện pháp thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 mà
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đã đề ra, với các phương
hướng cơ bản là: hoàn thiện pháp luật và hướng dẫn kịp thời các văn bản pháp luật về
thừa kế theo pháp luật; nâng cao phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, không ngừng
nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ Thẩm phán; Coi trọng công tác tổng kết kinh
nghiệm xét xử các vụ án về phân chia di sản thừa kế. Ngoài ra, có một số kiến nghị về
các biện pháp tổ chức, cán bộ và các điều kiện khác đảm bảo khác để Tòa phúc thẩm Tòa
án nhân dân tối cáo mang lại kết quả cao trong hoạt động áp dụng pháp luật của mình.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị - Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị
quyết 08 ngày 02/01/2001, Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp
trong thời gian tới.
2. Bộ Chính trị - Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị
quyết 49 ngày 02/6/2005, Về chiến lược cải cách tư pháp đến hết năm 2020.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung
ương khoá VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung
ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
10. Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, NXb Tư pháp, Hà Nội.
11. Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Luật Tố tụng Dân sự Việt Nam, NXb Tư pháp,
Hà Nội.
12. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Nhà nước và Pháp luật
(2004), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, tập 1, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội.
13. Hội đồng Thẩm phán, Toà án nhân dân tối cao (1990), Nghị quyết số 02/HĐTP
ngày 19/10/1990, Về hướng dẫn một số quy định của Pháp lệnh thừa kế.
14. Hội đồng Thẩm phán, Toà án nhân dân tối cao (2004), Nghị quyết số 02/2004/NQ-
HĐTP ngày 10/08/2004, Về Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết
các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình.
15. Nguyễn Đình Huy (2001), “Quyền thừa kế trong luật dân sự La Mã cổ đại”, Tạp chí
Khoa học pháp lý, (4).
16. Lê Minh Hùng (2006), “Những điểm mới của các qui định về thừa kế trong Bộ luật
dân sự 2005”, Tạp chí Khoa học pháp lý.
17. Phạm Văn Hiểu (2007), “Những bất cập về thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế trong
pháp luật dân sự hiện hành”, Tạp chí Luật học, (8).
18. Nguyễn Phương Linh (2006), “Một số vấn đề pháp lý về giải quyết di sản thừa kế -
tiền gửi của người nước ngoài”, Tạp chí Ngân hàng, (11).
19. Tưởng Bằng Lượng (2001), “Một số vấn đề thực tiễn giải quyết các tranh chấp thừa kế
tại toà án nhân dân trong thời gian vừa qua”, Tạp chí Khoa học pháp lý, (3).
20. Tưởng Bằng Lượng (2002), “Những vướng mắc và kiến nghị về chương thừa kế
quyền sử dụng đất trong Bộ luật dân sự”, Tạp chí Khoa học pháp lý, (7).
21. Uông Chu Lưu (Chủ nhiệm đề tài) (2006), Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện
hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Toà án
trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, Báo cáo tổng
hợp kết quả nghiên cứu Đề tài KX04.06 thuộc Chương trình khoa học xã hội cấp
nhà nước (2006), Hà Nội.
22. Nguyễn Văn Mạnh (2002), “Hoàn thiện chế định thừa kế trong Bộ luật dân sự”,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (4+ 5).
23. Trần Thị Nhuệ (2005), “Những nguyên tắc cớ bản về thanh toán di sản trong Bộ luật
dân sự”, Tạp chí Luật học, (4).
24. Trần Thị Nhuệ (2006), “Di sản thừa kế trong pháp luật dân sự một số nước trên thế
giới”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (10).
25. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1995), Hiến pháp năm 1946,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1995), Hiến pháp năm 1959,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1995), Hiến pháp năm 1980,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1995), Hiến pháp năm 1992,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Hiến pháp năm 1992
(đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật Tổ chức toà án nhân
dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Bộ luật dân sự, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Bộ Luật tố tụng dân sự,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000), Luật Hôn nhân và gia
đình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Phùng Trung Tập (2001), “Di sản dùng vào việc thờ cúng trong mối liên hệ với thừa
kế”, Tạp chí Luật học, (1).
35. Phùng Trung Tập (2006), “Tiến trình phát triển pháp luật thừa kế Việt nam trong 60
năm qua”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (2).
36. Nguyễn Thanh (2006), “Một số vấn đề về thừa kế tiền gửi ngân hàng”, Tạp chí
Ngân hàng, (17).
37. Trần Đình Thắng (2008), Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp theo yêu cầu của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, Kỷ yếu đề tài cấp bộ, Viện
Nhà nước và Pháp luật (chủ trì), Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh.
38. Toà án nhân dân tối cao, Hội đồng xét xử phúc thẩm (2005-2008), Báo cáo tổng kết
công tác ngành toà án năm 2005 – 2008, Tài liệu lưu Văn phòng Toà án tối
cao tại TP.Hồ Chí Minh. Phụ Lục Tr.1.
39. Toà án nhân dân tối cao, Hội đồng xét xử phúc thẩm (2005-2008), Báo cáo tổng kết
công tác ngành toà án năm 2005 – 2008, Tài liệu lưu Văn phòng Toà án nhân dân
tối cao tại TP.Đà Nẵng. Phụ Lục Tr.1.
40. Toà án nhân dân tối cao, Hội đồng xét xử phúc thẩm (2005-2008), Báo cáo tổng kết
công tác ngành toà án năm 2005 – 2008, Tài liệu lưu Văn phòng Toà án nhân
tối cao tại Hà Nội. Phụ Lục Tr.1.
41. Trung tâm Từ điển học (1994), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
42. Trường Đại học Luật Hà nội (2002), Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt
Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
43. Nguyễn Minh Tuấn (2007), “Di sản thừa kế và thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với
di sản thừa kế”, Tạp chí Luật học, (11).
44. Phạm Văn Tuyến (2005), “Cần xác định nội dung cụm từ “những người có quyền thừa
kế di sản của nhau” trong điều 644 Bộ luật dân sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học,
(4).
45. Đào Trí Úc (2003), “Cải cách tư pháp: ý nghĩa, mục đích và trọng tâm”, Nhà nước
và pháp luật, (2), tr.3-5.
46. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân,
Hà Nội.
47. Nguyễn Hữu Ước (2007), Các nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao từ năm 2002 đến năm 2007, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 16_8596.pdf