Luận văn Bảo vệ cổ đông thiểu số

Tên tài liệu: Luận văn Bảo vệ cổ đông thiểu số Tác giả: Đỗ Tuấn Hùng Chủ sở hữu quyền tác giả: Đỗ Tuấn Hùng Năm sản xuất: 2010

doc76 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6322 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Bảo vệ cổ đông thiểu số, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nội bộ hoặc người có thông tin nội bộ nếu mua, bán chứng khoán, tiết lộ thông tin này hoặc đề nghị người khác mua, bán chứng khoán sẽ bị phạt tiền và tịch thu các khoản thu vi phạm, hoặc bị xử lý hình sự. Bên cạnh đó, các Điều 181b và Điều 181c Bộ luật Hình sự sửa đổi cũng quy định người sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán Theo quy định của pháp luật hình sự, hành vi sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán là việc người nào biết được thông tin liên quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng chưa được công bố mà nếu được công bố có thể ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán của công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng đó, mà sử dụng thông tin này để mua bán chứng khoán hoặc tiết lộ, cung cấp thông tin này hoặc tư vấn cho người khác mua bán chứng khoán trên cơ sở thông tin đó để thu lợi bất chính. hoặc thực hiện hành vi thao túng giá chứng khoán Hành vi thao túng giá chứng khoán theo quy định của pháp luật hình sự là (i) thông đồng với người khác để thực hiện việc mua bán chứng khoán nhằm tạo ra cung cầu giả tạo; hoặc (i) giao dịch chứng khoán bằng hình thức cấu kết, lôi kéo người khác liên tục mua bán. , có thể bị phạt tiền từ một trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến bảy năm, tuỳ thuộc vào tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Như vậy, mặc dù trên thực tế hành vi sử dụng thông tin nội bộ trong giao dịch chứng khoán đã có những chế tài rất nghiêm khắc để xử lý, nhưng loại giao dịch này vẫn diễn ra thường xuyên do lợi nhuận thu được từ hoạt động này là rất lớn. Do đó, để hạn chế được tình trạng cổ đông lớn sử dụng thông tin nội bộ trong giao dịch chứng khoán, ngoài việc UBCKNN và các cơ quan chức năng có thẩm quyền tăng cường hơn nữa việc kiểm tra, giám sát, thì việc hoàn thiện các quy định về công bố thông tin cũng phải đồng thời được tiến hành song song. Vì nếu việc kiểm soát và công bố các thông tin tốt, thì các cổ đông nội bộ mà chủ yếu là những cổ đông lớn sẽ không có nhiều cơ hội trong việc sử dụng các thông tin nội bộ để giao dịch chứng khoán hoặc bán các thông tin này ra bên ngoài cho người khác nhằm mục đích tư lợi. Ở một số quốc gia trên thế giới, điển hình như Hoa Kỳ, Ủy ban chứng khoán (SEC) và các SGDCK thường yêu cầu tất cả các nhân viên trong công ty niêm yết phải báo cáo về các giao dịch của họ . Vì các nhân viên làm việc trong công ty có thể có được những thông tin nội bộ về tình hình hoạt động của công ty, nên các nhà đầu tư có thể xem xét các bản báo cáo trên để biết rằng liệu các nhân viên nội bộ trong công ty có mua, bán chứng khoán một cách hợp pháp hay không. Đây cũng là một cơ chế đáng để chúng ta học hỏi, bởi theo cơ chế này, các giao dịch nội bộ và các thông tin trong công ty sẽ được minh bạch, công khai hoá bởi trách nhiệm của từng cổ đông, từng nhân viên trong công ty. Thông qua đó, cổ đông, nhất là CĐTS có thể giám sát rất hiệu quả các giao dịch nội bộ của cổ đông lớn trong CTCP. Bên cạnh đó, chúng ta cần phải phát huy hơn nữa vai trò của Bộ luật Hình sự trong việc xử lý nghiêm khắc các hành vi sử dụng thông tin nội bộ trong giao dịch chứng khoán để thao túng giá chứng khoán và thu lợi bát chính. Vì vậy, cần phải xây dựng cơ chế phối hợp xử lý thật hiệu quả giữa UBCKNN với cơ quan công an, Viện Kiểm sát và Toàn án. Trong đó, quy định rõ trách nhiệm phối hợp và phạm vi thẩm quyền xử lý cụ thể của từng cơ quan. Nếu áp dụng hiệu quả các quy định pháp lý hiện hành với một cơ chế phối hợp khoa học, chắc chắn tình trạng sử dụng thông tin nội bộ trong giao dịch chứng khoán của các cổ đông lớn sẽ được hạn chế và qua đó, quyền lợi của CĐTS cũng được đảm bảo hiệu quả hơn. Cổ đông lớn thâu tóm và chiếm đoạt tài sản của công ty thông qua việc công ty phát hành thêm cổ phần, thực hiện thưởng cổ phần và ưu đãi mua cổ phần Theo quy định của LDN 2005, CTCP có quyền phát hành thêm cổ phần để huy động vốn. Việc phát hành này, nếu thực sự vì nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh của công ty là điều bình thường. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, các cổ đông lớn sử dụng phương thức này chỉ nhằm mục đích tăng tỉ lệ sở hữu cổ phần của mình trong công ty, để thực hiện ý đồ thâu tóm công ty. Khi công ty phát hành thêm cổ phần mới thì mọi cổ đông đều có quyền mua thêm cổ phần công ty chào bán, tương ứng với tỷ lệ sở hữu cổ phần hiện hữu. Nhưng không phải khi nào các CĐTS cũng có đủ tiền để chạy theo quá trình tăng vốn. Nhiều CĐTS không quan tâm hoặc không có thông tin rõ ràng về việc phát hành thêm cổ phiếu này. Số khác có thông tin nhưng không có tiền để mua thêm cổ phần. Khi không theo nổi việc tăng vốn cổ phần của công ty, CĐTS đành từ bỏ quyền mua cổ phần mới phát hành và khi này cổ đông lớn sẽ dễ dàng mua lại số cổ phần mà CĐTS đã từ bỏ quyền mua thông qua một Nghị quyết của ĐHĐCĐ, với nội dung cho phép HĐQT được quyền lựa chọn đối tượng để bán số cổ phần còn thừa này. Trong trường hợp này, những đối tượng được quyền mua không ai khác là các thành viên HĐQT, BGĐ và các cổ đông lớn khác. Quyền ưu tiên mua cổ phần của CĐTS bị vi phạm hoặc bị các cổ đông lớn lạm dụng chủ yếu được biểu hiện dưới một số hình thức: Thứ nhất, cổ đông lớn với vị thế chi phối của mình tại ĐHĐCĐ, đã bỏ phiếu thông qua Nghị quyết phát hành thêm cổ phần mới theo phương thức phát hành nội bộ và dành cho mình quyền được mua nhiều hơn so với cổ đông khác. Thứ hai là phát hành dưới hình thức “ưu tiên cho người lao động”. Trong CTCP được cổ phần hoá từ doanh nghiệp nhà nước thì phần lớn, thậm chí tất cả cổ đông đều là người lao động trong công ty. ĐHĐCĐ biểu quyết ưu tiên cho người lao động mua cổ phần thực chất cũng chính là ưu tiên cho mình, nhưng với tỷ lệ khác so với tỷ lệ sở hữu. Lúc này, “những cổ đông đã làm việc lâu năm, thường là thành viên HĐQT và những người quản lý khác được hưởng lợi nhiều hơn so với các cổ đông – người lao động khác” Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Đình Cung, tlđd, tr. 318. . Thứ ba là lạm dụng tư cách là cổ đông chiến lược, cổ đông lớn đã hợp pháp hoá nghị quyết của ĐHĐCĐ dành quyền ưu tiên mua cổ phần mới phát hành của công ty với tỷ lệ cao hơn và với mức giá thấp hơn nhiều so với các “cổ đông bình thường” khác. Như vậy, bằng những thủ đoạn này, các cổ đông lớn không ngừng gia tăng khoảng cách về tỷ sở hữu cổ phần trong công ty với các CĐTS và qua đó, sức mạnh chi phối, thâu tóm công ty của họ cũng được tăng lên với một tỷ lệ tương ứng. Một trong những trường hợp thâu tóm điển hình trên TTCK là vụ việc liên quan đến CTCP Nước giải khát Sài Gòn (TRIBECO). Cuối năm 2008, thị trường chỉ mới xôn xao về khả năng TRIBECO bị thâu tóm thì đến nay, câu chuyện đã trở nên rõ ràng. Bằng chứng là Uni President (Đài Loan) đã nâng tỉ lệ nắm giữ tại TRIBECO lên 43,5% từ mức 29,15% thông qua việc mua thêm 9,8 triệu cổ phiếu từ đợt chào bán riêng lẻ tháng 7/2009. Với động thái này, Uni President gần như có toàn quyền chi phối tại TRIBECO . Trong thực tế cũng có rất nhiều CTCP quyết định giá cổ phần thấp hơn giá thị trường sao cho có lợi cho những cổ đông lớn, đặc biệt là cho thành viên HĐQT, thành viên BGĐ công ty. Chẳng hạn như công ty CTCP vận tải xăng dầu (VIPCO) đã cho phép cổ đông lớn mua với giá 15.000 đồng/cổ phiếu, còn các cổ đông nhỏ lại phải mua với giá 40.000 đồng/cổ phiếu, cao gấp 2,67 lần so với cổ đông lớn . Việc phát hành này đã vi phạm khoản 5, Điều 78 LDN 2005 vì “mỗi cổ phần của cùng một loại đều tạo cho người sở hữu nó các quyền, nghĩa vụ và lợi ích ngang nhau”. Không dừng lại ở đó, các cổ đông lớn trong nhiều CTCP còn sử dụng “chiêu bài” phát hành cổ phiếu thưởng để chia cổ tức tính theo mệnh giá hoặc quyền ưu tiên mua cổ phần với giá ưu đãi chứ không phải theo giá của cổ phiếu trên thị trường khi cổ phiếu của công ty đang tăng lên. Phát hành cổ phiếu thưởng và ưu đãi quyền mua cổ phần có thời gian đã trở thành trào lưu của các CTCP tại Việt Nam và đến nay vẫn còn phổ biến, một số trường hợp phát hành cổ phiếu thưởng trong thời gian qua có thể kể đến như việc ĐHCĐ Công ty chứng khoán Thái Bình Dương (TTF) đã thông qua việc phát hành cổ phiếu thưởng cho cổ đông hiện hữu từ nguồn vốn thặng dư cổ phần với tỷ lệ 2:1 tương đương 50% số lượng cổ phiếu đang lưu hành. Hay HĐQT Tổng Công ty Phát triển đô thị Kinh Bắc (KBC) đã quyết định phát hành cổ phiếu thưởng cho cổ đông hiện hữu với tỷ lệ 10:3 từ nguồn thặng dư vốn thặng dư… . Tương tự như vậy, tại CTCP Dịch vụ Sài Gòn - Savico (SVC) cũng đã từng cho cán bộ lãnh đạo mua cổ phiếu ưu đãi với giá 30.000 đồng/cổ phiếu, trong khi đó giá thị trường là 118.000 đồng/cổ phiếu. Mặc dù các CĐTS của công ty đã phản đối, nhưng với ưu thế cổ đông nhà nước và cổ đông là nhân viên Savico chiếm đa số vốn điều lệ, nên việc bán cổ phiếu ưu đãi theo kiểu “gia đình trị” vẫn được “đa số” thông qua . Về bản chất, doanh nghiệp là của các cổ đông, vì vậy thực tế việc doanh nghiệp thực hiện thưởng cổ phiếu cho cổ đông chính là dùng tài sản của cổ đông thưởng cho chính các cổ đông đó. Nên nhìn từ góc độ cổ đông, thì đó là việc “tự thưởng” hay nói rõ hơn là bớt một phần tài sản của mình để thưởng lại cho chính mình . Bằng những cách thức nêu trên, các cổ đông lớn đã lấy đi một phần tài sản chung của tất cả cổ đông trong công ty và CĐTS là những người phải ghánh chịu sự thiệt thòi. Hay nói cách khác, những CĐTS bị mất quyền lợi của mình ngay chính tại công ty mà mình là chủ sở hữu. Bản chất của những hiện tượng này, hiểu cho đến cùng là sự vi phạm nguyên tắc đối xử bình đẳng giữa các cổ đông cùng loại, là hành vi tước đoạt một phần giá trị tài sản của các CĐTS và có thể hiểu “đó là một hình thức tham ô giá trị tài sản của công ty” Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Đình Cung, tlđd, tr. 318. . Theo Luật Chứng khoán của Australia, Uỷ ban Chứng khoán và đầu tư (ASIC) sẽ xem xét những trường hợp ưu ái cổ đông lớn. Nếu sự ưu ái đó bị những CĐTS phản đối, ASIC sẽ vào cuộc để đòi lại sự công bằng cho cổ đông. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này, ở Việt Nam chưa có vụ việc nào được đưa ra phân xử, tạo ra tiền lệ xấu cho các doanh nghiệp lợi dụng để trục lợi cho một nhóm cổ đông lớn . Chính vì vậy, để bảo vệ quyền lợi của CĐTS, pháp luật Việt Nam cần quy định chặt chẽ hơn nữa việc kiểm soát của UBCKNN đối với các hoạt động phát hành thêm cổ phiếu, phát hành cổ phiếu thưởng hoặc thực hiện chương trình ưu đãi cổ phần của các CTCP hiện nay. Theo đó, trước khi quyết định cho phép phát hành cổ phiếu riêng lẻ hay cổ phiếu thưởng, UBCKNN cần yêu cầu công ty thuyết trình về mục đích, tác động và kế hoạch của đợt phát hành. Đồng thời UBCKNN phải tăng cường việc thẩm tra, kiểm tra hồ sơ xin phép phát hành cổ phiếu của các công ty để cân nhắc số lượng cổ phiếu được phát hành trên cơ sở nhu cầu sử dụng vốn hay mục đích, kế hoạch và tính khả thi của đợt phát hành. Đặc biệt, UBCKNN cần xem xét, đánh giá thực trạng nguồn vốn để phát hành cổ phiếu, sao cho doanh nghiệp phải đảm bảo các nguồn quỹ duy trì cho hoạt động của công ty và vì quyền lợi của người lao động. Bên cạnh đó, CĐTS để bảo vệ quyền lợi của mình cũng cần thiết tìm cách liên kết lại với nhau để thể hiện ý kiến về việc phát hành thêm cổ phiếu hoặc chia cổ phiếu thưởng của công ty, nhằm hạn chế sự lạm quyền của cổ đông lớn trong việc định đoạt các vấn đề liên quan đến tài sản của công ty và quyền lợi của cổ đông. Bằng những cách thức này, UBCKNN cũng như bản thân các CĐTS sẽ góp phần bảo vệ quyền lợi của mình một cách tốt hơn trong khi các quy định liên quan đến việc phát hành cổ phiếu, đặc biệt là cổ phiếu thưởng đang được các nhà làm luật nghiên cứu và hoàn thiện. Cổ đông lớn “rút ruột” công ty bằng cách thức thành lập công ty con và thực hiện các dự án đầu tư Một trong những thủ đoạn xâm phạm quyền lợi mới của các cổ đông lớn hiện nay là sử dụng vốn của công ty để thành lập các công ty con hoặc thực hiện các dự án đầu tư để “rút ruột” công ty. Một công ty có thể thành lập một công ty con với tỷ lệ sở hữu chiếm 51%, còn lại 49% do các cổ đông lớn của công ty mẹ hoặc người nhà của những cổ đông lớn này bỏ vốn góp vào. Các cổ đông lớn trong công ty mẹ thường chiếm số đông trong HĐQT và BGĐ hoặc họ là người đại diện của công ty mẹ tại công ty con. Bằng cơ chế và cách thức này, cổ đông lớn đã không khó để chuyển lợi nhuận từ công ty mẹ sang công ty con như bán hàng hoá, sản phẩm, nguyên liệu với giá rẻ cho công ty con, cho công ty con vay tài sản…. Khi chuyển lợi nhuận từ công ty mẹ sang công ty con, những cổ đông lớn ở công ty mẹ có vốn góp ở công ty con sẽ được hưởng lợi nhuận nhiều hơn rất nhiều, trong khi những cổ đông mà đa phần là CĐTS trong công ty mẹ không có vốn góp tại công ty con sẽ chịu thiệt thòi vì bị giảm lợi nhuận từ công ty mẹ. Câu chuyện chuyển lợi nhuận không chỉ dừng lại dưới góc độ tài sản mà nghiêm trọng hơn khi công ty mẹ dưới sự chi phối của những cổ đông lớn, đã chuyển cho công ty con những mảng hoạt động kinh doanh tiềm năng, những dự án đầu tư hiệu quả; kể cả việc công ty mẹ bỏ tiền ra xây dựng thương hiệu và cho công ty con hưởng nhờ sự nổi tiếng của thương hiệu đó để dễ dàng tiêu thụ sản phẩm và thực hiện các hoạt động kinh doanh. Một trong những câu chuyện phổ biến thường thấy nữa là các công ty mẹ bỏ tiền ra thuê đội ngũ nhân sự có trình độ, kinh nghiệm và điều động sang làm việc bên công ty con, nhằm phát triển công ty con và mang lại lợi nhuận cho chính các cổ đông lớn. Bên cạnh thủ thuật thành lập các công ty con để “bòn rút” từ công ty mẹ, cổ đông lớn còn thông qua HĐQT thực hiện các dự án đầu tư nhằm “tham nhũng” tài sản của công ty. HĐQT thường trình lên ĐHĐCĐ các phương án đầu tư lớn và với số phiếu áp đảo của các cổ đông lớn trong HĐQT cũng như tại cuộc hợp ĐHĐCĐ, thông thường các phương án đầu tư này sẽ được ĐHĐCĐ dễ dàng thông qua. Khi này các cổ đông lớn lại tiếp tục chi phối ĐHĐCĐ để giao cho HĐQT và BGĐ trực tiếp triển khai việc mua đất, chọn đối tác, tìm kiếm nhà thầu thực hiện dự án. Không ít trường hợp số tiền thất thoát do tham nhũng trong các dự án đầu tư rất lớn và người hưởng lợi không ai khác là các cổ đông lớn mà đa phần là thành viên HĐQT công ty. Có những dự án đầu tư mà tiền mua đất có thể bị BGĐ công ty nâng khống lên gấp rưỡi, gấp đôi và tiền xây lắp thì được các nhà thầu chi 10-15% giá trị hợp đồng cho người đại diện công ty ký hợp đồng . Trong những trường hợp này, các CĐTS do không được tham gia vào quá trình quản lý công ty, nên chỉ còn biết trông chờ vào đạo đức và sự chính trực của các cổ đông lớn, HĐQT và BGĐ – một điều dường như không tưởng trong cơ chế thị trường ngày nay. Đó mới chỉ là một trong số các mánh khoé, thủ thuật tinh vi của các cổ đông lớn nhằm chiếm đoạt tài sản của công ty, tư lợi cho bản thân mà bỏ mặc hay chà đạp lên quyền lợi của CĐTS. Việc rút ruột công ty dưới những cách thức như nêu trên thực sự rất khó kiểm soát và đã gây ra biết bao thiệt hại cho các nhà đầu tư, đặc biệt là đối với các CĐTS. Tác giả cho rằng, để hạn chế tình trạng này, pháp luật cần phải xiết chặt những giao dịch giữa công ty mẹ với công ty con, đảm bảo cho các giao dịch được công khai hoá, giá trị các giao dịch phải đảm bao tính khách quan của thị trường. Thật khó để xoá bỏ được tình trạng này nhưng nếu cơ chế pháp lý về nghĩa vụ công bố thông tin của CTCP, của những cổ đông lớn và đặc biệt là cơ chế giám sát công ty của BKS có thể được thực hiện đến mức đáng tin cậy, thì những hoạt động mờ ám, thiếu minh bạch của những cổ đông lớn sẽ được hạn chế. Bên cạnh đó, pháp luật cần quy định trách nhiệm cụ thể của những người quản lý công ty, đặc biệt là người đại diện của công ty trong việc quyết định thực hiện các dự án đầu tư. Một số bật cập trong việc thực thi cơ chế thanh tra, giám sát, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp Việc bảo vệ CĐTS là hết sức quan trọng và nó phải được thực hiện thông qua các cơ chế pháp lý bởi chúng ta không thể nào trông chờ vào sự trung thực và mẫn cán từ những người quản lý công ty như nghĩa vụ họ phải thực hiện theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, để đảm bảo các công cụ pháp lý được vận hành một cách hiệu quả trong việc bảo vệ CĐTS thì cần thiết phải thực hiện có hiệu quả cơ chế kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp nhằm góp phần hạn chế sự chèn ép của cổ đông lớn đối với CĐTS và răn đe các hành vi vi phạm của cổ đông lớn đang diễn ra ngày càng phổ biến như hiện nay. Nhưng dường như trên thực tế việc bảo vệ CĐTS dưới góc độ này lại chưa phát huy được hiệu quả như mong đợi. Cơ chế thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán Để đảm bảo TTCK vận hành một cách hiệu quả và đảm bảo được quyền lợi cho các nhà đầu tư, pháp luật đã đặt ra nhiều cơ chế thanh tra, giám sát và các chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực này. Các quy định của pháp luật nhìn chung cũng đã được tôn trọng thực hiện. Tuy nhiên, xuất phát từ nhiều hạn chế của các quy định pháp lý, cũng như trách nhiệm và cơ chế phối hợp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà việc ngăn chặn các hành vi vi phạm của cổ đông lớn và đảm bảo sự minh bạch, công bằng cho các nhà đầu tư trên TTCK vẫn chưa đạt hiệu quả như mong đợi. Thực thi cơ chế thanh tra, giám sát của cơ quan nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán Tại phần này, tác giả không nhằm phân tích để chỉ rõ hệ thống cơ chế kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp mà chỉ nhằm đề cập tới một số bất cập trong việc thực thi cơ chế thanh tra, kiểm tra và giám sát của cơ quan nhà nước đối với CTCP và TTCK. Đồng thời qua đó, tác giả phân tích những điểm hạn chế của việc thực thi cơ chế này trong việc góp phần bảo vệ quyền lợi của CĐTS. Vấn đề kiểm tra, giám sát đối với tình hình cổ đông và các vấn đề liên quan đến quyền lợi của cổ đông cũng như đối với hoạt động của CTCP chủ yếu được thực hiện bởi các Sở Kế hoạch và Đầu tư, UBCKNN, thanh tra chứng khoán, TTLKCK và các SGDCK theo các quy định tại mục 1, Chương IX, LCK 2006, LDN 2005 và các văn bản hướng dẫn. Trong đó, vai trò quản lý và giám sát của UBCKNN và hoạt động thanh tra của thanh tra chứng khoán là quan trọng và nổi bật hơn cả. TTLKCK, chủ yếu thực hiện công tác giám sát hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán của các thành viên lưu ký; báo cáo những trường hợp vi phạm để UBCKNN xem xét, xử lý. Vai trò của UBCKNN trong việc kiểm tra, giám sát CTCP là hết sức quan trọng, đặc biệt là đối với công ty đại chúng và công ty niêm yết, vai trò này thể hiện hơn cả trong việc giám sát hoạt động của TTCK, đảm bảo sự vận hành hiệu quả của TTCK tuân theo các quy định của pháp luật là cách thức bảo vệ quyền lợi của CĐTS quan trọng nhất. Vai trò của UBCKNN chỉ thực sự phát huy hiệu quả nếu có sự phối hợp một cách trách nhiệm từ phía các SGDCK. Hiện nay, Việt Nam có hai SGDCK là SGDCK Thành phố Hồ Chí Minh (Hose) và SGDCK Hà Nội (HNX). Tại mỗi Sở giao dịch này đều có Phòng Giám sát Giao dịch, Phòng này sẽ thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát các hoạt động thông qua SGDCK. Đối với những vi phạm lớn vượt quá quyền hạn xử lý của Sở, các Sở giao dịch sẽ chuyển hồ sơ lên UBCKNN để tiếp tục xử lý. Nếu vụ việc có dấu hiệu tội phạm hình sự, UBCKNN sẽ phối hợp với cơ quan công an, Viện Kiểm sát và Toà án có thẩm quyền để xử lý. Bên cạnh đó, UBCKNN cũng có một Vụ trực thuộc là Vụ Thanh tra, chịu trách nhiệm thanh tra, kiểm tra, xử phạt vi phạm hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với những vụ việc ngoài phạm vi giải quyết của SGDCK. Để góp phần khắc phục những hạn chế như nêu trên, tác giả cho rằng cần rà soát lại các quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan chức năng thực thi cơ chế này. Theo đó, nên quy định theo hướng phân công cụ thể quyền hạn, trách nhiệm cho mỗi cơ quan thực thi việc kiểm tra, giám sát trong một lĩnh vực cụ thể phụ thuộc vào nội dung quản lý của cơ quan đó. Ở mỗi cơ quan này phải có bộ phận chuyên trách để thực thi nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể và được thống nhất quản lý, giám sát bởi UBCKNN. Các cơ quan được phân công nhiệm vụ quản lý cụ thể chịu trách nhiệm trực tiếp trước UBCKNN trong việc thực thi nhiệm vụ của mình. Đặc biệt trong đó, chúng ta cần phải phát huy hơn nữa vai trò giám sát của TTLKCK theo hướng tăng thêm thẩm quyền cho cơ quan này, bởi đây là cơ quan trực tiếp thực hiện việc đăng ký, lưu ký, làm thủ tục chuyển nhượng cổ phiếu cho cổ đông. Nếu thực hiện được những thay đổi như nêu trên, sẽ góp phần tạo ra một cơ chế thống nhất, các cơ quan được trao thẩm quyền và trách nhiệm cụ thể sẽ không thể ỷ lại cho nhau, không bị chồng chéo về mặt thẩm quyền. Điều này sẽ tăng cường tính hiệu quả trong cơ chế thanh tra, kiểm tra và giám sát hoạt động của các CTCP nói chung và của cổ đông lớn nói riêng; thông qua đó, quyền lợi của CĐTS sẽ thực sự được đảm bảo nhiều hơn, được bảo vệ hiệu quả hơn. Thực thi chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán Pháp luật công ty Việt Nam đã quy định rất nhiều chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán, nhưng hầu hết các chế tài đó đều mang tính nguyên tắc nền tảng được ghi nhận một cách chung chung. LCK 2006 và các văn bản hướng dẫn đã quy định rõ các hình thức xử phạt, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này. Theo đó, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này chủ yếu thuộc về Chánh Thanh tra chứng khoán và Chủ tịch UBCKNN. Các chế tài hành chính đối với hành vi vi phạm bao gồm phạt cảnh cáo, phạt tiền và các hình phạt bổ sung, như tịch thu toàn bộ các khoản thu có được từ việc thực hiện các hành vi vi phạm và số chứng khoán đã giao dịch vi phạm, buộc huỷ bỏ, cải chính những thông tin sai lệch, thông tin sai sự thật; buộc phải thu hồi số chứng khoán đã phát hành, hoàn trả tiền đặt cọc hoặc tiền mua chứng khoán cho nhà đầu tư Điều 119 và Điều 120 Luật Chứng khoán 2006 . Bên cạnh đó, Nghị định 36/2007/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK, và Thông tư 97/2007/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 08/08/2007 để thi hành Nghị định này cũng quy định cụ thể các chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm trong các hoạt động cụ thể, như trong hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán, đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán, niêm yết chứng khoán, giao dịch chứng khoán, hoạt động công bố thông tin… Mục 2 Xử lý vi phạm, Chương IX, Luật Chứng khoán 2006 và Nghị định 36/2007/NĐ-CP ngày 08/03/2007 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán. . Tuy nhiên, dường như những chế tài mà pháp luật hiện hành quy định vẫn chưa mang tính cụ thể cao và mức độ chế tài còn quá nhẹ, chưa tương xứng với tính chất và hậu quả của hành vi vi phạm. Mức phạt quy định tại Nghị định 36/2007/NĐ-CP tối đa chỉ là 70 triệu đồng là không đủ sức răn đe, phòng ngừa vi phạm. Ngay chính Chủ tịch UBCKNN cũng thừa nhận “mức phạt thấp, khung pháp lý chưa đầy đủ và nhất là việc xử lý giơ cao đánh khẽ của các cơ quan chức năng đã khiến những vụ thao túng, giao dịch nội gián vẫn có đất sống” . Mặt khác, có thể dễ dàng nhận thấy là theo dòng thời gian, các chế tài này đang dần thể hiện sự lạc hậu, không kịp thời điều chỉnh được những hành vi vi phạm ngày càng trở nên tinh vi với mức độ “xảo quyệt” cao hơn. Đó là chưa kể không ít các trường hợp những người có thẩm quyền cấu kết, dung túng cho cổ đông lớn thực hiện hành vi vi phạm để cùng nhau chuộc lợi. Chính vì vậy mà chế tài xử lý vi phạm đã có và các cơ quan nhà nước cũng đã thi hành trên thực tế nhưng các hành vi vi phạm không những không giảm mà còn có dấu hiệu ngày càng tăng lên với mức độ tinh vi hơn. Bản thân các cơ quan nhà nước cũng nhận thấy những yếu kém như đề cập ở trên, vì vậy Chính phủ đã giao cho UBCKNN chủ trị soạn thảo Nghị định thay thế cho Nghị định 36/2007/NĐ-CP và Thông tư hướng dẫn vào cuối năm 2010. Trước đó, năm 2009, khi sửa đổi Bộ luật Hình sự 1999, Quốc hội đã bổ sung ba tội phạm hình sự mới trong lĩnh vực chứng khoán, gồm các Điều 181a - “tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán”, Điều 181b - “tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán” và Điều 181c - “tội thao túng giá chứng khoán”. Đối với các tội phạm nêu trên, người phạm tội có thể bị phạt tù tới bảy năm và còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Rõ ràng những sự thay đổi nêu trên cho thấy pháp luật đang rất chú trọng đến công tác xây dựng và hoàn thiện các chế tài xử lý hành vi vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán để kịp thời đối phó và hạn chế các hành vi vi phạm ngày càng trở nên tinh vi và có mức độ nghiêm trọng hơn trong lĩnh vực này. Pháp luật Hình sự đã có một bước tiến quan trọng trong việc ghi nhận các chế tài xử lý nghiêm khắc trong lĩnh vực chứng khoán, nhưng kể từ khi các quy định này có hiệu lực thi hành (từ ngày 01/01/2010) chúng ta vẫn chưa được chứng kiến một trường hợp vi phạm nào bị xử lý hình sự. Liệu có phải những cổ đông lớn đã thực sự bị răn đe bởi những chế tài này, câu trả lời có lẽ là không vì hằng ngày vẫn có vô vàn những vi phạm trong lĩnh vực này diễn ra. Tác giả cho rằng việc quy định chế tài là một chuyện nhưng việc thực thi lại là một câu chuyện không kém phần phức tạp. Cơ quan công an, Viện Kiểm sát và Toà án sẽ không thể xử lý hình sự các trường hợp vi phạm nghiêm trọng trong lĩnh vực này nếu không có sự phối hợp từ các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán, mà đặc biệt là UBCKNN. Dó đó, cần thiết phải xây dựng được cơ chế phối hợp hành động giữa các cơ quan này và trách nhiệm, chế tài đối với việc thực thi nhiệm vụ ở mỗi cơ quan cũng như đối với những người có thẩm quyền, để cơ chế pháp lý về xử lý vi phạm trong hoạt động chứng khoán thực sự phát huy hiệu quả. Bên cạnh đó, cần thiết phải rà soát lại các quy định của pháp luật chứng khoán theo hướng điều chỉnh hoặc huỷ bỏ một số chế tài không khả thi, khó áp dụng trên thực tế. Đồng thời, việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung pháp luật trong lĩnh vực này cần phải dự liệu được sự xuất hiện của nhiều dạng vi phạm mới tinh vi hơn, phức tạp hơn và quy định các chế tài nghiêm khắc kèm theo cho những hành vi vi phạm mới đó. Một số bất cập của cơ chế giải quyết tranh chấp trong doanh nghiệp Giải quyết tranh chấp trong doanh nghiệp bằng con đường tài phán là một trong những chế định pháp lý quan trọng, góp phần bảo vệ quyền lợi của CĐTS, bởi bản thân CĐTS với khả năng và sức mạnh nhỏ bé của mình không thể tự bảo vệ được quyền lợi cho họ. Vì vậy, sử dụng quyền lực nhà nước thông qua con đường tài phán sẽ đảm bảo sự bình đẳng về quyền giữa các cổ đông, giải quyết được quyền lợi của cổ đông một cách công bằng và công khai. Tuy nhiên cho đến nay, cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các cổ đông trong CTCP vẫn còn nhiều hạn chế, bên cạnh những vướng mắc trong việc giải quyết tranh chấp của Toà án, thì phạm vi thẩm quyền khởi kiện của cổ đông theo quy định của pháp luật còn bị giới hạn nhiều so với thực trạng quyền lợi của họ bị xâm phạm. Phạm vi thẩm quyền khởi kiện của cổ đông thiểu số còn bị hạn chế Các quy định pháp luật hiện hành không cho phép cổ đông có quyền trực tiếp khởi kiện thành viên HĐQT hoặc yêu cầu Toà án xem xét miễn nhiệm thành viên HĐQT hoặc thành viên BKS trong trường hợp cần thiết. Pháp luật chỉ dành cho cổ đông phổ thông hai quyền tư pháp liên quan là: (1) có quyền yêu cầu toà án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty; và (2) quyền yêu cầu toà án hoặc trọng tài xem xét, huỷ bỏ quyết định của ĐHĐCĐ trong một số trường hợp (Điều 107 LDN 2005). Các quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự (BLTTDS) 2004 và LDN 2005 nhìn chung chưa mang tính cụ thể. Bên cạnh đó, pháp luật đã quy định cổ đông được quyền khởi kiện yêu cầu Toà án huỷ quyết định của ĐHĐCĐ nhưng lại không quy định quyền yêu cầu Toà án huỷ các quyết định, quy chế nội bộ của công ty. Điều này đã phát sinh không ít khó khăn cho cổ đông mà nhất là các CĐTS trong việc đấu tranh yêu cầu huỷ bỏ những quy chế nội bộ, quyết định của HĐQT bất lợi cho quyền lợi của cổ đông nói chung và CĐTS nói riêng. Trở lại việc giải quyết vụ tranh chấp giữa cổ đông CTCP Bicico và Chủ tịch HĐQT công ty này như tác giả đã đề cập tại phần 2.2.2.4, theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu thì yêu cầu Toà án huỷ các quy chế nội bộ, huỷ thông báo của công ty hay đối với các hành vi cản trở thành viên HĐQT thực hiện quyền giám sát, kiểm tra hoạt động của công ty là không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án do pháp luật không quy định Toà án có thẩm quyền này Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, số 118 ngày 06/05/2010. . Rõ ràng với các quy định về quyền khởi kiện của cổ đông như hiện tại, thì thật khó để đảm bảo cho quyền lợi của CĐTS được bảo vệ đến cùng. Để đảm bảo quyền lợi cho các cổ đông, nhất là CĐTS, tác giả cho rằng pháp luật cần mở rộng thẩm quyền khởi kiện cho cổ đông như pháp luật của một số nước trên thế giới. Chẳng hạn theo pháp luật ở nhiều bang của Mỹ, việc cổ đông khởi kiện ra Toà được chia thành hai loại lớn: (i) kiện trực tiếp nhân danh cá nhân hoặc nhóm cổ đông và (ii) kiện nhân danh công ty. Kiện trực tiếp để buộc thực hiện các yêu cầu xuất phát từ sở hữu cổ phần như quyền biểu quyết quyền xem sổ sách…, còn kiện nhân danh công ty khi vốn đầu tư của cổ đông bị mất mát do công ty bị thiệt hại bởi các nhân viên hay thành viên HĐQT vi phạm nghĩa vụ của mình Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Đình Cung, tlđd, tr. 378. . Hay chẳng hạn theo quy định của Luật Công ty Anh 1985, cổ đông có quyền nộp đơn khởi kiện đến Toà trong trường hợp có hành vi ngăn chặn CĐTS tham gia vào việc quản lý công ty; chiếm đoạt hoặc dịch chuyển tài sản của công ty; không cung cấp thông tin cho cổ đông; vi phạm việc tăng vốn điều lệ; trả thù lao quá mức cho Giám đốc; hay chi trả cổ tức không đầy đủ Nguyễn Hoàng Thuỳ Trang, tlđd, tr. 43. . Như vậy, ở Mỹ và Anh, thẩm quyền khởi kiện của cổ đông được quy định rất rõ ràng và cụ thể theo hướng mở rộng quyền khởi kiện trong nhiều trường hợp mà quyền lợi của CĐTS bị xâm phạm một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Đây thực sự là một cơ chế hợp lý trong việc bảo vệ quyền lợi của cổ đông, nhất là CĐTS mà các nhà lập pháp Việt Nam nên tham khảo để hoàn thiện thêm cơ chế này ở nước ta. Chẳng hạn như pháp luật Việt Nam cho phép nhóm cổ đông được quyền xem xét trích lục văn bản của công ty, nhưng thực tế các CĐTS không thể thực hiện được quyền này do sự ngăn cản của HĐQT. Nếu trong trường hợp này, pháp luật cho phép CĐTS được quyền khởi kiện như trong pháp luật Anh, thì quyền lợi của CĐTS đã được bảo vệ hơn bởi cơ quan tài phán. Việc mở rộng thẩm quyền của cổ đông nên chú trọng các quyền khởi kiện của cổ đông đối với những người quản lý công ty, đặc biệt là thành viên HĐQT và thành viên BGĐ khi những người này vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của người quản lý. Đặc biệt pháp luật Việt Nam nên ghi nhận cổ đông có quyền nhân danh công ty để khởi kiện người quản lý công ty và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Để thực hiện hiệu quả việc bảo vệ quyền lợi của CĐTS thì những giải pháp nêu trên cần được pháp luật hoá một cách cụ thể. Trong khi chờ đợi việc pháp luật hoá các giải pháp này, tác giả cho rằng pháp luật nên cho phép ghi nhận những quyền nêu trên vào Điều lệ của CTCP, bởi lẽ khoản 16, Điều 22 LDN 2005 quy định cổ đông được phép thực hiện các nội dung khác do thành viên, cổ đông thoả thuận nhưng không được trái với quy định của pháp luật trong Điều lệ công ty. Như thế nào là trái với quy định pháp luật trong trường hợp này thì hãy còn nhiều tranh cãi và giải pháp trong trường hợp này là cần có quan điểm từ cơ quan tư pháp, cụ thể là Toà án để đây trở thành một tiền lệ có lợi cho CĐTS trong việc bảo vệ quyền lợi của họ khi mà những quyền nêu trên chưa được pháp luật ghi nhận. Cơ chế xác định vụ việc tranh chấp để giải quyết còn nhiều bất cập Để đảm bảo việc bảo vệ quyền lợi của CĐTS bằng con đường tài phán, thì bên cạnh việc chú trọng xây dựng, mở rộng phạm vi thẩm quyền khởi kiện của cổ đông như nêu trên, chúng ta cũng cần hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp trong CTCP. Bởi vì, nếu xây dựng hoàn thiện các quy định về quyền khởi kiện của cổ đông mà cơ chế giải quyết vẫn còn nhiều bất cập như hiện nay, thì rõ ràng việc bảo vệ quyền lợi của CĐTS bằng con đường tài phán là không mang lại hiệu quả. Theo quy định tại khoản 3, Điều 29 BLTTDS 2004, thì tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sát nhập, hợp nhất, chia tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Điều 107 LDN 2005 cũng quy định các cổ đông của công ty có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án có thẩm quyền xem xét, giải quyết hủy bỏ quyết định của ĐHĐCĐ đã được thông qua nếu quyết định đó vi phạm trong một số trường hợp luật định. Tuy nhiên, pháp luật lại không quy định việc cổ đông yêu cầu Toà án huỷ quyết định của ĐHĐCĐ là vụ án hay chỉ là việc dân sự. Điều này đã dẫn đến thực tế xét xử phát sinh nhiều cách hiểu khác nhau về yêu cầu nói trên của cổ đông tùy theo quan điểm của mỗi thẩm phán. Theo cách hiểu thứ nhất thì đây là vụ án kinh doanh thương mại theo khoản 3 Điều 29 BLTTDS 2004, còn theo cách hiểu thứ hai thì đây là yêu cầu về kinh doanh thương mại theo khoản 4 Điều 30 BLTTDS 2004 . Việc xác định yêu cầu hủy bỏ quyết định của ĐHĐCĐ như nêu trên có ý nghĩa rất quan trọng trong việc Toà án giải quyết vụ việc. Vì nếu theo quan điểm thứ nhất, Hội đồng xét xử có thể là hội đồng ba người hoặc hội đồng năm người, còn hiểu theo cách thứ hai thì Hội đồng xét xử chỉ có một thẩm phán giải quyết vụ việc. Tác giả cho rằng tòa án phải hiểu theo quan điểm thứ hai mới chính xác vì đây là yêu cầu đơn phương của cổ đông, không phát sinh yếu tố tranh chấp. Hơn nữa, đối tượng bị yêu cầu tuyên huỷ trong trường hợp này là quyết định của ĐHĐCĐ và quyết định của ĐHĐCĐ thì không thể xem là bị đơn theo quy định của pháp luật Theo quy định tại khoản 3, Điều 56 BLTTDS 2004, bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm. , do đó đây chỉ có thể là việc dân sự chứ không thể là vụ án dân sự. Bên cạnh đó, việc xác định tư cách tham gia tố tụng của các bên đương sự cũng chưa được luật quy định cụ thể nên khó có thể xem đây là một vụ án dân sự (kinh doanh thương mại). Theo khoản 1 Điều 56 BLTTDS, đương sự trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức, bao gồm nguyên đơn, bị đơn và người liên quan. Vậy nếu xác định yêu cầu trên là vụ án dân sự thì khi cổ đông khởi kiện là nguyên đơn, còn tư cách tố tụng của quyết định ĐHĐCĐ là gì? Như đã trình bày ở trên, trong trường hợp này, quyết định của ĐHĐCĐ không thể được xem là bị đơn. Theo các thẩm phán Quảng Đức Tuyên và Võ Văn Cường (Thẩm phán Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh) nên gọi nhóm cổ đông là bên yêu cầu và quyết định của ĐHĐCĐ là bên liên quan. Hai thẩm phán này cho rằng luật hiện nay chưa quy định cách gọi này. Đây chỉ là những thuật ngữ mới do các thẩm phán sử dụng trong quá trình giải quyết vụ việc, nhưng thuật ngữ này là khá phù hợp với thực tiễn. Trong vụ tranh chấp tại CTCP Bông Bạch Tuyết vừa qua, các cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã sử dụng các thuật ngữ này và hầu hết đều thấy phù hợp Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, số 165 ngày 22/06/2010. . Nguyên nhân cơ bản gây ra những vướng mắc nói trên là do cơ sở lý luận quy định không chặt chẽ, còn thiếu sót, trong khi hệ thống pháp luật doanh nghiệp chưa hoàn thiện. Còn rất nhiều vấn đề về quan niệm, khái niệm hình thức loại tranh chấp mới này chưa được các thẩm phán hiểu thống nhất để áp dụng. Nhằm khắc phục những vướng mắc này, các nhà làm luật, cụ thể là Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao cần có văn bản quy định cụ thể việc cổ đông yêu cầu Toà án huỷ quyết định của ĐHĐCĐ sẽ được tiến hành theo thủ tục giải quyết việc dân sự cho đúng với bản chất về địa vị pháp lý và tư cách tham gia tố tụng để các Toà án và thẩm phán áp dụng một cách thống nhất. Bên cạnh đó, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp của Toà án, các nhà lập pháp nên bổ sung thuật ngữ “bên yêu cầu” và “bên liên quan” vào quy định đương sự trong BLTTDS 2004. Những cơ chế này sẽ đảm bảo cho việc Toà án nhanh chóng và thống nhất giải quyết các yêu cầu của cổ đông, đặc biệt là CĐTS. Kết luận Chương II Các quyền của cổ đông theo quy định của pháp luật nhìn chung ở mức độ khác nhau đã được thực hiện trên thực tế. Tuy nhiên, hiệu lực của việc thực hiện các quyền cổ đông của CĐTS là khá hạn chế. Hiện tượng vi phạm quyền của cổ đông đang trở nên phổ biến với nhiều hình thức đa dạng và khó nhận biết một cách trực tiếp. Các bất cập trong việc bảo vệ CĐTS hiện nay chủ yếu phát sinh từ các quy định pháp lý không rõ ràng hoặc thiếu tính cụ thể, dẫn đến thực trạng CĐTS gặp rất nhiều khó khăn khi thực thi quyền cổ đông của mình. Bên cạnh đó, các hành vi vi phạm của cổ đông lớn đang ngày càng trở nên tinh vi, với nhiều thủ đoạn “xảo quyệt”, gây ra không ít các thiệt hại cho các nhà đầu tư nói chung và CĐTS nói riêng. Các cổ đông lớn thường sử dụng quyền lực chi phối trong công ty, thông qua HĐQT để thực hiện các hành vi hạn chế hoặc loại bỏ quyền cổ đông của CĐTS, chi phối tới ĐHĐCĐ và vô hiệu hoá vai trò của BKS. Không những thế, cổ đông lớn thường xuyên lạm dụng quyền lực để thực hiện những hành vi vi phạm như sử dụng các thông tin nội bộ trong giao dịch chứng khoán, giao dịch tư lợi, phát hành thêm cổ phiếu, thưởng cổ phiếu hay thực hiện các dự án đầu tư… nhằm mục đích thâu tóm và chiếm đoạt tài sản của công ty. Trong khi đó, việc thực thi cơ chế thanh tra, giám sát, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp của các cơ quan chức năng vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Các chế tài mà pháp luật quy định vẫn còn chung chung với mức độ quá nhẹ, chưa tương xứng với tính chất và hệ quả của hành vi vi phạm. Các cơ quan chức năng có thẩm quyền cũng chưa xây dựng được một cơ chế phối hợp chặt chẽ trong việc kiểm tra, giám sát trên TTCK để kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm. Để khắc phục được những hạn chế nêu trên, nhằm bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, các nhà làm luật cần thiết phải hoàn thiện hơn nữa cơ chế pháp lý hiện hành theo hướng tăng cường giám sát hoạt động công bố thông tin và các giao dịch của CTCP và trên TTCK, bổ sung các chế tài xử lý vi phạm cần thiết. Đẩy nhanh việc hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp và cơ chế phối hợp hành động giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đặc biệt là chú trọng phát huy hơn nữa vai trò quản lý trung tâm của UBCKNN trong việc quản lý TTCK và phối hợp với các cơ quan công an, Viện Kiểm sát, Toà án để kịp thời phát hiện, giải quyết các hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm hình sự, nhằm xử lý nghiêm khắc, triệt để các hành vi vi phạm của cổ đông lớn. Để đạt được mục đích bảo vệ quyền lợi của CĐTS một cách hiệu quả nhất, thì bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp lý hiện hành, các nhà làm luật cần bổ sung thêm nhiều quy định mới vào pháp luật công ty Việt Nam. Đặc biệt là việc (i) xây dựng được cơ chế thành viên HĐQT và thành viên BKS độc lập; (ii) mở rộng cách thức tiến hành họp ĐHĐCĐ; (iii) giảm tỷ lệ vốn cổ phần chi phối của cổ đông nhà nước; (iv) bổ sung cho riêng các CĐTS quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần trong trường hợp số lượng CĐTS trong CTCP chiếm một tỷ lệ quá thấp, dẫn đến tỷ lệ sở hữu cổ phần do họ nắm giữ không đạt đủ điều kiện để lập nhóm cổ đông theo quy định của pháp luật hoặc Điều lệ công ty, hoặc trong trường hợp những người có thẩm quyền triệu tập ĐHĐCĐ cố tình vi phạm khi CĐTS đã thực hiện yêu cầu triệu tập ĐHĐCĐ một cách hợp lệ; và (v) mở rộng thẩm quyền khởi kiện của cổ đông.. KẾT LUẬN CHUNG Về mặt pháp luật thực định, chúng ta chưa có một định nghĩa về CĐTS. Nhưng cả dưới góc độ pháp lý và thực tiễn đều có thể hiểu CĐTS là cổ đông sở hữu một tỷ lệ cổ phần nhỏ trong CTCP và không có khả năng chi phối, kiểm soát hoạt động của công ty một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Trong Khoá luận này, tác giả đã làm rõ các vấn đề lý luận về bảo vệ CĐTS, phân tích các quy định của pháp luật về bảo vệ CĐTS và liên hệ với thực tiễn để thấy rõ các bất cập về vấn đề này. Các cổ đông sở hữu số vốn góp lớn luôn có khả năng chi phối mạnh mẽ đến các hoạt động của công ty, còn CĐTS do sự yếu thế hơn về tỷ lệ sở hữu cổ phần nên khả năng tham gia quản lý, điều hành và giám sát hoạt động của công ty luôn bị hạn chế và kéo theo đó là quyền lợi của họ không được đảm bảo, thậm chí là luôn bị các cổ đông lớn chèn ép, xâm phạm quyền lợi. Khoảng cách giữa các cổ đông trong CTCP càng lớn thì nguy cơ vi phạm quyền của cổ đông càng cao. Do đó, pháp luật cần phải có cơ chế bảo vệ quyền lợi của CĐTS khỏi sự lạm dụng quyền lực và chi phối của các cổ đông lớn. Dưới góc độ kinh tế, bảo vệ quyền lợi của CĐTS mang lại nhiều ý nghĩa quan trọng như bảo vệ được lợi ích, tài sản cho nhà đầu tư, khuyến khích nhà đầu tư bỏ tiền ra kinh doanh để huy động nguồn vốn phục vụ cho sự phát triển của nền kinh tế, đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển của loại hình doanh nghiệp CTCP và TTCK. Bên cạnh đó, bảo vệ được quyền lợi của CĐTS còn là một trong những yếu tố quan trọng góp phần làm lành mạnh hoá môi trường kinh doanh để thu hút đầu tư. Mặc dù pháp luật Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc bảo vệ quyền lợi cho CĐTS, nhưng với những hạn chế từ các quy định pháp lý hiện hành, trong đó phải kể đến cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đặc biệt là vai trò quản lý trung tâm của UBCKNN để thực thi công tác kiểm tra, giám sát và xử lý các hành vi vi phạm của cổ đông lớn một khách thực sự khách quan và hiệu quả là chưa đạt được. Những yếu kém và hạn chế đó đã chưa mang đến hiệu quả trong việc bảo vệ CĐTS như ý đồ của nhà làm luật và mong muốn của các nhà đầu tư. Các hành vi vi phạm của cổ đông lớn, đặc biệt là của cổ đông nhà nước là khá đa dạng và phức tạp với tính chất, mức độ tinh vi ngày càng cao. Đó có thể là những thủ đoạn nhằm ngăn cản CĐTS thực hiện được quyền cổ đông. Hoặc sử dụng quyền lực của mình để chi phối ĐHĐCĐ, làm vô hiệu hoá chức năng của BKS và thông qua HĐQT thực hiện các giao dịch tư lợi, sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán, phát hành thêm cổ phiếu hay tự ý quyết định thực hiện các dự án đầu tư để thu lợi bất chính và thâu tóm công ty. Đó chỉ là những hành vi vi phạm điển hình và phổ biến của các cổ đông lớn, trên thực tế các cổ đông lớn bằng nhiều thủ đoạn và cách thức khác nhau, còn thực hiện nhiều hơn nữa các hành vi vi phạm một cách rất tinh vi và xảo quyệt. Tất cả những điều này đã gây ra thiệt hại rất lớn cho CĐTS cả về quyền cổ đông lẫn tài sản. Nhằm bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, pháp luật cần thiết phải hoàn thiện hơn nữa cơ chế pháp lý đã có, cùng với việc xây dựng các giải pháp mới nhằm xử lý triệt để các hành vi vi phạm của cổ đông lớn, nhằm bảo vệ có hiệu quả quyền lợi của CĐTS ngay cả trên lý luận lẫn thực thi trong thực tiễn. Trong đó, cần thiết phải chú trọng xây dựng cơ chế về kiểm soát thông tin của cổ đông lớn trên TTCK, cơ chế thực thi các quy định xử lý vi phạm lý vi phạm và giải quyết tranh chấp các vấn đề liên quan đến quyền lợi của cổ đông. Đặc biệt chúng ta cần quan tâm nghiên cứu xây dựng các cơ chế về thành viên HĐQT và BKS độc lập để tăng cao hiệu quả trong việc quản trị doanh nghiệp và mở rộng thẩm quyền khởi kiện của CĐTS trong những trường hợp quyền lợi của công ty và của cổ đông bị xâm hại bởi cổ đông lớn hoặc cơ quan quản lý, điều hành công ty. Bên cạnh đó, các CĐTS không nên trông chờ một cách thụ động vào sự bảo vệ từ các cơ quan chức năng có thẩm quyền, mà họ phải ý thức được sự cần thiết của việc họ phải bảo vệ quyền lợi của mình, để có thể chủ động bảo vệ quyền lợi của mình một cách tốt nhất. Để thực hiện được điều này, cần phải có sự nỗ lực và chủ động từ chính bản thân cổ đông trong việc tìm hiểu, trau dồi các quy định pháp luật. Đồng thời, thúc đẩy sự hình thành và phát huy hơn nữa vai trò của các câu lạc bộ nhà đầu tư, để các thành viên có thể trao đổi, học hỏi kinh nghiệm, cùng nhau góp tiếng nói chung, nâng cao sức mạnh của mình. Tiếng nói của CĐTS vốn nhỏ bé nhưng rõ ràng tập thể của những CĐTS thì không hề nhỏ bé, họ không chỉ lên tiếng để bảo vệ được mình mà thông qua tiếng nói của tập thể còn có thể đưa những vấn đề vướng mắc của công ty ra trước công luận để “mổ xẻ”, gây sức ép đối với các cổ đông lớn, qua đó góp phần hạn chế được các hành vi vi phạm của cổ đông lớn và bảo vệ được quyền lợi của CĐTS tốt hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6. Nội dung Khoá luận Bao ve co dong thieu so - Final.doc
  • doc~$ Mục lục.doc
  • doc~$epair Nội dung khoá luận Draft 1st.doc
  • tmp~WRL0445.tmp
  • tmp~WRL2505.tmp
  • doc1. Trang bìa cứng in nhũ da.doc
  • doc2. Trang phụ bìa khoá luận.doc
  • doc3. Lời cam đoan.doc
  • doc4. Danh mục những từ viết tắt.doc
  • doc5. Mục lục.doc
  • doc7. Danh mục tài liệu tham khảo.doc
  • docThuyết minh Khoá luận tốt nghiệp.doc