1. Phạm nhân là con người được sinh ra trong những điều kiện tự nhiên và xã
hội nhất định. Với tư cách là thực thể sinh học - xã hội, được hoạt động và phát
triển, hình thành nhân cách (tích cực, tiêu cực) trong môi trường xã
hội và chịu sự tác động mạnh mẽ của môi trường xã hội. Đồng thời phạm nhân là
sản phẩm của Nhà nước và chế độ xã hội, là tổng thể các yếu tố do Nhà nước và xã
hội tạo nên trong đó yếu tố pháp luật là quan trọng tạo nên vị trí của người thi hành
án phạt tù.
2. Chế độ XHCN của ta không thể coi người thi hành án phạt tù là loại bỏ đi,
là cặn bã xã hội và phải khẳng định rằng họ vốn là công dân của một Nhà nước, của
một chế độ và rằng Nhà nước Việt Nam coi con người là vốn quý của xã hội, tôn
trọng và bảo đảm quyền tự do, bất khả xâm phạm về thân thể của công dân và các
quyền liên quan đến họ và các quyền, nghĩa vụ đó đã trở thành nguyên tắc nhất
quán trong chính sách pháp luật và thực tiễn. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam,
Bộ luật Hình sự, Bộ luật Thi hành án hình sự của Nhà nước CHXHCN Việt Nam và
các văn bản pháp luật khác đã tập trung hoàn thiện và thể chế hoá các quy định liên
quan đến quyền bất khả xâm phạm thân thể là quyền được sống của mỗi người
trong đó có con người phạm nhân. Đối với vấn đề quản lý và giáo dục phạm nhân
cũng như thực hiện các chế độ, chính sách bảo đảm những quyền người thi hành án
phạt tù cần phải được các thủ trưởng đơn vị trại giam quán triệt và xử lý nghiêm
minh đối với những CBCS có những hành vi đánh đập, xâm hại tới tính mạng, sức
khoẻ, danh dự và nhân phẩm và các quyền lợi khác của họ. Điều này chẳng những
phù hợp với luật pháp hình sự Việt Nam, luật về nhân quyền của Việt Nam mà còn
phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế về quyền con người.
3. Các nhóm quyền về kinh tế, chính trị, dân sự, văn hóa, xã hội, cũng như
các quyền về tự do cá nhân của công dân, đã được pháp luật Việt Nam cụ thể hoá,
quy định rất rõ ràng. Đối với phạm nhân, ngoài những quyền mà pháp luật không
tước bỏ hoặc bị hạn chế, pháp luật Việt Nam cũng cần phải cụ thể hoá, quy định rõ105
ràng để người tù có cơ hội được hưởng theo các nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc
pháp chế XHCN mà pháp luật đã quy định.
4. Từ những kết quả nghiên cứu, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt
cũng như lâu dài, tác giả xin đề xuất: Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho
chỉnh sửa, bổ sung một số văn bản quy phạm pháp luật (Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố
tụng hình sự cũng như các văn bản hướng dẫn khác) phải quán triệt quan điểm trừng
trị và giáo dục hài hoà, đảm bảo không giảm tính nghiêm minh của pháp luật,
nhưng cũng thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng, Nhà nước ta đối với người thi
hành án phạt tù.
5. Để đảo bảo quyền và nghĩa vụ của người thi hành hình phạt tù cần đẩy
mạnh hơn nữa công tác đào tạo các bộ, nâng cao kiến thức sư phạm, tâm lý cho cán
bộ giáo dục, quản giáo, những cán bộ quản lý trực tiếp quản lý phạm nhân. Chú
trọng rèn luyện kỹ năng ứng xử trong CBCS. Quan tâm hơn nữa cơ sở vật chất, đổi
mới trang thiết bị nhằm góp phần nâng cao đời sống vật chất, đời sống tinh thần cho
phạm nhân cũng như cán bộ làm công tác trại giam. Thực hiện chế độ chính sách
đối với phạm nhân như giảm thời hạn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, khen
thưởng kỷ luật, các chế độ ăn, mặc, ở, phòng chữa bệnh, lao động, bảo hiểm để
bảo đảm quyền lợi cho phạm nhân. Đồng thời tăng cường duy trì trật tự kỷ luật để
buộc phạm nhân phải thực hiện nghĩa vụ của bản thân đối với Nhà nước.
6. Đề nghị các Bộ, ban, ngành chức năng, tổ chức xã hội, chính quyền các
cấp quan tâm, phối hợp cùng Tổng cục VIII - Bộ Công an thực hiện tốt nhiệm vụ
giáo dục cải tạo phạm nhân, trong đó các nhiệm vụ quan trọng, cấp bách là: bảo vệ
chăm sóc sức khoẻ phòng chống HIV/AIDS cho CBCS và phạm nhân thuộc chức
năng và nhiệm vụ của Bộ Y tế, dạy văn hoá, giáo dục công dân thuộc Bộ Giáo dục
và đào tạo; hướng nghiệp, dạy nghề, cai nghiện ma tuý thuộc Bộ Lao động thương
binh và xã hội, có cơ chế tìm kiếm việc làm ổn định cuộc sống cho phạm nhân khi
mãn hạn tù. Những vấn đề trên nếu được quan tâm thích đáng thì chắc chắn nghĩa
vụ và quyền của người chấp hành hình phạt tù sẽ được bảo đảm hơn. Điều đó cũng
thể hiện đúng mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 116 trang
116 trang | 
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 732 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân - Từ thực tiễn các trại giam khu vực miền Trung, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cấp. 
87 
người, quyền công dân trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Việc xây dựng các đạo 
luật theo nguyên tắc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn 
bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật; được tiếnh hành công khai, minh 
bạch với sự tham gia đóng góp ý kiến rộng rãi của các nhóm đối tượng chịu sự điều 
chỉnh của văn bản và trong nhiều trường hợp được công bố rộng rãi trên các phương 
tiện thông tin đại chúng để người dân tham gia đóng góp ý kiến. 
Đồng thời, các đạo luật được ban hành đã cố gắng đến mức tối đa nội luật hóa 
các cam kết của Việt Nam trong các điều ước quốc tế, theo quy định của Luật ban hành 
văn bản quy phạm pháp luật (Luật BHVBQPPL) là “không làm cản trở việc thực hiện 
điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”. 
Kết quả nghiên cứu, rà soát và phân tích so sánh giữa các quy định của pháp 
luật hiện hành với Hiến pháp năm 2013 và các Công ước quốc tế về quyền con 
người mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập cho thấy, vẫn còn nhiều quy định trong các 
đạo luật hiện hành chưa tương thích với các quy định của Hiến pháp năm 2013 và 
các Công ước nêu trên. Ví dụ, trong lĩnh vực tư pháp, còn nhiều khe hở để bảo vệ 
quyền thân thể của con người, công dân nói chung, của phạm nhân nói riêng. Hiện 
tại, Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã có các 
quy định liên quan đến hành vi tra tấn cả về thể chất và tinh thần tại nhiều điều 
khoản như quy định về tội bức cung; tội dùng nhục hình; tội gây thương tích hoặc 
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ, tội hành hạ 
người khác; tội làm nhục người khác; tội làm nhục, hành hung người chỉ huy hoặc 
cấp trên; tội làm nhục, hành hung đồng đội; tội ngược đãi tù binh, hàng 
binh...nhưng chưa quy định "tra tấn" thành một tội danh riêng. Do vậy, cần sửa 
đổi, bổ sung Bộ luật hình sự, theo đó, cần quy định rõ khái niệm tra tấn, bao gồm cả 
tra tấn về thể xác lẫn tinh thần và tra tấn thành một tội danh trong Bộ luật hình sự 
phù hợp với định nghĩa tra tấn quy định tại Công ước và các quy định trong tố tụng 
hình sự về bồi thường những tổn thất về tinh thần của nạn nhân bị tra tấn, đối xử tàn 
bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người. 
Hoàn thiện hệ thống cơ chế xoay quanh đảm bảo quyền công dân của phạm 
nhân tại các trại giam cần lấy pháp luật thi hành án hình sự làm trọng tâm (nòng cốt 
88 
là Luật Thi hành án hình sự năm 2010), bên cạnh có, cần hoàn thiện hệ thống pháp 
luật về lao động, việc làm, chăm sóc y tế đối với phạm nhân, chính sách, pháp luật 
riêng đối với phạm nhân đặc thù là nữ, là người chưa thành niên. Cùng với đó là 
kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về thi hành 
án hình sự, hệ thống trại giam, cũng như cơ chế kiểm soát khác của nhà nước, xã 
hội đối với công tác bảo đảm quyền công dân trong các trại giam. 
3.1.2. Tăng cường cơ chế kiểm soát mang tính tư pháp đối với thi hành án hình 
sự để bảo vệ quyền công dân của phạm nhân trong các trại giam 
Hoạt động thi hành án hình sự được thực hiện trên cơ sở quy phạm pháp luật 
về thi hành án hình sự. Theo quy định hiện hành, hoạt động thi hành án hình sự chịu 
sự kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát và tòa án. Đây là hai cơ quan có chức năng 
tư pháp, có thể sử dụng quyền lực nhà nước để trực tiếp can thiệp vào quá trình thi 
hành án hình sự khi thấy có vấn đề, hay vi phạm pháp luật, theo đó, những vi phạm 
pháp luật của chủ thể trại giam đối với quyền công dân của phạm nhân có thể bị 
truy tố, hoặc những vấn đề, bất cập khác trong thi hành án được phát hiện và đề 
xuất biện pháp giải quyết. 
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện 
nay, cần thiết phải hoàn thiện hai cơ chế kiểm soát mang tính quyền lực tư pháp này 
để bảo đảm quyền của phạm nhân trong các trại giam. 
3.1.3. Thay đổi và nâng cao nhận thức về hoạt động chấp hành hình phạt tù đối 
với phạm nhân gắn với huy động sự tham gia của xã hội vào tăng cường các điều 
kiện cho bảo vệ, bảo đảm quyền công dân của phạm nhân trong các trại giam 
Công tác thi hành án, bảo đảm quyền con người đối với phạm nhân nằm 
trong tổng thể các điều kiện bảo đảm từ pháp lý, chính trị, kinh tế, xã hội đến tư 
tưởng. Để tăng cường bảo đảm quyền con người, quyền công dân của phạm nhân 
chấp hành hình phạt tù tại các trại giam, cần thay đổi nhận thức của nhiều nhóm 
người trong xã hội về hoạt động chấp hành hình phạt tù theo hướng tạo nên một môi 
trường thi hành án an toàn, trật tự, nhân đạo để cải biến nhận thức của những con 
người đã từng có hành vi phạm tội sớm trở thành người bình thường, hoạt động theo 
các quy chuẩn pháp luật, đạo đức. Đây cũng là lý do mà ở nhiều nước trên thế giới, 
89 
họ có điều kiện để tạo một môi trường nhà tù có những điều kiện tối thiểu cơ bản 
đối với con người để họ cải tạo, điều duy nhất khác với bên ngoài là họ bị tách khỏi 
các điều kiện môi trường của hành vi phạm tội. 
Cùng với thay đổi nhận thức về hoạt động chấp hành hình phạt tù của cả chủ 
thể là cơ quan nhà nước và xã hội, Nhà nước cần có chính sách huy động rộng rãi 
nguồn lực của xã hội vào công tác thi hành án hình sự, để vừa giảm gánh nặng chi 
phí cho Nhà nước, vừa tạo môi trường mang nhiều hơn tính xã hội cho việc cải tạo 
phạm nhân. Điều này có thể đem lại nhiều khả năng tốt cho việc bảo đảm quyền 
công dân của phạm nhân. 
Những quan điểm trên thể hiện nhận thức mang tính hệ thống về tiếp cận các 
giải pháp nhằm tăng cường bảo đảm quyền công dân của phạm nhân trong các trại 
giam ở nước ta hiện nay. 
3.2. Nhóm giải pháp chung nhằm tăng cƣờng bảo vệ quyền công dân của phạm 
nhân tại các trại giam ở nƣớc ta hiện nay 
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ, bảo đảm quyền công dân nói chung, 
quyền công dân của phạm nhân nói riêng, gắn với các bảo vệ, bảo đảm quyền 
con người 
3.2.1.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thi hành án hình sự 
 Thứ nhất, cần bổ sung trong Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định 
về thế nào là hành vi tra tấn và quy định nghiêm cấm hành vi tra tấn. Mặc dù Bộ 
luật hình sự năm 1999 đã có quy định cấu thành tội phạm đối với hành vi dùng 
nhục hình, cố ý gây thương tích hay hành hạ người khác; mặc dù Luật Thi hành 
án hình sự có quy định nguyên tắc tôn trọng nhân phẩm, quyền, lợi ích hợp pháp 
của người chấp hành án, và nghiêm cấm xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của 
người chấp hành án, nhưng – với tư cách là đạo luật trực tiếp quy định về nguyên 
tắc, trình tự, thủ tục, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan có thẩm quyền 
trong thi hành án hình sự, quy định về quyền, nghĩa vụ của người chấp hành án 
hình sự, cũng như về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong 
thi hành án hình sự – Luật này cần quy định việc tôn trọng sức khỏe của người 
chấp hành án thành một nguyên tắc thi hành án hình sự, và cần quy định rõ thế nào 
90 
là hành vi tra tấn, đồng thời cần quy định nghiêm cấm hành vi tra tấn trong khi thi 
hành án hình sự. Cụ thể là: 1) Bổ sung khoản 19 trong Điều 3 như sau: “19. Tra tấn 
trong thi hành án hình sự là hành vi của cán bộ thi hành án tự mình hoặc xúi giục, 
ưng thuận để người khác gây đau đớn nghiêm trọng về thể xác hay tinh thần cho 
người chấp hành án, vì mục đích trừng phạt, đe dọa, ép buộc hoặc vì bất kỳ một lý 
do nào khác dựa trên sự phân biệt đối xử”; 2) Bổ sung tại khoản 3 Điều 4 từ “sức 
khỏe” ngay trước từ “nhân phẩm” và ngăn cách với từ đó bằng dấu phảy như sau: 
“3. Bảo đảm nhân đạo xã hội chủ nghĩa; tôn trọng sức khỏe, nhân phẩm, quyền, lợi 
ích hợp pháp của người chấp hành án; 3) Bổ sung khoản 11 trong Điều 9 như sau: 
“11. Tra tấn trong thi hành án hình sự”. 
 Thứ hai, Nhà nước cần ban hành văn bản quy định cụ thể về việc sử dụng 
dụng cụ giam giữ trong thi hành án hình sự để tránh sự tùy tiện trong việc sử dụng 
những dụng cụ này và tránh xâm hại tới quyền của người chấp hành án. Đây là 
việc làm hết sức cần thiết, một mặt vừa bảo đảm về căn cứ pháp lý cho cán bộ thi 
hành án hình sự trong việc sử dụng dụng cụ giam giữ, mặt khác vừa bảo vệ được 
quyền của người chấp hành án. 
 Thứ ba, pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam cũng nên bổ sung những 
quy định nhằm bảo vệ tốt hơn nữa quyền của những người chấp hành án phạt tù là 
nữ giới dựa trên tinh thần của Các quy tắc Bangkok, trong đó cần đặc biệt chú 
trọng đây là đối tượng cần được bảo vệ do họ rất dễ bị xâm hại tình dục, nhất là tại 
môi trường trại giam. Mặc dù là phạm nhân, nhưng là nữ giới, họ rất cần được tư 
vấn và chăm sóc sức khỏe sinh sản và giới tính. Ngoài ra, Việt Nam cũng cần bổ 
sung quy định về việc phân loại phạm nhân để giam giữ riêng đối với những người 
chuyển giới. Mặc dù số lượng phạm nhân chuyển giới chưa nhiều nhưng không có 
nghĩa là không có. Hơn nữa, trường hợp phạm nhân chuyển giới có hình dạng bên 
ngoài trái ngược với đặc điểm giới tính ghi trong căn cước mà vẫn giam chung với 
những người có cùng giới tính ghi trong căn cước thì thật không nên vì phạm nhân 
sẽ phải đứng trước nguy cơ bị dè bỉu, bị kỳ thị và bị xâm hại. 
 Thứ tư,pháp luật thi hành án hình sự cũng nên có quy định về việc cho phép 
thực hiện nghi lễ tôn giáo vào thời gian nhất định trong tuần hoặc trong tháng nếu 
91 
số phạm nhân theo tôn giáo ấy tại nơi giam giữ đạt đến một số lượng nào đó. Đối 
với mỗi cá nhân, có lẽ không tòa án nào nghiêm khắc bằng Tòa án lương tâm, việc 
đánh thức lương tâm của người từng phạm tội bằng các điều răn dạy của tôn giáo 
rất có ý nghĩa và có lẽ cũng đạt hiệu quả nhất định trong việc giáo dục và uốn nắn 
các phạm nhân. Tôn giáo nào cũng hướng tới một mục đích tác động nhằm hướng 
thiện con người. Sự rao giảng ân cần của những người truyền giáo rất có thể chạm 
đến lòng trắc ẩn của mỗi phạm nhân, giúp họ nhận ra sai lầm và quyết tâm hướng 
thiện. Thiết nghĩ, kết hợp đa dạng các biện pháp giáo dục cải tạo người chấp hành 
án là việc nên làm, đồng thời lại bảo đảm quyền được đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, 
tôn giáo của con người trong thi hành án hình sự. 
 Thứ năm, Luật Việc làm năm 2013 vốn là một văn bản quan trọng liên quan 
mật thiết tới công tác hỗ trợ hòa nhập cộng đồng cho những người chấp hành xong 
án phạt tù. Tuy nhiên, mặc dù được ban hành ngày 16/11/2013, hiệu lực từ ngày 
01/01/2015 – tức là được ban hành muộn hơn so với Luật Thi hành án hình sự, 
Nghị định 80/2011/NĐ-CP và Thông tư 39/2013/TT-BCA như đã nêu ở Mục 2, 
nhưng Luật Việc làm lại không quy định người chấp hành xong án phạt tù với tư 
cách là một nhóm đối tượng cần được hưởng chính sách hỗ trợ tạo việc làm. 
Chống kỳ thị, giáo dục, tư vấn và thái độ cảm thông của cộng đồng là rất cần thiết 
đối với người vừa chấp hành xong án phạt tù. Song chúng tôi cho rằng, sẽ thiết 
thực và hiệu quả hơn nếu họ được có việc làm ổn định. Có việc làm, họ sẽ chí thú 
làm ăn, giảm đi mặc cảm, quyết tâm hướng thiện – giúp họ có việc làm cũng chính 
là góp phần giảm đi gánh nặng cho xã hội một cách trực tiếp và gián tiếp. 
 Nói tóm lại, trong những năm gần đây, pháp luật nước ta đã có được những 
bước tiến quan trọng trong việc ghi nhận và bảo vệ quyền con người của phạm 
nhân. Tuy nhiên, hệ thống các quy phạm pháp luật về thi hành án hình sự vẫn cần 
thường xuyên được hệ thống hóa, pháp điển hóa, kịp thời sửa đổi, bổ sung hoặc 
ban hành văn bản pháp luật mới điều chỉnh những vấn đề còn bất cập liên quan tới 
quyền con người trong thi hành án hình sự, đặc biệt là đối với phạm nhân. Tiếp tục 
hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tăng cường bảo vệ quyền con người trong thi 
hành án phạt tù có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao nhận thức của người dân 
92 
về quyền con người của phạm nhân, đồng thời góp phần xóa đi những trở ngại về 
nhân quyền và khẳng định với cộng đồng quốc tế về trình độ phát triển, sự văn 
minh và sẵn sàng hội nhập của Việt Nam với tất cả các nước thế giới trên mọi 
phương diện. 
3.2.1.2. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế hỗ trợ pháp lý đối với phạm nhân 
 Theo đó, cần nghiên cứu, luật hóa quy định luật sư có quyền tham gia bảo 
vệ quyền lợi hợp pháp của phạm nhân trong giai đoạn thi hành án. 
 Hệ thống pháp luật là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định hiệu quả 
của công tác thi hành án phạt tù. Với hệ thống pháp luật hoàn thiện tức là đảm 
bảo việc thể chế hoá chính sách của Đảng, của Nhà nước về tổ chức và nhiệm 
vụ, quyền năng và trách nhiệm các chủ thể trong lĩnh vực thi hành án phạt tù 
nói riêng và thi hành án hình sự nói chung. 
 Trong quá trình nghiên cứu đề tài tác giả nhận thấy hiện nay, Bộ luật 
Hình sự, tố tụng hình sự, Luật thi hành án hình sự không quy định về nguyên 
tắc cũng như các Điều luật cụ thể, không đề cập đến vấn đề tham gia của Luật 
sư trong giai đoạn thi hành án phạt tù. 
 Theo quy định của Điều 56, 58 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Luật sư, 
người bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tham gia tố tụng từ khi 
khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt 
người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì Luật sư có mặt từ khi có 
quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần phải giữ bí mật điều tra đối với tội 
xâm phạm ANQG thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quyết định để Luật 
sư tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra... Luật sư có nghĩa vụ sử dụng mọi 
biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người 
bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự 
của bị can, bị cáo. 
 Vấn đề ở đây là quyền và lợi ích hợp pháp của phạm nhân trong quá trình 
chấp hành án phạt tù ở trại giam, Luật sư có được tham gia bảo vệ hay không? 
Tranh luận về sự tham gia của Luật sư trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của 
phạm nhân còn có hai quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng, việc quy định 
93 
của pháp luật dừng lại ở mức độ cho Luật sư chỉ tham gia bảo vệ quyền lợi hợp 
pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là đủ. Việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp 
của phạm nhân thuộc về các cơ quan tổ chức thi hành án phạt tù. Vậy cụ thể là cơ 
quan nào? Được quy định ở những văn bản quy phạm pháp luật nào? Thực ra nó 
mới chỉ được đề cập ở những văn bản đơn lẻ và chủ yếu là “tự bảo vệ” của phạm 
nhân thể hiện qua quyền khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của Viện kiểm sát trong quá 
trình kiểm sát thi hành án phạt tù phát hiện mà thôi. Tác giả cho rằng thi hành án 
hình sự trong đó thi hành án phạt tù là một giai đoạn tố tụng hình sự Việt Nam. 
Phạm nhân vừa là chủ thể, vừa là đối tượng bị quản lý tham gia giai đoạn này. Do 
vậy như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, ngoài việc tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp 
của mình, phạm nhân phải có quyền mời Luật sư bảo vệ cho mình theo Hiến pháp 
và pháp luật. Việc cho phép và đảm bảo Luật sư tham gia bảo vệ quyền lợi hợp 
pháp của phạm nhân không chỉ mở rộng những nguyên tắc dân chủ trong công tác 
thi hành án hình sự mà còn nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác tổ chức thi 
hành án phạt tù ở các trại giam hiện nay, tăng cường pháp chế XHCN. Trên thực 
tế, chúng tôi đã thấy có phạm nhân Paul Francis Gadd, sinh năm 1944, công dân 
Vương quốc Anh, phạm tội Dâm ô đối với trẻ em, bị phạt 3 năm tù và chấp hành 
hình phạt tù tại Trại giam Thủ Đức, Bộ Công an. Trong giai đoạn điều tra, truy tố, 
xét xử và trong suốt thời gian chấp hành hình phạt tù, phạm nhân Paul Francis 
Gadd được Luật sư Lê Thành Kính, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh 
bảo vệ quyền lợi hợp pháp, và cho đến ngày anh ta được trả tự do vẫn có mặt 
của Luật sư để trợ giúp về các thủ tục cần thiết. Mọi sự so sánh có thể là khập 
khễnh bởi mỗi người có những hoàn cảnh và điều kiện khác nhau nhưng về phía 
pháp luật cần phải có qui định về vấn đề này nhằm bảo đảm quyền hợp pháp cho 
phạm nhân. 
 Tác giả cho rằng thi hành án hình sự trong đó thi hành án phạt tù là một giai 
đoạn tố tụng hình sự Việt Nam. Phạm nhân vừa là chủ thể, vừa là đối tượng bị 
quản lý tham gia giai đoạn này. Do vậy như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, ngoài 
việc tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, phạm nhân phải có quyền mời Luật 
sư bảo vệ cho mình theo Hiến pháp và pháp luật. Việc cho phép và đảm bảo Luật 
94 
sư tham gia bảo vệ quyền lợi hợp pháp của phạm nhân không chỉ mở rộng những 
nguyên tắc dân chủ trong công tác thi hành án hình sự mà còn nâng cao hiệu quả, 
chất lượng công tác tổ chức thi hành án phạt tù ở các trại giam hiện nay, tăng 
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. 
3.2.1.3. Đổi mới cơ chế pháp lý để giải quyết các khiếu nại, tố cáo của phạm nhân 
Hiện nay, theo quy định, thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo của phạm 
nhân đang thuộc về Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp. Cũng theo các quy định 
hiện hành của pháp luật thi hành án hình sự thì: Phạm nhân được gửi mỗi tháng 02 
lá thư; trường hợp cấp bách thì được gửi điện tín.Giám thị trại giam phải kiểm tra, 
kiểm duyệt thư, điện tín mà phạm nhân gửi và nhận. Vậy, thư của phạm nhân theo 
quy định phải kiểm duyệt còn đơn thư khiếu nại, tố cáo (có trường hợp hình thức 
bên ngoài là thư, nội dung bên trong là đơn thư khiếu nại, tố cáo) thì sao, có phải 
kiểm duyệt hay không và nếu phải kiểm duyệt thì ai là người kiểm duyệt? Đây là 
một vấn đề lớn đang đặt ra cho công tác quản lý, giáo dục phạm nhân hiện nay. Để 
giải quyết vấn đề trên, tác giả đề xuất sửa đổi pháp luật thi hành án hình sự theo 
hướng xác định trách nhiệm của người có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu 
nại, tố cáo (lần đầu) của phạm nhân chính là Giám thị trại giam: Giám thị trại giam 
trong phạm vi, quyền hạn của mình có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết kịp thời, 
đúng pháp luật khiếu nại, tố cáo và thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết cho 
phạm nhân có khiếu nại, tố cáo biết; xử lý nghiêm minh người vi phạm; áp dụng các 
biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra; bảo đảm kết quả giải 
quyết được thi hành nghiêm chỉnh và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc 
giải quyết của mình. 
3.2.1.4. Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát để phát hiện kịp thời, xử lý 
nghiêm minh các vi phạm đối với quyền của phạm nhân 
- Thi hành án phạt tù là hoạt động tư pháp đặc biệt liên quan nhiều đến 
quyền con người, quyền và nghĩa vụ hợp pháp của phạm nhân và cá nhân, tổ 
chức có liên quan. Thi hành án phạt tù là toàn bộ hoạt động quản lý, giam giữ, 
giáo dục người bị kết án phạt tù tại trại giam được điều chỉnh bởi pháp luật thi 
hành án phạt tù. Mặt khác hoạt động thi hành án phạt tù là một lĩnh vực nhạy 
95 
cảm về chính trị rất dễ bị các thế lực bên ngoài lợi dụng. Do vậy việc thanh 
tra và kiểm tra nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức công tác thi hành án phạt tù 
của Giám thị trại giam nói riêng và của Cơ quan thi hành án phạt tù nói chung 
theo đúng quy định của pháp luật là rất cần thiết, đáng được quan tâm thoả 
đáng và phải được tiến hành thường xuyên. Song thực tế những năm qua vấn 
đề thanh tra, kiểm tra công tác tổ chức thi hành án phạt tù ở các trại giam còn 
nhiều sơ hở, yếu kém, đôi khi buông lỏng, thiếu thống nhất. Việc kiểm tra, 
thanh tra chủ yếu được các cơ quan thanh tra cấp trên tiến hành theo sự vụ 
hoặc theo chuyên đề ở một đơn vị nào đó. 
- Tăng cường vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự theo tinh thần cải 
cách tư pháp. 
+Nhất thể hóa các quy định về thẩm quyền của Toà án trong Thi 
hành án hình sự. 
Luật Thi hành án hình sự đã được Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ 7 
thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010. Theo đó, các quy định trước đây của 
Pháp lệnh Thi hành án phạt tù đã được thay đổi và bổ sung thành luật, nhưng 
một số văn bản pháp luật hướng dẫn áp dụng Pháp lệnh này vẫn không được 
nhắc đến việc có còn hiệu lực pháp luật hay không vì về cơ bản nó không trái 
các quy định mới của Luật Thi hành án hình sự, hoặc cần sửa đổi, bổ sung 
thêm cho phù hợp với Luật mới. Ví dụ như Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP 
ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, hướng dẫn thi hành 
một số quy định trong Phần thứ năm “Thi hành bản án và quyết định của Toà 
án” của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 
02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng dụng một 
số quy định của Bộ Luật hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành 
hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt Theo quy định tại Hiến pháp 1992, 
(sửa đổi bổ sung năm 2013) thì “Toà án là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã 
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”; “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử 
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” [45, Điều 102]. Nhưng theo quy định tại thông 
tư 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 15/5/2013 Hướng dẫn thi 
96 
hành các quy định về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân” thì 
thẩm phán không được độc lập áp dụng pháp luật được quy định tại các Điều 58, 
28, 76 Bộ Luật hình sự mà phụ thuộc hoàn toàn vào ý kiến thẩm định của cơ quan 
quản lý thi hành án (Tổng cục VIII-Bộ công an). Theo quy định của pháp luật hiện 
hành (Hiến pháp, Bộ luật TTHS, Bộ luật hình sự) thì cơ quan quản lý thi hành án 
hình sự không có chức năng và thẩm quyền xét giảm án phạt tù.Theo quy định tại 
Điều 33 Luật Thi hành án hình sự thì thẩm quyền đề nghị giảm thời hạn chấp hành 
án phạt tù thuộc trại giam, nơi người chấp hành án phạt tù trực tiếp cải tạo. Tổng 
cục VIII-Bộ công an không có thẩm quyền đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt 
tù, nhưng qua việc “thẩm định”, 
Tổng cục VIII-Bộ công an lại là cơ quan quyết định việc đề nghị mức giảm 
và đối tượng giảm thời hạn chấp hành án phạt tù. Các trại giam sau khi có kết 
quả họp xét giảm án phải chuyển cho Tổng cục VIII- Bộ công an để Tổng cục 
này duyệt lại và chuyển về Toà án để xem xét. Nhưng Toà án chỉ được xét 
trong phạm vi mức thẩm định của cơ quan quản lý thi hành án (Tổng cục 
VIII) và vô hình chung, vai trò của toà án đã mặc nhiên biến mất. Vì vậy, xem xét 
sự phối hợp của các cơ quan tư pháp trung ương trong việc hướng dẫn, thực hiện 
pháp luật vẫn còn nhiều điểm chưa thực sự hiểu nhau và chưa đồng bộ, dẫn đến việc 
ban hành văn bản hướng dẫn có phần chưa sát với luật thực định. Cần có quy định 
lại hoặc đề nghị xem xét lại tính hợp pháp, hợp hiến của văn bản dưới luật này để 
bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật (Thông tư hướng dẫn) và các cơ 
quan tư pháp trung ương cần tôn trọng Luật, Bộ luật để có hướng dẫn mang tính 
thống nhất và chủ động hơn trong việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành lật, 
tránh tình trạng một cơ quan soạn thảo và mang tính chủ quan, có lợi cho một ngành 
để đưa vào những câu từ trong văn bản mang tính mập mờ, dễ hiểu nhầm hoặc gây 
khó khăn cho việc áp dụng trong thực tế (Thông tư liên tịch số 02/2013/TTLT-
BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 15/5/2013 Hướng dẫn thi hành các quy 
định về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân là một ví dụ điển 
hình về việc hướng dẫn gây hiểu nhầm và trái với các quy định của BLHS, 
97 
BLTTHS về vai trò của cơ quan quản lý thi hành án hình sự và thẩm quyền của Toà 
án trong xét giảm án). 
- Tăng cường vai trò của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án hình sự. 
Viện kiểm sát nhân dân các cấp cần bố trí đủ số lượng biên chế cho công tác 
kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự; tăng cường Kiểm sát viên, 
cán bộ có năng lực để thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm sát các hoạt động tư 
pháp trong đó chú trọng quan tâm đến số lượng, chất lượng cán bộ thực hiện nhiệm 
vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự. 
Tăng cường công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, hoàn thiện 
các chế độ, chính sách đối với cán bộ kiểm sát, đặc biệt quan tâm đến kinh phí hoạt 
động và trang thiết bị làm việc cho cán bộ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi 
hành án hình sự. 
Viện kiểm sát nhân dân tối cao phối hợp với trường Đại học kiểm sát và 
trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát định kỳ tổ chức các lớp bồi dưỡng 
nghiệp vụ về công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự cho 
Kiểm sát viên, cán bộ VKSND cấp tỉnh và cấp huyện, nhất là về kiến thức thực tiễn 
trong công tác kiểm sát. 
Quan tâm thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ có vai trò quan trọng 
trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên ở bất cứ khâu công tác nào. 
Tuy nhiên trong điều kiện tác nghiệp hầu hết ở các đơn vị trại giam, trại tạm giam,... 
xa xôi, hẻo lánh, môi trường làm việc vất vả, nguy hiểm, độc hại, do vậy chế độ đãi 
ngộ đối với cán bộ thực hiện kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự 
cần thiết phải có sự quan tâm, tạo điều kiện hơn nữa của lãnh đạo các cấp và các 
cấp bộ, ngành liên quan. Do vậy, đề nghị các cấp bộ, ngành tiếp tục quan tâm cho 
hưởng chính sách phụ cấp đặc thù (phụ cấp độc hại) cho cán bộ, công chức làm 
nhiệm vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự. 
3.2.2. Thực hiện tốt chính sách pháp luật đối với phạm nhân, tích cực thực hiện 
xã hội hóa công tác giáo dục, cải tạo phạm nhân 
Thực tiễn chỉ ra rằng, chỉ khi chúng ta thực hiện tốt các chính sách, pháp luật 
đã được quy định một cách nghiêm túc bảo đảm công bằng, công khai, minh bạch 
98 
trong hoạt động thi hành án phạt tù thì chắc chắn rằng cuộc sống của người chấp 
hành án phạt tù sẽ được bảo đảm, những khiếm khuyết tồn tại mới dần dần được 
khắc phục. 
Trước hết là thực hiện chế độ giam giữ, quản lý. Cần có sự phân loại và cá 
thể hoá biện pháp quản lý, giam giữ riêng cho từng loại đối tượng nhằm phát huy 
tốt hiệu quả của công tác quản lý, giam giữ, giáo dục và cải tạo phạm nhân, góp 
phần đảm bảo an toàn trại giam và thực hiện tốt chính sách pháp luật đối với họ. 
Thứ hai, có quy định quản lý khoa học trong việc tạo điều kiện cho phạm 
nhân được lao động và lao động tuỳ theo khả năng, sức khoẻ. Việc bố trí thời gian, 
sắp xếp công việc theo pháp luật nhưng phải có sự thích hợp và có tính vừa sức, 
không nên vì mục đích kinh tế để ép (cưỡng bức) lao động quá giờ, quá sức. Cán bộ 
nên tôn trọng quyền lựa chọn công việc của phạm nhân, đáp ứng yêu cầu đào tạo 
nghề thích hợp. Thực tế cho thấy các trại giam chưa chú trọng vào việc này. Một 
điều đáng hướng tới trong tương lai là việc trả công cho phạm nhân theo quy định 
của pháp luật về lao động (Công dân Việt Nam lao động được trả lương theo giá trị 
lao động của bản thân và được bảo hiểm lao động theo Luật Bảo hiểm xã hội). 
Thứ ba, các chế độ về ăn, mặc, ở, phòng chữa bệnh, giáo dục và rèn luyện, 
giảm thời hạn, đặc xá cần được bảo đảm theo quy định của pháp luật thi hành án 
hình sự và các luật khác có liên quan. Trong luận văn này tác giả cũng muốn đề cập 
đến những trường hợp phạm nhân phạm tội về quản lý kinh tế và chức vụ, những 
phạm nhân có hình phạt về kinh tế cũng như những phạm nhân vì hoàn cảnh quá 
khó khăn không thể bồi thường, trả nợ... cũng cần phải có chính sách phù hợp, cụ 
thể với từng đối tượng để khuyến khích họ lao động cải tạo (với chính sách hiện 
nay, hầu như họ sẽ không có cơ hội không được xét giảm, được xét đặc xá tha tù 
trước thời hạn kể cả khi họ có quá trình lao động cải tạo rất tiến bộ). 
Để công tác giáo dục và cải tạo phạm nhân đạt hiệu quả cao, đòi hỏi phải xã 
hội hoá từng bước và huy động sự tham gia của các lực lượng vào hoạt động này. 
Nếu chỉ quan tâm đến trừng trị, giam giữ có thể chỉ cần Cơ quan thi hành án, nhưng 
để giáo dục, cải tạo hàng chục vạn phạm nhân trở thành người có ích cho xã hội thì 
đòi hỏi phải có sức mạnh vật chất và tinh thần, trách nhiệm và trí tuệ của toàn xã 
99 
hội mới có thể mang lại hiệu quả thiết thực. Để phát huy vai trò của gia đình phạm 
nhân và sức mạnh của các lực lượng xã hội vào công tác cải tạo phạm nhân, cần 
phải thực hiện tốt các yêu cầu sau: 
Một là, thống nhất nhận thức của các lực lượng xã hội để chủ động xây dựng 
môi trường giáo dục phạm nhân, mà trước hết là việc xác định vị trí, tầm quan trọng 
của công tác trại giam và sau đó là xác định trên thực tế trách nhiệm của các cơ 
quan, ban, ngành, các tổ chức, đoàn thể xã hội, của gia đình phạm nhân và mỗi công 
dân trong việc tham gia vào công tác quản lý, giáo dục cải tạo phạm nhân. Trong 
mối quan hệ đó, trại giam phải đóng vai trò chủ động và chủ đạo, các cơ quan, ban 
ngành, tổ chức xã hội đóng vai trò nòng cốt và gia đình phạm nhân phải là lực 
lượng tham gia tích cực. Đó chính là cơ chế phối hợp để thực hiện nâng cao chất 
lượng, hiệu quả công tác quản lý, giáo dục cải tạo phạm nhân. 
Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa trại giam và gia đình phạm nhân trong việc xây 
dựng môi trường giáo dục và cải tạo, bởi phạm nhân tuy bị cách ly bởi gia đình và 
xã hội nhưng sự ảnh hưởng của gia đình đối với họ vẫn là rất lớn. Sự quan tâm của 
gia đình đối với phạm nhân, dù là nhỏ nhất cũng gây cho phạm nhân những cảm 
xúc, củng cố cho họ niềm vui, niềm tin để vượt qua khó khăn, hoàn thành tốt trách 
nhiệm, bổn phận của mình. Vì vậy phải biết sử dụng ảnh hưởng của gia đình đối với 
phạm nhân thông qua các hình thức, biện pháp như tổ chức các kỳ “Hội nghị gia 
đình phạm nhân”; tổ chức cho thân nhân phạm nhân thăm nơi ăn, ở, sinh hoạt, học 
tập, lao động của phạm nhân để họ yên tâm; thông báo kết quả cải tạo của con em 
họ cho gia đình biết, đồng thời bàn bạc thống nhất chung chương trình, kế hoạch và 
biện pháp phối hợp hoạt động quản lý, giáo dục, cải tạo phạm nhân cũng như giúp 
đỡ những phạm nhân không có gia đình đến thăm gặp 
Ba là, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, ban, ngành chức năng, các tổ chức 
và cá nhân trong việc giáo dục phạm nhân. Sự phối hợp này phải được thể chế hoá 
trên cơ sở quy định của pháp luật và chức năng, nhiệm vụ của từng cấp, từng ngành, 
các tổ chức khác nhau cũng như ý thức tự giác của họ. Xã hội, gia đình và mọi công 
dân dang rộng vòng tay nhân ái tiếp nhận những người từng lầm lỗi trở về với tấm 
100 
lòng bao dung, độ lượng và sự giúp đỡ chân tình, cởi mở thì hy vọng sẽ gặt hái 
được kết quả của sự hoàn lương, hối lỗi của họ. 
3.3. Nhóm giải pháp riêng nhằm tăng cƣờng bảo vệ quyền công dân của phạm 
nhân tại các trại giam ở miền trung nƣớc ta hiện nay 
3.3.1. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng 
Để thực hiện tốt Nghị quyết của Đảng uỷ Công an Trung ương và Chỉ thị của 
Bộ trưởng về nhiệm vụ công tác Công an năm 2017, sự lãnh đạo, chỉ đạo của các 
cấp ủy Đảng có thẩm quyền cần tập trung vào quán triệt tư tưởng, quan điểm các 
vấn đề như: nhấn mạnh về công tác xây dựng lực lượng, coi đây là nhiệm vụ trọng 
tâm trong nhiều năm tới của lực lượng CAND nói chung, ngành thi hành án hình sự 
nói riêng; các trại giam cần chủ động hơn nữa trong công tác giáo dục chính trị, tư 
tưởng cho CBCS; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, ngăn chặn chấn chỉnh sai 
phạm; chú trọng chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho CBCS, thực hiện tốt khẩu 
hiệu hành động của toàn lực lượng CAND trong năm 2017 “Đổi mới, chủ động, kỷ 
cương, trách nhiệm, hiểu quả”; đánh giá, rà soát, bổ sung đội ngũ cán bộ trong quy 
hoạch để bồi dưỡng, tạo nguồn trong thời gian tới. Quán triệt, thực hiện tốt Nghị 
quyết Trung ương 4 khóa XI. 
Các trại giam cần tăng cường, chủ động phối hợp với các cơ quan có liên 
quan hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật; tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn 
thiện các văn bản hướng dẫn, xử lí giải quyết và đề ra các giải pháp khắc phục 
những tồn tại, vướng mắc trong công tác thi hành án hình sự và công tác tái hoà 
nhập cộng đồng. 
Triển khai thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về quản lý giam 
giữ các loại đối tượng, tăng cường công tác tuần tra, canh gác, bảo vệ không để xảy 
ra đột xuất bất ngờ, đưa vật cấm vào cơ sở giam giữ. 
Chú trọng nghiên cứu, cải cách chương trình, nội dung và nâng cao hiệu quả 
công tác giáo dục, dạy nghề cho phạm nhân, thực hiện nghiêm chính sách, chế độ, 
pháp luật đối với phạm nhân; tăng cường giáo dục cá biệt đối với các đối tượng 
thường xuyên vi phạm nội quy kỷ luật; chấp hành nghiêm các quy định của pháp 
luật về giam giữ, giáo dục, cải tạo, làm tiền đề cho công tác phòng ngừa, kiềm chế 
101 
tội phạm; phối hợp với các ngành, các cấp tổ chức đoàn thể nghiên cứu cơ chế từng 
bước xã hội hoá công tác giáo dục, dạy nghề cho phạm nhân; đề xuất giải pháp triển 
khai công tác tái hoà nhập cộng đồng... 
3.3.2. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện, trang thiết bị và nâng cao chất 
lượng cán bộ thực hiện công tác giam giữ, quản lý, giáo dục phạm nhân 
Yêu cầu trước tiên của trại giam là phải quản lý, giam giữ chặt chẽ phạm 
nhân, không để họ có điều kiện trốn, chống phá, vi phạm nội quy trại giam và vi 
phạm pháp luật, đồng thời cũng hạn chế đến mức thấp nhất sự lan truyền cái xấu, 
tiêu cực của người này sang người khác. Việc giam giữ phạm nhân trong các buồng 
tập thể đông người tạo cho họ có môi trường giao tiếp và sinh hoạt tập thể. 
Nhưng khi muốn bóc tách, cách li những đối tượng nguy hiểm, chống đối có 
hành vi đe doạ đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của người 
khác thì rất khó khăn, vì nhiều trại giam không có phòng riêng. Thực trạng này 
có nhiều nguyên nhân từ khó khăn của nền kinh tế, nhưng điều quan trọng là 
phải nhận thức đúng từ quan điểm xây dựng môi trường giáo dục cũng như từ 
yêu cầu quản lý và giáo dục phạm nhân nói chung để định hướng đúng đắn cho 
việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất các trại giam. 
Vấn đề bổ sung vào mô hình thiết kế cũng như kịp thời đầu tư xây 
dựng nhằm bảo đảm việc giam giữ có sự phân hoá rõ rệt các loại phạm nhân, 
không để những phạm nhân chống đối hay vi phạm tác động xấu đến những 
phạm nhân khác là yêu cầu hết sức cấp thiết. Mô hình xây dựng nhà giam, 
buồng giam phải căn cứ vào từng loại đối tượng cụ thể để thiết kế cho phù 
hợp. Trong một trại giam phải có nhiều loại buồng giam, nếu có buồng đông 
người thì chỉ giành cho số phạm nhân có mức án thấp, ít nguy hiểm hoặc sắp 
ra trại và số lượng cũng cần hạn chế, không nên quá 30 người một phòng ở. 
Đối với phạm nhân, ngoài thời gian đi lao động, cuộc sống của họ chủ 
yếu diễn ra trong nhà giam và trong khu giam giữ. Vì vậy, nói đến củng cố, 
cải tạo, xây dựng cơ sở vật chất thành môi trường giáo dục, trước hết cần chú 
trọng những vấn đề cơ bản sau: 
102 
a. Củng cố nhà ở và công trình vệ sinh, nơi tắm rửa, giặt giũ của phạm 
nhân để nó trở thành những cơ sở vật chất có ý nghĩa giáo dục. Thực tiễn đã 
chứng minh, điều kiện sống chật chội không chỉ ảnh hưởng đến sức khoẻ, mà 
còn tạo nên những căng thẳng về mặt tâm lý, con người dễ trở nên bực bội, 
cáu bẳn, chán chường và từ đó nảy sinh những thái độ, hành vi tiêu cực. 
Do đó, nhà ở và các công trình vệ sinh, những yếu tố vật chất khác cần được 
nâng cấp cho phù hợp với yêu cầu giam giữ và giáo dục. Đây được coi là yêu cầu 
bức thiết, được ưu tiên hàng đầu vì sẽ tăng cường quản lý phạm nhân tốt hơn, đảm 
bảo an toàn tính mạng cho họ và biến thành môi trường giáo dục đầu 
tiên, gần gũi với mọi phạm nhân. 
b. Xây dựng, sửa chữa nhà ăn và bệnh xá phạm nhân là thể hiện sinh 
động quan điểm, chính sách nhân đạo của Đảng, nhà nước đối với người phạm tội, 
tôn trọng con người và coi sức khoẻ là vốn quý nhất của con người, dù đó là người 
phạm tội. Hiện nay, trong thiết kế mô hình xây dựng trại giam đã có nhà ăn riêng 
cho các đội phạm nhân bên cạnh buồng ở nhưng còn nhiều trại giam chưa có. Do đó 
phải gấp rút xây dựng để đảm bảo cho việc ăn uống mang tính nhân văn và có ý 
nghĩa giáo dục. Bệnh xá cho phạm nhân cũng cần được tăng cường đầu tư bảo đảm 
yêu cầ u phòng, chữa bệnh của phạm nhân. 
c. Kết hợp đầu tư xây dựng cơ sở vật chất với việc ứng dụng rộng rãi thành 
tựu hoa học công nghệ trong đó có công nghệ khí sinh học bioga để giữ gìn vệ sinh 
môi trường, công nghệ xử lý nước sạch nhằm góp phần vào việc giải quyết vấn 
đề chất thải, nước sinh hoạt, tiết kiện năng lượng, chống gây ô nhiễm và giảm thiểu 
các tại hại của môi trường, bảo vệ sức khoẻ cho CBCS và phạm nhân. 
d. Xây dựng và phát triển các điều kiện phục vụ học tập, lao động và cải 
thiện đời sống văn hoá tinh thần, thể dục thể thao cho phạm nhân. Trong điều kiện 
trại giam, việc tổ chức học tập và các hoạt động văn hoá tinh thần, thể dục thể thao 
sẽ góp phần lấp đầy khoảng trống trong tâm hồn phạm nhân và phục hồi những 
phẩm chất nhân cách của họ. Do đó cũng phải củng cố và phát triển những điều 
kiện phục vụ cho các yêu cầu này. Không thể nói đến giáo dục phạm nhân nếu 
103 
không có nơi cho phạm nhân học tập, sinh hoạt văn hoá, văn nghệ, thể thao, vui 
chơi giải trí 
Để triển khai giải pháp nêu trên, cùng với việc tập trung đầu tư của Nhà 
nước, cần có sự chỉ đạo thống nhất của Chính phủ và các Bộ, ban, ngành chức năng 
trong việc cấp đất, cấp kinh phí đầu tư xây dựng, ứng dụng các thành tựu khoa học 
công nghệ trong đó vai trò chỉ đạo của Bộ Công an là rất quan trọng nhằm thống 
nhất nhận thức và tổ chức thực hiện từ việc thiết kế mô hình trại giam đến triển khai 
những công việc cụ thể trên thực tế. Có như vậy mới tạo ra những chuyển động 
đồng bộ và mang lại hiệu quả cao. 
Một trong những giải pháp quan trọng nữa chính là công tác giáo dục đào 
tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của đội ngũ cán bộ làm công tác trại giam 
phục vụ cho công tác giam giữ, quản lý, giáo dục cũng như bảo đảm các quyền, 
nghĩa vụ của phạm nhân. 
Xác định vị trí, vai trò của lực lượng Cảnh sát trại giam, là một lực lượng 
nghiệp vụ của ngành Công an, phải giải quyết đồng thời nhiều vấn đề thuộc về chủ 
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, vừa phải xử lý nhiều thao tác hành chính, 
pháp lý, nghiệp vụ cụ thể, chặt chẽ mang tính nguyên tắc, vừa phải có nghệ thuật 
giải quyết rất nhiều tình huống phát sinh đột xuất có liên quan đến đối tượng quản 
lý; cùng một lúc phải đảm nhận nhiều vai trò khác nhau như: vai trò của người cán 
bộ Công an, người thực thi pháp luật làm công tác quản lý, giam giữ, đấu tranh khai 
thác, vai trò của nhà giáo dục, vai trò của nhà tổ chức lao động sản xuất, hướng 
nghiệp dạy nghề cho phạm nhân... Để thực hiện được tốt những vai trò ấy, người 
cán bộ trại giam phải am hiểu rất nhiều kiến thức về pháp luật, nghiệp vụ, ngoài ra 
còn cả những kiến thức về tâm lý, về sư phạm và về kinh tế... Việc đào tạo bồi 
dưỡng, nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác 
trại giam luôn là việc làm cần thiết và cấp bách trong mọi thời kỳ, mọi giai đoạn; và 
làm tốt được điều này cũng chính là một trong những giải pháp quan trọng đảm bảo 
việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của phạm nhân. 
104 
 KẾT LUẬN 
1. Phạm nhân là con người được sinh ra trong những điều kiện tự nhiên và xã 
hội nhất định. Với tư cách là thực thể sinh học - xã hội, được hoạt động và phát 
triển, hình thành nhân cách (tích cực, tiêu cực) trong môi trường xã 
hội và chịu sự tác động mạnh mẽ của môi trường xã hội. Đồng thời phạm nhân là 
sản phẩm của Nhà nước và chế độ xã hội, là tổng thể các yếu tố do Nhà nước và xã 
hội tạo nên trong đó yếu tố pháp luật là quan trọng tạo nên vị trí của người thi hành 
án phạt tù. 
2. Chế độ XHCN của ta không thể coi người thi hành án phạt tù là loại bỏ đi, 
là cặn bã xã hội và phải khẳng định rằng họ vốn là công dân của một Nhà nước, của 
một chế độ và rằng Nhà nước Việt Nam coi con người là vốn quý của xã hội, tôn 
trọng và bảo đảm quyền tự do, bất khả xâm phạm về thân thể của công dân và các 
quyền liên quan đến họ và các quyền, nghĩa vụ đó đã trở thành nguyên tắc nhất 
quán trong chính sách pháp luật và thực tiễn. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, 
Bộ luật Hình sự, Bộ luật Thi hành án hình sự của Nhà nước CHXHCN Việt Nam và 
các văn bản pháp luật khác đã tập trung hoàn thiện và thể chế hoá các quy định liên 
quan đến quyền bất khả xâm phạm thân thể là quyền được sống của mỗi người 
trong đó có con người phạm nhân. Đối với vấn đề quản lý và giáo dục phạm nhân 
cũng như thực hiện các chế độ, chính sách bảo đảm những quyền người thi hành án 
phạt tù cần phải được các thủ trưởng đơn vị trại giam quán triệt và xử lý nghiêm 
minh đối với những CBCS có những hành vi đánh đập, xâm hại tới tính mạng, sức 
khoẻ, danh dự và nhân phẩm và các quyền lợi khác của họ. Điều này chẳng những 
phù hợp với luật pháp hình sự Việt Nam, luật về nhân quyền của Việt Nam mà còn 
phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế về quyền con người. 
3. Các nhóm quyền về kinh tế, chính trị, dân sự, văn hóa, xã hội, cũng như 
các quyền về tự do cá nhân của công dân, đã được pháp luật Việt Nam cụ thể hoá, 
quy định rất rõ ràng. Đối với phạm nhân, ngoài những quyền mà pháp luật không 
tước bỏ hoặc bị hạn chế, pháp luật Việt Nam cũng cần phải cụ thể hoá, quy định rõ 
105 
ràng để người tù có cơ hội được hưởng theo các nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc 
pháp chế XHCN mà pháp luật đã quy định. 
4. Từ những kết quả nghiên cứu, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt 
cũng như lâu dài, tác giả xin đề xuất: Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho 
chỉnh sửa, bổ sung một số văn bản quy phạm pháp luật (Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố 
tụng hình sự cũng như các văn bản hướng dẫn khác) phải quán triệt quan điểm trừng 
trị và giáo dục hài hoà, đảm bảo không giảm tính nghiêm minh của pháp luật, 
nhưng cũng thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng, Nhà nước ta đối với người thi 
hành án phạt tù. 
5. Để đảo bảo quyền và nghĩa vụ của người thi hành hình phạt tù cần đẩy 
mạnh hơn nữa công tác đào tạo các bộ, nâng cao kiến thức sư phạm, tâm lý cho cán 
bộ giáo dục, quản giáo, những cán bộ quản lý trực tiếp quản lý phạm nhân. Chú 
trọng rèn luyện kỹ năng ứng xử trong CBCS. Quan tâm hơn nữa cơ sở vật chất, đổi 
mới trang thiết bị nhằm góp phần nâng cao đời sống vật chất, đời sống tinh thần cho 
phạm nhân cũng như cán bộ làm công tác trại giam. Thực hiện chế độ chính sách 
đối với phạm nhân như giảm thời hạn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, khen 
thưởng kỷ luật, các chế độ ăn, mặc, ở, phòng chữa bệnh, lao động, bảo hiểm để 
bảo đảm quyền lợi cho phạm nhân. Đồng thời tăng cường duy trì trật tự kỷ luật để 
buộc phạm nhân phải thực hiện nghĩa vụ của bản thân đối với Nhà nước. 
6. Đề nghị các Bộ, ban, ngành chức năng, tổ chức xã hội, chính quyền các 
cấp quan tâm, phối hợp cùng Tổng cục VIII - Bộ Công an thực hiện tốt nhiệm vụ 
giáo dục cải tạo phạm nhân, trong đó các nhiệm vụ quan trọng, cấp bách là: bảo vệ 
chăm sóc sức khoẻ phòng chống HIV/AIDS cho CBCS và phạm nhân thuộc chức 
năng và nhiệm vụ của Bộ Y tế, dạy văn hoá, giáo dục công dân thuộc Bộ Giáo dục 
và đào tạo; hướng nghiệp, dạy nghề, cai nghiện ma tuý thuộc Bộ Lao động thương 
binh và xã hội, có cơ chế tìm kiếm việc làm ổn định cuộc sống cho phạm nhân khi 
mãn hạn tù... Những vấn đề trên nếu được quan tâm thích đáng thì chắc chắn nghĩa 
vụ và quyền của người chấp hành hình phạt tù sẽ được bảo đảm hơn. Điều đó cũng 
thể hiện đúng mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. 
106 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. A.G. Cô-va-liốp (1971), Tâm lý học nhân cách, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1998), Thông báo số 118/TB-TW ngày 
21/01/1998 về ý kiến kết luận của Hội nghị Thường vụ Bộ Chính trị về vấn đề 
Công an tham gia làm kinh tế, Hà Nội. 
3. Ban Chỉ đạo nhân quyền của Chính phủ (2005), Tài liệu Hội nghị tổng kết Chỉ thị 
12 của Ban Bí thư về quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta, 
Hà Nội. 
4. Ban Tôn giáo Chính phủ (2006), Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, 
Nxb Tôn giáo, Hà Nội. 
5. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (1991), Tài liệu hướng dẫn học tập Văn 
kiện Đại hội VII Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Tư tưởng – Văn hoá, Hà Nội. 
6. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (1996), Tài liệu học tập Văn kiện Đại hội 
VIII của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
7. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2001), Tài liệu nghiên cứu Văn kiện Đại 
hội IX của Đảng (dành cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên), Nxb Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội. 
8. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2006), Tài liệu học tập Nghị quyết Đại hội X 
của Đảng (dành cho cán bộ, đảng viên cơ sở), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
9. Ban Tuyên giáo Trung ương (2011), Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu các 
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb Chính trị Quốc 
gia, Hà Nội. 
10. Nguyễn Ngọc Bích (1988), Tâm lý học nhân cách - Một số vấn đề lý luận, Nxb 
Giáo dục, Hà Nội. 
11. Lê Thị Bừng (2003), Tâm lý học ứng xử, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
12. Bộ Chính trị (2010), Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 về tăng cường sự 
lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình 
mới, Hà Nội. 
107 
13. Bộ Công an (2011), Thông tư số 36/2011/TT-BCA ngày 26/05/2011 quy định 
về Nội quy trại giam, Hà Nội. 
14. Bộ Công an (2011), Thông tư số 46/2011/TT-BCA ngày 30/06/2011 quy định 
về việc phạm nhân gặp người thân; nhận, gửi thư; nhận tiền, quà và liên lạc 
điện thoại với thân nhân, Hà Nội. 
15. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp và Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), 
Thông tư liên tịch số 02/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BGDĐT ngày 
06/02/2012 hướng dẫn việc tổ chức dạy văn hóa, giáo dục pháp luật, giáo dục 
công dân, phổ biến thông tin thời sự, chính sách và thực hiện chế độ sinh hoạt, 
giải trí cho phạm nhân, Hà Nội. 
16. Bộ Tư pháp (2005), Việt Nam với vấn đề quyền con người, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 
17. C.Mác - Ph.Ăngghen (1998), Về quyền con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
18. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
19. Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng (1999), Những 
văn bản pháp luật phục vụ cho công tác trại giam, cơ sở giáo dục, 
trường giáo dưỡng, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 
20. Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng thuộc Bộ Công an 
(2005), Lực lượng Cảnh sát trại giam - 60 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng 
thành, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
21. Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng thuộc Bộ Công an 
(2006), Báo cáo tổng kết công tác trại giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng 
từ năm 1996 đến năm 2006, Hà Nội. 
22. Chính phủ (1993, 2008), Quy chế trại giam 1993, sửa đổi bổ sung năm 2008, Hà Nội. 
23. Chính phủ (2011), Nghị định 117/2011/NĐ-CP ngày 15/12/2011 quy định về tổ 
chức quản lý phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với 
phạm nhân, Hà Nội. 
24. Chủ tịch Hồ Chí Minh với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (2002), Nxb 
Công an nhân dân, Hà Nội. 
25. Công ước số 29 Công ước về lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc của Tổ chức 
lao động thế giới, 1930. 
108 
26. Đảng uỷ Cục Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng - Bộ Công 
an (2001), Nghị quyết số 08/NQ-ĐU(P12) ngày 23/11/2001 về tiếp tục đổi mới 
và nâng cao chất lượng công tác giáo dục phạm nhân, Hà Nội. 
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 
của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời 
gian tới, Hà Nội. 
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 của Bộ 
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội. 
29. Hội Luật gia Việt Nam (Biên soạn) (2007), Tập hợp các văn kiện pháp lý quốc 
tế cơ bản về quyền con người, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 
30. Thanh Lê (2002), Xã hội học tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 
31. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1979. 
32. Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (1946), Hiến pháp Nước Việt Nam 
Dân chủ Cộng hoà, Hà Nội. 
33. Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (1959), Hiến pháp Nước Việt Nam 
Dân chủ Cộng hoà, Hà Nội. 
34. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1980), Hiến pháp Nước 
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, Hà Nội. 
35. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992, 2001), Hiến pháp 
Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 
2001), Hà Nội. 
36. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999, 2009), Bộ Luật 
Hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, Hà Nội. 
37. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật Tổ chức Toà 
án nhân dân, Hà Nội. 
38. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật Tổ chức Viện 
kiểm sát nhân dân, Hà Nội. 
39. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Bộ Luật tố tụng 
hình sự, Hà Nội. 
40. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Dân sự, Hà Nội. 
109 
41. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006, 2012), Luật Luật sư 
2006, sửa đổi bổ sung năm 2012, Hà Nội. 
42. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007), Luật Đặc xá, Hà Nội. 
43. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Luật Thi hành án 
dân sự, Hà Nội. 
44. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Luật Hôn nhân gia 
đình, Hà Nội. 
45. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Luật Thi hành án 
hình sự, Hà Nội. 
46. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Luật Khiếu nại, Hà 
Nội. 
47. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Luật Tố cáo, Hà Nội. 
48. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Bộ luật Lao 
động, Hà Nội. 
49. Phan Xuân Sơn (2009), Hoàn thiện môi trường trại giam, Đề tài nghiên cứu cấp 
Bộ, Hà Nội. 
50. Tổng cục VIII thuộc Bộ Công an (2013), Báo cáo tổng kết công tác thi hành án 
hình sự và hỗ trợ tư pháp từ năm 2010 đến năm 2013, Hà Nội. 
51. Trung tâm nghiên cứu quyền con người thuộc Học viện Chính trị quốc 
gia Hồ Chí Minh (2005), Các văn kiện cơ bản về luật nhân đạo quốc tế, Nxb 
Lý luận chính trị, Hà Nội. 
52. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1993, 2007), Pháp lệnh Thi hành án phạt tù, sửa 
đổi bổ sung năm 2007, Hà Nội. 
53. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2003, 2008), Pháp lệnh Dân số năm 2003, sửa đổi 
bổ sung năm 2008, Hà Nội. 
54. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp, 
Hà Nội. 
55. Viện Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh (2000), Hồ 
Chí Minh toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 
56. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2010), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Thành phố Hồ 
Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh. 
110 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 luan_van_bao_ve_quyen_cong_dan_cua_pham_nhan_tu_thuc_tien_ca.pdf luan_van_bao_ve_quyen_cong_dan_cua_pham_nhan_tu_thuc_tien_ca.pdf