Tiếp tục sắp xếp, củng cố khu vực doanh nghiệp Nhà nước, đẩy mạnh
công tác cổ phần hoá. Việc sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp Nhà nước thời gian
qua đã có những bước tiến đáng mừng: thu hẹp lại khu vực doanh nghiệp Nhà
nước, nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này. Trong thời gian tới,
Nhà nước phải tiếp tục rà soát, chấn chỉnh các doanh nghiệp Nhà nước, mạnh dạn
cho giải thể, phá sản những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, những doanh
nghiệp có mức vốn thấp hơn qui định.
66 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2191 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở các Doanh nghiệp thương mại Nhà nước & Công ty kinh doanh thép vật tư Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng hơn cuối năm 1997 cả về số lượng và tỷ
trọng trong tổng các khoản phải thu, trong đó tỷ lệ nợ quá hạn trong khoản trả
trước cho khách hàng chiếm tỷ lệ khá cao: 26,84% trong tổng số tiền trả cho
khách. Điều này cho thấy, công ty nên xem xét kỹ tình hình kinh doanh của khách
hàng và các điều khoản đưa ra trong hợp đồng nêu rõ ràng nhằm làm giảm các
khoản nợ quá hạn trong việc trả trước cho khách. Tuy vậy, đến cuối năm 1998,
tổng nợ quá hạn của công ty cũng đã giảm đi đáng kể, trong đó nợ quá hạn của
các khoản trả trước cho khách hàng giảm phần lớn (từ 8,5 tỷ đồng xuống còn 49
triệu đồng) còn nợ quá hạn trong các khoản phải thu khách hàng tăng lên.
Như vậy, ta thấy trong tín dụng thương mại, các khoản nợ tăng lên đồng
thời cũng kéo theo sự tăng lên của nợ quá hạn. Và thường cuối chu kì kinh doanh,
nợ quá hạn sẽ giảm xuống vì lúc đó khách hàng mới trả nợ. Nhưng nhìn chung, nợ
quá hạn của công ty vẫn còn quá cao.
Thêm nữa, trong các khoản phải thu của công ty, còn có những khoản tiền
tranh chấp mất khả năng thanh toán chiếm tỷ trọng lớn trong các khoản phải thu
vẫn chưa được giải quyết, trong đó chủ yếu là sự tranh chấp trong khoản trả trước
cho khách hàng (chiếm khoảng 8 tỷ đồng trong hơn 10 tỷ đồng tiền tranh chấp).
Điều này càng chứng tỏ rằng việc cân nhắc kỹ lưỡng trước khi đặt tiền trước cho
người bán và các điều khoản trong hợp đồng rõ ràng là các yếu tố rất quan trọng
để hạn chế số tiền mất khả năng thanh toán giữa công ty và khách hàng.
Do các khoản phải thu tăng, đồng thời nợ phải trả của công ty cũng giảm từ
115 tỷ đồng xuống còn 93 tỷ đồng dẫn đến tỷ lệ nợ phải thu trên nợ phải trả của
công ty năm 1998 cao hơn năm 1997. Năm 97, tỷ lệ này là 63,47% điều này cho
thấy năm 97 công ty đi chiếm dụng vốn của các đơn vị khác và đi vay là chủ yếu.
Năm 1998, tỷ lệ này đã tăng đang kể 99,57%. Như vậy, trong năm này số tiền
41
khách hàng chiếm dụng của công ty cũng gần bằng số tiền công ty chiếm dụng và
đi vay. Chứng tỏ công việc kinh doanh của công ty đã có nhiều tiến bộ rõ rệt, vốn
dùng cho hoạt động kinh doanh của công ty đã ổn định hơn, giúp cho hoạt động
thanh toán của công ty diễn ra theo đúng kế hoạch, tránh nợ quá hạn, tạo được uy
tín đối với các nhà cung cấp.
Việc công ty mở rộng tín dụng khách hàng đã làm cho kì thu tiền của công
ty tính bình quân các khoản phải thu trên doanh thu bình quân một ngày đã tăng
từ 44 ngày lên 46 ngày. Theo kết quả tính toán, tốc độ tăng doanh thu bán chịu
thực của công ty tăng nhanh hơn tốc độ tăng bình quân các khoản phải thu. Số
ngày trung bình để thu được các khoản phải thu của công ty vẫn là quá lâu gây ra
tình trạng ứ đọng vốn lưu động. Đó cũng là một trong những vấn đề làm giảm đi
hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty trong thời gian qua.
Tóm lại, về tình hình các khoản phải thu của công ty gặp nhiều vấn đề cần
phải được giải quyết kịp thời. Đó là số ngày trung bình để thu được các khoản
phải thu vẫn còn quá cao trong đó một phần nguyên nhân do công ty chưa kiên
quyết trong công tác thu hồi nợ, một phần do các cán bộ kinh doanh thiếu trách
nhiệm trong khâu đánh giá tình hình kinh doanh của khách hàng dẫn đến trường
hợp nợ quá hạn tăng, tỷ lệ rủi ro đối với khoản nợ này là rất lớn. Điều đó cho thấy
công ty cần lưu ý tới việc xét duyệt cho khách hàng được hưởng chính sách tín
dụng thương mại sao cho hợp lí, nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty.
2.4. Đánh giá chung tình hình sử dụng vốn lưu động của công ty.
Qua các chỉ tiêu trên cho thấy sức sản xuất của vốn lưu động năm 1998
tăng cao hơn năm 1997. Nếu như năm 1997, một đồng vốn lưu động bình quân
được bỏ ra chỉ thu lại 3,757 đồng doanh thu thuần nhưng năm 1998, số doanh thu
thuần thu được đã tăng lên 4,408 đồng, tăng 17,32%.
Với sức sinh lợi của vốn lưu động tăng lên theo cả lợi nhuận thuần và lãi
gộp, chứng tỏ rằng hoạt động kinh doanh của công ty đã đi đúng hướng và ngày
càng phát triển. Vòng quay vốn lưu động của công ty năm 1998 tăng hơn năm
1997, như vậy đã làm giảm thời gian một vòng luân chuyển vốn lưu động từ 96
ngày xuống còn 82 ngày. Việc tăng vòng quay vốn lưu động đã giúp công ty tiết
kiệm được lượng vốn lưu động bình quân là:
(82-96)
Số VLĐ tiết kiệm do thay = ----------------- * 148.056,5 = 21.591,57
đổi tốc độ luân chuyển 96
42
Như vậy, thời gian một vòng luân chuyển giảm xuống 14 ngày giúp cho
công ty tiết kiệm được một khoản vốn lưu động bình quân xấp xỉ 21.59 tỉ đồng.
Đây là lượng vốn đáng kể, công ty cần phát huy ưu điểm này.
Trên thực tế, chỉ tiêu hệ số đảm nhiệm vốn lưu động năm 1998 nhỏ hơn
năm 1997 càng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của công ty tăng lên và số vốn tiết
kiệm được cũng tăng lên. Đây là dấu hiệu đáng khích lệ đối với sản xuất kinh
doanh của công ty. Nó cho thấy công ty đã tìm được hướng đi đúng đắn của mình
trong kinh doanh.
Bảng 2.10 Một số chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty
STT Chỉ tiêu 1997 1998 Chênh lệnh
01 Doanh thu thuần 433.758,8 652.700,8 +218.942
02 Vốn lưu động bình quân 115.446,6 148.056,5 +32.609,9
03 Lợi nhuận thuần -1.200 756
04 Lãi gộp 14.394,7 22.713,7 +8.319
05 Sức sản xuất VLĐ (01)/(02) 3,757 4,408 +0,651
06 Sức sinh lợi của VLĐ
Theo lợi nhuận thuần
(03)/(02)
-1% +0,5%
Theo lãi gộp (04)/(02) 12,46% 15,34%
07 Số vòng quay của VLĐ
(01)/(02)
3,757 4,408 +0,651
08 Thời gian một vòng luân
chuyển (ngày)
96 82 -14
09 Hệ số đảm nhiệm VLĐ
(02)/(01)
0,266 0,227
43
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH Ở DNTM
Sử dụng vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh là một khâu có tầm quan
trọng quyết định đến hiệu quả của kinh doanh. Tuy nhiên, việc sử dụng vốn kinh
doanh lại là kết quả tổng hợp của tất cả các khâu, các bộ phận trong sản xuất kinh
doanh, từ phương hướng sản xuất kinh doanh đến các biện pháp tổ chức thực hiện
cũng như quản lý, hạch toán, theo dõi kiểm tra nghệ thuật kinh doanh và cơ hội
kinh doanh. Mục đích của sủ dụng vốn trong sản xuất kinh doanh là nhằm đảm
bảo nhu cầu tối đa về vốn cho việc phát triển sản xuất kinh doanh trên cơ sở
nguồn vốn có hạn được sử dụng một cách hợp lý tiết kiệm đem lại hiệu quả kinh
tế cao nhất. Để đạt được mục đích này yêu cầu cơ bản của sử dụng vốn đó là.
Thứ nhất: Phải đảm bảo sử dụng vốn đúng phương hướng, đúng mục đích
và đúng kế hoạch.
Thứ hai: Chấp hành đúng quy định và chế độ quản lý lưu thông tiền tệ của
Nhà nước.
Thứ ba: Hạch toán đầy đủ, chính xác kịp thời số vốn hiện có về tình hình
sử dụng vốn kinh doanh cuả doanh nghiệp.
I - HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ HOẠCH HOÁ VÀ QUẢN LÝ
Đây là biện pháp chung nhất để tổ chức quản lý sử dụng vốn và là công cụ
chủ yếu nhất để tiến hành quản lý kinh tế. Muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
thì phải quản lý được việc sử dụng vốn.
Vì vậy các doanh nghiệp thương mại cần:
Phân công cán bộ chuyên theo dõi về công tác sử dụng vốn, các khoản thu
chi phát sinh. Cán bộ này phải có năng lực thực hiện công việc. Ngoài việc theo
dõi trong kỳ phải tông hợp được các báo cáo về quá trình sử dụng vốn, phân tích
đầy đủ các nguyên nhân chủ quan, khách quan ảnh hưởng đến sử dụng vốn, phân
tích những điểm hợp lý và bất hợp lý để đưa ra các kiến nghị, biện pháp để khắc
phục tồn tại. Phát huy điểm mạnh một cách kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn.
44
Báo cáo về kế hoạch vốn, chi tiêu thực hiện lập kế hoạch phải có căn cứ cụ
thể rõ ràng, được sự tham gia của tất cả các bộ phận có liên quan để đưa ra những
thông số phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp.
Trong từng kỳ phải tổ chức họp tổng kết, đánh giá tình hình sử dụng vốn và
đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
II - HOÀN THIỆN CÔNG TÁC TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ LAO ĐỘNG
Thật vậy, bất cứ một doanh nghiệp muốn thúc đẩy sản xuất kinh doanh
phát triển đều. Trước tiên phải chú ý đến đó là nguồn nhân lực và sự sắp xếp
nguồn nhân lực đó vào dây truyền sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình
tức là chú ý đến hoạt động tổ chức và sử dụng nguồn nhân lực đó như thế nào.
Một điều hiển nhiên rằng không doanh nghiệp nào có thể phát triển sản xuất kinh
doanh, nếu doanh nghiệp đó có nhà lãnh đạo thiếu trình độ chuyên môn không
quyết đoán, không có khả năng điều hành giải quyết mọi việc.
Do đó, chính sách “ hướng vào con người ” và phát triển nguồn nhân lực
phải được đưa lên vị trí hàng đầu trong các chiến lược và biện pháp quản lý của
Nhà nước và tất cả các doanh nghiệp.
Để thực hiện chính sách cơ bản này các doanh nghiệp cần phải tuân theo
một số nguyên tắc quản lý.
Cơ cấu bộ máy quản lý tinh giảm và gọn nhẹ.
Xây dựng triết lý kinh doanh hướng vào mục tiêu phát triển lâu dài.
Từng doanh nghiệp đề ra triết lý hoạt động của mình để làm sao có hiệu
quả cao.
Hướng vào khách hàng mà phục vụ bằng cách không ngừng nâng cao chất
lượng sản phẩm và đa dạng hoá sản phẩm.
Phát huy sáng kiến và đổi mới đội ngũ cán bộ: Khả năng sáng tạo chính là
nguồn tài sản lớn nhất mà các công ty hiện có nhưng khai thác nó không đơn giản
vì nó không lộ ra ngoài như tiền mặt hay tài sản mà nằm trong bộ não của các nhà
quản lý và đội ngũ nhân viên của họ. Nhưng không một doanh nghiệp nào có khả
năng phát triển lâu bền nếu không biến nguồn tài sản tiềm năng, vô hình này trở
thành hàng hoá và dịch vụ đáp ứng nhu cầu thị trường.
III - CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH
45
1. ĐỐI VỚI VỐN CỐ ĐỊNH
1.1. Các doanh nghiệp cần quản lý chặt chẽ TSCĐ :
Tài sản cố định của doanh nghiệp rất đa dạng, nhiều chủng loại với giá trị
tương đối lớn, lại quản lý không tập trung. Cần có những biện pháp hữu hiệu
nhằm làm giảm mất mát hao mòn và tăng thời gian sử dụng giảm bớt chi phí sửa
chữa dần đến tăng giá trị TSCĐ .
Như vậy đơn vị có nhu cầu về TSCĐ phải đề nghị với lãnh đạo, được lãnh
đạo chấp nhận khi đó kế toán trưởng mới lệnh cho thủ quĩ xuất tiền mua TSCĐ.
Việc xác nhận bàn giao gồm các bộ phận sau:
-Bộ phận nhận.
-Tên tài sản, mã số, ký hiệu, năm sản xuất, nơi sản xuất.
-Ngày tháng nhận, tên người nhận, tên người quản lý.
-Mức thưởng phạt...
Áp dụng mô hình này có một số ưu điểm như: có căn cứ để quản lý xác
định được đơn vị sử dụng, tình hình sử dụng, địa điểm sử dụng và có căn cứ để
xử lý thưởng phạt.
1.2. Tăng sức sản xuất TSCĐ:
Tăng sức sản xuất TSCĐ mà góp phần làm tăng giá trị hao mòn vô hình
đồng thời làm giảm giá thành sản phẩm.
1.3. Nâng cao hiệu suất sử dụng TSCĐ:
Đối với những doanh nghiệp thương mại kinh doanh theo mùa thì sẽ không
sử dụng hết tiềm lực, kho bãi, nhà xưởng bị để không. Số tài sản này có thể cho
thuê nhưng hoạt động này cũng không diễn ra thường xuyên. Vì không phải lúc
nào cũng tìm được người thuê ưng ý.
Trước thực trạng này doanh nghiệp có thể đa dạng hoá các mặt hàng kinh
doanh đồng thời nâng cao hiệu quả của các hoạt động kinh doanh .
Ngoài ra doanh nghiệp có thể khai thác tốt hơn cơ sở kho bãi hiện có thông
qua các hình thức đầu tư liên doanh, mở rộng sản xuất kinh doanh.
1.4. Giảm bớt hao mòn hữu hình và vô hình:
46
Tài sản cố địng bị hao mòn dưới hai dạng: Hao mòn hữu hình và hao mòn
vô hình. Trong quá trình sản xuất cần cứu những biện pháp nhằm giảm bớt tổn
thất cho hao mòn vô hình. Vì vậy trong quá trình sử dụng cần nghiên cứu những
biện pháp nhằm giảm bớt tổn thất hai loại hao mòn gây ra như nâng cao trình độ
sử dụng TSCĐ cả về mặt thời gian và cường độ, nâng cao chất lượng, hạ giá
thành xây lắp TSCĐ, thiết bị tổ chức tốt công tác bảo quản và sửa chữa máy
móc thiết bị, nâng cao ý thức kỹ thuật lao động cho công nhân nhằm thu hồi
nhanh vốn.
Để thu hồi nhanh vốn đầu tư doanh nghiệp có thể nghiện cứu áp dụng
phương pháp khấu hao cố định. Khai thác sử dụng hết công suất máy móc thiết bị
giảm chi phí khấu hao trong giá thành, gán trách nhiệm vật chất cao cho từng
người, từng phân xưởng, phòng ban để có ý thức bảo vệ TSCĐ.
1.5. Thanh lý kịp thời TSCĐ hết thời hạn sử dụng:
Doanh nghiệp phải tiến hành có định kỳ việc kiểm kê và đánh giá lại
TSCĐ. Với những TSCĐ có hiệu suất sử thập như kho bãi, xưởng thường xuyên
để không, không cho thuê được do không có vị trí thuận tiện hoặc những dây
chuyền gia công chế biến sản phẩm đã quá lạc hậu, năng suất lao động thấp thì
nên thanh lý, nhượng bán để đầu tư những TSCĐ khác có hiệu suất sử dụng cao
hơn những TSCĐ đến thời hạn thanh lý mà không được thanh lý kịp thời sẽ làm
tăng chi phí bảo quản, ứ đọng vốn...
Tuy vậy, khi đầu tư mua sắm mới TSCĐ, doanh nghiệp phải xem xét mức
độ cần thiết của tài sản ấy đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trình
độ công nghệ ra sao, hao mòn hữu hình và vô hình như thế nào, lợi nhuận do tài
sản mới đem lại so với chi phí cơ hội cho việc đầu tư tài sản mới.
1.6. Tài sản cố định thuê tài chính:
Hình thức này cho phép các doanh nghiệp thiếu vốn có thể sử dụng máy móc thiết
bị nhưng không phải chủ sở hữu. Nó giúp cho doanh nghiệp không phải bỏ vốn ra để
mua sắm tài sản, tiền vốn không bị ứ đọng trong tài sản cố định.
Phương thức kinh doanh thuê thiết bị máy móc có ba phương thức cơ bản:
*Phương thức leasing: Là phương thức cho thuê dài hạn các hợp đồng có
thể từ 15 năm trở lên, phương thức này thường áp dụng đối với loại thiết bị công
nghiệp, thiết bị toàn bộ.
*Phương thức renting: Là phương thức cho thuê ngắn hạn, hợp đồng có thể
từ 3 đến 7 năm. Phương thức này thích hợp với các thiết tiêu chuẩn hoá: ôtô,
phương tiện vận tải, phương tiện xếp dỡ...
47
*Phương thức thuê mua ( lease - purchase): Có hai loại hợp đồng
(1) Hợp đồng tài chính: là hình thức người cho thuê thiết bị cung cấp tài
chính cho công ty thuê thiết bị, công ty thuê thiết bị sẽ tìm nguồn thiết bị trên thị
trường rồi thông báo cho công ty cho thuê kiểm tra đánh giá và ký hợp đồng mua
để công ty thuê thiết bị thuê lại. Cách này phải có sự hài hòa giữa ba bên.
Hợp đồng tài chính
Ký hợp đồng Thiết bị
mua thiết bị
(2) Hợp đồng thuê sử dụng: được ký kết giữa người chủ sở hữu thiết bị với
người thuê thiết bị, đơn vị đi thuê dài hạn và được bên cho thuê trao quyền quản
lý và sử dụng trong hầu hết thời gian tuổi thọ của tài sản.
Những hình thức trên hiện nay rất đang phổ biến trên thế giới tuy nhiên ở
Việt Nam nó còn rất mới mẻ. Các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ quen với hình
thức mua sắm tài sản thiết bị bằng nguồn vốn của mình.
Nhưng ở Việt Nam hầu như chưa có tổ chức nào đứng ra cho thuê tài sản
cố định, Thuê từ chính trong lĩnh vực hoạt động của công ty vì vậy việc áp dụng
được phương thức này còn rất khó khăn. Tuy nhiên theo quy luật cung cầu: ở đầu
có cầu thì ở đó sẽ có cung đáp ứng. Vì vậy, các doanh nghiệp nên mạnh dạn, tự
mình chủ động tìm đối tác nước ngoài hoặc trong nước. Doanh nghiệp sẽ vừa tiết
kiệm được chi phí vừa thực hiện được công việc của mình, đạt được mục tiêu an
toàn về vốn.
1.7. Sử dụng hợp lý quỹ khấu hao cơ bản:
Công ty leasing Công ty
thuê
Hãng sản xuất
thiết bị
48
Đây là nguồn tự tài trợ có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh nghiệp. Bởi
quỹ này phản ánh độ lớn các khoản khấu hao TSCĐ và gián tiếp phản ánh tốc độ
đổi mới của doanh nghiệp.
Khi một doanh nghiệp muốn nâng cao khả năng cạnh tranh trên thương
trường thì một yếu tố cực kỳ quan trọng có thể giúp công ty thắng được các đối
thủ cạnh tranh là yếu tố công nghệ. Do đó tốc độ khấu hao chậm, các doanh
nghiệp không thể bắt kịp tốc độ phát triển của công nghệ bởi tài cũ chưa khấu hao
hết, nguồn tích luỹ từ khấu hao thấp không đủ để mua máy móc thiết bị mới. Theo
quy định của Bộ Tài Chính tỷ khấu hao cơ bản áp dụng cho các loại TSCĐ giao
động từ 5 - 18%/ năm đây là một tỷ lệ quá thấp, các doanh nghiệp khó có thể tái
đầu tư chiều sâu từ nguồn khấu hao TSCĐ.
Vì vậy, các doanh nghiệp cần đặt ra kế hoạch khấu hao nhanh những tài
sản có giá trị, có công nghệ cao. Tuy điều cũng còn rất nan giải do vấp phải vấn
đề khấu hao nhanh sẽ kéo theo tăng giá thành sản phẩm, dẫn đến cầu sản phẩm
giảm, giảm doanh thu.
Việc sử dụng quỹ khấu hao cơ bản vào hoạt đông sản xuất kinh doanh cần
được xem xét kỹ lưỡng, khoản tiền này so với vốn kinh doanh của doanh nghiệp
chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ, nhưng nó cần phải được bảo toàn và phát triển để đảm
bảo doanh nghiệp có thể đầu tư được máy móc thiết bị mới. Hơn nữa,vốn dùng
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vẫn còn phải đi vay thì
việc đưa khoản tiền này vào kinh doanh là hợp lý, hiệu quả sử dụng vốn sẽ được
cải thiện đáng kể.
2. ĐỐI VỚI VỐN LƯU ĐỘNG
Mục đích của quản lý vốn lưu động là làm thế nào để đạt hiệu quả tốt nhất
trong việc sử dụng vốn lưu động. Để đạt được mục tiêu này, các nhà quản lý tài
chính doanh nghiệp cần trả lời những cầu hỏi sau: Doanh nghiệp nên sử dụng một
lượng tiền mặt là bao nhiêu? Doanh nghiệp có nên bán chịu hay không? Nên bán
chịu cho những loại đối tượng nào? Đơn vị nên đi vay để trả tiền ngay hay nên
mua chịu? Nếu đi vay thì vay như thế nào và ở đâu...? Nói chung có rất nhiều câu
hỏi đặt ra cho công tác quản lý vốn lưu động.
2.1 Quản lý dự trữ:
Một trong những vấn đề quan trọng đặt ra cho công tác quản lý vốn lưu
động là cần xác định cho được mức dự trữ tiền mặt một cách hợp lý và có hiệu
quả nhất. Tuy nhiên các nhà kinh tế cho rằng để tìm được mức dự trữ tiền mặt
một cách hợp lý thì trước hết cần phải dựa vào mức dự trữ vật tư. Mức dự trữ vật
tư hợp lý sẽ quyết định mức cân đối tiền mặt hợp lý.
49
Giả sử rằng, một doanh nghiệp đã xác định nhu cầu bán ra trong một năm
của một loại hàng hoá là 100 đơn vị mà nhập làm nhiều lần. Giả định rằng, mỗi
lần cửa hàng nhập số lượng là Q thì nghĩa là trong một năm doanh nghiệp phải
nhập 100/Q lần. Trước khi nhập sản phẩm doanh nghiệp có dự trữ bằng 0 ( bởi vì
bán hết doanh nghiệp mới nhập tiếp ). Sau khi nhập, cửa hàng có dự trữ bằng Q.
Vậy mức dự trữ bình quân của cửa hàng là :
Q
Mức dự trữ bình quân = --------
2
Dự trữ cũng sinh ra những chi phí nhất định. Có thể chia chi phí dự trữ
thành 2 loại:
-Loại thứ nhất bao gồm chi phí của vốn đầu tư vào dự trữ và các chi phí
khác như kho tàng, chúng ta có thể coi loại chi phí này là chi phí cơ hội.
-Loại chi phí thứ hai là chi phí đặt hàng. Giả sử mỗi lần doanh nghiệp đặt
hàng phải mất một khoản chi phí cố định để làm thủ tục là X. Ta có thể thấy rằng quy mô
của mỗi lần đặt hàng tăng lên sẽ làm tổng chi phí đặt hàng giảm đi. Mức giảm di của tổng
chi phí đặt hàng phụ thuộc vào quy mô đặt hàng bình quân.
Số lượng hàng bán chi phí cho mỗi lần
Mức giảm cận biên trong năm đặt hàng
của chi phí đặt hàng = ----------------------------------------------------
Q2
Mối quan hệ giữa quy mô của mỗi lần đặt hàng và tổng chi phí đặt hàng
của doanh nghiệp được thể hiện thông qua bảng sau:
Quy mô của mỗi lần
đặt hàng
Số lần đặt hàng trong
năm
Tổng chi phí đặt hàng
1
2
3
100
50
33.3
100X
50X
33.3X
50
4
.
.
10
.
.
100
25
.
.
10
.
.
1
25X
.
.
10X
.
.
1X
Nhìn vào bảng trên ta thấy khi doanh nghiệp tăng qui mô cho mỗi lần đặt
hàng thì số lần đặt hàng giảm đi nhưng mức dự bình quân tăng lên. Như vậy, có
hai tác động xảy ra:
Chi phí đặt hàng giảm đi khi số lần đặt hàng giảm đi.
Chi phí cơ hội tăng lên khi số lần đặt hàng giảm đi ( bởi nhiều mức dự trữ
tăng lên ) .
Vậy qui mô đặt hàng tối ưu sẽ là điểm mà tại đó hai tác động trên loại trừ
lẫn nhau một cách hoàn toàn. Khi đó, mức giảm cận biên của chi phí đặt hàng sẽ
bằng chi phí cơ hội cận biên. Tức là :
Mức tiêu thụ chi phí một lần đặt hàng Chi phí cơ hội
------------------------------------------------ = ----------------------
Q2 2
Vậy quy mô tối ưu cho một lần đặt hàng là:
2 * mức tiêu thụ * chi phí cho một lần đặt hàng
Q = ------------------------------------------ --------------------
chi phí cơ hội của một đơn vị dự trữ
Cũng có một cách tiếp cận khác để xác định mức dự trữ tối ưu là so sánh
giữa chi phí cơ hội của dự trữ với chi phí cơ hội do thiếu dự trữ. Khi doanh
nghiệp dự trữ càng nhiều thì chi phí cơ hội càng cao ( bởi vì tiền dùng vào dự trữ
sẽ bị mất lãi suất nếu như nó được dùng để đầu tư vào một lĩnh vực nào đó). Tuy
51
nhiên, dự trữ là cần thiết bởi vì nếu không có dự trữ hoặc dự trữ không đủ sẽ dẫn
đến ngừng sản xuất kinh doanh và gây ra chi phí rất lớn. Như vâỵ chúng ta thấy
rằng có hai tác dụng ngược chiều nhau đó là chi phí cơ hội và chi phí do thiếu dự
trữ.
Mức dự trữ tối ưu sẽ được xác định khi hai tác dụng ngược chiều này triệt
tiêu nhau hoàn toàn.
2.2 Quản lý tiền mặt:
Giả sử rằng doanh nghiệp có một lượng tiền mặt và phải dùng nó để trả cho
các hoá đơn một cách đều đặn. Khi lượng tiền mặt đã hết, doanh nghiệp phải bán
các tín phiếu kho bạc để có một tiền mặt như thời kỳ đầu. Chi phí cơ hội của việc
gữi tiền mặt chính là chi phí để bán các tín phiếu kho bạc.
Vậy làm như thế nào để doanh nghiệp có thể quản lý được việc cân đối tiền
mặt của nó nếu như doanh nghiệp không thể dự đoán được mức thu chi ngân
sách hàng ngày? Chúng ta sẽ xem xét mô hình của Miler – Orr
Mức cân đối tiền mặt
Giới hạn trên
Mức tiền theo mặt thiết kế
Giới hạn dưới
> thời gian
Nhìn vào đồ thị trên ta thấy mức cân đối tiền mặt dao động lên xuống
không thể nào dự đoán được cho đến khi nó đạt được mức giới hạn trên. Tại giới
hạn trên doanh nghiệp có thể sử dụng số tiền vượt quá mức tiền theo thiết kế để
mua chứng khoán và cân đối tiền mặt trở về mức dự kiến. Với quá trình hoạt
52
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cân đối tiền mặt lại tiếp tục dao động
cho đến khi tụt xuống giới hạn dưới là điểm mà doanh nghiệp cần phải có sự bổ
sung tiền mặt để đáp ứng chi những hoạt động cần thiết, do vậy tại giới hạn dưới
doanh nghiệp phải bán chứng khoán để có một lượng tiền mặt ở mức dự kiến.
Như vậy mô hình này cho phép việc nắm giữ tiền mặt ở những mức độ hoàn toàn
tự do trừ phi nó đạt đến điểm giới hạn trên hoặc dưới. Tại giới hạn trên hoặc dưới
doanh nghiệp sẽ điều chỉnh bằng cách mua hoặc bán chứng khoán để có mức tiền
mặt theo như thiết kế ban đầu.
Doanh nghiệp nên để mức cân đối tiền mặt dao động trong khoảng nào đó.
Mô hình này chỉ ra rằng khoảng dao động của mức cân đối tiền mặt phụ thuộc
vào ba yếu tố. Nếu như mức dao động của thu chi ngân quĩ hàng năm rất lớn
hoặc là chi phí cố định của việc mua hoặc bán chứng khoán cao thì doanh nghiệp
nên quy định khoảng dao động tiền mặt lớn. Ngược lại, nếu như mức lãi suất cao,
thì doanh nghiệp nên thu hẹp khoảng dao động tiền mặt.
Mức tiền mặt theo thiết kế được xác định như sau:
Mức tiền mặt theo
thiết kế
= Mức tiền mặt giới
hạn dưới
+ Khoảng dao động tiền mặt
3
Mô hình của Miler - Orr trên đây chỉ ra rằng : Nếu doanh nghiệp luôn luôn
duy trì được mức cân đối tiền mặt theo như thiết kế ban đầu thì doanh nghiệp sẽ
tối thiểu hoá được chi phí giao dịch và chi phí do lãi suất gây ra.
Trên thực tế, việc sử dụng mô hình Miler - Orr rất dễ dàng. Bước doanh
nghiệp cần xác định giới hạn dưới của cân đối tiền mặt. Giới hạn dưới có thể
bằng 0 cũng có thể lớn hơn 0 để đảm mức an toàn tối thiểu. Bước thứ hai doanh
nghiệp cần phải ước tính phương sai của thu chi ngân quỹ. Bước thứ ba là bước
quan sát lãi suất và giao dịch của mỗi lần mua và bán chứng khoán. Bước cuối
cùng là tính toán giới hạn trên và mức tiền mặt theo thiết kế đồng thời đưa ra
những thông tin để các nhân viên tài chính thực hiện chiến lược kiểm soát theo
giới hạn được xác định.
2.3 Quản lý tín dụng thương mại:
Trên thực tế, doanh nghiệp bán sản phẩm mình cho các doanh nghiệp khác
hoặc các cơ quan Nhà nước nhưng không thu được tiền ngay. Các hoá đơn chưa
trả tiền được gọi là tín dụng thương mại. Các khoản tín dụng thương mại này tạo
thành các khoản phải thu của doanh nghiệp. Do vậy, quản lý tín dụng thương mại
là quản lý các khoản phải thu - một trong nhiệm vụ quan trọng của quản lý vốn
lưu động.
53
Những tác động của chính sách tín dụng thương mại:
Tác động của doanh thu: Nếu doanh nghiệp bán chịu( tức là cấp tín dụng
thương mại cho người mua) thì tất nhiên doanh nghiệp sẽ bị chậm trễ trong việc
thu tiền, trong khi đó người mua lại có lợi trong việc trả tiền chậm. Tuy nhiên
doanh nghiệp có thể bán với giá cao hơn nếu doanh nghiệp cấp tín dụng cho
người mua và điều này có thể làm tăng lượng hàng bán được, do đó tổng doanh
thu có thể tăng lên.
Tác động của chi phí: Khi doanh nghiệp cấp tín dụng cho người mua thì
không thu tiền ngay. Trong trường hợp doanh nghiệp bán và thu tiền ngay cũng
có những chi phí nhất định ( bởi vì doanh nghiệp phải chấp nhận giá thấp hơn
).Việc chọn phườn thức bán thu tiền ngay hay phương thức bán chịu là việc
doanh nghiệp cần phải cân nhắc . Dù theo phương thức nào đi chăng nữa thì
doanh nghiệp đều phải tốn phí cho nợ.
-Chi phí của nợ nần: Khi doanh nghiệp cấp tín dụng thương mại cho người
mua thì doanh nghiệp cần phải sắp xếp những hoạt động tài chính có liên quan
đến các khoản phải thu. Như vậy, chi phí vay ngắn hạn của doanh nghiệp sẽ là
một nhân tố quyết định xem doanh nghiệp có nên cấp tín dụng thương mại cho
người mua hay không?.
-Xác suất trả tiền của người mua: Nếu doanh nghiệp cấp tín dụng cho
người mua thì cũng có một khả năng nhỏ là người mua không trả tiền. Tất nhiên
điều này sẽ không xảy ra trong trường hợp doanh nghiệp bán và thu tiền ngay.
-Chiết khấu tiền mặt: Khi doanh nghiệp áp dụng chiết khấu tiền mặt như là
một bộ phận trong các điều khoản tín dụng thương mại của doanh nghiệp, thì một
số khách hàng sẽ lựa chọn việc trả tiền sớm để giành được lợi thế của chiết khấu.
Vì vậy, doanh nghiệp cần phải xem xét khi nào thì nên cấp tín dụng thương
mại cho khách hàng.
Xét trong trường hợp đơn giản: Có một khách hàng mới muốn mua một sản
phẩm theo phương thức bán chịu với giá P’/ sản phảm. Nếu như doanh nghiệp từ
chối việc bán chịu thì người khách hàng này sẽ không nữa. Giả định, doanh
nghiệp bán chịu cho khách hàng thì một tháng sau người khách hàng này có thể
trả tiền và cũng có thể không trả tiền. Xác suất để khách hàng này không trả tiền
là p. Trong trường hợp này xác suất p có thể được coi là tỷ lệ phần trăm của
những khách hàng mới sẽ không trả tiền. Trong hoạt động kinh doanh, giả định
khách hàng chỉ mua hàng một lần. Cuối cùng doanh lợi đòi hỏi về các khoản phải
thu là k/tháng, chi phí của các khoản phải thu là v/ sản phẩm.
54
Nếu như doanh nghiệp không bán chịu cho khách hàng thì thu tăng thêm
vào ngân quỹ là bằng 0. Nếu doanh nghiệp bán chịu cho khách hàng thì doanh
nghiệp phải mất một khoản chi phí biến đổi là v trong tháng này và trờ để được (1-
p)* P’ trong tháng sau. Giá trị hiện tại thuần của cấp tín dụng thương mại này là:
(1- p)* P’
NPV = -v + ------------
(1 + R)
Với V = 20 đơn vị, R = 0,02 ; P’ = 50 và tỷ lệ khách hàng không trả tiền là
p = 20% , ta có:
( 1 - 0,2 ) * 50
NPV = -20 đơn vị + ___________________ = 19,22 ( đơn vị )
( 1 + 0,2 )
Như vậy, công ty nên cấp tín dụng thương mại cho khách hàng. Đối với
khách hàng mới thì doanh nghiệp có thể cấp tín dụng kể cả trong trường hợp xác
suất để khách hàng không trả tiền là cao. Xác suất để doanh nghiệp hoà vốn trong
trường hợp này có thể được xác định bằng việc đặt NPV = 0 và từ đó tìm được
giá trị của T:
( 1- p ) * 50
NPV = -20 đv + __________________ = 0
( 1 + 0,02 )
ị p = 0,592 = 59,2%
Doanh nghiệp sẽ mở rộng việc bán hàng theo phương thức tín dụng thương
mại cho đến khi cơ hội thu được trên chỉ còn:
( 1- 0,592 ) = 0,408 = 40,8%
Trong phân tích tín dụng thương mại, trước khi đi đến quyết định có nên
cấp tín dụng thương mại cho khách hàng hay không, doanh nghiệp cần phải đánh
giá tín dụng và cho điểm tín dụng.
-Năm yếu tố để đánh giá tín dụng thương mại:
55
Đặc điểm: sự sẵn sàng của khách hàng trong việc thực hiện nghĩa vụ của
tín dụng thương mại.
Năng lực: khả năng của khách hàng để thực hiện nghĩa vụ tín dụng thương
mại.
Vốn: dự trữ tài chính của khách hàng.
Tài sản thế chấp: tài sản cam kết dùng để thế chấp trong trường hợp vỡ nợ.
Các điều kiện: các điều kiện kinh tế nói chung trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của khách hàng.
-Cho điểm tín dụng: Đây là hoạt động để đánh giá khách hàng một cách cụ
thể dựa trên những thông tin thu được nhằm đưa ra quyết định là sẽ bán chịu cho
khách hàng hay từ chối việc bán chịu. Người ta có thể cho điểm từ 1 cho tới 10.
Điểm 1 là rất tồi và điểm 10 là rất tốt. Ở một số nước, các doanh nghiệp cho điểm
theo từng yếu tố trong 5 yếu tố kể trên. Điểm số để xem có cấp tín dụng thương
mại hay không là tổng số điểm đã cho đối với 5 yếu tố để xem xét tín dụng
thương mại. Theo kinh nghiệm của một số nước, nếu khách hàng đạt từ 30 điểm
trở lên thì doanh nghiệp nên cấp tín dụng thương mại cho khách hàng.
IV - HOÀN THIỆN CHƯƠNG TRÌNH MARKETING
Thực hiện tốt chương trình Marketing đó là qui trình từ phân tích khả năng
thị trường, soạn thảo chương trình Marketing-Mix đến việc tiến hành hoạt động
Marketing cụ thể. Đây là điều kiện đảm bảo tiêu thụ hàng hoá với khối lượng lớn,
thời gian nhanh, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến vòng quay của vốn, tới thời
gian chu chuyển. Để thực hiện một chu trình Marketing hiệu quả, điều đầu tiên và
quan trọng nhất là trong mọi doanh nghiệp phải thiết lập được cơ cấu tổ chức
trong bộ phận Marketing thích hợp, có đội ngũ làm Marketing giỏi, sau đó xây
dựng chiến lược Marketing cụ thể cho từng giai đoạn.
Dưới áp lực ngày càng tăng lên một cách mạnh mẽ của cạnh tranh, trong
điều kiện của một nền kinh tế dư thừa hàng hoá, khả năng tiêu thụ hàng hoá của
doanh nghiệp ngày càng khó khăn phức tạp hơn, dự trữ trong sản xuất kinh doanh
ngày càng lớn hơn. Để tìm kiếm khả năng tốt hơn, chắc chắn hơn và hạn chế rủi
ro đến mức cao nhất có thể được doanh nghiệp cần phải có cách thức tiếp cận và
chinh phục khách hàng theo tư tưởng định hướng Marketing.
Tư tưởng kinh doanh định hướng Marketing bao gồm:
Định hướng mục tiêu: thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Mục tiêu
cuối cùng của hoạt động kinh doanh luôn được xác định là lợi nhuận. Để đạt được
56
mục tiêu này thì nhà kinh doanh bắt buộc phải thực hiện tốt các mục tiêu trung
gian: tiêu thụ được sản phẩm, mục tiêu này cũng nhằm đảm bảo lợi ích của tổ
chức.
Tiêu thụ sản phẩm tốt khi doanh nghiệp có khả năng thoả mãn tốt nhu cầu
của khách hàng. Khi đã xác định mục tiêu thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách
hàng, các mục tiêu cụ thể: chất lượng, giá cả ... sẽ có một định hướng cụ thể để
thoả mãn. Các chính sách về sản phẩm, giá cả, quảng cáo, sẽ có đối tượng cụ thể
để phát triển, sẽ đúng hơn và có tiềm năng hấp dẫn hơn.
Mục tiêu thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng đặt ra yêu cầu cho nội
dung “dự đoán” trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài các thông
tin khác của thị trường có ảnh hưởng chung đến hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, để hiểu được khách hàng và chinh phục họ cần nắm vững các thông tin cơ
bản:
+ Nhu cầu của khách hàng và xu hướng vận động.
+ Cách thức ứng xử và hành vi mua sắm của khách hàng.
+ Các tác nhân kích thích và các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và
xu hướng vận động của nhu cầu cũng như quá trình ra quyết định mua hàng của
khách hàng.
Định hướng chiến lược trong hoạt động thương mại: Cơ hội để thành
công trong thương mại xuất phát và nằm ở khách hàng với nhu cầu của họ. Trong
điều kiện của kinh tế thị trường, nhu cầu của khách hàng rất đa dạng, liên tục thay
đổi và phát triển. Để có thể thỏa mãn đúng và tốt nhu cầu của khách hàng, nhà
kinh doanh không phải chỉ nắm vững mà còn phải thích ứng một cách kịp thời với
sự phát triển nhu cầu của họ.
Trong hoạt động thương mại, luôn xuất hiện hai nhóm tham số cơ bản vận
động theo các tốc độ khác nhau nhưng liên hệ chặt chẽ với nhau:
+ Nhóm 1: nhóm tham số thuộc môi trường kinh doanh: thị trường,
khách hàng với nhu cầu của họ ...
+ Nhóm 2: nhóm tham số thuộc doanh nghiệp.
Trong thực tế, nhóm 1 luôn là các tham số động, liên tục biến động và thay
đổi ; nhóm 2 luôn mang yếu tố của các tham số tĩnh, không dễ thay đổi, ví dụ:
mục tiêu, chiến lược và nhất là các tham số tổ chức, quản lý ...
57
Sự vận động không đồng thời dẫn đến sự khác biệt giữa nhóm một và
nhóm hai và đó là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự không
thành công trong kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm.
Về nguyên tắc, để giành và đạt đến cơ hội tiêu thụ, nhà kinh doanh phải
điều chỉnh các yếu tố thuộc nhóm hai một cách hợp lý, kịp thời và tương thích với
nhóm một. Giải pháp để có thể giải quyết mâu thuẫn giữa hai nhóm cho đến nay
chỉ có thể là kinh doanh được thực hiện theo định hướng mang tính chiến lược.
Một chiến lược dài hạn được xác định một cách khoa học dựa trên việc
nghiên cứu khoa học nhu cầu và dự đoán chính xác xu hướng vận động của nhu
cầu để thoả mãn nhu cầu của khách hàng trong kinh doanh.
Quan điểm thương mại theo hệ thống:
Sản xuất kinh doanh là một quá trình phức tạp bao gồm nhiều khâu, nhiều
bộ phận, nhiều yếu tố có mối liên hệ biện chứng với nhau và có ảnh hưởng đến
nhau cũng như cùng có ảnh hưởng chung đến kết quả cuối cùng của toàn bộ quá
trình là tiêu thụ và lợi nhuận. Từng khâu, từng bộ phận có vai trò khác nhau và
đều có tác động tích cực, tiêu cực đến kết quả chung. Khi giải quyết tốt từng
khâu, từng bộ phận, từng yếu tố không có nghĩa là sẽ có một kết quả chung cũng
tốt. Điều này cũng có thể xảy ra, nhưng nếu không có định hướng chung đúng sẽ
hoàn toàn mang tính tự phát, cục bộ. Như vậy cần:
+ Sắp xếp, đặt đúng vị trí và liên kết toàn bộ các khâu, các bộ phận, các
yếu tố trong một hệ thống kinh doanh thống nhất.
+ Giải quyết các mục tiêu từng khâu, từng bộ phận phải đặt trong hệ
thống mục tiêu chung.
58
V - CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP
Cổ phần hoá doanh nghiệp là một biện pháp tích cực trong việc huy động
cũng như sử dụng vốn bởi hình thức này giúp doanh nghiệp tập trung được nhân
tài phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Thực chất của cổ phần
hoá là nhằm chuyển hình thức kinh doanh một chủ với sự sở hữu Nhà nước toàn
phần trong doanh nghiệp thành Công ty cổ phần hay hỗn hợp Nhà nước-tư nhân
hoặc Công ty cổ phần tư nhân và tạo điều kiện xác lập tài chính mà cốt lõi là thị
trường chứng khoán để chuyển phương thức vay mượn từ ngân hàng sang huy
động vốn từ thị trường tài chính.
Theo nghị định số 44/1998/NĐ-CP thì mục tiêu việc chuyển doanh nghiệp
Nhà nước thành công ty cổ phần nhằm các mục tiêu sau:
1.Huy động vốn của toàn xã hội bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc
làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh
nghiệp Nhà nước.
2.Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và
những người đã góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý, tạo
động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản của Nhà
nước, nâng cao thu nhập cho người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất
nước.
Mục tiêu
(Thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng)
Dự đoán
(Nhu cầu và Xu hướng vận động nhu cầu của khách
hàng
59
Với hai mục tiêu được nêu ra trong chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp
đã tạo ra một mô hình doanh nghiệp hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường và đáp
ứng được các yêu cầu trong kinh doanh hiện đại.
Mô hình công ty cổ phần đã đem lại những đặc điểm mới, cho phép thích
ứng với những đòi hỏi của sự phát triển nền kinh tế thị trường mà những hình thức
khác không thể đáp ứng được.
Xét về mặt pháp lý, công ty cổ phần là một tổ chức kinh doanh có tư cách
pháp nhân mà vốn kinh doanh do nhiều người đóng góp dưới hình thức cổ phần.
Khác với doanh nghiệp chung vốn, các cổ đông-người cấp vốn cho công ty chỉ
chịu trách nhiệm với các cam kết từ tài chính của công ty trong giới hạn số tiền
mà họ đóng góp dưới hình thức mua cổ phiếu, nghĩa là các cổ đông chỉ chịu trách
nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số tiền mà họ bỏ ra. Như vậy,
nhờ đặc điểm hình thức công ty cổ phần mà mọi cổ đông bây giờ chỉ chịu trách
nhiệm pháp lý hữu hạn và công ty là hình thức pháp lý đầy đủ thuận lợi để kinh
doanh tìm kiếm lợi nhuận, đã góp phần khắc phục được phần lớn các lo ngại đặt
ra cho hình thức kinh doanh chung vốn. Nó bổ sung cho doanh nghiệp một hình
thức pháp lý gần như hoàn hảo để huy động những số lượng vốn lớn trong xã hội.
Xét về mặt huy động vốn, công ty cổ phần đã giải quyết hết sức thành
công. Bởi vì với số tiền nhờ dành dụm được của nhiều gia đình nếu để riêng
không đủ lập một doanh nghiệp nhỏ thì rõ ràng sự có mặt của công ty cổ phần đã
tạo điều kiện cho họ có cơ hội đầu tư một cách có hiệu quả
Xét về mặt hiệu quả, Công ty cổ phần cũng có những thế mạnh hơn hẳn,
bởi bộ máy doanh nghiệp gọn nhẹ, gồm những thành viên năng động sáng tạo, dễ
thích nghi với cơ chế thị trường hiện nay.
Theo báo cáo của Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Trung Ương đến ngày
19/3/1999, trong cả nước có 150 doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hóa xong,
và chuyển sang công ty cổ phần. Từ ngày 19/3/1999, Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành hàng loạt quyết định phê duyệt danh sách doanh nghiệp Nhà nước tiến
hành cổ phần hóa trong năm 1999. Các doanh nghiệp thuộc Bộ Thương mại (đợt
1) có 19 doanh nghiệp trong đó 4 doanh nghiệp chuyển từ 1998 sang.
Để khuyến khích các doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang hình thức công
ty cổ phần, theo điều 13 của Nghị định 44 CP qui định các doanh nghiệp cổ phần
được hưởng những ưu đãi sau:
Doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần là hình thức đầu tư
mới, được hưởng những ưu đãi theo qui định của luật khuyến khích đầu tư trong
nước.
60
Trường hợp những doanh nghiệp không đủ điều kiện hưởng ưu đãi theo qui
định của luật khuyến khích đầu tư trong nước thì được giảm 50% thuế lợi tức
(Thuế thu nhập doanh nghiệp) trong 2 năm liên tiếp kể từ sau khi chuyển sang
hoạt động theo luật công ty.
Được miễn lệ phí trước bạ đối với việc chuyển những tài sản thuộc quyền
quản lý và sử dụng của doanh nghiệp Nhà nước thành sở hữu của công ty cổ
phần.
Được tiếp tục vay vốn tại Ngân hàng thương mại, công ty tài chính, các tổ
chức tín dụng khác của Nhà nước theo cơ chế và lãi suất như đã áp dụng đối với
doanh nghiệp Nhà nước.
Được tiếp tục xuất nhập khẩu hàng hoá theo các chế độ qui định hiện hành
như đối với doanh nghiệp Nhà nước trước khi cổ phần hoá.
Trước khi cổ phần hóa được chủ động sử dụng số dư quỹ khen thưởng và
quỹ phúc lợi (bằng tiền) chia cho người lao động đang làm việc (không phải nộp
thuế thu nhập) để mua cổ phần.
Các khoản chi phí thực tế, hợp lý và cần thiết cho quá trình chuyển doanh
nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần được trừ vào tiền bán cổ phần thuộc vốn
Nhà nước theo mức qui định của Bộ Tài chính.
Trong thời gian qua, các doanh nghiệp Nhà nước còn triển khai chậm công
tác cổ phần hoá do một số nguyên nhân. Vì vậy, Chính phủ cần xem xét và tiếp
tục đổi mới chế độ và chính sách cổ phần hoá.
VI - GIẢI PHÁP VỀ PHÍA NHÀ NƯỚC
Mỗi doanh nghiệp là một hạt nhân của nền kinh tế, chịu sự điều khiển
chung của các cơ quan Nhà nước. Để doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu
quả thì sự điều chỉnh này phải có mục đích đúng đắn, đảm bảo sự công bằng, tạo
ta môi trường thuận lợi ... Trong giai đoạn đầu của quá trình Công nghiệp hoá,
Hiện đại hoá, nhu cầu về vốn để đổi mới công nghệ và phát triển của các doanh
nghiệp là rất lớn. Vì vậy Nhà nước cần phải có giải pháp cho vấn đề vốn ở các
doanh nghiệp Nhà nước nói chung và doanh nghiệp thương mại nói riêng.
Khơi nguồn tạo dòng vốn đầu tư:
Để hình thành và thúc đẩy các nguồn vốn đầu tư cho doanh nghiệp Nhà
nước, Chính phủ cần ban hành đồng bộ, đầy đủ cơ chế chính sách về huy động
vốn để tạo ra hành lang pháp lý cho doanh nghiệp Nhà nước thực hiện việc huy
động vốn.
61
Đối với ngân hàng và các tổ chức tín dụng: Nhà nước cần có chính sách lãi
suất tiền vay hợp lý, phù hợp với tình hình thực tế hiện tại của các doanh nghiệp ;
có chính sách chú trọng việc mở rộng vay dài hạn để doanh nghiệp vừa có khả
năng đổi mới công nghệ thiết bị, vừa cân đối khả năng trả nợ ... Muốn vậy, Nhà
nước cần tiếp tục cải cách chính sách tiền tệ, tạo ra điểm gặp nhau giữa cung và
cầu về vốn, mục tiêu chính là giải quyết 3 vấn đề: chính sách lãi suất, tỷ giá và
quản lý ngoại hối.
Đối với các tổ chức xã hội và đoàn thể: khuyến khích các tổ chức xã hội
(Bảo hiểm xã hội và các công ty bảo hiểm thương mại ...) tham gia cho các doanh
nghiệp vay vốn để tận dụng nguồn vốn nhàn rỗi của các cơ quan này, đồng thời
mở rộng thị trường vốn trong nước, đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư của doanh nghiệp
Nhà nước.
Đối với quần chúng nhân dân, người lao động: xây dựng một chính sách
huy động vốn cụ thể, trong đó, qui định lãi suất trần, hình thức vay, trả ... Nếu
gắn lợi ích của người lao động với hình thức huy động vốn như việc làm, thu nhập
...
Đối với khu vực doanh nghiệp:
Khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng hình thức thuê, mua vận hành.
Đây là những giải pháp thích hợp cho doanh nghiệp thiếu vốn muốn đầu tư đổi
mới công nghệ, thiết bị. Song, để áp dụng hình thức này, chúng ta cấn hình thành
những công ty cho thuê mua có chức năng hỗ trợ doanh nghiệp trong việc lựa
chọn bạn hàng, đánh giá tốt chất lượng máy móc thiết bị ... (hiện tại, hình thức
này đã xuất hiện ở Việt Nam nhưng chưa thực sự phổ biến).
Thực hiện việc liên doanh, liên kết giữa doanh nghiệp Nhà nước với các
thành phần kinh tế khác để thu hút nguồn tài chính, trình độ quản lý, công nghệ
của những đối tác này. Song có một vấn đề mà Nhà nước cần quan tâm là quyền
lợi của các doanh nghiệp trong liên doanh. Hiện tại, hình thức liên doanh mới
được triển khai đối với đối tác nước ngoài nhưng quyền lợi của phía Việt Nam
vẫn còn nhỏ, luôn bị các đối tác nước ngoài chèn ép. Hình thức liên doanh, liên
kết giữa doanh nghiệp Nhà nước với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
trong nước chưa được phát triển. Đây cũng là một vấn đề cần phải được chú
trọng trong thời gian tới.
Cho phép những doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả vay lại những
nguồn vốn viện trợ của nước ngoài.Chính phủ cần phải xúc tiến, đẩy mạnh việc
thị trường chứng khoán để tạo môi trường cho việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu
để huy động vốn cho doanh nghiệp.
62
Tiếp tục sắp xếp, củng cố khu vực doanh nghiệp Nhà nước, đẩy mạnh
công tác cổ phần hoá. Việc sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp Nhà nước thời gian
qua đã có những bước tiến đáng mừng: thu hẹp lại khu vực doanh nghiệp Nhà
nước, nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này. Trong thời gian tới,
Nhà nước phải tiếp tục rà soát, chấn chỉnh các doanh nghiệp Nhà nước, mạnh dạn
cho giải thể, phá sản những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, những doanh
nghiệp có mức vốn thấp hơn qui định. Tiếp tục đẩy mạnh công tác cổ phần hoá
trong thời gian tới cần phải xem là nhiệm vụ bắt buộc đối với các cán bộ, ngành,
địa phương và đối với các doanh nghiệp thuộc diện cổ phần hoá. Bên cạnh việc tổ
chức tuyên truyền để quần chúng hiểu rõ hơn về cổ phần hoá, cần lấy ý kiến từ
các công ty cổ phần, từ các địa phương để hoàn thiện cơ chế, chính sách về cổ
phần hoá, đồng thời đổi mới thủ tục xét duyệt đề án cổ phần hóa để rút ngắn thời
gian thực hiện, tránh sự hoài nghi, chán nản của người lao động và của các nhà
đầu tư.
Sử dụng và quản lý tốt nguồn vốn trong doanh nghiệp:
Để thực hiện tốt công tác này phải có sự kết hợp từ hai phía: Nhà nước và
doanh nghiệp, trong đó khuyến khích nâng cao tinh thần trách nhiệm của doanh
nghiệp (cá nhân và tập thể cán bộ, công nhân viên), Nhà nước chỉ đóng vai trò
giám sát:
Nhà nước cần sớm triển khai việc đánh giá hệ số tín nhiệm đối với các
doanh nghiệp để từ đó áp dụng những ưu đãi với mức độ khác nhau đối với từng
doanh nghiệp, những doanh nghiệp có hệ số tín nhiệm cao sẽ được ưu tiên vay
vốn trước, vay với số lượng lớn, trong trường hợp cần thiết có thể lấy uy tín làm
yếu tố đảm bảo vay.
Bất kỳ một dự án vay vốn nào của doanh nghiệp đều phải được xem xét
tính hiệu quả và khả năng trả nợ mới được phép triển khai. Tăng cường công tác
hoạt động kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện những sai phạm trong việc huy
động vốn doanh nghiệp, việc lập đề án, việc sử dụng vốn, việc tích luỹ vốn trả nợ.
Cơ quan quản lý doanh nghiệp cần xây dựng những nguyên tắc kiểm tra,
kiểm soát, thường niên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, chế độ giám sát
tình hình sử dụng và huy động vốn tại doanh nghiệp, có ý kiến kịp thời trước sự
thay đổi nguồn vốn tại doanh nghiệp, phải gắn quyền lợi và trách nhiệm của cán
bộ quản lý doanh nghiệp trước sự thiếu hụt, mất mát tài sản, tiền vốn.
63
KẾT LUẬN
Hoạt động trong nền kinh tế thị trường, đối với bất cứ mọi loại hình doanh
nghiệp nào, thuộc mọi thành phần kinh tế, điều kiện tiên quyết để cho doanh
nghiệp có thể hoạt động được là phải có vốn sản xuất kinh doanh.
Với sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay, các doanh nghiệp muốn đứng
vững thì bằng mọi cách phải sử dụng có hiệu quả đồng vốn của mình, đó là hiệu
quả kinh tế hay hiệu quả kinh tế xã hội. Do vậy, đòi hỏi các nhà quản trị tài chính
phải có những phương hướng và biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
nói riêng và hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung.
Đối với mỗi doanh nghiệp cụ thể thì cần có những biện pháp bảo toàn và
phát triển vốn theo tình hình cụ thể của doanh nghiệp đó. Bài viết trên chỉ nêu lên
một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh đối với doanh
nghiệp thương mại nói riêng và các doanh nghiệp Nhà nước nói chung. Muốn cho
doanh nghiệp Nhà nước trở thành đầu tàu-có vai trò chủ đạo đối với nền kinh tế
thì cần phải có sự cố gắng nỗ lực của mỗi doanh nghiệp và sự hướng dẫn chủ đạo
của Nhà nước.
64
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. SÁCH
1. Giáo trình quản trị tài chính doanh nghiệp
Chủ biên: TS - Vũ Duy Hào
2. Giáo trình: Phân tích hoạt động kinh doanh
Chủ biên: PGS-TS Phạm Thị Gái
3. Giáo trình: Kinh tế và tổ chức sản xuất doanh nghiệp
Chủ biên: PGS- TS Phạm Hữu Huy
II. TẠP CHÍ
1. Tạp chí tài chính
2. Con số và sự kiện
3. Kinh tế dự báo
4. Kinh tế và phát triển
5. Tạp chí công nghiệp
65
MỤC LỤC
Mục lục .......................................................................................... 65
Chương I Vốn kinh doanh - nhân tố quan trọng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của DNTM trong nền kinh tế thị trường ................................... 1
I.Tầm quan trọng của vốn kinh doanh đối với mỗi doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường. ............................................................................. 3
1.Khái niệm về vốn kinh doanh ................................................. 3
2.Phân loại vốn kinh doanh........................................................ 3
3.Đặc điểm của vốn kinh doanh ................................................. 5
4.Tầm quan trọng của vốn kinh doanh. ...................................... 6
II.Công tác huy động, quản lý sử dụng vốn và vai trò của nó đối với hoạt
động sản xuất kinh doanh của DNTM. .................................................... 8
1.Yêu cầu về vốn ...................................................................... 8
2. Công tác huy động vốn, quản lý sử dụng và sử dụng vốn kinh
doanh: ............................................................................................... 10
3.Vai trò của công tác huy động, quản lý và sử dụng vốn kinh doanh
......................................................................................................... 18
Chương II Thực trạng huy động, quản lý và sử dụng vốn kinh doanh ở
các DNTM Nhà nước và ở Công ty Kinh doanh thép Vật tư Hà nội ......... 20
I.Tầm quan trọng về DNTM Nhà nước ....................................... 20
II. Công tác huy động vốn kinh doanh ......................................... 28
1. Nguồn vốn từ ngân sách. ..................................................... 29
2. Nguồn vốn từ ngân hàng. ..................................................... 29
3. Huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu. ..................... 30
4. Vốn huy động bằng cách phát hành cổ phiếu. ...................... 32
66
5. Liên doanh liên kết. ............................................................. 32
III. Tình hình sử dụng vốn cố định. .............................................. 33
1. Cơ cấu tài sản cố định và sự biến động của nó. .................... 33
2. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định của Công ty. ........... 34
3. Khấu hao tài sản cố định ..................................................... 35
4. Tình hình sử dụng vốn lưu động của Công ty: ...................... 36
5. Tình hình sử dụng tiền và khả năng thanh toán của Công ty. 37
6. Tình hình dự trữ của Công ty. .............................................. 38
Chương 3 Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở
DNTM 43
I. Hoàn thiện công tác kế hoạch hoá và quản lý ........................... 43
II . Hoàn thiện công tác tổ chức và quản lý lao động ................... 44
III. Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ..... 44
1.Đối với vốn cố định .............................................................. 45
2. Đối với vốn lưu động ........................................................... 48
3.Hoàn thiện chương trình Marketing ...................................... 55
IV. Cổ phần hoá doanh nghiệp .................................................... 58
V. Giải pháp về phía Nhà nước ................................................... 60
Kết luận .......................................................................................... 63
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở các DN thương mại NN & C.ty kinh doanh thép vật tư Hà Nội.pdf