Luận văn Các giải pháp tăng cường tính bền vững của tài khóa ở Việt Nam

Để một nền kinh tế đảm bảo được tính bền vững của tài khóa thì đòi hỏi phải có một tỷ suất nợ trên GDP ổn định. Khi có một tỷ suất nợ trên GDP ổn định thì cho dù chính phủ đi vay để thực thi chính sách ngân sách có bội chi để chi tiêu cho đầu tư phát triển cũng không làm mất khả năng thanh toán, nền tài chính quốc gia vẫn duy trì được sự ổn định cần thiết. Khi tỷ suất nợ trên GDP không được duy trì ổn định mà có xu hướng tăng dần theo thời gian thì nguy cơ xảy ra khủng hoảng nợ rất lớn. Nhìn chung trong giai đoạn 2000-2013, Việt Nam duy trì được những điều kiện cần thiết để đảm bảo tính bền vững của tài khóa. Mức độ thâm hụt NS thực tế hàng năm là thấp hơn hoặc xấp xỉ ngưỡng thâm hụt NS cho phép để duy trì tỷ suất nợ trên GDP. Chênh lệch giữa lãi suất với tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hàng năm trong giai đoạn 2000-2013 luôn âm, qua đó cho thấy NSNN có thể có bội chi ngân sách cơ bản. Bên cạnh đó, theo những tiêu chí của các tổ chức quốc tế như WB và IMF thì Việt Nam được đánh giá là quốc gia có đủ khả năng trả nợ, chưa có nguy cơ khủng hoảng nợ. Tuy nhiên, trong khoảng hơn một thập kỉ qua thâm hụt ngân sách của Việt Nam diễn ra liên tục và mức độ thâm hụt trung bình kể từ năm 2008 đến nay cao hơn so với trung bình của những năm trước đó và có xu hướng tăng cao hơn trong những năm sắp tới. Nền kinh tế đang phục hồi chậm, trong điều kiện đó, nếu lãi suất thực có xu hướng tăng lên hàng năm và vượt quá tốc độ tăng trưởng kinh tế thì nguy cơ bùng nổ nợ ở Việt Nam sẽ xảy ra. Bên cạnh đó, cơ chế chính sách quản lý tài chính công nói chung, quản lý thu - chi NSNN và nợ công nói riêng tại Việt Nam vẫn còn rất nhiều hạn chế. Vì vậy, để hạn chế những rủi ro và tăng cường sự bền vững của tài khóa, Chính phủ Việt Nam cần có những chính sách theo hướng kiềm chế tốc độ tăng của tỷ lệ thâm hụt ngân sách, từng bước giảm dần thâm hụt ngân sách và quy mô nợ công kết hợp với các biện pháp nâng cao hiệu quả thu chi NSNN, đẩy mạnh xã hội hóa, hạn chế tới mức tối đa tình trạng tham nhũng dưới mọi hình thức.

pdf108 trang | Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 1328 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các giải pháp tăng cường tính bền vững của tài khóa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước ngoài so với thu NSNN là 142,9%. Đồng thời kết quả 2 chỉ tiêu Tỷ lệ % nghĩa vụ nợ nước ngoài so với xuất khẩu hàng hóa dịch vụ và Tỷ lệ % nghĩa vụ nợ nước ngoài so với thu NSNN trong năm 2012 lần lƣợt là 4,4% và 15,4%. Nhƣ vậy có thể kết luận trong 5 chỉ tiêu thì có đến 4 chỉ tiêu kết quả của Việt Nam nằm ở mức Weak policy. Điều này cho thấy thể chế và chính sách quản lý nợ nƣớc ngoài của Việt Nam xếp vào mức yếu kém theo các tiêu chuẩn của IMF. Về mặt pháp luật, cho đến năm 2010, Việt Nam mới bắt đầu có Luật quản lý nợ công. Tuy nhiên, nhiều điều khoản trong Bộ luật này lại liên quan đến các văn bản pháp lý khác, nhƣ Luật ngân sách Nhà nước cùng các hàng loạt các nghị định và thông tƣ khác, dẫn đến cơ chế quá cồng kềnh và chồng chéo trong việc thực thi. Ngoài ra, Luật quản lý nợ công Việt Nam cũng không hề đề cập đến chiến lƣợc vay nợ và quản lý một cách rõ ràng, mà chỉ đƣa ra một số quy định chung chung không rõ ràng, ví dụ nhƣ Chính phủ phải trình Quốc hội quy định các chỉ tiêu an toàn về nợ, mục tiêu, định hƣớng huy động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công trong từng giai đoạn 5 năm. Rõ ràng, khoảng thời gian 5 năm là quá lâu để làm minh bạch hóa những thông tin cần thiết liên quan đến vấn đề tài khóa và nợ công của Việt Nam. Về mặt thống kê, các số liệu về nợ công của Việt Nam cũng rất thiếu, chƣa có nhiều nguồn số liệu cụ thể. Với các số liệu về nợ nƣớc ngoài, nguồn đáng tin cậy nhất đƣợc lấy từ các bản tin nợ nƣớc ngoài của Bộ Tài chính (MoF) trong vài năm trở lại đây. Tuy nhiên, bản tin này chỉ mang tính chất thống kê thuần túy, chƣa đƣa ra đƣợc những thông tin cần thiết về rủi ro của Việt Nam, đặc biệt số liệu dự đoán cho năm tiếp theo không hề đƣợc đƣa ra, giống nhƣ những số liệu Thang Long University Libraty 76 dự toán ngân sách nhà nƣớc. Bên cạnh đó, bản tin này cũng không đƣợc cập nhật thƣờng xuyên, bằng chứng là đã bƣớc sang quý 1 năm 2015 nhƣng bản tin nợ nƣớc ngoài đƣợc phát hành gần nhất là Bản tin nợ nước ngoài số 7 mới chỉ có những số liệu của năm 2010, số liệu từ năm 2011 đến nay chƣa có. Về mặt kiểm toán các hoạt động vay nợ của Chính phủ cũng nhƣ các chính quyền địa phƣơng, Luật quản lý nợ công cũng chỉ quy định chung chung về việc đƣợc thực hiện bởi Kiểm toán Nhà nƣớc hoặc kiểm toán độc lập. Trong khi đó, trách nhiệm cụ thể cho Kiểm toán Nhà nƣớc hay các tổ chức kiểm toán độc lập lại không hề đƣợc đề cập. Có thể thấy, việc quản lý nợ công Việt Nam vẫn còn rất nhiều hạn chế so với nhiều quốc gia trên thế giới theo khuyến nghị của IMF. Trách nhiệm giải trình của các cơ quan Chính phủ vẫn chƣa rõ ràng, mặc dù đã đƣợc quy định trong Luật quản lý nợ công nhƣng lại không có một cơ chế giám sát, khiến cho chất lƣợng minh bạch và công khai thông tin tài khóa vẫn chƣa đạt yêu cầu. Tất cả các phân tích trên cho thấy, mặc dù hiện nay Việt Nam vẫn đang ở vùng an toàn, nhƣng Chính phủ Việt Nam cần tích cực và nhanh chóng hoàn thiện các thể chế và chính sách quản lý nợ nƣớc ngoài nhằm phòng ngừa những rủi ro và biến động bất thƣờng có thể xảy ra trong tƣơng lai. 77 Bảng 2. 8: Một số chỉ tiêu về nợ nƣớc ngoài (%) 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Tỷ lệ % nợ nƣớc ngoài trên GDP 38.2 35.8 35.2 37.4 36.4 33.0 28.1 30.1 26.7 31.2 38.7 39.2 37.9 Tỷ lệ % nợ nƣớc ngoài trên xuất khẩu 76.5 70.1 69.5 71.2 66.3 51.9 41.5 42.7 38.0 49.6 53.8 49.3 47.4 Tỷ lệ % nghĩa vụ nợ nƣớc ngoài trên GDP 3.9 3.5 3.2 2.0 1.6 1.7 1.5 1.6 1.4 1.4 1.6 3.0 3.5 Tỷ lệ % nghĩa vụ nợ nƣớc ngoài trên xuất khẩu 7.8 6.8 6.3 3.8 3.0 2.6 2.1 2.3 2.0 2.2 2.2 3.8 4.4 Tỷ lệ % nghĩa vụ nợ nƣớc ngoài trên dự trữ ngoại hối 38.4 33.2 29.5 13.6 11.6 10.7 7.2 5.4 5.9 9.1 15.0 30.5 21.4 Tỷ lệ % dự trữ ngoại hối trên tổng nợ ngắn hạn 370.2 469.2 524.4 482.7 328.9 351.6 551.5 507.1 558.4 317.1 179.4 135.9 258.6 Tỷ lệ % trả lãi so với xuất khẩu 2.1 2.1 1.6 1.3 1.3 1.2 1.0 1.1 0.9 0.8 0.9 0.9 1.1 Tỷ lệ % nợ nƣớc ngoài so với GNI 41.9 39.1 38.7 41.0 40.4 36.7 31.3 33.8 30.1 35.7 44.0 45.1 44.1 Tỷ lệ % nghĩa vụ trả nợ nƣớc ngoài so với thu NSNN n/a n/a n/a n/a n/a n/a n/a n/a n/a n/a 6.3 12.7 15.4 % PV của nợ nƣớc ngoài so với GDP n/a n/a n/a n/a n/a n/a n/a n/a n/a n/a n/a n/a 37.4 Tỷ lệ % PV của nợ nƣớc ngoài so với xuất khẩu n/a n/a n/a n/a n/a n/a n/a n/a n/a n/a n/a n/a 34.3 Tỷ lệ % PV của nợ nƣớc ngoài so với thu NSNN n/a n/a n/a n/a n/a n/a n/a n/a n/a n/a n/a n/a 142.9 Nguồn: Tổng hợp và tự tính toán của tác giả từ WB-World Development Indicators (2014); MoF- Bản tin nợ nước ngoài số 7 (tháng 11/2007) và Bản tin nợ công số 2 (2013) Thang Long University Libraty 78 Kết luận chƣơng 2: Tổng hợp tất cả các phân tích từ những nội dung trong chƣơng 2 ta có thể rút ra kết luận rằng nhìn chung trong giai đoạn 2000-2013, Việt Nam duy trì đƣợc những điều kiện cần thiết để đảm bảo tính bền vững của tài khóa. Mức độ thâm hụt NS thực tế hàng năm là thấp hơn hoặc xấp xỉ ngƣỡng thâm hụt NS cho phép để duy trì tỷ suất nợ trên GDP. Chênh lệch giữa lãi suất với tốc độ tăng trƣởng kinh tế của Việt Nam (r-g) hàng năm luôn âm, qua đó cho thấy NSNN có thể có bội chi ngân sách cơ bản trong giai đoạn 2000-2013. Bên cạnh đó, theo những tiêu chí của các tổ chức quốc tế nhƣ WB và IMF thì Việt Nam đƣợc đánh giá là quốc gia có đủ khả năng trả nợ, chƣa có nguy cơ khủng hoảng nợ. Tuy nhiên, các phân tích trong chƣơng 2 cũng chỉ ra rằng những rủi ro có thể tác động tiêu cực tới tính bền vững của tài khóa tại Việt Nam trong thời gian tới không phải là không có. Cụ thể nhƣ sau: 1. Mức độ thâm hụt NS trung bình của Việt Nam kể từ năm 2008 đến nay cao hơn so với trung bình của những năm trƣớc đó và có xu hƣớng tiếp tục tăng lên trong những năm tiếp theo, vƣợt quá ngƣỡng giới hạn cho phép, từ đó làm tăng tỷ lệ nợ trên GDP12. 2. Nếu xét theo tiêu chí Ngưỡng giới hạn thâm hụt ngân sách cơ bản (Bt) thì kết quả cho thấy nguy cơ bùng nổ nợ ở Việt Nam trong những năm tiếp theo sẽ xảy ra nếu lãi suất có xu hƣớng tăng trung bình trên 1,5% hàng năm với điều kiện tốc độ tăng trƣởng kinh tế ổn định ở mức 6%13. 3. Cơ chế chính sách quản lý tài chính công nói chung, quản lý thu - chi NSNN và nợ công nói riêng tại Việt Nam vẫn còn rất nhiều hạn chế nhƣ: cơ chế quản lý quá cồng kềnh và chồng chéo trong việc thực thi. Trách nhiệm giải trình của các cơ quan Chính phủ vẫn chƣa rõ ràng, mặc dù đã đƣợc quy định trong Luật ngân sách nhà nƣớc, Luật quản lý nợ công nhƣng lại không có một cơ chế giám sát, khiến cho chất lƣợng minh bạch và công khai thông tin tài khóa vẫn 12 Xem chi tiết tại mục 2.4.1 13 Xem chi tiết tại mục 2.4.2 79 chƣa đạt yêu cầu. Về mặt thống kê, các số liệu về nợ công của Việt Nam cũng rất thiếu, chƣa có nhiều nguồn số liệu cụ thể14. 14 Xem chi tiết tại mục 2.4.3 Thang Long University Libraty 80 CHƢƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG TÍNH BỀN VỮNG CỦA TÀI KHÓA Ở VIỆT NAM. 3.1 Tình hình phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 cùng bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và những ảnh hƣởng đến tính bền vững của tài khóa. - Bối cảnh và xu hướng phát triển kinh tế - xã hội: Quan điểm, mục tiêu, xu hƣớng phát triển chung nhất của đất nƣớc ta trong những năm tới là đẩy mạnh CNH và HĐH đất nƣớc, tăng cƣờng hội nhập kinh tế quốc tế để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản đƣa nƣớc ta trở thành một nƣớc công nghiệp phát triển. Trong đó, Nhà nƣớc luôn là một chủ thể quan trọng, vừa điều hành, vừa trực tiếp tham gia vào quá trình phát triển của đất nƣớc. Những xu hƣớng chủ yếu liên quan đến vai trò của Nhà nƣớc và tính BVTK thể hiện ở những điểm nhƣ sau: Về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, bao gồm hệ thống kết cấu "hạ tầng cứng" nhƣ hạ tầng giao thông vận tải, hạ tầng thông tin, viễn thông và kết cấu "hạ tầng mềm" nhƣ hệ thống pháp lý, hệ thống an sinh xã hội, hệ thống ý tế, giáo dục, đặc biệt là giáo dục phổ cập và dạy nghề. Đây là một khu vực sẽ phát triển rất đa dạng và sôi động trong những thập kỷ tới. Công nghệ và khoa học kỹ thuật sẽ phát triển mạnh, công nghệ thông tin và mạng internet sẽ có những bƣớc phát triển mới và ngày càng phổ biến rộng rãi. Các ngành dịch vụ cơ bản nhƣ dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, kế toán, kiểm toán, dịch vụ khoa học & công nghệ, bƣu chính viễn thông, du lịch... cũng sẽ phát triển mạnh. Đối với nguồn lực con ngƣời, đất nƣớc cũng sẽ có những chuyển biến mạng mẽ về trình độ, kỹ năng và năng suất lao động. Các ngành công nghiệp sản xuất tƣ liệu sản xuất quan trọng, ngành công nghệ cao, công nghiệp quốc phòng và các ngành công nghiệp phụ trợ sẽ đƣợc thúc đẩy phát triển mạnh mẽ. Tất cả những xu hƣớng phát triển nêu trên sẽ có nhiều tác động tới hệ thống kinh tế, tài chính nói chung, qua đó tác động mạnh đến quy mô thu - chi ngân sách, từ đó có ảnh hƣởng đến sự BVTK. 81 - Hội nhập kinh tế quốc tế: Bƣớc sang thế kỷ thứ 21, kinh tế và kinh tế tri thức sẽ trở thành lĩnh vực trung tâm chi phối các hoạt động trong xã hội. Xu thế toàn cầu hóa, tự do hóa và hội nhập quốc tế về thƣơng mại, đầu tƣ... diễn ra mạnh mẽ mà nền tảng chủ yếu là cơ chế thị trƣờng, là các chuẩn mực quốc tế, các nguyên tắc, lật chơi do các định chế quốc tế quy định (WTO, IMF, WB...). Việt Nam hiện đang trong quá trình công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất nƣớc và trong vài năm tới đƣợc dự báo sẽ có sự hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực mạnh mẽ hơn trên cả bề rộng và chiều sâu. Khi một nền kinh tế càng mở cửa và hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới thì sự lệ thuộc vào tình hình và bối cảnh quốc tế cả về thƣơng mại, đầu tƣ, tài chính, tiền tệ... càng lớn và điều đó ảnh hƣởng đến tính bền vững và ổn định của tài khóa. Hội nhập kinh tế có tác động đến thu, chi NSNN thông qua việc cắt giảm thuế quan theo lộ trình, thực hiện các nguyên tắc cam kết và tuân thủ theo các hiệp định đã ký kết ví dụ nhƣ việc xác định trị giá tính thuế hải quan theo quy định của WTO hay phải cắt giảm các khoản trợ cấp trực tiếp đối với doanh nghiệp theo yêu cầu của các hiệp định và các biện pháp chống trợ cấp, thông qua cải cách tiền lƣơng, trợ cấp bảo hiểm xã hội cũng nhƣ việc thực hiện cải cách cơ cấu chi thƣờng xuyên, chi đầu tƣ từ nguồn NSNN... Song song với đó, hội nhập kinh tế yêu cầu hệ thống NSNN phải bảo đảm công khai, minh bạch hóa và bảo đảm các chính sách đƣợc thực hiện theo lộ trình có thể dự đoán trƣớc để tạo điều kiện thuận lợi cho môi trƣờng kinh doanh của doanh nghiệp. Hội nhập kinh tế còn tác động đến BVTK thông qua việc ảnh hƣởng đến nền kinh tế mà ở đây chủ yếu là thông qua việc thay đổi cơ cấu kinh tế, tiêu dùng, tiết kiệm, đầu tƣ, và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp... Sự thay đổi cơ cấu kinh tế, thay đổi tỷ lệ tiết kiệm, đầu tƣ, tiêu dùng, và hiệu quả sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp sẽ làm thay đổi mức độ, cơ cấu thu NSNN, cụ thể sẽ có sự thay đổi số thu và cơ cấu thu của các loại thuế nhƣ thuế giá trị gia tăng VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu, thuế thu nhập cá nhân và thu nhập doanh nghiệp... Đối với chi ngân sách thì tác động gián tiếp của hội nhập kinh tế là làm Thang Long University Libraty 82 thay đổi cơ cấu chi NS mà trong đó cụ thể là chi cho đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng, an sinh xã hội, phát triển nguồn nhân lực và củng cố bộ máy hành chính để thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc, đặc biệt là với một quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi nhƣ Việt Nam. - Chính sách, quy mô, cơ cấu thu chi và bội chi ngân sách trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế: Nếu NSNN có một kết cấu dễ bị ảnh hƣởng bởi các yếu tố bên ngoài, phụ thuộc vào các nguồn thu từ khai thác tài nguyên, khoảng sản ( đặt biệt là dầu thô) thì NSNN sẽ thiếu bền vững và phụ thuộc nhiều vào sản lƣợng thƣơng mại và giá cả các tài nguyên, khoáng sản trên thị trƣờng quốc tế. Khi hội nhập kinh tế quốc tế càng nhiều thì càng cần có một chiến lƣợc phát triển nhằm tránh sự phụ thuộc quá mức của NSNN vào các nguồn thu dễ chịu ảnh hƣởng từ bên ngoài đồng thời duy trì sự ổn định và bền vững tài khóa. Do tác động của quy luật cung cầu của nền kinh tế thị trƣờng trong điều kiện mở cửa, hội nhập cho nên trong điều hành kinh tế vĩ mô, đòi hỏi các nhà làm chính sách cần có sự quân tâm đến cả sản xuất và tiêu thụ ở trong nƣớc và trên thế giới nhằm đảm bảo duy trì sự tăng trƣởng và phát triển kinh tế, từ đó tạo cơ sở vững chắc cho các nguồn thu NSNN. Về phía chi NSNN, có những nhiệm vụ chi ảnh hƣởng lớn đến quy mô, kết cấu chung của NSNN, từ đó ảnh hƣởng lớn đến mức độ BVTK. Ví dụ, chi cho quốc phòng, an ninh... Các khoản chi cho đầu tƣ phát triển nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội sẽ luôn chiếm một vị trí quan trọng trong tổng chi NSNN. Trong điều kiện đó, nếu các khoản chi cho đầu tƣ này đƣợc quản lý tốt, đầu tƣ có hiệu quả cao thì sẽ có tác động tới tăng trƣởng kinh tế lâu dài từ đó có ảnh hƣởng tốt tới BVTK. Ngƣợc lại, nếu các khoản chi cho đầu tƣ phát triển này không đƣợc quản lý tốt, nếu hiệu quả đầu tƣ thấp thì về lâu về dài sẽ có những ảnh hƣởng không tốt đến BVTK. Bên cạnh đó, quan điểm và giải pháp xử lý bội chi ngân sách, cân đối NSNN cũng có những tác động đáng kể đến BVTK. Bội chi tích cực hay thụ động? Lựa chọn giải pháp bù đắp bội chi ngân sách nhƣ thế nào?...sẽ có ảnh 83 hƣởng không nhỏ tới BVTK. Việc xác định đúng bội chi tích cực, bội chi thụ động và mức độ bội chi tích cực và dự kiến trƣớc những biện pháp cần thiết để huy động đủ tiền bù đắp bội chi sẽ ít có ảnh hƣởng xấu đến tình hinh kinh tế vĩ mô nói chung cũng nhƣ BVTK nói riêng. 3.2 Các giải pháp hƣớng tới đảm bảo tính bền vững của tài khóa giai đoạn 2015 -2020. Nhƣ những phân tích trong chƣơng 2 đã chỉ ra, thâm hụt ngân sách của Việt Nam diễn ra liên tục trong khoảng hơn một thập kỉ qua và mức độ thâm hụt trung bình kể từ năm 2008 đến nay cao hơn so với trung bình của những năm trƣớc đó và có xu hƣớng tăng cao hơn trong những năm sắp tới. Do thâm hụt NS thực tế ƣớc tính có xu hƣớng vƣợt quá ngƣỡng thâm hụt ngân sách cho phép để duy trì sự ổn định của tỷ lệ nợ trên GDP cho nên trong giai đoạn tiếp theo từ nay đến năm 2020, tỷ lệ nợ trên GDP của Việt Nam sẽ còn tiếp tục tăng lên chứ không chỉ dừng ở con số gần 60% nhƣ hiện nay. Bên cạnh đó, nền kinh tế đang phục hồi chậm, tốc độ tăng trƣởng kinh tế của Việt Nam từ nay đến năm 2020 đƣợc dự báo sẽ chƣa thể tăng nhanh nhƣ giai đoạn trƣớc khủng hoảng kinh tế năm 2008 mà chỉ duy trì ổn định hàng năm ở mức từ 5% đến 6% nhƣ hiện nay. Trong điều kiện đó, nếu lãi suất thực có xu hƣớng tăng lên hàng năm và vƣợt quá tốc độ tăng trƣởng kinh tế thì nguy cơ bùng nổ nợ ở Việt Nam sẽ xảy ra. Vì vậy, để hạn chế những rủi ro và tăng cƣờng sự bền vững của tài khóa, Chính phủ Việt Nam cần có những chính sách theo hƣớng kiềm chế tốc độ tăng của tỷ lệ thâm hụt NS, từng bƣớc giảm dần thâm hụt NS và quy mô nợ công. Kết hợp với các chính sách đa dạng hóa các nguồn lực tài chính cho phát triển kinh tế nhằm giảm tải cho NSNN, phát triển hệ thống thông tin quản lý tài chính công, thay đổi cơ chế giám sát, đánh giá hiệu quả đầu tƣ công, chi tiêu ngân sách theo hƣớng thúc đẩy hiệu quả...Cụ thể nhƣ sau: 3.2.1 Xem xét việc giảm dần thâm hụt NSNN là mục tiêu ưu tiên trong điều hành chính sách tài khóa thời gian tới. Thâm hụt NSNN của Việt Nam bình quân giai đoạn 2008 - 2013 ƣớc lên đến 5,3% GDP, cao hơn mức bình quân 4,9% GDP của giai đoạn 2000 - 2007 Thang Long University Libraty 84 trƣớc đó. Thâm hụt NSNN là cần thiết trong những thời kỳ kinh tế tăng trƣởng chậm, tổng cầu của khu vực tƣ nhân suy giảm. Song thâm hụt NSNN ở mức cao và kéo dài sẽ tiềm ẩn nhiều nguyên nhân gây bất ổn kinh tế vĩ mô. Bài học từ cuộc khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp và một số quốc gia trong EU gần đây là minh chứng rõ nét nhất cho vấn đề này. Sự gia tăng về thâm hụt NSNN dự báo sẽ đặt công tác quản lý, điều hành ngân sách những năm tới trƣớc một số khó khăn nhất định do “không gian chính sách tài khóa” đã bị thu hẹp đáng kể so với trƣớc. Theo đó, điều kiện để Chính phủ có thể phản ứng lại với các tác động tiêu cực từ bên ngoài nhƣ từng thực hiện trong hai năm 2009-2010 sẽ rất hạn chế. Bên cạnh đó, việc huy động vốn của Chính phủ Việt Nam sẽ trở lên khó khăn hơn nếu mức dƣ nợ công bị đẩy lên quá cao, hoặc nếu có huy động đƣợc thì chi phí huy động cũng sẽ cao. Điều này cho thấy không thể tiếp tục kéo dài tình trạng thâm hụt ngân sách ở mức cao nhƣ những năm gần đây, nhất thiết phải coi việc từng bƣớc giảm dần thâm hụt NS là một trong những mục tiêu ƣu tiên trong điều hành chính sách tài khóa thời gian tới, qua đó từng bƣớc mở rộng “không gian tài khóa”, góp phần đảm bảo đƣợc sự ổn định kinh tế vĩ mô trong trung và dài hạn. 3.2.2 Tăng cường các biện pháp chống thất thu ngân sách nhà nước. Thu ngân sách nhà nƣớc là nhân tố trực tiếp tác động đến quy mô thâm hụt NSNN. Do đó, trong khi nhu cầu tăng chi để phát triển kinh tế không ngừng tăng lên, để tránh áp lực tăng thâm hụt NSNN ngoài dự kiến thì giải pháp chống thất thu ngân sách là thiết thực. Nhƣ những phân tích trong phần nội dung mục 2.2.1 đã chỉ ra: Đối với nƣớc ta hiện này, việc tăng tỷ suất thu thuế khó có thể thực hiện đƣợc bởi tăng tỷ suất thu thuế dễ gây hậu quả kìm hãm kinh tế phát triển. Việc tăng tỷ suất thu thuế sẽ chỉ thực hiện đƣợc về lâu dài, khi nền kinh tế đã đạt đƣợc năng suất lao động cao. Khi đó, tỷ suất thu thuế cao sẽ không ảnh hƣởng lớn tới thu nhập khả dụng, tiết kiệm, đầu tƣ và kìm hãm sản xuất. Ngƣợc lại, các biện pháp chống thất thu ngân sách cho kết quả tăng thu NSNN mà không làm tăng tỷ suất thuế và không gây hậu quả xấu đối với nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Cụ thể, để có 85 thể chống thất thu thuế có hiệu quả, góp phần kìm hãm sự gia tăng trong thâm hụt NSNN, Chính phủ Việt Nam có thể thực hiện các biện pháp sau đây: Thứ nhất, Các cơ quản quản lý thu ngân sách nhà nƣớc ở các cấp nhƣ các cục, chi cục Thuế và Hải quan cần tăng cƣờng rà soát, nắm chắc đối tƣợng, nguồn thu ngân sách trên địa bàn, quản lý chặt chẽ công tác hoàn thuế cũng nhƣ có sự phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chức năng khác trong công tác quản lý thu, chống thất thu và xử lý nợ đọng, chống gian lận thƣơng mại, chống buốn lậu, chống chuyển giá. Để có thể thực hiện đƣợc các mục tiêu này, cần triển khai đồng bộ các biện pháp nhƣ: tăng cƣờng công tác kiểm tra việc phát hành, sử dụng hóa đơn đối với các DN mới thành lập, khẩn trƣơng tập trung thanh, kiểm tra các DN có rủi ro cao về thuế, DN nằm trong danh sách “đen”, đặc biệt các DN có dấu hiệu chuyển giá, kinh doanh qua mạng, DN giao dịch thanh toán qua ngân hàng có dấu hiệu đáng ngờ. Đôn đốc thu kịp thời các khoản thuế truy thu và phạt qua kết luận thanh, kiểm tra, kiểm toán. Tăng cƣờng thu hồi nợ đọng thuế, trong đó tập trung bám sát những DN nợ thuế lớn, kiểm tra, giám sát chặt chẽ kết quả thu nợ thuế của các địa phƣơng, đôn đốc nhắc nhở kịp thời những đơn vị có tỷ lệ nợ thuế tăng cao. Thứ hai, chú trọng công tác kiểm tra nội bộ, tập trung kiểm tra những đơn vị phát sinh nhiều đơn thƣ khiếu nại, tố cáo. Thƣờng xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát chặt chẽ cán bộ công chức thuế trong quá trình thực thi công vụ, chú trọng vào những khâu có rủi ro trong lãng phí, tham nhũng nhằm phát hiện kịp thời và kiên quyết xử lý nghiêm các trƣờng hợp vi phạm theo quy định của nhà nƣớc. 3.2.3 Cải cách cơ chế quản lý các khoản thu từ phí và lệ phí. Trong cơ cấu các nguồn thu NSNN của Việt Nam thì các khoản thu từ phí và lệ phí cũng là một nguồn lớn và khá quan trọng. Bản chất phí và lệ phí gắn liền với chủ quyền quốc gia và quyền sở hữu đƣợc thực hiện về mặt kinh tế của nhà nƣớc. Đồng thời, chúng còn gắn liền với các dịch vụ tiện ích và hàng hóa công. Tuy nhiên, hiện nay chính sách và cơ chế pháp lý để quản lý phí và lệ phí chƣa đƣợc quan tâm, hoàn thiện đúng với tầm quan trọng của nó. Ví dụ điển hình Thang Long University Libraty 86 nhƣ trong thời gian qua tuy hoạt động thu phí và lệ phí đã đƣợc mở rộng, những lẽ ra là những khoản thu thuộc sở hữu nhà nƣớc thì lại đƣợc chuyển giao cho một số đơn vị sản xuất kinh doanh theo kiểu gán thu bù chi. Điều này là chƣa hợp lý vì gây lẫn lộn giữa hoạt động sản xuất kinh doanh với vấn đề quyền sở hữu quốc gia đƣợc thực hiện về mặt kinh tế của Nhà nƣớc. Để khắc phục tình trạng này, cần triển khai những biện pháp nhƣ: tách thu phí và lệ phí ra khỏi sản xuất kinh doanh của một số ngành kinh tế công, tránh tình trạng thu trùng lặp, thu nhiều loại phí và lệ phí trên một hoạt động dịch vụ, những nguồn lợi thuộc quyền sở hữu quốc gia, các khoản phí, lệ phí có tính độc quyền, cƣỡng chế, phải thuộc về quyền lực nhà nƣớc, do nhà nƣớc thu qua NSNN. 3.2.4 Tăng tỷ trọng thuế trực thu, giảm tỷ trọng thuế gián thu. Khi xem xét đặc điểm của hai khoản thuế trực thu và gián thu, ta nhận thấy việc xây dựng một cơ cấu thu ngân sách chủ yếu là thuế trực thu là xu hƣớng hợp lý. Bởi vì thuế trực thu, về bản chất là thu trực tiếp từ đối tƣợng chịu thuế bao gồm thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp... sẽ không làm tăng giá hàng hóa và không đánh vào ngƣời tiêu dùng góp phần làm tăng sức cạnh tranh trên thị trƣờng của các hàng hóa và dịch vụ, ngoài ra thuế trực thu còn đánh theo mức lũy tiến nhằm điều tiết ngƣời có thu nhập cao, thực hiện công bằng xã hội. Tuy nhiên, muốn tăng thuế thu nhập thì phải tăng tính hiệu quả trong kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó gia tăng lợi tức, đồng thời tăng việc làm và thu nhập của ngƣời lao động. Tức là kinh tế phải tăng trƣởng và phát triển tốt thì mới có thể tăng thuế thu nhập. Điều kiện để tăng nguồn thu từ thuế thu nhập là phải có các cơ chế quản lý và công khai các nguồn thu nhập. Các DNNN phải đƣợc củng cố, xắp xếp lại và cổ phần hóa, kiên quyết giải thể các đơn vị kinh doanh không hiệu quả, gây thất thoát và lãng phí. Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác phải tiếp tục đƣợc cải thiện về môi trƣờng, cơ chế, hành lang pháp lý thông thoáng, góp phần giúp DN sớm hồi phục và phát triển sản xuất kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh, tăng lợi nhuận, từ đó mới có cơ sở để tăng nguồn thu từ thuế trực thu. 3.2.5 Thực hiện xã hội hóa các hoạt động kinh tế xã hội. 87 Thực hiện xã hội hóa các hoạt động kinh tế xã hội nhằm lôi kéo các thành phần kinh tế cùng tham gia, khai thác mọi khả năng và nội lực quốc gia tiềm tàng, phát huy tính chủ động sáng tạo của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, giảm nhẹ gánh nặng bao cấp của NSNN cho toàn xã hội, thực hiện phƣơng châm Nhà nƣớc và nhân dân cùng làm. Chủ chƣơng này sẽ vừa kích cầu, vừa giảm gánh nặng cho NSNN. Tuy nhiên, để thực hiện chủ chƣơng xã hội hóa có hiệu quả thì việc xác định rõ chức năng chi NSNN, xóa bỏ các khoản chi không thuộc NSNN là một sự cần thiết. Theo đó NSNN chỉ đầu tƣ cho những lĩnh vực mà khu vực tƣ nhân không thể đầu tƣ nhƣ kết cấu hạ tầng và một số công trình, ngành trọng điểm mũi nhọn... ƣu tiên nguồn vốn đầu tƣ của NSNN cho những công trình chuyển tiếp mà nhất thiết phải tiếp tục đầu tƣ, hoặc những công trình sắp hoàn thành mà chỉ cần bổ sung thêm vốn là có thể đi vào sử dụng. Bên cạnh đó, để phát huy nội lực trong xã hội, đòi hỏi các chính sách của nhà nƣớc nói chung, các chính sách tài chính - ngân sách nói riêng phải cởi mở, thông thoáng, hợp lý. Có nhƣ vậy, mới khơi dậy các nguồn lực trong các thành phần kinh tế, trong xã hội để huy động mọi nguồn lực phục vụ cho chiến lƣợc phát triển kinh tế nhanh, bền vững. Mặt khác, phải xác định đúng phạm vi đối tƣợng hƣởng thụ NS. Giới hạn hƣởng thụ NS đƣợc hiểu trên những góc độ nhƣ sau: Một là, giới hạn chức năng hoạt động của nhà nƣớc tới đâu thì giới hạn NSNN phục vụ tới đó. Ngày nay, nền kinh tế thị trƣờng có nhiều ƣu việt nhƣng cũng có nhiều khuyết điểm, đòi hỏi vai trò Nhà nƣớc rộng lớn hơn trong việc can thiệp vào điều hành nền kinh tế. Nhà nƣớc là ngƣời trực tiếp cung cấp hàng hóa dịch vụ công cộng, chi tiêu tăng cầu của xã hội để giải quyết đầu ra cho nền kinh tế, chống thất nghiệp, chống khủng hoảng, giải quyết các vấn đề xã hội... Do đó, phạm vi thu - chi NSNN ngày càng mở rộng. Ngƣợc lại, nhà nƣớc cũng không làm thay và bao biện cho thị trƣờng, những gì thị trƣờng có thể làm đƣợc cần có biện pháp kích thích thị trƣờng tự làm. Trên cơ sở đó, Chính phủ cần rà soát kĩ nguồn vốn nhà nƣớc bố trí cho các dự án, công trình thuộc trách nhiệm đầu tƣ của ngân sách nhà nƣớc giao cho các tập đoàn, tổng công ty nhà nƣớc thực hiện, Thang Long University Libraty 88 không bố trí vốn ngân sách nhà nƣớc cho các dự án công trình không thuộc lĩnh vực của ngân sách nhà nƣớc đầu tƣ. Hai là, giới hạn hƣởng thụ NSNN cũng tùy thuộc vào tỷ lệ phân phối GDP của từng giai đoạn, từng nƣớc quyết định. Các nƣớc phát triển có mức lợi tức và khối lƣợng GDP lớn, mức động viên vào NSNN tƣơng đối cao, quy mô NSNN lớn nên giới hạn hƣởng thụ NSNN có điều kiện thực hiện rộng rãi hơn. Ở Việt Nam, khối lƣợng GDP nhỏ, thu nhập bình quân đầu ngƣời thấp, tỷ lệ động viên vào NSNN không cao, nên giới hạn NSNN cần hạn chế. Ba là, giới hạn hƣởng thụ NSNN còn tùy thuộc vào tình hình kinh tế -xã hội trong từng giai đoạn cụ thể. Sai lầm trƣớc đây là, trong khi mức động viên còn thấp và NSNN thất thu lớn nhƣng thuế suất nặng và chồng chéo, nhiều đối tƣợng cần thu lại không thu, thất thu hoặc thu không đủ mức. Ngƣợc lại, nhiều đối tƣợng lại thu quá mức dẫn đến kìm hãm sản xuất. Nhiều lĩnh vực cần chi thì Nhà nƣớc không chi, nhƣng nhiều lĩnh vực mà khu vực tƣ nhân và xã hội có thể làm đƣợc thì nhà nƣớc lại ôm đồm, bao cấp. Do đó, việc xác định đối tƣợng hƣởng thụ NSNN phải trên cơ sở đồng bộ với các chính sách kinh tế-xã hội, phải đƣợc tiêu chuẩn hóa, rà soát mức hƣởng thụ, thời hạn hƣởng thụ, phƣơng thức hƣởng thụ... Đó là một điều kiện rất quan trọng để tăng hiệu quả chi cho NSNN và giảm thâm hụt NS về lâu dài. 3.2.6 Tăng cường công tác đánh giá, giám sát hiệu quả chi ngân sách nhà nước. Trong các dự án đầu tƣ nhà nƣớc, cần thiết phải hoàn thiện cơ chế đánh giá hoạt động đầu tƣ công. Một trong những biện pháp có thể đƣợc sử dụng để cải thiện cơ chế quản lý đầu tƣ công là thành lập một Hội đồng thẩm định đầu tư công độc lập. Nguyên nhân quan trọng của tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tƣ công là do quá trình ra quyết định đầu tƣ của chính quyền địa phƣơng và các bộ ngành chủ quản chịu ảnh hƣởng của các nhóm lợi ích và do vậy thiếu khách quan. Vì vậy, nhiệm vụ của ủy ban độc lập này là đánh giá, thẩm định một cách toàn diện và khách quan các dự án có quy mô vƣợt quá một quy mô đầu tƣ nhất định nào đó. Kết luận của Hội đồng thẩm định này sau đó đƣợc công bố 89 rộng rãi. Tƣơng tự nhƣ vậy, các báo cáo kiểm toán các DNNN và dự án đầu tƣ công lớn cũng phải đƣợc công khai. Phải có sự giám sát thật tích cực từ phía nhân dân và các cơ quan quyền lực đại diện nhân dân nhƣ Quốc Hội, HĐND các cấp và cả nhân dân đối với các hoạt động đầu tƣ công đang diễn ra trên thực tế. Thiếu sự giám sát đó, Chính phủ cùng các cấp chính quyền địa phƣơng mặc sức chạy theo thành tích mà báo cáo không trung thực hiệu quả đầu tƣ, chƣa kể đến việc lãng phí, tham nhũng sẽ gây thất thoát lớn cho khoản tiền vay mƣợn rồi cuối cùng nhân dân phải "còng lƣng" gánh lấy khoản nợ. Giảm hoạt động bảo hộ cho các tập đoàn, tổng công ty nhà nƣớc. Lấy ví dụ nhƣ câu chuyện của tập đoàn điện lực (EVN) vừa qua. EVN có vẻ nhƣ đang cố duy trì lợi ích của mình bằng sự độc quyền quyết định việc mua bán điện trong cả nƣớc. Hậu quả là một lƣợng lớn ngân sách đầu tƣ vào cho EVN mà vẫn không đủ để cấp điện cho nhu cầu của quốc gia. Một môi trƣờng cạnh tranh không lành mạnh sẽ không thúc đẩy sự cải tiến công nghệ, đầu tƣ nâng cao chất lƣợng dịch vụ và không có sức ép buộc doanh nghiệp phải giảm chi phí. Cuối cùng, ngân sách nhà nƣớc, tiền của nhân dân cứ rót vào không đem lại hiệu qua cao gây lãng phí lớn. Đối với các khoản chi thƣờng xuyên của ngân sách, một khoản lớn hiện nay chi cho bộ máy hoạt động nhà nƣớc nhƣng vẫn đƣợc xem là không hiệu quả. Thay đổi nguyên tắc xây dựng bộ máy theo khả năng ngân sách chi hàng năm bao nhiêu thì ta sẽ xây dựng một bộ máy quy mô bấy nhiêu. Nhƣng nhất thiết, quy mô lớn thì hiệu quả phải cao chứ không phải dựng nên một bộ máy rồi mới tính đến chuyện tìm nguồn thu ngân sách thêm để gồng mình nuôi lấy bộ máy. Triệt để tiết kiệm các khoản chi đầu tƣ công và chi thƣơng xuyên của NSNN. Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế, nhƣng lại vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia khi xảy ra thâm hụt ngân sách và xuất hiện lạm phát. Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tƣ công có nghĩa là chỉ đầu tƣ vào dự án mang tính chủ đạo, hiệu quả cao nhằm tạo ra sự đột phá trong việc phát triển kinh tế- xã hội, đặc biệt đối với các dự án chƣa hoặc không hiệu quả thì phải nhanh chóng cắt giảm Thang Long University Libraty 90 thậm chí là không đầu tƣ. Mặt khác, bên cạnh việc triệt để tiết kiệm các khoản đầu tƣ công, những khoản chi thƣờng xuyên của cơ quan nhà nƣớc cũng phải cắt giảm nếu các khoản chi này chƣa thực sự hiệu quả hoặc là chƣa cần thiết. Một trong những giải pháp quan trọng đƣợc quốc hội thông qua là cơ cấu lại chi ngân sách nhà nƣớc theo hƣớng ƣu tiên cho an sinh xã hội; tăng chi có trọng điểm cho phát triển nông nghiệp, nông thôn và những vùng khó khăn, nhất là các địa phƣơng có tỷ lệ nghèo cao trên cả nƣớc. 3.2.7 Nghiên cứu điều chỉnh cách tính thâm hụt ngân sách, đảm bảo thống nhất và nhất quán với thông lệ quốc tế. Việc xác định đúng đắn, chính xác và khoa học mức thâm hụt có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả sử dụng các công cụ của chính sách tài khoá: Ở Việt Nam, thâm hụt ngân sách hàng năm đƣợc xác định bằng chênh lệch giữa tổng thu và tổng chi ngân sách trung ƣơng và địa phƣơng trong năm đó của Chính phủ, thu ngân sách không bao gồm các khoản đi vay trong khi chi NSNN bao gồm cả chi trả nợ gốc và lãi vay. Trong khi đó, thông lệ quốc tế theo quy định của IMF đƣa ra thì chi cân đối ngân sách không bao gồm các khoản chi trả nợ gốc, mà chỉ tính vào chi cân đối lãi vay phải trả. Nhƣ vậy, việc xác định thâm hụt ngân sách của Việt Nam và theo thông lệ quốc tế có sự khác biệt. Cách tính của Việt Nam sẽ cho ra số thâm hụt ngân sách hàng năm thƣờng lớn hơn khoảng 2 đến 3 lần theo thông lệ quốc tế. Quan điểm xác định thu chi NS theo thông lệ quốc tế là có cơ sở khoa học, phản ánh đúng bản chất thu chi NSNN: Đó là những hoạt động không mang tính chất hoàn trả trực tiếp đối với thu và nghĩa vụ bồi hoàn trực tiếp đối với chi. Do vậy, cần thiết phải sửa Luật Ngân sách nhà nƣớc, trong đó quy định chi NSNN sẽ không bao gồm chi trả nợ gốc. Việc đổi mới phƣơng pháp tính thâm hụt ngân sách trên cơ sở loại bỏ phần chi trả nợ gốc ra khỏi chi cân đối theo thông lệ quốc tế là phù hợp, từ đó đƣa ra đƣợc mức độ thâm hụt NS hợp lý, phản ánh đúng bản chất các khoản thu, chi ngân sách. Khi xác định đƣợc mức độ thâm hụt NS hợp lý thì sẽ phản ánh đúng tình hình ngân sách của quốc gia, từ đó đƣa ra đƣợc các chính sách phù hợp, tăng cƣờng sự bền 91 vững tài khóa và thực hiện có hiệu quả các mục tiêu chiến lƣợc về phát triển kinh tế xã hội. Bên cạnh đó, nhất thiết cần bổ sung thêm một số chỉ tiêu về cân đối ngân sách để có thể phản ánh đầy đủ hơn bức tranh ngân sách nhà nƣớc trong năm, ví dụ nhƣ khái niệm thâm hụt (thặng dư) ngân sách thường xuyên và thâm hụt (thặng dư) ngân sách cơ bản. Việc nhận thức và quy định về cách tính thâm hụt hiện nay chỉ đơn thuần là khái niệm “Thâm hụt ngân sách tổng thể”. Chỉ tiêu thâm hụt ngân sách này (ngay cả khi đƣợc thực hiện theo các chuẩn mực đƣợc thừa nhận chung) cũng không thể phản ánh hết tác động của chính sách tài khóa của Chính phủ đến các tác nhân của nền kinh tế. Theo đó, bên cạnh chỉ tiêu thâm hụt ngân sách tổng thể nhƣ hiện nay cần nghiên cứu sử dụng thêm các chỉ tiêu thâm hụt ngân sách khác, nhƣ thâm hụt ngân sách thƣờng xuyên, thâm hụt ngân sách cơ bản nhƣ đƣợc trình bày trong chƣơng 1. Đây là những chỉ tiêu rất quan trọng trong phân tích, điều hành chính sách ngân sách, giúp cho các nhà hoạch định chính sách có đƣợc những cái nhìn tổng thể, toàn diện về tình hình NSNN và sự tác động của thu, chi NSNN tới kinh tế vĩ mô. 3.2.8 Tăng tỷ trọng các khoản vay ưu đãi với lãi suất thấp và xây dựng cơ cấu thời gian trả nợ hợp lý. Cơ cấu lãi suất và cơ cấu thời gian trả nợ cũng là những yếu tố có ảnh hƣởng đặc biệt quan trọng tới tính bền vững của tài khóa. Thông thƣờng, với tƣ cách là các khoản vay của Chính phủ, lãi suất vay sẽ thấp hơn mức lãi suất phổ biến trên thị trƣờng, do vay nợ chính phủ thƣờng có mức độ rủi ro thấp nhất. Ngoài ra, Chính phủ ở các nƣớc nghèo còn có thể tiếp cận đƣợc những khoản vốn vay ƣu đãi dƣới dạng hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) với mức lãi suất đặc biệt thấp và thời gian trả nợ kéo dài. Tuy nhiên, ở những quốc gia có thị trƣờng tài chính chƣa phát triển nhƣ Việt Nam, các nguồn vốn huy động khan hiếm, thƣờng xảy ra tình trạng cạnh tranh huy động vốn giữa các tổ chức tài chính. Khi đó, dƣới áp lực phải huy động đủ một lƣợng vốn cần thiết trong một thời gian nhất định để bù đắp thâm hụt ngân sách, Chính phủ đôi khi buộc phải nâng lãi suất lên ngang bằng với mức lãi suất huy động bình quân trên thị trƣờng nhằm Thang Long University Libraty 92 đạt đƣợc các mục tiêu về quy mô và thời gian huy động. Bên cạnh đó, việc phát hành trái phiếu chính phủ ra nƣớc ngoài của các nƣớc nghèo còn phải chịu thêm các khoản chi phí rủi ro do có mức độ xếp hạng tín nhiệm quốc gia thấp, làm cho lãi suất huy động tăng cao. Tỷ trọng các loại nợ vay khác nhau với các mức lãi suất khác nhau, thời gian trả nợ khác nhau sẽ ảnh hƣởng tới tính bền vững ngân sách ở các mức độ khác nhau. Nếu đa số các khoản vay là vay ƣu đãi với lãi suất thấp thì mức độ bền vững nợ sẽ cao hơn so với trƣờng hợp phần lớn các khoản nợ là nợ vay với lãi suất thị trƣờng. Tƣơng tự nhƣ vậy, cơ cấu thời gian trả nợ đƣợc phân bố hợp lý, không dồn vào một giai đoạn nhất định, mà kéo dài trong nhiều năm, sẽ làm giảm nguy cơ phải trả nợ dồn dập, và tăng mức độ bền vững của NSNN, từ đó nâng cáo tính bền vững của tài khóa. 3.2.9 Gia tăng hệ số tín nhiệm quốc gia. Khi quyết định đầu tƣ hay cho vay, các nhà đầu thƣờng đánh giá tƣơng quan giữa rủi ro và thu nhập. Thông tin đáng tin cậy mà các nhà đầu tƣ thƣờng tham khảo là hệ số tín nhiệm do các công ty quốc tế hàng đầu đánh giá. Nếu hệ số tín nhiệm của một quốc gia đƣợc đánh giá cao, quốc gia đó dễ dàng tiếp cận các nguồn tài chính trên thị trƣờng quốc tế, giảm đƣợc chi phí huy động vốn, đặc biệt cho những đợt phát hành mới. Một quốc gia có tăng trƣởng cao và uy tín khi đi vay sẽ đƣợc vay với chi phí thấp và đàm phán đƣợc giá cao hơn khi giao dịch trên thị trƣờng nợ thứ cấp, do ngƣời đi vay cân đối giữa rủi ro và thu nhập có đƣợc từ khoản cho vay và sẵn sàng chấp nhận chứng khoán có mức sinh lợi thấp hơn nhƣng độ an toàn cao. 3.2.10 Tập trung các khoản vay do trung ương đảm nhận. Các nhu cầu đầu tƣ của địa phƣơng cần đƣợc xem xét và thực hiện bổ sung từ ngân sách cấp trên. Thực hiện nhƣ vậy tránh đƣợc đầu tƣ tràn lan, kém hiệu quả và để tồn ngân sách quá lớn cũng nhƣ quản lý chặt chẽ số thâm hụt NSNN. Hiện tại, chúng ta đang đứng trƣớc mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn cho đầu tƣ phát triển với nguồn lực hạn hẹp. Nếu thực hiện thắt chặt, hạn chế vay để đầu tƣ sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế đang có nhu cầu vốn rất cao. Nhƣng nếu chúng ta không kiểm soát chặt chẽ các khoản vay nợ của NSNN, nhất là vay của 93 ngân sách địa phƣơng, thì nguy cơ ảnh hƣởng đến an ninh tài chính quốc gia, sự bền vững của tài khóa là rất lớn. Thực hiện đầu tƣ tập trung cũng có lợi là bảo đảm phát triển hài hoà, cân đối giữa các vùng, miền trong toàn quốc. 3.2.11 Xây dựng cơ chế đánh giá hiệu quả các khoản chi từ nguồn vay nợ của NSNN. Việc sử dụng các khoản vay nợ nhƣ thế nào cũng là yếu tố cần đƣợc quan tâm khi muốn tăng cƣờng tính bền vững tài khóa. Khi Chính phủ đi vay để bù đắp thiếu hụt cho chi đầu tƣ phát triển thì ngƣời sử dụng cuối cùng đối với khoản vốn vay này là các chủ dự án, các đơn vị thụ hƣởng ngân sách. Quan hệ giữa NSNN với các chủ nợ là quan hệ vay nợ độc lập. Trong khi đó, quan hệ giữa NSNN và các đơn vị thụ hƣởng ngân sách lại là quan hệ phụ thuộc, mang nặng tính bao cấp. Vì vậy, trong mọi trƣờng hợp, NSNN là ngƣời phải gánh chịu mọi hậu quả, rủi ro trong toàn bộ quá trình vay nợ. Chính vì vậy, việc kiểm soát quá trình sử dụng các khoản vay nợ có ý nghĩa rất quan trọng. Kết quả phân tích, đánh giá hiệu quả sử dụng các khoản vay nợ sẽ đóng góp quan trọng vào việc đánh giá tính bền vững của ngân sách. Một kết cấu ngân sách nặng về vay nợ, tuy nhiên hiệu quả sử dụng khoản vay tốt, sẽ có tác dụng tích cực đối với bền vững ngân sách. Trong khi đó, mặc dù kết cấu vay nợ thấp song việc sử dụng khoản vay chủ yếu mang tính cấp phát, hiệu quả kém, thì những khoản vay đó sẽ trở thành gánh nặng nợ trong tƣơng lai, làm giảm tính bền vững của ngân sách. Hiệu quả sử dụng các khoản vay nợ phụ thuộc nhiều vào chính sách quản lý các khoản vay của NSNN. Do tính chất khác biệt giữa nguồn vay và nguồn từ thuế và phí, việc quản lý một cách chặt chẽ đòi hỏi phải có các cơ chế quản lý riêng biệt đối với các khoản chi từ nguồn vay nợ và các khoản chi thông thƣờng (từ nguồn thu thuế và phí). Theo đó, các khoản chi từ nguồn vay nợ đòi hỏi phải có các quy định quản lý chặt chẽ theo hiệu quả đầu ra, đảm bảo các tiêu chí về hoàn trả nợ (gốc và lãi), tiêu chí về tiến độ giải ngân và hiệu quả sử dụng vốn, tiêu chí về giảm thiểu rủi ro và các tiêu chí khác. Những quy định này thƣờng áp dụng với mức độ đòi hỏi thấp hơn, hoặc không áp dụng đối với các khoản chi tiêu ngân sách thông thƣờng (đƣợc chi từ nguồn thu thuế và phí). Việc có những quy định Thang Long University Libraty 94 về quản lý ngân sách riêng biệt đối với các khoản chi từ nguồn vay nợ nên đƣợc xem là một tiêu chí quan trọng trong việc nâng cao tính bền vững tài khóa. 3.2.12 Phát triển hệ thống thông tin quản lý tài chính công. 1. Minh bạch và chặt chẽ các số liệu về ngân sách: Phải có cơ chế buộc minh bạch hóa các số liệu về thu - chi ngân sách. Sự minh bạch có thể đạt đƣợc khi yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền công khai số liệu kịp thời và đầy đủ, chi tiết. Việc này sẽ làm tăng sự giám sát của các cấp thẩm quyền cũng nhƣ của ngƣời dân đối với hoạt động thu chi NSNN, từ đó có cơ chế đánh giá và dự liệu đúng lúc các nguy cơ, đề ra chính sách kịp thời cho ngân sách. Tránh các khoản thất thoát do mập mờ, tham nhũng. Mặt khác, cần thống nhất cách tính toán, chuẩn mực kế toán kiểm toán trong toàn bộ hệ thống tài chính công một cách hiệu quả và khoa học. Điều này giúp cho các số liệu của các cơ quan có thẩm quyền công bố đáng tin cậy hơn. Song song đó, cần phải thực hiện chi tiết hóa Luật ngân sách nhà nƣớc. Các dự toán phải chi tiết hóa hơn trƣớc khi đƣa lên cho các cấp xét duyệt nhƣ Quốc hội hay Hội đồng nhân dân. Thí dụ nhƣ việc cấp phát ngân sách đến từng đơn vị, từng bộ ngành đều có những con số cụ thể. Dựa trên báo cáo chi tiết đó ta có thể quản lý chặt chẽ, đề ra biện pháp xử lý ngiêm khắc hơn với những trƣờng hợp chi vƣợt dự toán không cần thiết ở cấp địa phƣơng. 2. Nâng cao trách nhiệm giải trình trong việc sử dụng nguồn lực công. Mở rộng hình thức và nội dung công khai; tăng cƣờng trách nhiệm giải trình, khắc phục đƣợc tình trạng công khai còn mang tính hình thức nhƣ hiện nay. Tạo điều kiện cho ngƣời dân tiếp cận đƣợc với các thông tin về nguyên tắc, mục tiêu và định hƣớng của chính sách tài khoá, về số liệu liên quan đến NSNN để mở rộng và nâng cao sự phản biện chính sách của cộng đồng và xã hội. Đề cao trách nhiệm giám sát của Quốc hội đối với các công trình trọng điểm quốc gia, của Hội đồng nhân dân các cấp đối với các dự án đầu tƣ trên địa bàn; tăng cƣờng giám sát cộng đồng, hoàn thiện cơ chế để ngƣời dân kiểm tra công việc có liên quan đến ngân sách, đất đai, tài sản của nhà nƣớc. 95 3.2.13 Tăng cường quản lý, giám sát tài sản công. Tài sản công là một trong những thứ mang lại nguồn thu cho ngân sách bằng cách cho thuê, chuyển nhƣợng Nhƣng hiện tại vẫn chƣa đƣợc quan tâm đúng mức, thiếu các luật điều chỉnh đầy đủ và đồng bộ, gây thất thoát lãng phí. Vẫn còn một mảng rất lớn tài sản công hiện đang đƣợc các tố chức, cá nhân thuộc tƣ nhân thuê, mƣợn nhƣng không có cơ chế rõ ràng để giám sát, quản lý. Nếu là tài sản tƣ, khi cho thuê hiển nhiên chủ tài sản sẽ quan tâm hết mực đến việc ngƣời thuê sử dụng tài sản của mình nhƣ thế nào. Còn ở tài sản công, thiếu sự quản lý và quy trách nhiệm cụ thể, rất dễ xảy ra tình trạng “cha chung không ai khóc”. Kế đến, cần phải có cơ chế đánh giá đúng giá trị của tài sản nhà nƣớc. Luật hóa cơ chế xác định đúng giá trị tài sản, nhƣ thế sẽ tránh đƣợc các cấp thẩm quyền phía dƣới lợi dụng quyền hạn của mình định giá thấp tài sản làm thất thu ngân sách. Thang Long University Libraty 96 KẾT LUẬN Để một nền kinh tế đảm bảo đƣợc tính bền vững của tài khóa thì đòi hỏi phải có một tỷ suất nợ trên GDP ổn định. Khi có một tỷ suất nợ trên GDP ổn định thì cho dù chính phủ đi vay để thực thi chính sách ngân sách có bội chi để chi tiêu cho đầu tƣ phát triển cũng không làm mất khả năng thanh toán, nền tài chính quốc gia vẫn duy trì đƣợc sự ổn định cần thiết. Khi tỷ suất nợ trên GDP không đƣợc duy trì ổn định mà có xu hƣớng tăng dần theo thời gian thì nguy cơ xảy ra khủng hoảng nợ rất lớn. Nhìn chung trong giai đoạn 2000-2013, Việt Nam duy trì đƣợc những điều kiện cần thiết để đảm bảo tính bền vững của tài khóa. Mức độ thâm hụt NS thực tế hàng năm là thấp hơn hoặc xấp xỉ ngƣỡng thâm hụt NS cho phép để duy trì tỷ suất nợ trên GDP. Chênh lệch giữa lãi suất với tốc độ tăng trƣởng kinh tế của Việt Nam hàng năm trong giai đoạn 2000-2013 luôn âm, qua đó cho thấy NSNN có thể có bội chi ngân sách cơ bản. Bên cạnh đó, theo những tiêu chí của các tổ chức quốc tế nhƣ WB và IMF thì Việt Nam đƣợc đánh giá là quốc gia có đủ khả năng trả nợ, chƣa có nguy cơ khủng hoảng nợ. Tuy nhiên, trong khoảng hơn một thập kỉ qua thâm hụt ngân sách của Việt Nam diễn ra liên tục và mức độ thâm hụt trung bình kể từ năm 2008 đến nay cao hơn so với trung bình của những năm trƣớc đó và có xu hƣớng tăng cao hơn trong những năm sắp tới. Nền kinh tế đang phục hồi chậm, trong điều kiện đó, nếu lãi suất thực có xu hƣớng tăng lên hàng năm và vƣợt quá tốc độ tăng trƣởng kinh tế thì nguy cơ bùng nổ nợ ở Việt Nam sẽ xảy ra. Bên cạnh đó, cơ chế chính sách quản lý tài chính công nói chung, quản lý thu - chi NSNN và nợ công nói riêng tại Việt Nam vẫn còn rất nhiều hạn chế. Vì vậy, để hạn chế những rủi ro và tăng cƣờng sự bền vững của tài khóa, Chính phủ Việt Nam cần có những chính sách theo hƣớng kiềm chế tốc độ tăng của tỷ lệ thâm hụt ngân sách, từng bƣớc giảm dần thâm hụt ngân sách và quy mô nợ công kết hợp với các biện pháp nâng cao hiệu quả thu chi NSNN, đẩy mạnh xã hội hóa, hạn chế tới mức tối đa tình trạng tham nhũng dƣới mọi hình thức. 97 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. I. Tài liệu tiếng việt: 1. Bùi Đƣờng Nghiêu (2009), "Phân tích mức độ bền vững của ngân sách nhà nước Việt Nam và dự báo đến 2020", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Viện Khoa học tài chính, Bộ Tài chính. 2. Bùi Đƣờng Nghiêu (2001), "Luận cứ xác định giới hạn bội chi ngân sách nhà nước", Chuyên đề nghiên cứu chuyên sâu, Viện khoa học tài chính, Bộ tài chính. 3. Đỗ Thiên Anh Tuấn (2013), " Tương lai nợ công ở Việt Nam: xu hướng và thử thách", Chƣơng trình giảng dạy kinh tế Fulbright. 4. Hoàng Thị Minh Thảo (2009), " Đổi mới phương pháp tính bội chi ngân sách nhà nước", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp viện, Viện Khoa học tài chính, Bộ Tài chính. 5. Hoàng Văn Sâm (2002), "Thâm hụt ngân sách nhà nước ở Việt Nam - thực trạng, nguyên nhân và giải pháp", Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện tài chính. 6. Luật ngân sách nhà nƣớc (2002). 7. Luật quản lý nợ công (2009). 8. Nghị định 79 - 2010 - NĐCP về quản lý nợ công (2010). 9. Nguyễn Đức Độ, Tạ Văn Thắng (2013), " Xác định mức an toàn nợ nước ngoài của quốc gia gắn với mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững ở Việt Nam", Đề tài nghiên cứu khóa học cấp cơ sở, Viện Kinh tế- Tài chính, Bộ Tài chính. 10. Nguyễn Hữu Thắng (2011), "Khủng hoảng nợ công trên thế giới và bài học rút ra cho Việt Nam", Đề tài nghiên cứu cấp bộ, Học viện Chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. 11. Nguyễn Ngọc Tuyến (2010), "Thâm hụt ngân sách và giải pháp", Chuyên đề nghiên cứu chuyên sâu, Viện Kinh tế tài chính, Bộ Tài chính. Thang Long University Libraty 98 12. Nguyễn Văn Luyện (2007), "Đánh giá tác động của chuyển dịch cơ cấu GDP theo thành phần tới thu ngân sách nhà nước bằng mô hình kinh tế lượng", Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trƣờng Đại học Kinh tế quốc dân. 13. Phạm Ngọc Dũng, Phạm Thị Hằng (2011), "Chính sách tài khóa với vai trò điều chỉnh tăng trưởng kinh tế của Việt Nam", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp học viện, Học viện Tài chính. 14. Phạm Thế Anh (2008), “Khảo sát mối quan hệ giữa chi tiêu chính phủ và tăng trưởng kinh tế”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số tháng 10/2008. 15. Phạm Thế Anh, Đinh Tuấn Minh, Nguyễn Chí Dũng, Tô Trung Thành (2013), "Nợ công và tính bền vững ở Việt Nam: quá khứ, hiện tại và tương lai", Báo cáo nghiên cứu RS05, Ủy ban kinh tế Quốc hội và UNDP tại Việt Nam. 16. Phạm Văn Hà (2012), "Mối quan hệ giữa đầu tư công và nợ công và yêu cầu đảm bảo bền vững ngân sách ở Việt Nam", Tham luận tại Diễn đàn kinh tế mùa xuân 2012, Viện Chiến lƣợc và chính sách tài chính, Bộ Tài Chính. 17. Quyết định 958 của Thủ tƣớng Chính phủ về chiến lƣợc nợ công và nợ nƣớc ngoài của Việt Nam (2012). 18. Ủy ban kinh tế quốc hội, Nhóm Tƣ vấn Chính sách kinh tế vĩ mô (2013), "Báo cáo kinh tế vĩ mô 2013: Thách thức còn ở phía trước", Nhà xuất bản Tri Thức. 19. Viện Friedrich-Ebert-Stiftung (2013), "Đầu tư công, nợ công và mức độ bền vững ngân sách ở Việt Nam", Đề tài nghiên cứu chuyên sâu, Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế trung ƣơng CIEM. 20. Võ Văn Hợp (2013), "Nâng cao tính bền vững của ngân sách nhà nước Việt Nam", Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính. 21. Vƣơng Đình Huệ (2008), "Cơ sở lý luận về thực tiến phân tích, đánh giá tính bền vững của ngân sách nhà nước trong kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Kiểm toán nhà nƣớc. 99 22. Vũ Đình Ánh (2003), "Phân tích tính bền vững ngân sách nhà nước trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam", Chuyên đề nghiên cứu chuyên sâu, Viện Khoa học tài chính, Bộ tài chính. 23. Vũ Minh Long (2013), "Khủng hoảng nợ công ở một số nền kinh tế trên thế giới", Trung tâm nghiên cứu kinh tế và chính sách VEPR, Đại học Quốc gia Hà Nội. 24. Vũ Tuấn Anh (2011), "Tóm tắt về đầu tư công ở Việt Nam trong mười năm qua", Viện Kinh tế Việt Nam. 25. World Bank (2013), "Đánh giá minh bạch tài khóa của Việt Nam", Ban Quản lý kinh tế và xóa đói giảm nghèo khu vực Đông Á Thái Bình Dƣơng. 26. World Bank (2005), " Việt Nam, quản lý chi tiêu công để tăng trưởng và giảm nghèo" (Tập 1: Các vấn đề liên ngành), Báo cáo chung của Chính phủ Việt Nam và Ngân hàng thế giới. II. Tài liệu tiếng anh: 27. Cuddington T. John (1997), "Analysing the Sustainability of Fiscal Deficits in Developing Countries", The World Bank. 28. Hussin Abdullah Dr., Muszafarshah Mohd Mustafa, Dr. Jauhari Dahalan (2002), "An empirical study on fiscal sustainability in Malaysia", International Journal of Academic Research in Business and Social Sciences. 29. Heavily Indebted Poor Countries Capacity Building Programme (2009), "Debt sustainability indicators". 30. Haryo Kuncoro (2011), "The Indonesia’s State Budget Sustainability and Its Implication for Financial System Stability". 31. Eduardo Ley (2010), "Fiscal (and External) Sustainability", The World Bank. 32. IMF and Inter national Development Association Viet Nam (2012), "Viet Nam, Staff report for the 2012 article IV consultation - Debt sustainability analysis". Thang Long University Libraty 100 33. IMF and Inter national Development Association Viet Nam (2009), "Joint IMF/World Bank Debt Sustainability Analysis 2012 ". 34. IMF (2012), "Evolution of Debt Sustainability Analysis in Low-Income Countries: Some Aggregate Evidence" 35. Rully Prassetya (2012), "Policy for Enhancing Fiscal Sustainability: The Case of Indonesia". 101 PHỤ LỤC. 1. ADB (2012), " Public debt sustainability in developing Asia" 2. ADB (2012), " Key Indicators for Asia and the Pacific 2012" 3. ADB (2013), " Key Indicators for Asia and the Pacific 2013" 4. ADB (2014), " Key Indicators for Asia and the Pacific 2014" 5. Bản tin nợ công số 1 (tháng 12-2012), Bộ Tài Chính. 6. Bản tin nợ công số 2 (tháng 10 -2013), Bộ Tài Chính. 7. Bản tin nợ nƣớc ngoài số 6 (tháng 12- 2010), Bộ Tài Chính. 8. Bản tin nợ nƣớc ngoài số 7 (tháng 7- 2011), Bộ Tài Chính. 9. Báo cáo quyết toán ngân sách nhà nƣớc hàng năm, Bộ Tài Chính. 10. Báo cáo dự toán ngân sách nhà nƣớc hàng năm, Bộ Tài Chính. 11. IMF (2014), "World Economic Outlook 2014". 12. World Bank (2013), "International Debt Statistics 2013". 13. World Bank (2013), "World Development Indicators 2013". 14. World Bank (2014), "World Development Indicators 2014". Thang Long University Libraty

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf102_5266_6132.pdf
Luận văn liên quan