Vì lẽ trên, trong điều kiện thực tế hiện nay của huyện Di Linh cần:
+ Tập trung đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động, thái độ phục vụ, năng
lực, đạo đức, trách nhiệm trong thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ công chức, viên
chức, gắn với công tác cải cách hành chính; cải tiến nội dung, phương pháp và thời
gian làm việc trong giải quyết hồ sơ, thủ tục cho cá nhân, tổ chức trên địa bàn theo
cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” tại huyện và tại các xã, thị trấn; xây dựng,
áp dụng, duy trì hệ thống quản lý chất lượng theo TCVN ISO 9001:2008 trong hoạt
động của các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn;
+ Cán bộ cấp xã cần chấp hành tốt quy chế dân chủ ở cơ quan và ở địa
phương nơi cư trú; chịu sự giám sát của nhân dân trong thực thi công vụ và giữ mối
quan hệ với nhân dân; đồng thời đòi hỏi người cán bộ cấp cơ sở phải có phong cách
làm việc cụ thể, rõ người, rõ việc, không thể chung chung, đại khái; mỗi cán bộ và
gia đình cần gương mẫu trong việc chấp hành các quy định, quy chế của địa phương
nơi cư trú.
Để thực hiện có hiệu quả các giải pháp nêu trên, nhằm nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ cấp xã cần xác định vai trò, trách nhiệm của Phòng Nội vụ huyện là
hết sức quan trọng, thể hiện qua việc vừa là cơ quan tham mưu chỉ đạo, vừa phải
hướng dẫn các địa phương thực hiện các nội dung về công tác tổ chức bộ máy, công
tác cán bộ, chế độ chính sách, đào tạo, bồi dưỡng và sau đó tổng hợp thành chương
trình, kế hoạch chung toàn huyện về các nội dung trên; đồng thời tích cực phối hợp106
với các cơ quan, đơn vị liên quan (tài chính, bảo hiểm.) để thực hiện có hiệu quả
các giải pháp đó.
Hy vọng rằng, những giải pháp mà tác giả đưa ra để góp phần nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã trong đó đội ngũ lãnh đạo, quản lý
chính quyền Ủy ban nhân dân cấp xã trong thời gian tới, đáp ứng, đòi hỏi, nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước trên tất cả các mặt của lĩnh vực đời sống xã hội, góp
phần hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân./.
117 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 661 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chất lượng cán bộ ủy ban nhân dân cấp xã, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c vế quản lý nhà nước về kinh tế, công nghiệp,
thương mại, dịch vụ, xây dựng và phát triển đô thị, vệ sinh môi trường và an ninh
trật tự
Những xã trọng điểm về dân tộc, tôn giáo thì các chức danh Chủ tịch, Phó
Chủ Ủy ban nhân cấp xã các địa phương này cần chú trọng bồi dưỡng các kiến thức
về dân tộc, tôn giáo, an ninh quốc phòng, chính trị, trật tự xã hội ở địa phương.
3.2.5.3. Về cách thức, thời gian đào tạo, bồi dưỡng
- Về cách thức đào tạo, bồi dưỡng
+ Các lớp đào tạo nên tổ chức đào tạo chức danh và mục tiêu đào tạo để học
viên có điều kiện trao đổi, thảo luận và học hỏi lẫn nhau. Tập trung vào loại hình
đào tạo cơ bản: Đào tạo tập trung và đào tạo tại chức, lấy hình thức đào tạo tại chức
là chủ yếu; và nên áp dụng hình thức đào tạo, bồi dưỡng tại Trường Chính trị hoặc
Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị huyện Di Linh; vì đối tượng đào tạo, bồi dưỡng
đang giữ những nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý ở các xã, thị trấn để có điều kiện vừa
đảm việc học vừa đảm bảo công việc mà họ đang phụ trách. Mặc dù hình thức đào
tạo là tại chức nhưng phải đảm bảo đủ thời gian lên lớp, thời gian tự học, thực hành
và đi thực tế cơ sở;
+ Tổ chức bồi dưỡng kiến thức, kỷ năng theo từng chức vụ, chức danh cán
bộ, công chức theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng
Chính phủ về phê duyệt Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020.
Thực hiện phương châm kết hợp học với làm; học ở trường lớp với nhiều hình thức
ngắn hạn và dài hạn tập trung và tại chức. Kết hợp tốt các hình thức đào tạo, bồi
dưỡng nói trên sẽ không ngừng nâng cao trình độ lý luận và thực tiễn cho cán bộ,
tạo điều kiện cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nói chung cũng như cấp xã nói
riêng hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao.
- Về thời gian đào tạo
+ Để nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã nói
riêng và cho cán bộ làm việc ở cấp xã nói chung, vấn đề cần quan tâm chính là tạo
86
ra được con người cụ thể, đảm nhận một cách tốt nhất công việc, nhiệm vụ được
giao. Do đó, để chọn người cử đi đào tạo bồi dưỡng phù hợp với những kiến thức,
kỹ năng và cách ứng xử phù hợp; cần xác định rõ, chi tiết cụ thể nhiệm vụ được
giao cho họ vừa là những nhóm nhiệm vụ “ cứng” đồng thời cả những loại công
việc có thể phát sinh. Chỉ khi nào xác định rõ hơn các loại công việc phải thực hiện,
mới có thể tạo ra được “đúng người, đúng việc” theo các tiêu chí về năng lực;
+ Để tránh việc đào tạo tràn lan, đào tạo không đúng người, đúng việc và đào
tạo xong không được bố trí vào các vị trí theo kế hoạch đưa đi đào tạo gây tốn kém
ngân sách Nhà nước. Vì vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp xã nên thực hiện sau khi họ đã được bầu vào các chức danh cụ thể. Đặc
biệt, ưu tiên cho những cán bộ vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc, vùng tôn giáo được
cử đi đào tạo trước;
Theo phân cấp quản lý hiện nay, công việc quản lý, điều hành cấp xã ngày
càng sâu, rộng và phức tạp đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã phải có đủ phẩm
chất, năng lực toàn diện, tổng hợp. Do vậy, yêu cầu cấp bách hiện nay là phải nâng
cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã. Tuy
nhiên, việc đào tạo, bồi dưỡng cần phải chú trọng đến chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
để tránh thất thoát về ngân sách và tốn kém thời gian công sức của người tham gia
học. Chất lượng đào tạo phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Đội ngũ giảng viên,
chương trình và nội dung giảng dạy, hình thức đào tạo, cơ sở vật chất phụ vụ cho
giảng dạy và nghiên cứu.v.v
- Về đảm bảo điều kiện học tập
Ngoài các chế độ hiện hành chung do Nhà nước quy định, đối với cán bộ Ủy
ban nhân dân cấp xã là người dân tộc thiểu số đi học cần có chính sách hỗ trợ thêm
kinh phí hàng tháng để cá nhân yên tâm học tập và nên có biện pháp bảo đảm vị trí
công tác của họ sau khi hoàn thành khóa học.
Để làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã, tác
giả xin kiến nghị một số giải pháp sau:
87
Một là, Phải thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng dạy và học của cơ
sở đào tạo, bồi dưỡng trên địa bàn huyện và tỉnh. Tập trung đổi mới phương pháp
giảng dạy, sửa đổi, bổ sung, đổi mới nội dung, chương trình giảng dạy, gắn kết lý
thuyết và thực tiễn nhằm phát huy tính tính tích cực, chủ động của người học. Hạn
chế mở các lớp đào tạo tại chức đối với ngành khoa học kỹ thuật trên địa bàn tỉnh
Lâm Đồng. Tăng cường xây dựng đội ngũ giảng viên đủ về số lượng, chuẩn về chất
lượng, có phương pháp sư phạm cho các cơ sở đào tạo;
Kiện toàn lại Trường Chính trị tỉnh và Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị huyện;
đây là nơi thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức
của tỉnh, của huyện. Vì vậy, Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị huyện cũng phải được
chuẩn hóa: Giám đốc phải có trình độ Thạc sỹ trở lên. Ngoài kiến thức tập huấn, bổ
sung thường xuyên của Học viện Hành chính, còn phải nắm bắt nhanh, nhạy, trực
tiếp cụ thể hóa các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước, Chính phủ vào tình
hình địa phương và chuyển tải đến học viên là cán bộ lãnh đạo quản lý và công
chức. Đội ngũ giảng viên Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị huyện phải là những
người có kiến thức tương đối toàn diện cả về quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, am
hiểu pháp luật, am hiểu về xã hội và tình hình thực tế ở địa phương, đồng thời được
chọn lọc thông qua các kỳ thi giảng viên giỏi cấp huyện và cấp tỉnh. Ngoài giảng
viên của Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị huyện, đội ngũ giảng viên kiêm chức cũng
cần cử những người là lãnh đạo các Ban, ngành huyện thực sự có kiến thức, có kinh
nghiệm, có uy tín, có năng khiếu sư phạm để tham gia giảng dạy hoặc báo cáo thực
tế. Chương trình phải đảm bảo cả hai mặt lý luận và thực tiễn sát với địa phương và
trang bị cho người học khả năng tư duy, dáng tạo và năng động trong xử lý tình
huống của thực tế đề ra vì hàng ngày phải giải quyết những công việc thực tiễn rất
đa dạng và phức tạp, đòi hỏi họ phải có một trình độ lý luận nhất định để nhìn nhận,
đánh giá vấn đề đúng, nắm bắt quy luật khác quan, từ đó mới có thể đưa ra chủ
trương và biện pháp phù hợp để chỉ đạo thực tiễn đúng. Lê Nin đã từng nói: Lý luận
là kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Bác Hồ cũng dạy: Cán bộ là cái gốc của
88
mọi công việc. Vì thế, “ cần phải dạy bảo lý luận cho cán bộ, chỉ thực hành mà
không có lý luận cũng như có một mắt sáng, một mắt mù”;
Hai là, Kết hợp giữa đào tạo tại các trường với việc mở các lớp bồi dưỡng
ngắn hạn để rèn luyện kỹ năng tại chỗ, khuyến khích cán bộ tích cực tự nghiên cứu,
tự học tập rèn luyện trong thực tiễn công tác, trong các hoạt động phong trào quần
chúng ở cơ sở gắn với việc thực hiện quy chế kiểm soát với bố trí sử dụng sau đào
tạo, kiểm tra sát hoạch, đánh giá trình độ cán bộ khi cần thiết;
Ba là, Cần có sự kết hợp hài hòa giữa đào tạo chính quy tại Trường chính trị
tỉnh với các lớp đào tạo tại chức tại Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị huyện. Ngoài
các lớp trung cấp chính trị hành chính cần tăng cường mở các lớp đào tạo, bồi
dưỡng các lĩnh vực chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao kiến thức toàn diện cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý Ủy ban nhân dân cấp xã;
Bốn là, Kiên quyết loại bỏ cơ chế các ngành, trung tâm không có chức năng
đua nhau liên kết mở lớp tại đơn vị; phải có quy định rõ, đơn vị nào có khả năng
thẩm quyền mở lớp đào tạo, bồi dưỡng. Việc trang bị kiến thức phải có phương
pháp sư phạm, phải đúng chức năng, đủ thẩm quyền, có kinh nghiệm quản lý đào
tạo để liên kết cả mở lớp; đồng thời phải điều tra, xem xét, đánh giá việc sử dụng
sau đào tạo, tránh tình trạng đào tạo tràn lan, học xong không bố trí sử dụng hoặc bố
trí người không có chuyên môn vào làm việc nhận chỗ rồi đưa đi đào tạo. Các vị trí
chức danh và dự nguồn trong quy hoạch có số lượng nhất định, nhưng thường
xuyên mở lớp hàng năm, rất lãng phí ngân sách và không hiệu quả;
Có chính sách hỗ trợ bảo đảm các điều kiện cho công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã ở cơ sở, kể cả đào tạo nguồn, đào tạo chuẩn hóa và
đào tạo nâng cao trình độ. Số cán bộ cấp xã được đưa đi đào tạo, bồi dưỡng ở các
trường được trợ cấp các khoản chi phí nhất định liên quan đến việc như: Tiền tài
liệu học tập,tiền ăn ở, đi lại
3.2.6. Đổi mới công tác bố trí, sử dụng, luân chuyển công chức Ủy ban
nhân cấp xã
3.2.6.1. Bố trí, sử dụng cán bộ
89
Việc lựa chọn đúng người thật sự có tâm, có tầm, có tài, có đủ tiêu chuẩn
chính trị và bố trí giữ trọng trách tương xứng sẽ không chỉ phát huy được năng lực,
sở trường của cán bộ mà cón tác động mạnh mẽ, tạo được sự đồng thuận “tâm phục,
khẩu phục” đối với bộ phận, cán bộ thuộc quyền. Vì vậy, lãnh đạo huyện cần bố trí,
sử dụng cán bộ đúng chỗ, đúng sở trường mới phát huy tốt năng lực của cán bộ. Đối
với cán bộ trẻ, có triển vọng thì có thể bố trí giữ trọng trách cao hơn so với khả
năng để tạo động lực phấn đấu, giúp cán bộ phát triển nhanh hơn, trưởng thành sớm
hơn. Có thể khẳng định việc lựa chọn, bố trí sử dụng đúng cán bộ sẽ góp phần ngăn
chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống trong cán
bộ đảng viên hiện nay.
3.2.6.2. Luân chuyển cán bộ
Các cấp ủy Đảng từ xã, thị trấn lên huyện lập kế hoạch luân chuyển cán bộ
lãnh đão, quản lý quản lý cấp xã và tổ chức thực hiện theo một quy trình chặt chẽ.
Thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý theo quy hoạch giữa cấp trên và
cấp dưới; giữa các xã, thị trấn khác nhau; giữa cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể;
căn cứ vào nhu cầu công tác và năng lực cán bộ.
Với phương châm tích cực, thận trọng, Ban Thường vụ Huyện ủy sẽ chọn
một số cán bộ ở xã, thị trấn có năng lực, triển vọng điều động lên công tác ở các
Phòng, ban của huyện, chuẩn bị đội ngũ cán bộ kế cận ở các chức danh chủ chốt ở
những cơ quan này. Đồng thời, chọn một số cán bộ đang công tác ở các Phòng, ban
của huyện điều động về xã, thị trấn để có kiến thức thực tiễn, toàn diện trước khi bổ
nhiệm chức danh theo quy hoạch. Quy trình thực hiện cán bộ kết hợp chặt chẽ giữa
công tác tư tưởng và tổ chức; coi trọng công tác tư tưởng khi có yêu cầu luân
chuyển. Cán bộ luân chuyển được trao đổi thông suốt về chủ trương, thống nhất về
tư tưởng để tự giác chấp hành, thực hiện quyết định điều động, luân chuyển của tổ
chức. Mặt khác, cũng chuẩn bị tốt nơi cán bộ được điều động đi, nơi cán bộ được
điều động đến nhất là những trường hợp điều động đến nhận các chức danh phải
thông qua bầu cử.
90
Kiểm tra thực hiện việc luân chuyển cán bộ, đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ
trước, sau khi luân chuyển; qua thời gian luân chuyển, những người phát huy tốt
năng lực, thể hiện đầy đủ bản lĩnh, thực hiện tốt nhiệm vụ được phân công, làm chủ
được tình hình của địa phương, đơn vị mà cán bộ đó luân chuyển tới, đứng vững
trước những thử thách cam go, cám dỗ vật chất sẽ được lựa chọn để cân nhắc, bố trí
đảm nhiệm trọng trách cao hơn sau khi hoàn thành nhiệm vụ luân chuyển. Đồng
thời, qua luân chuyển, thử thách từ thực tiễn, củng giúp cấp ủy đánh giá, nhìn nhận
chính xác hơn về trình độ, năng lực của các cán bộ chưa hoàn thành hoặc hoàn
thành chưa tốt nhiệm vụ để bố trí, sắp xếp lại cho phù hợp.
Phải căn cứ vào năng lực, sở trường của cán bộ, nhiệm vụ chính trị của địa
phương, cơ quan, đơn vị, quy hoạch cán bộ và kế hoạch bố trí cán bộ sau luân
chuyển để lựa chọn cán bộ, địa bàn luân chuyển cán bộ cho phù hợp.
Phải chống tư tưởng cục bộ, khép kín, không muốn nhận người từ nơi khác
đến; hoặc lợi dụng việc luân chuyển để đưa người trung thực, thằng thắn, người có
năng lực, người không phù hợp với mình đi nơi khác.
Cán bộ được luân chuyển phải trong quy hoạch và được đào tạo, bồi dưỡng,
trang bị kiến thức cơ bản trước khi luân chuyển.
Khắc phục nhận thức sai lệch, cho rằng cán bộ đã qua luân chuyển phải được
bố trí ở cương vị công tác cao hơn. Luân chuyển cán bộ để điều chỉnh việc bố trí
cán bộ hợp lý hơn, tăng cường cán bộ cho những nơi có nhu cầu cấp thiết, nhất là ở
cơ sở.
Xây dựng quy chế và chế độ trách nhiệm cảu cấp ủy và người đứng đầu nơi
tiếp nhận cán bộ được luân chuyển đến nhằm khắc phục những tư tưởng cục bộ, thái
độ bất hợp tác hay cô lập đối với người luân chuyển từ nơi khác đến.
Bố trí cán bộ luân chuyển tối đa không quá 5 năm, tránh tình trạng cán bộ
được điều động tăng cường cho cơ sở giữ lại quá lâu nên không phát huy tính năng
động, sáng tạo của cán bộ. Nâng bậc lương trước thời hạn cho những trường hợp
luân chuyển từ huyện đến xã, thị trấn mà phát huy tác dụng tốt nhằm động viên kịp
thời.
91
3.2.7. Đổi mới công tác đánh giá cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã
Văn kiện Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ: “ Đánh giá cán bộ phải công khai,
minh bạch, khách quan, toàn diện và công tâm, lấy hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ
công tác làm thước đo phẩm chất và năng lực của cán bộ. Đánh giá cán bộ lãnh đạo
phải căn cứ vào hiệu quả công tác, khả năng đoàn kết, quy tụ, phát huy sức mạnh
của tập thể, tạo ra sự tiến bộ và kết quả cụ thể trong ngành, lĩnh vực, địa phương
đơn vị mình phụ trách” [12,tr.295]. Để việc đánh giá cán bộ trên địa bàn huyện
chính xác, cần thực hiện các giải pháp sau:
- Xây dựng hệ thống các tiêu chí cụ thể đánh gía cán bộ phù hợp với yêu cầu
phương pháp đánh giá mới như: Số lượng công việc mà cán bộ thực hiện (số lượng
văn bản, hồ sơ phải xử lý, số lượng báo cáo phải viết); số lượng các công việc đã
hoàn thành có chất lượng, đúng tiến độ, hiệu quả về kinh tế; hiệu quả về xây dựng
Đảng, Chính quyền và đoàn thể; hiệu quả về đoàn kết nội bộ, mức độ tín nhiệm của
cấp dưới, đồng sự của quần chúng, môi trường và điều kiện công tác, tinh thần, thái
độ phục vụ, tinh thần khắc phục khó khăn để học tập nâng cao trình độ chuyên môn,
trình độ lý luận chính trị căn cứ vào trách nhiệm liên đới;
- Quy hoạch rõ nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ lãnh đạo, quản lý với trách
nhiệm đánh giá cán bộ và có chế tài nghiêm đối với hành vi vi phạm pháp luật, vi
phạm kỷ luật, vi phạm đạo đức công vụ của cán bộ lãnh đạo, quản lý;
- Đánh giá cán bộ còn phải xem xét tổng thể các mối quan hệ xã hội và gia
đình. Việc đánh giá cán bộ phải thực hiện hàng năm, trước khi cán bộ kết thúc
nhiệm kỳ, bổ nhiệm, đề bạt hoặc chuyển công tác.
Như vậy các khâu quy hoạch, luân chuyển và đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá
cán bộ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, vì thế phải tiến hành đồng bộ.
3.2.8. Hoàn thiện chính sách, chế độ đãi ngộ
3.2.8.1. Chính sách đào tạo, luân chuyển
- Xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp với luân chuyển cán bộ nhằm nâng
cao hiệu quả công tác luân chuyển cán bộ; đồng thời tạo điều kiện về tinh thần, vật
chất cho cán bộ luân chuyển về xã, thị trấn để cán bộ luân chuyển yên tâm công tác;
92
- Sửa đổi, bổ sung chính sách hỗ trợ đào tạo, thu hút bảo đảm đủ mạnh. Hấp
dẫn để thu hút cán bộ có trình độ chuyên môn cao và sinh viên tốt nghiệp Đại học
loại khá, giỏi về làm việc tại các xã, thị trấn và tạo động lực cho cán bộ tích cực học
tập, nâng cao tình độ chuyên môn nghiệp vụ;
- Bổ sung chính sách hỗ trợ cán bộ cử đi đào tạo lý luận chính trị hành chính
hệ tập trung tại các trường, học viện; đồng thời, thay đổi hình thức hỗ trợ theo giai
đoạn để khuyến khích động viên thiết thực cán bộ đi đào tạo chuyên sâu.
3.2.8.2. Chính sách tiền lương
Xuất phát tình trạng trả lương còn mang tính “ cào bằng”, cán bộ Ủy ban
nhân dân cấp xã được trả lương theo trình độ chuyên môn, theo chức vụ, chức danh
thâm niên công tác; “làm nhiều, làm ít cũng hưởng lương như nhau”, tiền lương
chưa phù hợp với mức độ cống hiến, chưa phản ánh đúng năng lực, kết quả công tác
của cán bộ chưa đủ để trang trải mức sống tối thiểu cho bản than và gia đình của
cán bộ, công chức, tác giả có vài đề xuất:
- Xây dựng nhiều mức tiền lương (tối thiểu - trung bình - tối đa) nhằm khắc
phục triệt để tính bình quân trong chi trả lương hiện nay, phát huy khả năng, trí tuệ
của mọi người trong lao động, công tác, động viên, khuyến khích người có tài, có
trình độ yên tâm công tác trong khu vực công nói chung;
- Cải cách chính sách tiền lương phải tiến tới bảo đảm cho cán bộ sống được
bằng tiền lương ở mức trung bình khá trong xã hội. Trên cơ sở đó hình thành các cơ
chế tiền lương hành chính ngày càng phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và tạo động lực nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Ủy ban nhân dân
cấp xã. Cải cách chế độ tiền lương phải gắn với cải cách hành chính, tức là tinh giản
biên chế, thu gọn tổ chức, bộ máy; nâng cao năng lực của cán bộ và người lao động
hưởng lương trong khu vực công, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của đất nước trong thời
kỷ đổi mới;
- Trao quyền chủ động cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc
quyết định số định biên của đơn vị, từng bước chuyển dần những vị trí không quan
trọng sang hợp đồng lao động theo vị trí công việc hoặc kiêm nhiệm; sử dụng nhân
93
lực dưới nhiều hình thức khác nhau, chỉ giữ lại hình thức quản lý biên chế ở những
khâu, những vị trí quan trọng;
- Đẩy nhanh xã hóa lĩnh vực sự nghiệp dịch vụ công, nhằm giảm áp lực chi
lương từ ngân sách Nhà nước, cần thiết phải đẩy mạnh thực hiện chế độ tự chủ, tự
chịu trách nhiệm, khoán biên chế và chi phí quản lý hành chính.
3.2.8.3. Chính sách tinh giản biên chế
Cùng với việc thực hiện chính sách hỗ trợ trong công tác đào tạo, bồi dưỡng,
Chính phủ cần có chính sách “ đầu ra” để giải quyết số cán bộ hiện nay không đủ
điều kiện để đào tạo chuẩn hóa, do trình độ năng lực hạn chế, tuổi cao, sức khỏe
yếu như chính sách tinh giản biên chế theo Nghị định số 132/2007/NĐ-CP; Nghị
quyết số 39-NQ/TW ngày 17 tháng 4 năm 2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên
chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; Quyết định số 2218/QĐ-
TTg ngày 10 tháng 12 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch của
Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW; Nghị định số 108/2014/NĐ-CP
ngày 20 tháng 11 năm 2014; Chỉ thị số 02/CT-TTg ngày 06 tháng 01 năm 2017 về
việc đẩy mạnh thực hiện chủ trương tinh giản biên chế của Chính phủ về chính sách
tinh giản biên chế đã được các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quán triệt đến cán bộ, công
chức, viên chức và cũng đã thực hiện việc tinh giản biên chế và giải quyết chế độ,
chính sách cho các đối tượng tinh giản biên chế của Chính phủ mà trước đây đã
thực hiện đối với cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, vì thực tế hiện nay trong
đội ngũ cán bộ ở xã, thị trấn nhiều trường hợp trình độ năng lực còn hạn chế nhưng
chưa có biện pháp giải quyết.
Đối với cán bộ hết nhiệm kỳ không được bầu chức danh mới thì thực hiện
tinh giản theo Kết luận số 64-KL/TW ngày 28/5/2016 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa
phương “ Từ nhiệm kỳ 2015 - 2020, cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã hoạt động theo
nhiệm kỳ, được hưởng chế độ theo quy định của Nhà nước, hết nhiệm kỳ không
được bầu vào chức danh mới, nếu đủ tiêu chuẩn, điều kiện thì được bố trí công tác
94
khác theo quy định, nếu không đủ tiêu chuẩn, điều kiện thì được nghỉ công tác,
hưởng chế độ trợ cấp một lần và đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện.
3.2.8.4. Chính sách thu hút nhân tài
Có chính sách thu hút, sử dụng số sinh viên mới ra trường về xã, thị trấn theo
các ngành nghề đào tạo mà cơ sở đang cần, đồng thời đẩy mạnh việc thực hiện
chính sách luân chuyển cán bộ, công chức đang công tác ở các Phòng, ban của
huyện về đảm nhiệm các chức danh chủ chốt ở cơ sở theo chủ trương, để số cán bộ
này vừa có điều kiện tiếp cận, nắm bắt tình hình thực tiễn vừa để giúp những cơ cở
còn thiếu cán bộ.
Tiểu kết Chương 3
Việc đổi mới công tác quản lý và nâng cao chất lượng cán bộ Ủy ban nhân
dân cấp xã là một trong những nội dung cơ bản của Chương trình cải cách hành
chính Nhà nước được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và đã thực hiện nhiều
hoạt động trong công tác quản lý đội ngũ cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã. Bên cạnh
những kết quả đã đạt được, đội ngũ cán bộ Ủy ban nhân cấp xã còn tồn tại một số
hạn chế nhất định. Đó là cơ cấu, chất lượng của đội ngũ cán bộ cấp xã vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu quản lý Nhà nước. Một trong số các nguyên nhân sâu xa dẫn đến
những hạn chế trên là do công tác quản lý cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã còn nhiều
bất cập, hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của
đất nước trong thời kỳ mới.
Từ đó, tiếp tục đổi mới công tác quản lý đội ngũ cán bộ Ủy ban nhân dân cấp
xã trong nền công vụ là một yêu cầu có tính tất yếu khách quan, vừa mang tính cấp
thiết và vừa mang tính kế thừa, thường xuyên, liên tục và lâu dài trong các giai đoạn
phát triển của đất nước.
Công tác quản lý đội ngũ cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã bao gồm nhiều nội
dung, công việc với các khâu: Bố trí, sử dụng, giám sát, đánh giá, quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, thực hiện chính sách chế độ đối với cán bộ Ủy ban
nhân dân cấp xã, xây dựng và thực hiện chính sách phát triển và trọng dụng, đãi ngộ
nhân tài, thu hút nhân tài vào nền công vụ.
95
Việc triển khai động bộ các giải pháp tích cực trong công tác quản lý cán bộ
nói chung và đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã nói riêng sẽ góp phần nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã có đủ đạo đức, phẩm chất và
năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
96
KẾT LUẬN
Chính quyền Ủy ban nhân dân cấp xã là cầu nối giữa nhà nước với tổ chức
và cá nhân trong địa phương, đại diện Nhà nước để thực thi quyền lực nhà nước trên
địa bàn huyện; triển khai, tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của nhà nước. Qua đó cũng phát hiện những bất cập trong thực tiễn để điều
chỉnh, bổ sung những chủ trương, chính sách ấy. Ủy ban nhân dân cấp xã là nơi để
giáo dục, rèn luyện cán bộ, làm cho cán bộ trưởng thành, phát huy được phẩm chất,
năng lực trong công tác; vai trò đó được thực hiện qua đội ngũ cán bộ Ủy ban nhân
dân cấp xã, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo chính quyền cấp xã.
Theo các tài liệu về lịch sử và địa giới hành chính, các đơn vị hành chính cấp
xã thuộc huyện Di Linh được hình thành khá sớm so với các địa phương khác của
tỉnh. Từ cuối thế kỷ XIX, Di Linh đã được thực dân Pháp chọn là thủ phủ của tỉnh
Đồng Nai Thượng. Sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng (1975), huyện Di
Linh có 12 đơn vị hành chính cấp xã. Theo thời gian, do yêu cầu thực tế của công
tác quản lý hành chính nên các xã thuộc huyện Di Linh có sự điều chỉnh, chia tách,
thành lập thêm một số xã; từ năm 2009 đến nay huyện Di Linh có 19 đơn vị cấp xã,
trong đó có 18 xã và 01 thị trấn. Sự hình thành lâu đời, ổn định của huyện, của các
xã và các thôn, buôn (cũ) gắn liền với các điều kiện thuận lợi về tự nhiên, giao
thông, các tiềm năng kinh tế của vùng là những yếu tố góp phần cho việc phát triển
các mặt đời sống, xã hội của địa phương.
Trong những năm gần đây, tình hình kinh tế - xã hội của huyện tiếp tục có
những chuyển biến tích cực, đời sống mọi mặt của đại bộ phận nhân dân được cải
thiện và ngày càng nâng cao; do có nhận thức đúng đắn về vai trò, tầm quan trọng
của đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở, nên trong nhiều năm qua các cấp ủy Đảng,
chính quyền luôn quan tâm đến công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức. Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ngày càng được trẻ hóa và nâng cao
về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới;
số lượng, cơ cấu cán bộ, công chức cấp xã từng bước đã có những chuyển biến hợp
lý, phù hợp với tình hình thực tế. Về cơ sở vật chất, hạ tầng kinh tế kỹ thuật, trang
97
thiết bị liên quan công vụ của các xã, thị trấn được huyện quan tâm, đầu tư đúng
mức. Đến nay, có 19/19 xã, thị trấn đều có trụ sở làm việc, có hội trường đảm bảo
phục vụ nhu cầu làm việc, hội họp của cán bộ, công chức. Thị trấn Di Linh và xã
Tân Lâm là 2 địa phương mới được đầu tư xây dựng nên trụ sở khá khang trang, đạt
chuẩn theo quy định mới về diện tích làm việc. Theo tiến trình cải cách hành chính;
Đến nay 19/19 xã, thị trấn đã thực hiện cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa”,
có 03 địa phương đang thực hiện theo cơ chế “một cửa liên thông”. Năm 2013,
huyện Di Linh được Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng đánh giá là địa phương triển
khai thực hiện tốt cả về nội dung, quy trình và tiến độ trong công tác cải cách hành
chính.
Khi nền kinh tế phát triển nhanh, mạnh cả về tính chất, quy mô và tốc độ thì
huyện Di Linh có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển vững chắc. Trong những
năm gần đây, huyện Di Linh đã có sự thu hút đầu tư phát triển. Kết quả trên là có sự
chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng bộ, sự quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị trong đó
vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã.
Tuy nhiên, mặc dù huyện Di Linh có bước phát triển nhưng chất lượng, hiệu
quả, tính bền vững chưa cao, sức cạnh tranh của nhiều ngành kinh tế còn thấp. Kết
cấu hạ tầng chưa được đầu tư đúng mức, đời sống nhân còn khó khăn, an ninh nông
thôn, an ninh chính trị còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ Trước yêu cầu của Chương
trình cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 và để thực hiện mục tiêu
của huyện trở thành độ thị loại IV vào năm 2020, yêu cầu đạt ra là phải có các giải
pháp cụ thể, tích cực nhằm xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Ủy ban
nhân dân cấp xã vững mạnh, đồng bộ, có đủ phẩm chất, năng lực để hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao, trong đó việc nâng cao chất lượng cho đội ngũ Chủ tịch, Phó
Chủ Ủy ban nhân dân cấp xã ở Di Linh ngày càng trở nên cấp thiết. Nhận thức được
tầm quan trọng trên, trong những năm gần đây hoạt động của chính quyền Ủy ban
nhân dân cấp xã đã được quan tâm và có nhiều chuyển biến tích cực. Các cấp ủy
Đảng đã chăm lo công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, trình độ, năng lực công tác cho
98
cán bộ. Phong cách, ý thức trách nhiệm và lề lối làm việc cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp xã có chuyển biến tiến bộ theo hướng gần dân, sát dân và có trách
nhiệm với dân hơn, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, chính
quyền. Nhưng qua số liệu thống kê cho thấy vẫn còn một số cán bộ chưa đủ trình
độ, tiêu chuẩn theo quy định và năng lực thực tế chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm
vụ. Chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã trên địa bàn huyện Di Linh
trong giai đoạn hiện nay còn bộc lộ một số hạn chế: Một số cán bộ chưa thật sự
gương mẫu trong nhận thức và hành động, thiếu tinh thần trách nhiệm, hạn chế về
năng lực lãnh đạo, điều hành; khả năng nhận thức, tổ chức thực hiện và khả năng xử
lý các tình huống phát sinh tại cơ sở còn lúng túng; một số cán bộ thiếu khả năng
quyết đoán, thụ động trong công việc được giao, thiếu kỹ năng tuyên truyền, tập
hợp, vận động quần chúng nhân dân chấp hành, thực hiện Chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước.
Để nâng cao chất lượng cán bộ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
xã huyện Di Linh đạt hiệu quả thì phải tiến hành đồng bộ các giải pháp tích cực
trong công tác quản lý cán bộ từ huyện đến xã, thị trấn:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo, giáo dục chính trị tư tưởng của cấp ủy
Đảng, công tác quản lý của chính quyền, giám sát của Hội đồng nhân dân và của
các tổ chức chính trị - xã hội:
- Trong Nghị quyết số 12-NQ/TW- Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay” đã đánh giá: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó
có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự
phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo
danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên
tắc...”, vì vậy, từ cấp cơ sở cần tiếp tục tăng cường công tác giáo dục chính trị tư
tưởng trong giai đoạn mới cho đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên. Các tổ chức
Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
99
Nam ngay tại mỗi địa phương ở cơ sở cần rà soát, điều chỉnh và tổ chức thực hiện
tốt các Nội quy, Quy chế làm việc, Quy chế phối hợp... trên cơ sở đó có sự phân
công, phân nhiệm cụ thể đối với từng cán bộ, công chức và lấy đó làm căn cứ đánh
giá cán bộ, công chức;
- Tăng cường chấn chỉnh việc chấp hành kỷ cương, kỷ luật theo quy định và
thực hiện Chỉ thị số 02/CT-UBND ngày 26/3/2013 của Ủy ban nhân dân huyện Di
Linh; phát huy vai trò trách nhiệm của Tổ công tác kiểm tra thực hiện nội quy, quy
chế, ý thức tổ chức kỷ luật và sử dụng thời giờ làm việc của cán bộ, công chức, viên
chức huyện Di Linh; thực hiện có hiệu quả theo các chuẩn mực đạo đức cán bộ,
công chức; tiếp tục thực hiện “Ngày Thứ 7 vì dân” để trực tiếp tiếp nhận, giải quyết
các vướng mắc của nhân dân về lĩnh vực đất đai tại các xã, thị trấn,... như Ủy ban
nhân dân huyện Di Linh đã tổ chức trong thời gian qua;
- Tiếp tục đổi mới phong cách lãnh đạo của cán bộ ở cơ sở, bởi qua thực tế
cho thấy trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ người cán bộ ở cơ sở có
những lúc, những công việc chưa hoàn thành tốt không phải do thiếu kiến thức và
sự nhiệt tình, trách nhiệm hay phương tiện, vật chất bảo đảm mà là do thiếu phong
cách lãnh đạo, quản lý phù hợp, khoa học.
Hai là, nâng cao hiệu quả việc xây dựng và thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch
công tác của mỗi cán bộ
- Các cấp ủy Đảng, chính quyền ở cơ sở cần tăng cường công tác quản lý,
giám sát, kiểm tra, đôn đốc cán bộ nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ theo kế hoạch;
trên cơ sở nhiệm vụ quy định tại Thông tư số 06/2012/TT-BNV ngày 30/11/2012
của Bộ Nội vụ Hướng dẫn về chức trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm vụ và tuyển dụng
công chức xã, phường, thị trấn; gắn với tình hình cụ thể ở địa phương;
- Mỗi cán bộ cần cụ thể hóa nhiệm vụ được giao theo chương trình hoạt động
toàn khóa, hoặc kế hoạch 5 năm của địa phương, của ngành thành những nội dung
công việc cụ thể hàng năm, quý, tháng để chỉ đạo hoặc tổ chức thực hiện có hiệu
quả. Thực tế cho thấy, địa phương nào làm tốt việc xây dựng, cụ thể hóa và tổ chức
thực hiện nhiệm vụ cũng như đánh giá cán bộ theo mức độ thực hiện, hoàn thành
100
các nhiệm vụ theo kế hoạch đã xây dựng thì địa phương đó hoàn thành tốt các
nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội của địa phương đó phát triển.
Ba là, thực hiện tốt công tác quy hoạch, tuyển dụng:
Từ những phân tích, đánh giá thực trạng trên, để nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ cấp xã trước hết cần đảm bảo đủ số lượng cán bộ chuyên trách còn khuyết và
số cán bộ còn thiếu theo từng chức danh quy hoạch. Trong quá trình tổ chức thực
hiện cần lưu ý:
- Số lượng cán bộ theo biên chế trong đó cần ưu tiên, quan tâm bổ sung kịp
thời các chức danh cán bộ chủ chốt như Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã,
các chức danh Trưởng đoàn thể; Trưởng Công an xã;
- Rà soát để bổ sung số lượng cán bộ quy hoạch cho một số xã còn thiếu;
- Từ năm 2015 thực hiện điều chỉnh, bổ sung để vừa đủ về số lượng, đảm
bảo về chất lượng, vừa điều chỉnh, bổ sung để có cơ cấu hợp lý về các tiêu chí đặc
thù: Về độ tuổi: 30 - 35% trên mỗi nhóm cán bộ để đảm bảo tính chủ động và tính
kế thừa khi có sự chuyển dịch; về nữ giới: 30 - 35%; về chuyên môn nghiệp vụ đảm
bảo 100% cán bộ, nhiệm kỳ tới có trình độ trung cấp trở lên, 70% có trình độ lý
luận chính trị từ trung cấp trở lên; về tỷ lệ cán bộ là người dân tộc thiểu số: 40 -
45%; Đặc biệt quan tâm tới công tác quy hoạch cán bộ chuyên trách và tuyển dụng
cán bộ ở các xã vùng sâu, vùng có điều kiện kinh tế khó khăn;
Ngoài ra, như đã phân tích ở trên, trong việc sử dụng, bố trí công tác đối với
cán bộ là Bí thư Đoàn Thanh niên cấp xã cần lưu ý quy định về tuổi giữ chức danh
Bí thư Đoàn Thanh niên cấp xã không quá 37 tuổi, tại Quyết định số 289-QĐ/TW
ngày 08/02/2010 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Bốn là, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ
năng trong thực thi công vụ của cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã:
Đây là giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng cán bộ nói chung, cán bộ
Ủy ban nhân cấp xã nói riêng. Để thực hiện tốt giải pháp này, cần:
- Đánh giá đúng thực trạng đội ngũ cán bộ của từng xã, thị trấn, bổ sung kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng trên cơ sở biên chế, thực trạng và quy hoạch đã được
101
Huyện ủy phê duyệt (sẽ tiếp tục được điều chỉnh, bổ sung từ nay đến 2020) để phục
vụ cho việc xây dựng kế hoạch đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,
bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước đối với cán bộ của địa phương và đào tạo,
bồi dưỡng chuẩn hóa đối với cán bộ xã nằm trong diện quy hoạch theo quy định;
- Thực hiện khảo sát nhu cầu đào tạo đối với cán bộ; tiến hành xây dựng kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xã hàng năm, tầm nhìn đến năm 2020 phù hợp với
chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Trong quá trình xây
dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện, xác định rõ cán bộ nào thì đào tạo, cán bộ nào
thì bồi dưỡng và nội dung cơ bản đào tạo, bồi dưỡng theo nhóm cán bộ đó:
+ Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên trách bao gồm: Lý luận chính trị; kỹ
năng quản lý nhà nước; kiến thức pháp luật; kỹ năng quản lý kinh tế và chuyên môn
nghiệp vụ; đào tạo bồi dưỡng kiến thức tin học, ngoại ngữ, Tiếng và chữ viết dân
tộc và các kiến thức hỗ trợ khác;
+ Đào tạo, bồi dưỡng bao gồm: Bồi dưỡng theo tiêu chuẩn như lý luận chính
trị; kỹ năng quản lý nhà nước; đào tạo, bồi dưỡng theo các chức danh lãnh đạo,
quản lý đối với các công chức thuộc diện quy hoạch chức danh cán bộ cấp xã; Tiếng
và chữ viết dân tộc theo quy định tại Thông tư số 06/2012/TT-BNV ngày
30/11/2012 của Bộ Nội vụ; trước mắt ưu tiên các công chức giữ chức
danh thường xuyên tiếp xúc với nhân dân là dân tộc thiểu số Kơ Ho.
Ngoài những nội dung trên, do đặc thù của huyện Di Linh và thực trạng nên
cần hết sức quan tâm tới việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và cán bộ nguồn là người
dân tộc thiểu số ở xã đặc biệt khó khăn, xã có điều kiện kinh tế chậm phát triển, xa
trung tâm huyện.
Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng hiện đang triển khai Đề án đào tạo các trí
thức trẻ là người dân tộc thiểu số gốc Tây Nguyên, có trình độ Đại học để bố trí làm
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân các xã đặc biệt khó khăn, có điều kiện kinh tế chậm
phát triển (gọi tắt là Đề án 50). Huyện Di Linh đã tuyển chọn và cử 09 trí thức trẻ
học tập tại Trường Chính trị tỉnh Lâm Đồng để về tăng cường làm Phó Chủ tịch Ủy
ban nhân dân các xã có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Cần xác định đây là
102
nguồn cán bộ hết sức quý giá, có trình độ chuyên môn, được đào tạo, bồi dưỡng và
trải nghiệm thực tế để bổ sung cho các xã có điều kiện khó khăn của huyện. Huyện
ủy, Ủy ban nhân dân huyện, các cơ quan chuyên môn, ban ngành của huyện và
chính quyền các xã có trí thức trẻ theo Đề án 50 cần thường xuyên quan tâm, nắm
bắt tình hình học tập; tạo điều kiện để các trí thức trẻ trong thời gian đi thực tế tại cơ
sở; có định hướng bố trí, sắp xếp sử dụng phù hợp, hiệu quả đối với từng trí thức trẻ
sau khi hết thời gian đào tạo, đi thực tế về nhận nhiệm vụ tại cơ sở.
Năm là, công tác kiểm tra đôn đốc, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật cán bộ
- Ủy ban nhân dân huyện tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực
hiện các quy định của Nhà nước đối với hoạt động quản lý hành chính của cấp xã và
các hoạt động công vụ của cán bộ cấp xã - nhất là những lĩnh vực về quản lý hành
chính có liên quan trực tiếp với nhân dân (lĩnh vực đất đai, đền bù giải phóng mặt
bằng, quản lý nhân khẩu, ...); các cơ quan chuyên môn của huyện tăng cường việc
hướng dẫn, kiểm tra đôn đốc việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn theo lĩnh vực,
ngành liên quan ở cơ sở; Ủy ban nhân dân cấp xã kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ
của cán bộ cấp xã thông qua việc xây dựng và tổ chức thực hiện, tiến độ thực hiện
các nhiệm vụ theo chức năng, nhiệm vụ;
- Các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội cấp huyện tăng cường kiểm tra,
giám sát việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, nhằm phát huy tối đa quyền làm
chủ của cán bộ trong đơn vị và vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị,
trách nhiệm công vụ, quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp của từng cán bộ trong
hoạt động quản lý hành chính ở địa phương;
- Đối với các xã, thị trấn cần xây dựng và thực hiện Quy chế thi đua khen
thưởng; thực hiện đánh giá, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ một cách khách
quan, công bằng, phát huy hiệu quả, tác dụng của công tác thi đua;
- Về việc đánh giá cán bộ cấp xã: Thực hiện đúng và đổi mới công tác đánh
giá, xếp loại cán bộ cấp xã theo các vấn đề tương ứng:
103
+ Nâng cao chất lượng quản lý, điều hành của đội ngũ cán bộ lãnh đạo; tinh
thần trách nhiệm và tính trung thực trong tham mưu của công chức chuyên môn;
tính tiên phong gương mẫu của cán bộ, công chức, đảng viên;
+ Xây dựng, sửa đổi, bổ sung hoặc thay đổi các quy chế, quy phạm (như
Quyết định số 286-QĐ/TW ngày 08/02/2010 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
về việc ban hành Quy chế đánh giá cán bộ, công chức);
+ Thực hiện công khai các thông tin về tổ chức, về cán bộ và kết quả đánh
giá, phân loại, khen thưởng, kỷ luật cán bộ ...;
- Việc đánh giá cán bộ cần được thực hiện thường xuyên để có những giải
pháp, biện pháp kịp thời khắc phục những hạn chế, khuyết điểm và đánh giá theo
các nội dung sau: Việc chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước; về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong và lề
lối làm việc; về năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; về tiến độ và kết quả
thực hiện nhiệm vụ; tinh thần trách nhiệm và phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ;
thái độ phục vụ nhân dân và việc thực hiện “Học tập tư tưởng và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo tinh thần Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011
của Bộ Chính trị;
Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý ngoài những nội dung trên còn đánh giá
thêm các nội dung: Kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, lĩnh vực được giao lãnh
đạo, quản lý; năng lực lãnh đạo, quản lý; năng lực tập hợp, đoàn kết cán bộ, công
chức;
- Hàng năm, mỗi cán bộ còn phải làm tốt việc kiểm điểm tự phê bình và phê
bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và các Chỉ thị của Bộ Chính
trị, Ban Bí thư về nhóm giải pháp kiểm điểm tự phê bình và phê bình; trong quá
trình kiểm điểm, tự phê bình và phê bình cần khiêm tốn lắng nghe, tiếp thu ý kiến
phê bình của đồng nghiệp, đồng chí, của quần chúng để thấy được những mặt mạnh
để phát huy và những hạn chế để khắc phục sửa chữa; từ đó chuyển thành nhận thức
và hành động một cách tự giác trên cơ sở kế hoạch khắc phục sửa chữa khuyết
điểm, hạn chế mà bản thân đã xây dựng.
104
Sáu là, đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài chính, giải quyết chế độ,
chính sách đối với cán bộ
- Việc đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp trụ sở các cơ quan hành chính, nhất
là ở cấp xã, đảm bảo có đủ diện tích làm việc, trang bị phương tiện, thiết bị cần thiết
nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước và giúp cho cán bộ, công
chức có điều kiện thuận lợi hơn trong quá trình thực thi công vụ, phục vụ tốt nhân
dân, doanh nghiệp là một trong 6 nhiệm vụ chủ yếu về cải cách hành chính giai
đoạn 2011 - 2015 của tỉnh Lâm Đồng trong Kế hoạch kèm theo Quyết định số
920/QĐ-UBND ngày 23/4/2012;
- Các cấp cần quan tâm thực hiện đầy đủ, đúng thời gian về các chế độ: Tiền
lương, phụ cấp; bảo hiểm xã hội; ... đồng thời, các xã, thị trấn hết sức lưu ý về các
giải pháp, phối hợp với các cơ quan liên quan để giải quyết dứt điểm chế độ chính
sách đối với đội ngũ cán bộ, công chức đã nghỉ việc chưa được giải quyết chế độ và
giải quyết các tồn tại về tiền lương, về ghi sổ bảo hiểm xã hội, chốt sổ bảo hiểm xã
hội đến hết ngày 31/12/2008 đối với cán bộ, công chức cấp xã hiện đang công tác,
không để sai sót về chế độ dẫn đến vướng mắc khi giải quyết chế độ hiện tại cũng
như sau này khi nghỉ việc, tạo tâm lý yên tâm công tác của cán bộ, công chức;
- Trong quá trình xây dựng các văn bản về chế độ, chính sách liên quan tới
cán bộ, công chức cấp xã, ngoài việc thực hiện đúng quy trình các cơ quan chức
năng, ban ngành liên quan cần tổ chức tốt và có hiệu quả việc lấy ý kiến đóng góp
của chính đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở để hạn chế những nội dung không phù
hợp thực tiễn ở cơ sở.
Bảy là, thực hiện tốt công tác cải cách hành chính và quy chế dân chủ cơ sở:
Theo Kế hoạch cải cách hành chính giai đoạn 2011 - 2015 trên địa bàn tỉnh
Lâm Đồng ban hành kèm theo Quyết định số 920/QĐ-UBND ngày 23/4/2012 của
UBND tỉnh Lâm Đồng xác định:
- Về xây dựng đội ngũ cán bộ có cơ cấu hợp lý, đủ trình độ, năng lực, phẩm
chất đạo đức và tinh thần trách nhiệm, đảm đương và thực hiện tốt nhiệm vụ được
giao; hoạt động của cán bộ được kiểm soát, đánh giá đúng thực chất. Phấn đấu đến
105
năm 2015 có 50% các cơ quan hành chính nhà nước có cơ cấu cán bộ, công chức
theo vị trí việc làm; 90% cán bộ công chức đạt chuẩn theo quy định, trong đó cán bộ
công chức cấp xã có ít nhất 35% đạt trình độ cao đẳng, đại học và từ 60% trở lên đạt
chuẩn theo chức danh;
- Nhiệm vụ công tác cải cách hành chính giai đoạn 2011 - 2015, với 6 nhiệm
vụ chủ yếu: Cải cách thể chế; cải cách thủ tục hành chính; cải cách tổ chức bộ máy
hành chính; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức;
cải cách tài chính công và hiện đại hóa hành chính;
Vì lẽ trên, trong điều kiện thực tế hiện nay của huyện Di Linh cần:
+ Tập trung đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động, thái độ phục vụ, năng
lực, đạo đức, trách nhiệm trong thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ công chức, viên
chức, gắn với công tác cải cách hành chính; cải tiến nội dung, phương pháp và thời
gian làm việc trong giải quyết hồ sơ, thủ tục cho cá nhân, tổ chức trên địa bàn theo
cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” tại huyện và tại các xã, thị trấn; xây dựng,
áp dụng, duy trì hệ thống quản lý chất lượng theo TCVN ISO 9001:2008 trong hoạt
động của các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn;
+ Cán bộ cấp xã cần chấp hành tốt quy chế dân chủ ở cơ quan và ở địa
phương nơi cư trú; chịu sự giám sát của nhân dân trong thực thi công vụ và giữ mối
quan hệ với nhân dân; đồng thời đòi hỏi người cán bộ cấp cơ sở phải có phong cách
làm việc cụ thể, rõ người, rõ việc, không thể chung chung, đại khái; mỗi cán bộ và
gia đình cần gương mẫu trong việc chấp hành các quy định, quy chế của địa phương
nơi cư trú.
Để thực hiện có hiệu quả các giải pháp nêu trên, nhằm nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ cấp xã cần xác định vai trò, trách nhiệm của Phòng Nội vụ huyện là
hết sức quan trọng, thể hiện qua việc vừa là cơ quan tham mưu chỉ đạo, vừa phải
hướng dẫn các địa phương thực hiện các nội dung về công tác tổ chức bộ máy, công
tác cán bộ, chế độ chính sách, đào tạo, bồi dưỡng và sau đó tổng hợp thành chương
trình, kế hoạch chung toàn huyện về các nội dung trên; đồng thời tích cực phối hợp
106
với các cơ quan, đơn vị liên quan (tài chính, bảo hiểm...) để thực hiện có hiệu quả
các giải pháp đó.
Hy vọng rằng, những giải pháp mà tác giả đưa ra để góp phần nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ Ủy ban nhân dân cấp xã trong đó đội ngũ lãnh đạo, quản lý
chính quyền Ủy ban nhân dân cấp xã trong thời gian tới, đáp ứng, đòi hỏi, nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước trên tất cả các mặt của lĩnh vực đời sống xã hội, góp
phần hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân./.
107
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành Trung ương Đảng (2013), Về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện
hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, Kết luận 64-KL-TW, Hà Nội
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Nghị quyết
Trung ương 3 khóa VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, NXb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Bộ Chính chị (2002), Về việc luân chuyển cán bộ, lãnh đạo và quản lý,
Nghị quyết 11-NQ/TW, Hà Nội.
4. Bộ Chính trị (2015), Về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức, Nghị quyết số 39-NQ/TW, Hà Nội.
5. Bộ Nội vụ (2004), Về ban hành quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ,
công chức, xã, phường, thị trấn đến năm 2010, Quyết định số 2004/QĐ-BNV, Hà
Nội.
6. Bộ Nội vụ (2007), Về việc ban hành Quy tắc ứng xử của cán bộ, công
chức, viên chức làm, Quyết định số 03/2007/QĐ-BNV, Hà Nội.
7. Chính phủ (2003), Về cán bộ công chức xã, phường, thị trấn, Nghị định số
114/2003/NĐ-CP, Hà Nội
8. Chính phủ (2007), Quy định danh mục các vị trí công tác và thời hạn định
kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức, Nghị định số
158/2007/NĐ-CP, Hà Nội.
9. Chính phủ (2009), Về chức danh, số lượng, một số chế độ chính sách đối
với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã, Nghị định số 92/2009/NĐ-CP, Hà Nội.
10. Chính phủ (2011), Về công chức xã, phường, thị trấn, Nghị định số
112/2011/NĐ-CP, Hà Nội.
11. Chính phủ (2014), Về chính sách tinh giản biên chế đã được các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương quán triệt đến cán bộ, công chức, viên chức và cũng đã thực
108
hiện việc tinh giản biên chế và giải quyết chế độ, chính sách cho các đối tượng tinh
giản biên chế, Nghị định số 108/2014/NĐ-CP, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
13. Đảng Cộng sản Việt nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Hội đồng nhân dân tỉnh Lâm Đồng (2009), Về việc quy định chức danh,
chế độ phụ cấp đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã,
phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, Nghị quyết số 134/2009/NQ-HĐND.
15. Huyện ủy Di Linh (2010), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Di Linh
lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2010- 2015.
16. Huyện ủy Di Linh (2010), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Di
Linh lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2015-2020.
17. Nguyễn Duy Hùng (2008), Luận cứ khoa học và một số giải pháp xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Mai Đức Ngọc (2008), Vai trò cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã trong
việc giữ vững ổn định Chính trị- xã hội ở nông thôn nước ta hiện nay, Nxb. Chính
trị -Hành chính, Hà Nội.
19. Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Luật Tổ
chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 2003, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
20. Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Pháp lệnh
về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Hà Nội.
21. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Luật cán
bộ, công chức, Hà Nội.
22. Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
23. Quốc hội (2016), Luật tổ chức Chính quyền địa phương, Hà Nội.
109
24. Quốc hội khóa IX (1992), Hiến pháp năm 1992, sửa đổi năm 2013, Hà
Nội.
25. Quốc hội (2003), Luật tổ chức Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Hà
Nội.
26. Nguyễn Minh Sản (2009), Pháp luật về cán bộ, công chức chính quyền
cấp xã ở Việt Nam nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị- Hành chính, Hà Nội.
27. Nguyễn Ngọc Khanh, Nguyễn Văn Thắng (2006), “Công tác lãnh đạo,
quản lý cơ sở xã, phường, thị trấn hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị.
28. Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2001), Luận cứ khoa học “Nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại
hoá đất nước”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Nguyễn Thành Dũng, (2010), Luân chuyển cán bộ khâu đột phá trong
công tác cán bộ ở tỉnh Đắk Lắk, Nxb. Chính trị quốc gia.
30. Nguyễn Thị Tuyết Mai (2007), Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của
cán bộ chủ chốt xã (Qua khảo sát ở đồng bằng Sông Hồng), NXB. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
31. Thủ tướng Chính phủ (2007), Về văn hoá công sở tại các cơ quan hành
chính Nhà nước, Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg, Hà Nội.
32. Thủ tướng Chính phủ (2008), Về việc nâng cao hiệu quả sử dụng thời giờ
làm việc của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, Chỉ thị số 05/2008/CT-TTg,
Hà Nội.
33. Thủ tướng Chính phủ (2015), Ban hành Kế hoạch thực hiện Nghị quyết
số 39-NQ/TW, Quyết định số 2218/QĐ-TTg, Hà Nội.
34. Thủ tướng Chính phủ (2017), Về việc đẩy mạnh thực hiện chủ trương
tinh giản biên chế, Chỉ thị số 02/CT-TTg, Hà Nội.
35. Tỉnh ủy Lâm Đồng (2010), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Tỉnh
Lâm Đồng lần thứ X, nhiệm kỳ 2015-2020.
110
36. Tô Huy Rứa, Nguyễn Cúc, Trần Khắc Việt (2003), Giải pháp đổi mới
hoạt động của hệ thống chính trị ở các tỉnh miền núi nước ta hiện nay, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
37. UBND tỉnh Lâm Đồng (2008), Về phân loại đơn vị hành chính các xã,
thị trấn huyện Di Linh, Quyết định số 1009/QĐ-UBND.
38. UBND tỉnh Lâm Đồng (2010), Về việc giao số lượng cán bộ công chức
xã, phường, thị trấn thuộc tỉnh Lâm Đồng, Quyết định số 139/QĐ-UBND.
39. UBND huyện Di Linh (2010), Về việc giao số lượng cán bộ, công chức
cấp xã thuộc huyện Di Linh tỉnh Lâm Đồng, Quyết định số 620/QĐ-UBND.
40. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 45, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Võ Kim Sơn (2002), “Tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ chủ chốt
chính quyền cấp cơ sở”, Tạp chí Quản lý nhà nước.
42. Vũ Huy Từ (2002), “Một số giải pháp tăng cường năng lực đội ngũ cán
bộ cơ sở”, Tạp chí Quản lý nhà nước.
43. Viện Ngôn ngữ học (2010), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Từ điển bách khoa,
Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_chat_luong_can_bo_uy_ban_nhan_dan_cap_xa_huyen_di_l.pdf