Chất lượng công chức chính quyền cấp xã huyện Đam Rông chỉ
có thể được nâng cao khi có một hệ thống lý thuyết hoàn thiện để trên cơ
sở đó phân tích, đánh giá hiện trạng, qua đó rút ra những kết luận khoa
học về chất lượng công chức chính quyền cấp xã.
Theo đó, luận văn đã đề các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
chất lượng công chức chính quyền cấp xã huyện Đam Rông như xây
dựng đội ngũ công chức cấp xã có phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo
đức tốt; tiếp tục nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng; đổi mới
công tác tuyển dụng; bố trí, sử dụng hợp lý, khoa học và hiệu quả; tăng
cường hướng dẫn, kiểm tra, giám sát và đánh giá chất lượng; đổi mới
chính sách tiền lương, chế độ phúc lợi và thực hiện tốt công tác khen
thưởng, kỷ luật công chức cấp xã. Chỉ khi thực hiện quyết liệt, đống bộ
các giải pháp này mới có thể nâng cao chất lượng công chức chính quyền
cấp xã huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng.
131 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 556 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chất lượng công chức cấp xã huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị. Bảo đảm nguyên tắc
tập trung dân chủ, tập thể quyết định đi đôi với thực hiện đầy đủ trách
nhiệm cá nhân trong công tác cán bộ. Gắn xây dựng đội ngũ cán bộ với
92
xây dựng các tổ chức trong hệ thống chính trị và đổi mới cơ chế chính
sách đối với cán bộ.
Việc bố trí, sử dụng cán bộ công chức nhất là cán bộ, công chức
cấp xã phải đúng tiêu chuẩn phù hợp với chuyên môn và sở trường công
tác, vì nhiệm vụ mà bố trí cán bộ, mạnh dạn giao việc tạo điều kiện để
cán bộ tự phấn đấu trưởng thành, đồng thời đảm bảo tính kế cận trong đội
ngũ cán bộ. Kiên quyết chống tư tưởng cục bộ địa phương, định kiến, hẹp
hòi, tư tưởng kèn cựa, gây mất đoàn kết nội bộ, đồng thời chống các phân
tử cơ hội, cá nhân chủ nghĩa.
Phấn đấu xây dựng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị có
phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập
trường giai cấp công nhân, đủ về số lượng và chất lượng; đồng bộ về cơ
cấu, bảo đảm sự chuyển tiếp và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ; đủ sức
thực hiện thắng lợi sự nghiệp phát triển của huyện (Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ huyện lần thứ III).
Trên cơ sở Quyết định số 916/QĐ-UBND ngày 23/4/2012 của
UBND tỉnh Lâm Đồng về phê duyệt quy hoạch và phát triển nguồn nhân
lực tỉnh Lâm Đồng đến năm 2020 và Đề án số 510/ĐA-UBND ngày
29/5/2010 của Ủy ban nhân dân huyện Đam Rông về đào tạo, nâng cao
và phát triển nguồn nhân lực huyện Đam Rông đến năm 2015 và định
hướng đến năm 2020 và Quyết định 124/QĐ-TTg ngày 16/01/2014 của
Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt đề án tiếp tục củng cố, kiện toàn
chính quyền cơ sở vùng Tây Nguyên giai đoạn 2014-2020. Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ huyện đã đề ra mục tiêu đến năm 2020 của huyện Đam
Rông là:
- Về mục tiêu chung: Xây dựng đội ngũ công chức cấp xã của
huyện có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống
93
lành mạnh, có tinh thần đoàn kết, hợp tác, có ý thức tổ chức kỷ luật cao,
tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống quan
liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi mới, sáng tạo, có kiến thức
chuyên môn và năng lực thực tiễn, có phong cách làm việc khoa học, dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đủ về số lượng, đảm bảo chất
lượng, đồng bộ về cơ cấu, có tính kế thừa và phát triển, đảm bảo sự
chuyển tiếp liên tục giữa các thế hệ cán bộ. Đồng thời tập trung kiện toàn
đội ngũ cán bộ, công chức từ huyện đến cơ sở đảm bảo về số lượng và
chất lượng; tạo ra lực lượng cán bộ có trình độ vững vàng về mặt chuyên
môn, Lý luận chính trị. Đào tạo cán bộ, công chức, cán bộ lãnh đạo, cán
bộ quản lý có phẩm chất và năng lực, có phong cách làm việc khoa học,
nhanh nhẹn, chuyên nghiệp nhằm thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội, đảm
bảo quốc phòng an ninh xây dựng hệ thống chính trị của địa phương vững
mạnh.
- Về mục tiêu cụ thể:
Đến năm 2020: 100% đội ngũ cán bộ, công chức đảm bảo về
trình độ học vấn, chuyên môn, Lý luận chính trị, QLNN, ngoại ngữ, tin
học, tiếng dân tộc. Đưa huyện trở thành huyện nông thôn mới.
Mục tiêu trên được xây dựng và thực hiện theo quan điểm: Đảng
thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trên cơ sở
nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành
viên trong hệ thống chính trị và người đứng đầu. Xây dựng đội ngũ công
chức phải xuất phát từ yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH và sát
với điều kiện thực tiễn của địa phương. Qua hoạt động thực tiễn và phong
trào quần chúng để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng, bố trí và
sử dụng cán bộ và ưu tiên đào tạo phát triển nguồn nhân lực tại chỗ; gồm
đội ngũ cán bộ, công chức hiện đang làm việc và đội ngũ lao động dự bị,
94
nhân lực dự nguồn từ sinh viên đang học. Đồng thời trên nguyên tắc
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ;
nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên tắc tự phê bình và phê bình; giữ
vững và phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Xây
dựng đội ngũ cán bộ gắn liền với kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn liền với nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, xây dựng tổ chức đảng, chính
quyền, đoàn thể trong sạch, vững mạnh.
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng công chức cấp xã huyện
Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng
Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, với mục tiêu xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức nói chung và công chức cấp xã nói riêng, từng
bước hiện đại hóa để quản lý có hiệu quả công việc của Đảng và Nhà
nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực
đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật xã hội
chủ nghĩa. Một trong số những giải pháp trọng tâm là xây dựng, nâng cao
chất lượng đội ngũ công chức cấp xã thực thi công vụ có chất lượng và
hiệu quả.
Đội ngũ công chức cấp xã chính là hạt nhân, có vị trí, vai trò và
nhiệm vụ hết sức quan trọng trong việc thực thi các nhiệm vụ phát triển
KT-XH ở địa phương. Công chức cấp xã có vai trò rất quan trọng, là nền
tảng ở cơ sở. Địa phương mạnh hay yếu một phần quan trọng phụ thuộc
vào chất lượng đội ngũ công chức xã. Công chức cấp xã góp phần quyết
định sự thành bại của chủ trương đường lối và nhiệm vụ chính trị của
Đảng và Nhà nước, do đó, đầu tư xây dựng chất lượng đội ngũ công chức
cấp xã có phẩm chất, đạo đức, có năng lực thực thi công vụ là nhiệm vụ
bức thiết của cấp ủy chính quyền các cấp. Với tầm quan trọng đó, dựa
95
vào điều kiện cụ thể của huyện Đam Rông, một số giải pháp được đề xuất
để nâng cao chất lượng công chức cấp xã trên địa bàn thành phố như sau:
3.2.1. Xây dựng đội ngũ công chức cấp xã đáp ứng yêu cầu về
phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức
Trong những năm qua tỉnh Lâm Đồng và huyện Đam Rông đã
ban hành, triển khai thực hiện nhiều chủ trương biện pháp đẩy mạnh cải
cách hành chính, cải tiến lề lối; tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính,
giáo dục phẩm chất đạo đức, lối sống; kiên quyết chống hành vi quan liêu
tham nhũng, lãng phí tiêu cực, thiếu trách nhiệm nhũng nhiễu nhân dân
của công chức. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, chất lượng công
chức cấp xã huyện Đam Rông vẫn chưa thực sự chuyển biến tốt theo
hướng phục vụ nhân dân, kỷ luật, kỷ cương hành chính vẫn còn chưa
nghiêm; tác phong lề lối làm việc, tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ
nhân dân và một bộ phận công chức chưa đáp ứng được yêu cầu xây
dựng và phát triển thành phố trong tình hình mới.
Để góp phần nâng cao đạo đức công vụ của công chức cấp xã
huyện Đam Rông thiết thực và hiệu quả, cần xây dựng và hoàn thiện
chuẩn mực nhằm cụ thể hóa nguyên tắc đạo đức công vụ. Công chức cần
không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, tích cực học tập
nâng cao trình độ, năng lực, chịu học, biết học và học có hiệu quả; luôn
bám sát thực tiễn, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, đồng thời kiên trì
tích lũy kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng công tác, rèn luyện bản lĩnh
và năng lực lãnh đạo, quản lý, khả năng hợp tác, tổ chức thực hiện và
chịu trách nhiệm; kiên quyết và kiên trì trong cuộc đấu tranh chống lại
dốt nát, nghèo đói, thói hư, tật xấu, nhất là sự lười biếng, đố kỵ, lối sống
buông thả và sa đọa. Đồng thời, thường xuyên giáo dục và nêu cao tinh
thần tự tu dưỡng đạo đức công vụ, đạo đức cá nhân: Giáo dục đạo đức
96
công vụ là nhiệm vụ hết sức nặng nề, khó khăn, tỉ mỉ và phức tạp, vừa
cấp bách vừa lâu dài, phải thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức
trong thực tiễn hoạt động công vụ và trong sinh hoạt hàng ngày. Đó là
một quá trình giáo dục tổng hợp bao gồm giáo dục chính trị, pháp luật,
đạo đức, thẩm mỹ, văn hóa giao tiếp, ý thức lao động, kỹ năng lao động
nghề nghiệp, giáo dục phẩm hạnh, lòng tự trọng, tình thương yêu con
người Đặc biệt, chú trọng mối quan hệ mật thiết giữa quy phạm pháp
luật và các quy phạm đạo đức. Ở chừng mực nào đó, cần thiết phải thể
chế hóa những quy phạm, nguyên tắc đạo đức thành những quy phạm
pháp luật. Mặt khác, coi việc xử lý nghiêm, kịp thời và công bằng những
sai phạm của công chức có ý nghĩa to lớn trong việc giáo dục và răn đe
công chức, đồng thời củng cố niềm tin của nhân dân vào Nhà nước và
pháp luật.
Bên cạnh đó, một mặt giáo dục đạo đức là quá trình kết hợp giữa
giáo dục và tự giáo dục, là sự thức tỉnh tự phán xử và làm cho lương tâm
trong sạch. Mục tiêu của việc giáo dục đạo đức là quá trình biến nhận
thức cái tất yếu thành cái tự do, biến ý thức nghĩa vụ thành tình cảm,
thành niềm tin vững chắc, thành sự thôi thúc bên trong, hình thành ý thức
cái cần phải làm để khỏi xấu hổ trước người khác và trước bản thân.
Thông qua hoạt động công vụ, phục vụ nhân dân, công chức không chỉ
thực hiện nghĩa vụ của mình là cống hiến cho xã hội mà còn phát triển
làm phong phú bản thân, tạo ra điều hiện cơ bản để đạt được hạnh phúc.
Rèn luyện đạo đức là một quá trình khó khăn, lâu dài. Mặt khác, kiên
quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời và công bằng những sai phạm của
công chức có hành vi vi phạm đạo đức công vụ. Với những hành vi gây
nhũng nhiễu, phiền hà về thủ tục hành chính trong giải quyết công việc
của công dân. Đặc biệt, các trường hợp tái phạm có tổ chức, có tình tiết
97
nghiêm trọng cần phải được xử lý kiên quyết, nghiêm minh, kịp thời và
công bằng nhằm góp phần giáo dục và răn đe công chức, đồng thời củng
cố niềm tin của nhân dân vào Nhà nước và pháp luật. Thực hiện nghiêm
chế độ tự phê bình và phê bình nhằm đề cao giá trị đạo đức, sự hướng
thiện của con người, ngăn ngừa, hạn chế sa sút, suy thoái đạo đức.
Ngoài ra, cần tiến hành rà soát, bổ sung, sửa đổi các quy định về
quy trình, thủ tục hành chính không còn phù hợp, gây phiền hà cho tiếp
nhận, xử lý công việc của công dân; kiên quyết loại bỏ những khâu trung
gian, thủ tục rườm rà, chồng chéo, những loại giấy tờ không cần thiết,
công khai hóa, minh bạch hóa các quy định về trình tự, thủ tục hành
chính nhằm tránh tình trạng công chức lợi dụng kẽ hở từ những quy định
của pháp luật và vận dụng tùy tiện trong giải quyết công việc.
Nâng cao đạo đức công vụ là một đòi hỏi tất yếu và để thực hiện
được cần có một hệ thống giải pháp đồng bộ vừa đề cao giá trị đạo đức,
sự hướng thiện của người công chức, vừa có cơ chế tạo điều kiện cho các
giá trị đạo đức phát triển và vừa ngăn ngừa, hạn chế sự sa sút, suy thoái
đạo đức. Bồi dưỡng, nâng cao đạo đức công vụ, trước hết là trách nhiệm,
nghĩa vụ của mỗi công chức, đây cũng là kết quả từ nỗ lực chung của các
cơ quan nhà nước, các tổ chức đoàn thể và của toàn xã hội.
Hiện nay, tham nhũng, tiêu cực đã trở thành điều nhức nhối trong
đời sống xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước, giảm hiệu lực của cơ quan Nhà nước các cấp trên tất
cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội; là lực cản lớn của quá trình đổi mới
xây dựng đất nước, mảnh đất tốt gieo mầm cho các thế lực thù địch lợi
dụng để phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nước ta. Để chống
tham nhũng, tiêu cực trong đội ngũ công chức nhất là công chức cấp xã là
công việc cấp bách và cần tập trung vào một số nhiệm vụ như thực hiện
98
nghiêm túc kết luận tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 4 khoá IX;
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII; Nghị
quyết số 12-NQ/TW - Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay”. Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn đảng, đấu tranh
chống tham nhũng, tiêu cực, đồng thời phải thường xuyên coi trọng công
tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng đối với công chức; tổ chức học
tập quán triệt xây dựng kế hoạch hành động thực hiện Luật Chống tham
nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm; duy trì thành nề nếp việc học tập đạo
đức, tư tưởng Hồ Chí Minh để giáo dục cho công chức chính quyền cấp
xã noi theo tấm gương cần kiệm liêm chính, chí công vô tư của Chủ tịch
Hồ Chí Minh.
Tiếp tục duy trì nền nếp, nâng cao chất lượng sinh hoạt tự phê và
phê bình trong công chức cấp xã. Thực hiện nghiêm chế độ nhận xét,
đánh giá đối với công chức, đặc biệt là khâu thông báo công khai đối với
công chức về những ưu, khuyết điểm của công chức để họ có kế hoạch
phấn đấu. Đồng thời, cần bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, quy
định của Nhà nước về quản lý tài chính, quản lý công sản, xây dựng cơ
bản, không tạo kẽ hở cho phần tử xấu lợi dụng. Xóa bỏ các thủ tục
hành chính phiền hà nhất là ở những lĩnh vực, những khâu dễ xảy ra tham
nhũng. Duy trì thành nề nếp việc thanh tra, kiểm tra, kiểm soát bảo đảm
tính minh bạch trong việc sử dụng ngân sách Nhà nước, sử dụng tài sản
công.
Ngoài ra, cần thực hiện tốt chế độ kê khai tài sản công chức theo
quy định; chế độ công khai hóa hoạt động công vụ, nhất là trong các công
việc quan hệ với công dân, trong các lĩnh vực liên quan đến những vấn đề
nhạy cảm được xã hội quan tâm như chính sách cán bộ, công chức, quản
99
lý đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản và tài chính, ngân sách, Thực hiện
tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy vai trò của nhân dân trong tham gia
xây dựng và giám sát mọi hoạt động, sinh hoạt của công chức cấp xã. Bảo
vệ những người đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Xử lý nghiêm
khắc, thích đáng những công chức cấp xã thoái hóa, biến chất.
3.2.2. Tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng công chức cấp xã
Tuyển dụng công chức nói chung và công chức cấp xã là việc
làm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tính chất quyết định đến chất
lượng công chức sau này. Đây là một vấn đề nhạy cảm, phức tạp và rất dễ
xảy ra tiêu cực.
Trong thời gian qua, công tác tuyển dụng đã có nhiều đổi mới
tuy nhiên vẫn còn những hạn chế nhất định, vì vậy để nâng cao chất
lượng thực thi công vụ của công chức cấp xã, công tác tuyển dụng cần
phải được thực hiện một số hoạt động sau:
Đổi mới nội dung và cách thức thi tuyển công chức:
Nội dung thi tuyển công chức cấp xã phải gắn với chuyên ngành
của vị trí dự tuyển để khảo sát được trình độ và các kỹ năng của thí sinh,
đảm bảo thí sinh có thể thực hiện ngay công việc ở vị trí tuyển dụng; kỹ
năng soạn thảo văn bản quản lý hành chính nhà nước; kỹ năng ứng dựng
công nghệ thông tin.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong phương pháp thi tuyển trắc
nghiệm kiến thức chung qua máy tính nhằm nâng cao chất lượng, đảm
bảo khách quan, công bằng và góp phần phòng chống tiêu cực trong thi
tuyển công chức.
Đảm bảo công tác tuyển dụng công chức xã được diễn ra theo
hướng dân chủ, công khai, minh bạch, cạnh tranh lành mạnh và tuyển
chọn đúng người đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn chức danh. Căn cứ vào yêu
100
cầu nhiệm vụ, tiêu chuẩn chức danh và số lượng công chức cấp xã theo
từng chức danh được UBND huyện giao (trên cơ sở quyết định giao chỉ
tiêu của UBND tỉnh), UBND các xã có trách nhiệm xây dựng kế hoạch
tuyển dụng công chức cấp xã hằng năm theo từng chức danh, báo cáo
UBND huyện để phê duyệt và tổ chức tuyển dụng. UBND huyện tổ chức
thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng và niêm yết
công khai tại trụ sở làm việc của UBND huyện, phòng Nội vụ, UBND xã
về đối tượng, tiêu chuẩn, điều kiện tuyển dụng và chính sách thu hút
người giỏi về công tác ở xã, thời gian, địa điểm tiếp nhận hồ sơ nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho mọi người được biết tham gia tuyển dụng và giám
sát việc thực hiện công tác tuyển dụng.
3.2.3 Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng công
chức cấp xã
Như đã đề cập ở Chương 1, đào tạo, bồi dưỡng có ảnh hưởng
quan trọng đến năng lực thực thi công vụ của công chức cấp xã, đó là nền
tảng, là tiền đề quan trọng để công chức cấp xã thực thi công vụ một cách
có hiệu quả. Qua nghiên cứu thực trạng chất lượng công chức cấp xã
huyện Đam Rông tại chương 2 cũng đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế
trong thực thi công vụ của công chức, trong đó đã phân tích và làm rõ
những tồn tại, hạn chế bắt nguồn từ công tác đào tạo, bồi dưỡng công
chức cấp xã. Những tồn tại, hạn chế trong công tác đào tạo, bồi dưỡng
công chức cấp xã của thành phố hiện nay là một trong những nguyên
nhân có ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực của công chức cấp xã. Đào tạo,
bồi dưỡng chưa thực sự trở thành công cụ hữu hiệu để nâng cao năng lực
công chức cấp xã của huyện hiện nay. Vì vậy, giải pháp đào tạo, bồi
dưỡng công chức cấp xã cần tập trung vào những nội dung sau:
101
Đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã phải gắn với yêu cầu của vị
trí công tác và định hướng quy hoạch cán bộ dài hạn
Đào tạo, bồi dưỡng có vị trí, vai trò rất quan trọng trong việc
nâng cao năng lực của công chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”, thấm nhuần chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta từ trước tới nay luôn coi
trọng vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ (nói chung) và nhờ có đội ngũ cán
bộ, công chức được huấn luyện, đào tạo, chuẩn bị tốt nên trong từng giai
đoạn cách mạng, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân giành được những thắng
lợi có ý nghĩa to lớn.
Bước vào thời kỳ phát triển mới của đất nước, Đảng ta chỉ rõ:
“Đầu tư thích đáng cho việc đào tạo, bồi dưỡng những người ưu tú trở
thành cán bộ chủ chốt” và phải “dành kinh phí thỏa đáng cho việc đào
tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ cán bộ cơ sở”. Việc đào tạo, bồi dưỡng công
chức cấp xã huyện Đam Rông hiện nay cần tập trung vào một số nội dung
vừa mang tính cấp bách vừa mang tính lâu dài đó là:
Đối với công tác đào tạo, công chức lớn tuổi không có trình độ
chuyên môn, không có nhu cầu đào tạo thì giải quyết chế độ thôi việc
hưởng bảo hiểm xã hội hoặc về hưu trước tuổi theo quy định để tuyển
dụng công chức đã chuẩn hóa về trình độ.
Những công chức có trình độ chuyên môn chưa đạt chuẩn, đã
tham gia công tác nhiều năm và có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có sự
gắn bó tâm huyết với cơ sở, còn thời gian tham gia công tác dài thì tạo
điều kiện để công chức được tham gia các lớp đào tạo nâng cao trình độ
chuyên môn phù hợp để đạt chuẩn theo quy định.
Những công chức đã có trình độ chuyên môn là bậc trung cấp,
trong thực tế công tác đã phát huy được sở trường chuyên môn, có nhu
102
cầu nâng cao trình độ chuyên môn để đáp ứng tốt hơn yêu cầu công tác
thì đưa đi đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn bằng các lớp đại học hệ
vừa học vừa làm. Việc cử công chức đi đào tạo phải đảm bảo đúng
chuyên ngành, phù hợp với vị trí mà công chức đang đảm nhận và cơ sở
đào tạo phải là cơ sở có uy tính, chất lượng, tránh việc đi đào tạo chỉ cốt
để có bằng cấp cao hơn để hưởng thụ ngạch bậc lương hoặc để thăng tiến.
Đối với những công chức có trình độ chuyên môn không phù
hợp với vị trí công tác đang đảm nhận thì cần đánh giá, phân thành hai
nhóm để có kế hoạch bố trí, sử dụng phù hợp như làm tốt công tác bố trí
nhân sự, công chức có chuyên môn phù hợp với vị trí công tác khác thì
luân chuyển để công chức phát huy được kiến thức chuyên môn và góp
phần nâng cao hiệu quả công tác. Công chức có trình độ chuyên môn
không phù hợp với các vị trí công tác tại xã mà có phẩm chất đạo đức tốt,
có tâm huyết với công tác được giao, đã có nhiều năm tham gia công tác
tại địa phương, được nhân dân tín nhiệm mà xã hiện chưa có nhân lực có
trình độ chuyên môn phù hợp để thay thế thì bố trí tham gia các lớp bồi
dưỡng về chuyên môn phù hợp với vị trí công tác, đồng thời có kế hoạch
đưa đi đào tạo trình độ chuyên môn đúng với vị trí chức danh công tác
đang đảm nhiệm.
Đào tạo về LLCT: tiêu chuẩn chức danh quy định công chức phải
được đào tạo về LLCT. Hiện nay việc đào tạo LLCT cho công chức cấp
xã được thực hiện theo hai cấp. Đào tạo Sơ cấp LLCT do Trung tâm bồi
dưỡng chính trị huyện Đam Rông đảm nhận và đào tạo trung cấp LLCT
do Trường Chính trị tỉnh Lâm Đồng đảm nhận. Việc đào tạo LLCT hiện
nay vẫn là đào tạo chung cho cả cán bộ, công chức cho nên đào tạo nói
chung còn mang tính lý luận, chưa thể đi vào chuyên sâu và phù hợp với
103
từng nhóm đối tượng. Vì thế huyện cần rà soát lại trình độ lý luận chính
trị ở từng nhóm công chức để có kế hoạch đào tạo phù họp.
Đào tạo nhất định phải gắn với vị trí công tác, phải xuất phát từ
nhu cầu thực tiễn công tác. Kiên quyết không đưa công chức đi đào tạo
những chuyên ngành không đúng với vị trí công tác, không giải quyết
nâng ngạch đối với công chức có bằng tốt nghiệp không phù hợp với vị
trí công tác đang đảm nhận. Đối với 2 vị trí chức danh có số lượng công
chức chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ cao là Trưởng Công an xã và Chỉ huy
trưởng Quân sự xã thì cần tăng cường công tác đào tạo tại Trường Quân
sự tỉnh và giao cho Công an huyện tham mưu cho Công an tỉnh phối hợp
với Trường Trung học Cảnh sát nhân dân, Trường Trung học An ninh
nhân dân đưa học viên đi đào tạo đảm bảo đào tạo đúng đối tượng, vị trí
chức danh Trưởng công an xã, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tại địa phương.
Cùng với việc đào tạo để hướng tới đạt chuẩn chức danh công
chức theo quy định cần chú trọng việc đào tạo nguồn kế cận. Muốn vậy,
phải làm tốt công tác quy hoạch cán bộ, trong đó chú trọng những cán bộ
trẻ, là người dân tộc thiểu số đã được đào tạo những chuyên ngành phù
hợp với vị trí công tác thì cần có quy hoạch, kế hoạch dự nguồn để đảm
bảo đội ngũ công chức kế cận.
Đối với bồi dưỡng, việc bồi dưỡng cũng không thực hiện theo
cách cào bằng như vẫn làm mà cần phải phân nhóm đối tượng để xác
định nội dung, chương trình, phương pháp bồi dưỡng cho phù hợp:
Công chức đã có trình độ chuyên môn phù hợp với vị trí công tác
đang đảm nhận thì hàng năm cần tập trung bồi dưỡng nâng cao kiến thức
chuyên môn, nhất là các kiến thức chuyên sâu, những quy định mới mang
tính chất ngành, lĩnh vực.
104
Công chức có trình độ chuyên môn không phù hợp với các vị trí
công tác tại xã mà có phẩm chất đạo đức tốt, có tâm huyết với công tác
được giao, đã có nhiều năm tham gia công tác tại địa phương, được nhân
dân tín nhiệm mà xã hiện chưa có nhân lực có trình độ chuyên môn phù
hợp để thay thế mà bản thân công chức hiện đang đảm nhận tốt thì bố trí
tham gia các lớp bồi dưỡng về chuyên môn phù hợp với vị trí công tác để
tiếp tục tham gia công tác tại địa phương để phát huy kinh nghiệm, hiểu
biết phong tục tập quán thuận tiện cho việc triển khai các nhiệm vụ chính
trị tại cơ sở.
Việc bồi dưỡng cần tập trung nâng cao trình độ chuyên môn,
kiến thức quản lý Nhà nước đối với ngành, lĩnh vực mà công chức phụ
trách, truyền đạt những kỹ năng tác nghiệp chuyên môn, những kinh
nghiệm trong thực tế công tác, việc bồi dưỡng sẽ lồng ghép được ba nội
dung quan trọng là: lý luận, kiến thức, kinh nghiệm thực tế; ngoài ra việc
cập nhật hệ thống các quy định mới của nhà nước và các lỹ năng trong
quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực cũng là đòi hỏi cần thiết.
Huyện Đam Rông, người dân tộc thiểu số sinh sống chiếm ưu thế
thì công chức cấp xã phải được quan tâm bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số
địa phương đó để phục vụ tốt yêu cầu công tác của địa phương, tránh tình
trạng bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số nhưng không phù hợp với người
dân tộc thiểu số tại chỗ.
Chú trọng bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin
trong quản lý nhà nước nói chung và giao dịch điện tử trong thực hiện cơ
chế “một cửa”, “một cửa liên thông” trong giải quyết thủ tục hành chính
cho tổ chức, cá nhân, và trao đổi thông tin chỉ đạo quản lý bằng thư điện
tử trong hệ thống cơ quan hành chính ở địa phương.
105
3.2.4. Bố trí, sử dụng công chức cấp xã hợp lý và thực hiện tốt
công tác phân công công việc cho công chức cấp xã
Trong Chương 2 của luận văn cũng đã đề cập đến những tồn tại
hạn chế về chất lượng của công chức cấp xã của huyện Đam Rông hiện
nay. Đồng thời, khẳng định một trong những nguyên nhân quan trọng làm
hạn chế chất lượng của công chức đó là việc bố trí, sử dụng công chức
chưa phù hợp. Việc bố trí, sử dụng công chức phù hợp có ảnh hưởng trực
tiếp đến việc nâng cao năng lực thực thi công vụ của công chức cấp xã.
Thực tế cho thấy việc sử dụng công chức không đúng với chuyên môn
đào tạo, sở trường công tác thì không những công chức không phát huy
được kiến thức, kinh nghiệm công tác mà còn làm trì trệ công tác, làm
ảnh hưởng đến việc thực thi công vụ của chính quyền xã. Vì vậy, cần sắp
xếp công chức đúng với chuyên môn đào tạo, đúng sở trường công tác.
Để việc bố trí sử dụng công chức phù hợp thì việc đánh giá công chức
phải được quan tâm và thực hiện nghiêm túc.
Đánh giá công chức phải được đặt trong môi trường, điều kiện và
hoàn cảnh cụ thể; phải đảm bảo thật sự dân chủ, khách quan, công tâm,
theo quy trình chặt chẽ với một hệ thống các tiêu chí đánh giá rõ ràng,
phù hợp với từng vị trí chức danh công chức. Thực tế cho thấy việc đánh
giá công chức hiện nay dựa trên 6 tiêu chí theo quy định của Luật cán bộ,
công chức 2008 (Sự chấp hành đường lối, chủ tương, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước; Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống,
tác phòng và lề lối làm việc; năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ;
Tiến độ và kết quả thực hiện nhiệm vụ; Tinh thần trách nhiệm và phối
hợp trong thực hiện nhiệm vụ; Thái độ phục vụ nhân dân) đã bộc lộ
những tồn tại, hạn chế nhất định vì những tiêu chí này còn quá chung
chung, chưa cụ thể hóa phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng vị trí
106
công chức cấp xã. Do đó, trên cơ sở các tiêu chí trên, Đảng ủy, Ủy ban
nhân dân cấp xã phải cụ thể hóa thành các tiêu chí phù hợp để đánh giá
công chức, trong đó chú trọng lấy kết quả thực thi công vụ, mức độ hài
lòng của nhân dân làm thước đo để đánh giá công chức. Trong đánh giá
cần khắc phục ngay tình trạng nể nang, cục bộ, bè phái, thiếu công tâm,
thiếu khách quan, áp đặt. Với đặc thù các xã thuần nông, người quen,
những biểu hiện tâm lý xã hội như bè phái, cục bộ, nể nang là khá phổ
biến, vì thế trong công tác đánh giá công chức cấp xã cần mở rộng dân
chủ, phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng ủy xã. Trong việc bố trí, sử
dụng công chức phải đảm bảo các quy định của Trung ương và điều kiện
đặc thù của địa phương:
Công chức được bố trí ở vị trí chức danh nào phải có trình độ
chuyên môn phù hợp với vị trí chức danh đó, trong đó ưu tiên công chức
cấp xã đã được đưa đi đào tạo theo Đề án Tây Nguyên và đề án 50 của
tỉnh. Vì vậy, UBND huyện cần nhanh chóng ban hành Quy định về tiêu
chuẩn chức danh công chức phù hợp với đặc điểm điều kiện của thành
phố cũng như quy định những ngành đào tạo chuyên môn phù hợp với
từng vị trí chức danh công chức cấp xã. Đây là căn cứ quan trọng để
tuyển dụng cũng như bố trí, sử dụng công chức theo yêu cầu công tác
thực tế.
Bố trí, sử dụng công chức phải xuất phát từ quan điểm “từ việc
sinh ra người, không vì người sinh ra việc”. Thực tế cho thấy vì thân quen
mà bố trí công chức với mục đích là “giải quyết việc làm cho con em”,
làm cho bộ máy cấp xã phình to, tạo gánh nặng cho ngân sách, nhưng
hiệu quả công việc không cao. Vì thế, với nguồn nhân lực hiện có UBND
xã phải cân nhắc, sắp xếp công chức phù hợp với trình độ chuyên môn,
năng lực thực tiễn và sở trường công tác, kiên quyết không sắp xếp công
107
chức trái chuyên ngành đào tạo, vượt quá số lượng quy định. Trong bố trí,
sử dụng công chức phải đảm bảo tính khách quan, công bằng, tránh hiện
tượng cục bộ địa phương, bè phái hay hiện tượng nể nang, dựa dẫm.
Bố trí, sử dụng công chức cũng phải đảm bảo được tính đồng bộ
trong công tác cán bộ nói chung, tính ổn định của bộ máy, đảm bảo
nguồn kế cận khi công chức chuyển sang làm công tác khác hoặc được
luân chuyển. Trong việc bố trí, sử dụng công chức phải tính đến những
yếu tố đặc thù của địa phương, đơn vị. Hiện nay mỗi xã đều có những đặc
thù riêng về kinh tế - văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh và do đó đặc
thù quản lý hành chính Nhà nước cũng rất khác nhau, sẽ có những lĩnh
vực công tác có khối lượng công việc lớn và cần nhiều nhân lực hơn.
Trong kế hoạch sử dụng công chức hàng năm, UBND huyện cần
cân đối chỉ tiêu hoặc cho chủ trương để UBND các xã hợp đồng thêm
công chức lĩnh vực Địa chính - Xây dựng giúp UBND xã trong công tác
triển khai thực hiện nhóm công việc đầu tư cơ sở hạ tầng, môi trường
trong công tác xây dựng xã đạt chuẩn nông thôn mới nhưng việc bổ sung
biên chế không làm thay đổi số lượng công chức xã mà điều chỉnh số
lượng của từng chức danh cho phù hợp.
Đánh giá, bố trí sử dụng công chức cần kiên quyết tránh những
hiện tượng như né tránh, nể nang, dựa dẫm, cục bộ, bè phái. Kiên quyết
loại bỏ những công chức kém về năng lực, thiếu tinh thần ý thức trách
nhiệm, lạm dụng công vụ để vụ lợi, sách nhiễu nhân dân, tham ô, tham
nhũng. Như thế vừa góp phần làm trong sạch bộ máy chính quyền xã, vừa
tạo điều kiện để sử dụng và phát huy được năng lực của những công chức
có trình độ và tâm huyết với công tác, qua đó cũng nâng cao được tính kỷ
luật công tác, rèn luyện đạo đức công chức, góp phần nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền cấp xã.
108
3.2.5. Thực hiện việc khen thưởng, kỷ luật công bằng, kịp thời,
nghiêm minh
Về khen thưởng, động viên kịp thời là một trong những nhân tố
quan trọng tác động đến chất lượng đội ngũ công chức. Trong thời gian
qua, công tác khen thưởng đã tạo động lực để công chức hăng hái thi đua
hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, chính sách khen thưởng
còn một số bất cập, thời điểm thực hiện công tác khen thưởng chưa kịp
thời, việc xem xét, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ và tổ chức thực
hiện khen thưởng mỗi năm một lần vào cuối năm chứ chưa thực hiện
công tác xem xét, đánh giá mức độ hoàn thành công việc hàng tháng, quý
hoặc sau khi kết thúc một công việc để tổ chức khen thưởng động viên
công chức cấp xã kịp thời; việc xem xét khen thưởng dựa trên kết quả
đánh giá thực hiện công việc của công chức cấp xã chưa căn cứ vào thành
tích công tác của công chức nên chưa thực sự động viên, khuyến khích
được công chức cấp xã hăng say, nỗ lực làm việc.
Khen thưởng cho từng công chức cấp xã cần được cân nhắc trên
nhiều mặt song căn cứ quan trọng và chủ yếu nhất đó là kết quả, hiệu quả
thực hiện công việc của công chức cấp xã dựa trên kết quả đánh giá định
kỳ hàng tháng, quý, cuối năm hoặc sau khi kết thúc một công việc quan
trọng của từng công chức. Kết quả đánh giá thực hiện công việc là cơ sở
quan trọng để tiến hành xem xét, khen thưởng công chức cấp xã. Công
tác khen thưởng cần phải gắn bó mật thiết với công tác đánh giá thực hiện
công việc của công chức cấp xã.
Cần lựa chọn hình thức, giá trị phần thưởng phù hợp với từng đối
tượng công chức cấp xã để phát huy tác dụng tốt, động viên khuyến khích
được công chức cấp xã hăng say làm việc. Tránh khen thưởng theo hình
thức bình quân chủ nghĩa, giá trị các phần thưởng tương xứng với kết quả
109
thành tích công tác của mỗi công chức cấp xã mới thực sự động viên,
khuyến khích công chức cấp xã, hăng say nỗ lực làm việc.
Về kỷ luật, bên cạnh khen thưởng kịp thời việc kỷ luật công bằng
nghiêm minh là một vấn đề quan trọng trong xây dựng chất lượng độ ngũ
công chức ở cấp xã. Nếu việc xem xét kỷ luật không đủ nghiêm khắc,
không công khai, minh bạch thì chất lượng công tác này sẽ rất thấp. Phải
vạch rõ những cái sai, khuyết điểm, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ
hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa
khuyết điểm đó. Muốn sửa các sai lầm khuyết điểm để kỷ luật công bằng,
nghiêm minh thì khâu tổ chức cán bộ phải được làm trước. Đây là khâu
then chốt của then chốt, làm được như vậy mới xây dựng chất lượng đội
ngũ công chức cấp xã vững mạnh.
3.2.6. Tăng cường hướng dẫn, kiểm tra, giám sát và đánh giá
năng thực thi công vụ của công chức cấp xã
Công chức cấp xã thực thi công vụ và trực tiếp chịu trách nhiệm
trước UBND và chủ tịch UBND xã nhưng cũng đồng thời chịu sự quản
lý, giám sát của Đảng ủy và Mặt trận Tổ quốc xã cũng như hệ thống
chính trị tại xã. Để công chức cấp xã thực sự phát huy được sở trường và
năng lực công tác, bên cạnh việc mở rộng dân chủ, tạo cơ chế làm việc
thuận lợi thì không thể thiếu công tác quản lý, kiểm tra, giám sát việc
thực thi công vụ của công chức cấp xã. Công tác quản lý, kiểm tra, giám
sát làm nhằm đảm bảo cho công chức thực thi công vụ đúng quy định của
pháp luật, không gây phiền hà, sách nhiễu đối với nhân dân. Sinh thời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở: “Cấp xã là gần gũi với nhân
dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc
đều xong xuôi. Thế mà vì hẹp hòi, bao biện, không biết phân công, Vì
cấp trên không biết cân nhắc, giúp đỡ, đốc thúc, kiểm tra, huấn luyện.
110
Thành thử phần nhiều cấp xã là uể oải, thiếu năng lực, kém tinh thần”.
Đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Trung ương (khóa VIII ) về công tác
cán bộ, Hội nghị Trung ương 6 khóa IX chỉ rõ: “Công tác giáo dục chính
trị - tư tưởng, rèn luyện cán bộ ít hiệu quả; công tác quản lý nội bộ, đấu
tranh tự phê bình và phê bình yếu, không kịp thời nhắc nhở, ngăn ngừa
cán bộ mắc sai lầm, không chỉ ra đúng địa chỉ và chưa kiên quyết đấu
tranh chống tham nhũng. Cấp trên và tập thể còn nể nang, nương nhẹ,
thậm chí có trường hợp còn bao che những cán bộ có dấu hiệu tham
nhũng, quan liêu gây tác hại lớn chưa bị xử lý trách nhiệm nên thường có
thái độ thiếu nghiêm khắc với những biểu hiện tham nhũng, quan liêu của
cán bộ dưới quyền. Nhiều người trung thực, tích cực đấu tranh chống
tham nhũng chưa được bảo vệ, thậm chí còn bị trù dập, vô hiệu hóa.
Nhiều biểu hiện tiêu cực trong công tác cán bộ như cục bộ, địa phương,
lôi bè, kéo cánh, chạy quyền, chạy chức, chạy tội chưa được khắc phục,
khiến cán bộ và nhân dân bất bình”.
Điều đó cho thấy tầm quan trọng đặc biệt của công tác quản lý
công chức, nhất là với các xã của huyện đều thuần nông, công chức cấp
xã chưa tách hẳn đời sống kinh tế nông nghiệp và các quan hệ nông dân,
nông thôn. Vì vậy, công tác quản lý công chức phải được UBND tiến
hành thường xuyên và qua nhiều kênh thông tin khác nhau để quản lý.
Công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi công vụ của công chức
cấp xã cần được tiến hành thường xuyên kết hợp với những lần kiểm tra
đột xuất, có trọng tâm, trọng điểm và việc giải quyết những vụ, việc có
tính chất phức tạp, có dư luận trong nhân dân. Cách thức kiểm tra, quản lý
là rất quan trọng. kiểm tra, giám sát chặt chẽ nhưng không để cho công
chức bị ức chế, làm ảnh hưởng đến kết quả công tác. Vì thế trong công tác
111
quản lý, kiểm tra, giám sát việc thực thi công vụ của công chức cấp xã cần
chú ý những nội dung sau:
Quản lý, kiểm tra, giám sát là việc làm thường xuyên của Chủ
tịch UBND xã và Đảng ủy cũng như thực hiện chức năng giám sát và
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc xã. Trong kiểm tra, giám sát phải
nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, có tình đồng chí thân ái giúp đỡ
lẫn nhau, tuyệt đối không dùng việc kiểm tra công chức để moi móc, cố ý
bịa đặt, tìm kiếm những khuyết điểm, sai sót để trù dập mà là để nhắc
nhở, cảnh báo, phòng ngừa những sai phạm có thể xảy ra trên tinh thần
xây dựng; đồng thời xử lý nghiêm minh để giáo dục, răn đe những công
chức vi phạm kỷ luật qua kiểm tra, giám sát.
Trong công tác quản lý công chức cấp xã cần phát huy vai trò
lãnh đạo của Đảng ủy xã, vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể trong hệ thống chính trị tại xã. Chính Đảng ủy xã cùng với Mặt
trận Tổ quốc, bằng những thông tin do nhân dân cung cấp, kiến nghị hay
khiếu nại, tố cáo là những căn cứ thực tế quan trọng để đánh giá năng lực
của từng công chức cấp xã, nhất là đối với những vị trí công chức cấp xã
được cho là nhạy cảm.
Đối với những công chức cấp xã yếu kém về năng lực và phẩm
chất, không đáp ứng được yêu cầu công tác thì cần lãnh đạo UBND xã có
kế hoạch cho luân chuyển sang làm công việc phù hợp hoặc cho nghỉ việc
để bố trí, tuyển dụng công chức có đủ năng lực và phẩm chất thay thế, đáp
ứng tốt yêu cầu công tác.
Quản lý công chức cấp xã phải dựa trên các cơ sở pháp lý,
nguyên tắc thực thi công vụ và điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng xã,
từng công chức, không tùy tiện, cào bằng. Quản lý phải luôn đi đôi với
công tác đánh giá, kịp thời phát triển những sai sót để uốn nắn sửa chữa
112
cũng như thẳng thắn phê bình và giúp đỡ sửa chữa những khuyết điểm,
hạn chế.
Quản lý, kiểm tra, giám sát việc thực thi công vụ của công chức
cấp xã phải đi liền với công tác khen thưởng và kỷ luật. Những công chức
xã có tinh thần trách nhiệm trong công tác, được nhân dân tín nhiệm thì
phải được động viên khen thưởng kịp thời để họ tiếp tục nâng cao hiệu
quả công tác. Những công chức thiếu tinh thần ý thức trách nhiệm, vi
phạm kỷ luật, có hành vi sách nhiễu nhân dân thì cần phải được xem xét
nhắc nhở hoặc kỷ luật kịp thời thậm chí là buộc thôi việc để đảm bảo
trong sạch bộ máy, góp phần nâng cao hiệu quả công tác của cơ quan.
Quản lý, kiểm tra, giám sát công chức phải đảm bảo tính khách
quan, công tâm, công bằng, có tính đồng chí, không trù dập, không bao
che. Có như vậy mới tạo động lực để công chức phấn đấu, khắc phục hạn
chế, thiếu sót, phát huy ưu điểm để nâng cao hiệu quả công tác.
3.2.7. Đổi mới chính sách tiền lương, chế độ phúc lợi cho công
chức cấp xã
Hiện nay, việc thực hiện các chế độ, chính sách đối với công
chức cấp xã đã được thực hiện khá hoàn chỉnh với hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật quy định về tiền lương và các chế độ khác. Những
văn bản quan trọng là: Nghị định 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của
Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và
lực lượng vũ trang; Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của
Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán
bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã; Nghị định 112/2011/NĐ-CP ngày 05/12/2011 của
Chính phủ, công chức xã, phường, thị trấn; Thông tư số 06/2012/TT-
BNV ngày 30/10/2012 hướng dẫn về chức trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm
113
vụ và tuyển dụng công chức cấp xã, phường, thị trấn; Quyết định số
219/2004/QĐ-UBND về việc Quy định số lượng và chế độ đối với cán bộ
công chức cấp xã, chế độ phụ cấp đối với cán bộ không chuyên trách cấp
xã, thôn - khu phố thuộc tỉnh và Quyết định số 65/2009/QĐ-UBND về
việc điều chỉnh Quyết định số 219/2004/QĐ-UBND ngày 03/12/2004 của
UBND tỉnh Lâm Đồng về việc Quy định số lượng và chế độ đối với cán
bộ công chức cấp xã, chế độ phụ cấp đối với cán bộ không chuyên trách
cấp xã, thôn - khu phố thuộc tỉnh.
Trên cơ sở các văn bản quy định nêu trên thì vấn đề trước mắt là
huyện tập trung rà soát, chỉ đạo các cơ quan có liên quan của huyện và
UBND các xã nhanh chóng thực hiện các chế độ, chính sách đối với công
chức cấp xã, tạo điều kiện để công chức an tâm công tác, hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao. Thực tế hiện nay còn một số xã việc chuyển xếp
lương cho công chức còn nhiều bất cập, chậm được thực hiện hoặc việc
thực hiện gặp nhiều lúng túng, thiếu sự thống nhất giữa các cơ quan có
liên quan.
Hàng năm, có một số lượng khá lớn công chức cấp xã hoành
thành các lớp đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn phù hợp với vị trí
chức danh đang đảm nhiệm vì thế cần được tổ chức thi nâng ngạch để
chuyển xếp lương cho công chức. Tuy nhiên, hiện nay công tác này của
huyện còn rất nhiều vấn đề bất cập, từ việc rà soát, lập danh sách và có kế
hoạch cử công chức đã có bằng tốt nghiệp cao đẳng, đại học tham gia các
lớp bồi dưỡng quản lý Nhà nước ngạch chuyên viên để thi nâng ngạch
theo quy định. Có như thế mới tạo động lực để công chức phấn đấu thực
hiện tốt hơn nữa công vụ được giao.
114
Tiểu kết chương 3
Chất lượng công chức chính quyền cấp xã huyện Đam Rông chỉ
có thể được nâng cao khi có một hệ thống lý thuyết hoàn thiện để trên cơ
sở đó phân tích, đánh giá hiện trạng, qua đó rút ra những kết luận khoa
học về chất lượng công chức chính quyền cấp xã.
Theo đó, luận văn đã đề các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
chất lượng công chức chính quyền cấp xã huyện Đam Rông như xây
dựng đội ngũ công chức cấp xã có phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo
đức tốt; tiếp tục nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng; đổi mới
công tác tuyển dụng; bố trí, sử dụng hợp lý, khoa học và hiệu quả; tăng
cường hướng dẫn, kiểm tra, giám sát và đánh giá chất lượng; đổi mới
chính sách tiền lương, chế độ phúc lợi và thực hiện tốt công tác khen
thưởng, kỷ luật công chức cấp xã. Chỉ khi thực hiện quyết liệt, đống bộ
các giải pháp này mới có thể nâng cao chất lượng công chức chính quyền
cấp xã huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng.
115
KẾT LUẬN
Đội ngũ công chức cấp xã là những người có quan hệ trực tiếp,
gắn bó mật thiết với người dân, là người trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo tổ
chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước với người dân để đảm bảo hoàn thành các mục tiêu kinh tế
- xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh ở địa phương. Việc không ngừng
củng cố, chăm lo xây dựng đội ngũ công chức cấp xã là nhiệm vụ chiến
lược có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Trong thành tích chung của Đảng bộ, chính
quyền và nhân dân các dân tộc huyện Đam Rông trong công cuộc đổi mới
cùng với đất nước, có sự đóng góp rất lớn của đội ngũ công chức cấp xã.
Trong thời gian qua, bên cạnh việc quan tâm phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo quốc phòng - an ninh, huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng đã
thường xuyên quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ công chức trong đó có
đội ngũ công chức cấp xã. Đội ngũ công chức cấp xã huyện Đam Rông
hiện nay cơ bản đã đủ về số lượng nhưng năng lực, chất lượng thực thi
công vụ thực sự vẫn còn là một vấn đề cần quan tâm. Đây vừa là yêu cầu
trước mắt vừa là nhiệm vụ lâu dài, vì vậy cần sự quan tâm, đầu tư của các
cấp ủy Đảng và chính quyền từ huyện cho đến xã. Năng lực thực thi công
vụ của công chức cấp xã huyện Đam Rông hiện nay bên cạnh một số mặt
mạnh như tinh thần và ý thức trách nhiệm được nâng cao hơn, trình độ
chuyên môn được nâng cao một bước rõ rệt, kỹ năng tác nghiệp chuyên
môn đã có sự chuyển biến về chất, góp phần tích cực vào hiệu quả quản
lý nhà nước của chính quyền cấp xã.
Tuy nhiên, đứng trước những yêu cầu đòi hỏi của thời kỳ hội
nhập kinh tế khu vực và thế giới, thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước
với những thử thách mới, yêu cầu mới, nhiệm vụ mới, thực trạng đội ngũ
116
công chức cấp xã huyện Đam Rông còn nhiều tồn tại, bất cập, yếu về chất
lượng, chưa đáp ứng được yêu cầu.
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế, tiếp tục phát huy ưu điểm,
nâng cao chất lượng của đội ngũ công chức xã, góp phần nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước ở chính quyền cấp xã, cần tập trung thực
hiện đồng bộ những giải pháp, trong đó cần chú trọng nâng cao hiệu quả
công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức theo chuẩn chức danh, có chiều
sâu, đi đôi với đó là nâng cao hiệu quả công tác đánh giá, bố trí, sử dụng
công chức, quy hoạch cán bộ và giải quyết tốt các chế độ chính sách đối
với công chức cấp xã. Để hiện thực hóa những giải pháp mà luận văn đã
trình bày rất cần sự quan tâm, đầu tư, phối hợp của các cấp ủy Đảng,
chính quyền, đoàn thể và các cơ quan có liên quan, xây dựng đội ngũ
công chức cấp xã có đủ năng lực và phẩm chất, đáp ứng tốt yêu cầu công
tác trong tình hình hiện nay.
Qua nghiên cứu lý luận, thống kê, phân tích số liệu thực trạng
đội ngũ công chức cấp xã huyện Đam Rông, tác giả đã rút ra những ưu
điểm, những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó;
làm rõ các nguyên nhân và đề xuất được hệ thống các giải pháp để nâng
cao chất lượng đội ngũ công chức cấp xã huyện Đam Rông. Tuy nhiên,
do điều kiện thời gian cũng như trình độ, năng lực, việc đầu tư thời gian
cho công tác nghiên cứu về nâng cao chất lượng đội ngũ công chức của
huyện Đam Rông còn hạn chế, các tài liệu sưu tầm để nghiên cứu chưa
được nhiều, nội dung, số lượng đối tượng khảo sát mới chỉ tập trung ở
góc độ số liệu thống kê, thu thập không phản ánh được một cách toàn
diện, chính xác thực trạng chất lượng đội ngũ công chức cấp xã của
huyện Đam Rông. Việc nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cấp xã là
một vấn đề rất khó khăn và phức tạp. Một số giải pháp đề xuất trong luận
117
văn có thể còn có hạn chế, cần phải được tiếp tục được đánh giá, nghiên
cứu, bổ sung và hoàn thiện để có tính khả thi cao góp phần nâng cao chất
lượng đội ngũ công chức cấp xã của huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn CNH-HĐH đất nước và hội
nhập kinh tế quốc tế.
118
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Tài liệu học tập các Nghị
quyết hội nghị Trung ương 5, khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Đam Rông khóa II (2011), Nghị
quyết số 03-NQ/TU về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ xã giai đoạn
2011-2015.
3. Bộ Nội vụ (2007), Quyết định số 03/2007/QĐ-BNV về việc ban
hành Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong bộ
máy chính quyền địa phương.
4. Bộ Nội vụ (2005), Thông tư số 04/2005/TT-BNV về hướng dẫn
thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên vượt khung đối với cán bộ, công
chức, viên chức.
5. Bộ trưởng Bộ Nội vụ (2004), Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV về
việc ban hành Quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã,
phường, thị trấn.
6. Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính và Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội (2010), Thông tư liên tịch số 03/2010/TTLT-BNV-BTC-
BLĐTB&XH hướng dẫn thực hiện Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày
22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế
độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
7. Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ (2005), Thông tư liên tịch số
04/2005/TTLT-BTP-BNV hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và tổ chức các cơ quan chuyên môn giúp Ủy ban nhân dân quản lý nhà
nước về công tác tư pháp ở địa phương.
119
9. Chính phủ (2003), Nghị định số 121/2003/NĐ-CP về chế độ,
chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn.
10. Chính phủ (2004), Nghị định số 114/2004/NĐ-CP về cán bộ,
công chức xã, phường, thị trấn.
11. Chính phủ (2004), Nghị định số 204/2004/NĐ-CP về chế độ tiền
lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang.
12. Chính phủ (2003), Nghị định số 159/2005/NĐ-CP về phân loại
đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn.
13. Chính phủ (2006), Nghị định số 152/2006/NĐ-CP hướng dẫn
một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội.
14. Chính phủ (2009), Nghị định số 62/2009/NĐ-CP quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế.
15. Chính phủ (2009), Nghị định số 76/2009/NĐ-CP về sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định 204/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm
2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên
chức và lực lượng vũ trang.
16. Chính phủ (2009), Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày về chức
danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã,
phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
17. Chính phủ (2010), Nghị định số 06/2010/NĐ-CP quy định những
người là công chức.
18. Chính phủ (2011), Nghị quyết số 30c/NQ-CP về việc ban hành
Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2011 –
2020.
19. Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ X (2015), Văn kiện Đại hội đại
biểu tỉnh Lâm Đồng.
120
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Nghị quyết Trung ương 4,
khóa XI một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày
14/5/2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh.
23. Hồ Chí Minh toàn tập (2004), tập 5, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
24. Quốc hội (2008), Luật Cán bộ, công chức.
25. Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng (2004), Quyết định số
219/2004/QĐ-UBND về việc Quy định số lượng và chế độ đối với cán bộ
công chức cấp xã, chế độ phụ cấp đối với cán bộ không chuyên trách cấp
xã, thôn - khu phố thuộc tỉnh.
26. Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng (2009), Quyết định số
65/2009/QĐ-UBND V/v điều chỉnh Quyết định số 219/2004/QĐ-UBND
ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng về việc
Quy định số lượng và chế độ đối với cán bộ công chức cấp xã, chế độ phụ
cấp đối với cán bộ không chuyên trách cấp xã, thôn - khu phố thuộc tỉnh.
27. Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng (2015), Quyết định số
10/2015/QĐ-UBND về việc Ban hành Quy chế tổ chức tuyển dụng công
chức xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.
25. Ủy ban nhân dân huyện Đam Rông, các báo cáo thống kê cán bộ
công chức, báo cáo đánh giá chất cán bộ, công chức xã, phường năm
2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016.
26. Quốc hội (2008), Luật Cán bộ, Công chức 22/2008/QH12.
121
27. Cuốn sách “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ CBCC”
do TS. Thang Văn Phúc và TS. Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên),
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005
28. Cuốn sách “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước” do PGS.TS Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS Trần Xuân Sầm (đồng
chủ biên), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003
29. Nguyễn Minh Sản, “Pháp luật về cán bộ, công chức chính quyền
cấp xã ở Việt Nam hiện nay - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”. Nxb.
Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2009.
30. Bài báo “Xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số
(DTTS) ở Lâm Đồng”.
31. Bài báo “Đam Rông đổi mới, nâng cao chất lượng hệ thống
chính trị”.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_chat_luong_cong_chuc_cap_xa_huyen_dam_rong_tinh_lam.pdf