Luận văn Chính sách, pháp luật cạnh tranh của các nước - Bài học đối với Việt Nam

Mặc dù trong khuôn khổ WTO không có bất cứ quy định riêng nào về cạnh tranh, nhưng những nội dung liên quan đến cạnh tranh vẫn xuất hiện đầy đủ trong tất cả các hiệp định của WTO. Theo thống kê, WTO có khoảng 60 hiệp định, phụ lục, quyết định và bản ghi nhớ, đây là luật lệ của WTO, và các thành viên phải tuân thủ mọi quy định này. Trong các văn bản luật này, một cách gián tiếp hoặc trực tiếp đã đề cập đến cạnh tranh, vì chủ trương của WTO là hướng tới cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh, các hiệp định của WTO luôn có các quy định nhằm hạn chế các hành vi bóp méo cạnh tranh. Theo WTO, hoạt động thương mại sẽ bị bóp méo khi giá cả được duy trì ở mức cao hay thấp hơn mức bình thường và khi khối lượng hàng hoá được sản xuất, mua và bán cũng nhiều hay ít hơn mức bình thường (mức bình thường có nghĩa là mức được duy trì trên các thị trường có cạnh tranh).

pdf107 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2844 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chính sách, pháp luật cạnh tranh của các nước - Bài học đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n thương trường luôn là mong muốn chính đáng của các doanh nghiệp. Chính vì vậy, trong nội bộ nền kinh tế Việt Nam, việc đảm bảo cạnh tranh bình đẳng, không có sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế trong nước là vấn đề cốt lõi để nền kinh tế có thể phát triển hết khả năng, giải phóng tối đa và hiệu quả nguồn nội lực. Từ thực tiễn của 3 năm thực thi chính sách cạnh tranh, liên quan đến vấn đề đảm bảo điều kiện cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong nước có thể rút ra nhiều bài học kinh nghiệm để tiếp tục hoàn thiện chính sách cạnh tranh, đó là:  Không thể có cạnh tranh hoàn hảo khi khu vực kinh tế tư nhân bị chèn ép, kìm hãm và phát triển yếu ớt  Không thể có cạnh tranh hiệu quả khi các doanh nghiệp nhà nước buộc phải làm việc theo kế hoạch áp đặt từ trên xuống và được nhận nhiều ưu đãi từ phía Nhà nước 79  Công ty cổ phần đang và sẽ trở thành định hướng phát triển của các doanh nghiệp hiện đại do những ưu thế cạnh tranh vượt trội của nó trong huy động vốn, chia sẻ rủi ro, kích thích lao động sáng tạo, trách nhiệm và xã hội hoá lực lượng Sản xuất xã hội  Mở cửa thị trường, đa dạng hoá và tuân thủ các cam kết hội nhập quốc tế là điều kiện quan trọng trong chính sách cạnh tranh của bất kỳ quốc gia nào  Chính sách cạnh tranh cần kết gắn chặt chẽ với chính sách tự do hoá kinh doanh và hoàn thiện công cụ quản lý vĩ mô Nhà nước  Để cạnh tranh thị trường lành mạnh, cần lập và vận hành hiệu quả của các cơ quan chống độc quyền có đủ quyền lực và có tính độc lập cao. Để đảm bảo điều kiện cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong nước, việc làm cần thiết và quan trọng nhất là phải đảm bảo cho các thành phần kinh tế thuộc mọi khu vực, ngành kinh tế được quyền và có điều kiện tiếp cận công bằng với các thông tin kinh tế và được đối xử bình đẳng trước các cơ quan tư pháp, tài chính, tín dụng, nhà đất và sở hữu công nghiệp... Trong tương lai, chính sách, pháp luật cạnh tranh cần phải và ngày càng phải coi trọng hơn nữa việc cấm, hoặc loại bỏ các thoả thuận gây hạn chế nghiêm trọng tới cạnh tranh: cấm sự lạm dụng vị thế thống lĩnh (độc quyền) chi phối thị trường; dỡ bỏ các rào cản hành chính đối với cạnh tranh. Đặc biệt, việc loại bỏ độc quyền hành chính, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước ngày càng trở thành vấn đề trọng tâm, khó khăn và quyết định nhất đến các động thái và sự thành công của chính sách kinh tế nói chung, chính sách cạnh tranh nói riêng. 3.2.3. Đảm bảo điều kiện cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp trên thị trường Việt Nam Từ ngày 1/7/2006, hai văn bản luật là Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp đã có hiệu lực, tạo thành một đạo luật chung cho doanh nghiệp không phân biệt quốc hữu, tư hữu hay tư bản nước ngoài. Luật đầu tư đã cho phép nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập... và kể cả chuyện mua lại công ty. Nhà đầu tư 80 nước ngoài được chọn lựa nhiều hình thức đầu tư; đồng thời cũng mở ra cho các nhà đầu tư trong nước là cá nhân nhiều cơ hội kinh doanh mới. Luật Đầu tư và các văn bản liên quan, Luật Doanh nghiệp thống nhất đã cho thấy chính sách của Nhà nước đối với nhà đầu tư nước ngoài thông thoáng hơn trước. Hai văn bản luật này đã thể hiện một chính sách cạnh tranh trong đó không có phân biệt đối xử, đảm bảo điều kiện cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, vẫn còn tồn tại nhiều sự bất bình đẳng giữa hai khu vực kinh tế này. Điển hình như vấn đề tỷ lệ sở hữu, một vấn đề luôn được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm trước khi quyết định sẽ đầu tư vào quốc gia nào. Hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài vẫn tồn tại một số mâu thuẫn. Các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài có thể chia làm hai mảng. Mảng thị trường chính thức có Quyết định 238/2005/QĐ-TTg (trong đó quy định room cho nhà đầu tư nước ngoài tối đa 49%, trừ doanh nghiệp ngành ngân hàng). Mảng thị trường tự do (cổ phiếu của các doanh nghiệp chưa niêm yết) có nhiều văn bản điều chỉnh như Luật Đầu tư, Quyết định 36/2003/QĐ-TTg, Nghị định 139/2007/NĐ-CP; cam kết của Việt Nam gia nhập WTO… Tuy nhiên, nhiều quy định trong các văn bản kể trên chưa khớp nhau. Dễ nhận thấy nhất là sự khác biệt giữa Quyết định 36 khi quy định room trong doanh nghiệp chưa niêm yết là 30%, còn Nghị định 139 cho phép mở room đến 100% trong loại doanh nghiệp này (trừ một số trường hợp). Hiện nay, Nghị định 139 chưa có hướng dẫn cụ thể để thực hiện, gây ra sự lúng túng của các thành viên thị trường trong thực thi quy định mới. Hay một số ngành không có trong biểu cam kết cụ thể về thương mại dịch vụ (tại WTO) như phát thanh, truyền hình… theo quy định của Nghị định 139 là được mở room đến 100%, nhưng đây lại là những ngành thuộc danh mục hạn chế đầu tư được quy định tại Luật Đầu tư. Bối cảnh quy định pháp lý về room hiện chưa thống nhất; thị trường dễ phản ứng thái quá với loại thông tin này. Cuối cùng, giải pháp room cho nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường đăng ký giao dịch về 81 nguyên tắc bằng với room trên thị trường niêm yết (49%, trừ doanh nghiệp ngành ngân hàng) đã được Bộ Tài chính tạm chọn lựa để tạo cơ sở pháp lý cho thị trường này đi vào hoạt động (Quyết định số 3567/QĐ-BTC). Từ thực tế vẫn còn tồn tại những mâu thuẫn trong việc đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, cần phải có một số giải pháp mạnh mẽ và hiệu quả hơn nữa trong quá trình hoàn thiện chính sách cạnh tranh: - Cần phải nhanh chóng giảm bớt những mâu thuẫn liên quan đến lợi ích của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước; - Nếu phải duy trì một số mâu thuẫn nào đó nhằm mục tiêu chung của nền kinh tế hay các mục tiêu xã hội, thì cần phải đưa ra cam kết cụ thể về điều kiện, thời gian duy trì sự mâu thuẫn đó; - Đối với những lĩnh vực sản xuất, kinh doanh mà các doanh nghiệp nước ngoài có lợi thế vượt trội về trình độ quản lý, khoa học kỹ thuật... một mặt dành nhiều ưu đãi hơn cho các doanh nghiệp nước ngoài này, mặt khác, có chính sách tiếp thu, học hỏi những thành tựu của họ; - Để có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài, chính sách cạnh tranh của Việt Nam cần có những biện pháp mang tính tuyên truyền, giáo dục nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao nhận thức, kiến thức về cạnh tranh. Với thực tế của một nước đang thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm, thiếu khoa học công nghệ tiên tiến..., thông qua các nhà đầu tư, kinh doanh nước ngoài Việt Nam sẽ khắc phục được những hạn chế này. Chính vì vậy, những giải pháp trên không chỉ là cần thiết trong quá trình hoàn thiện chính sách cạnh tranh, mà còn là việc làm quan trọng trong những nỗ lực nhằm cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phục vụ cho sự nghiệp phát triển nền kinh tế quốc gia. 3.2.4. Tăng sự phù hợp giữa chính sách cạnh tranh của Việt Nam với các quy định liên quan của WTO WTO luôn chủ trương thúc đẩy tự do hóa thương mại. Với chức năng thúc đẩy tự do hóa thương mại và là diễn đàn cho các cuộc đàm phán thương mại, WTO là 82 một tổ chức để thực hiện tự do hóa thương mại. Theo đó, các rào cản thương mại phải được giảm xuống thấp hơn là một trong những mục tiêu có ý nghĩ nhất để khuyến khích thương mại phát triển. Có thể hiểu “rào cản thương mại” là bất kỳ biện pháp hay hành động nào gây cản trở đối với thương mại quốc tế. Các rào cản bao gồm thuế quan và các biện pháp phi thuế quan như lệnh cấm, hạn ngạch nhập khẩu hoặc hạn chế số lượng, chính sách tỷ giá hối đoái, tiêu chuẩn kỹ thuật... Chức năng này đòi hỏi chính phủ các nước thành viên phải thực hiện “minh bạch hóa”, thúc đẩy “cạnh tranh bình đẳng” và khuyến khích “cải cách kinh tế” để phát triển. Từ khi GATT - tiền thân của WTO xuất hiện, trong khoảng thời gian 48 năm (1947 - 1994) đã diễn ra 8 vòng đàm phán thương mại, qua đó các nước tham gia luôn hướng tới mục tiêu thuận lợi hóa thương mại nhằm giúp thương mại quốc tế phát triển. Bên cạnh đó, một trong các nguyên tắc hoạt động của WTO là thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng. Một số người cho rằng WTO là một thể chế thương mại tự do nhưng điều này không hoàn toàn chính xác. Hệ thống thương mại đa phương cho phép áp dụng thuế nhập khẩu, thậm chí trong một số trường hợp nhất định còn cho phép áp dụng một số hình thức bảo hộ khác. Như vậy, WTO chính là một hệ thống những quy định nhằm đảm bảo cạnh tranh mở, bình đẳng và không có sai phạm. Những quy định liên quan đến nguyên tắc không phân biệt đối xử - MFN và NT - nhằm mục tiêu đảm bảo những điều kiện thương mại bình đẳng, cũng như những quy định về việc bán phá giá và trợ cấp. Đối với những vấn đề phức tạp như thế này, các quy định của WTO giúp xác định trường hợp nào là bình đẳng và trường hợp nào là không bình đẳng, cũng như biện pháp trả đũa mà chính quyền có thể sử dụng, bằng cách thu thuế nhập khẩu phụ thu để có thể bù đắp những tổn thất do các biện pháp thương mại không lành mạnh gây ra. Với tư cách là thành viên WTO, Việt Nam cần phải xây dựng một chính sách cạnh tranh phù hợp với chủ trương, nguyên tắc hoạt động, cũng như các quy định cụ thể nhằm hướng tới một mục tiêu chung là đảm bảo môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh giữa các nước thành viên. Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, German (Germany) Formatted: Indent: First line: 0.39", Space Before: 0 pt, After: 0 pt, Line spacing: 1.5 lines Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, German (Germany) Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, German (Germany) Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, German (Germany) Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, German (Germany) Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, German (Germany) Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, German (Germany) Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, German (Germany) Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, German (Germany) Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, German (Germany) Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, German (Germany) Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, German (Germany) Formatted: Font: 13 pt, German (Germany) Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, German (Germany) Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, German (Germany) Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, German (Germany) Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, German (Germany) Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, German (Germany) Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, German (Germany) Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, German (Germany) Formatted: Font: 13 pt, German (Germany) 83 Chính sách cạnh tranh phải tạo được sự phát triển cân bằng giữa lợi ích của người tiêu dùng và sự cần thiết phải tạo ra một môi trường cạnh tranh trong đó các doanh nghiệp trong nước có điều kiện phát triển thành những tập đoàn lớn tầm cỡ thế giới; đồng thời, giúp hạn chế những tác động tiêu cực của các chính sách và biện pháp cạnh tranh không lành mạnh của các nước phát triển cũng như các tập đoàn xuyên quốc gia của họ. Mặc dù Luật Cạnh tranh là một công cụ để duy trì một thị trường cạnh tranh, nhưng thị trường có thể không có tính cạnh tranh do sự can thiệp bằng chính sách của nhà nước, chẳng hạn như các chính sách thương mại, đầu tư, công nghiệp trong đó có cả vai trò của doanh nghiệp nhà nước. Trong bối cảnh đó, chính sách cạnh tranh cần phải được phối hợp với các chính sách kinh tế khác theo định hướng cơ chế thị trường tự do, tư nhân hoá và giảm sự quản lý nhà nước nhằm hiện thực hoá một hệ thống thị trường cạnh tranh hiệu quả. Ngay từ trước khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, Chính phủ Việt Nam đã từng bước hoàn thiện các khuôn khổ pháp luật về kinh doanh và đầu tư, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh bền vững đối với các nhà đầu tư nước ngoài, tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp tham gia thị trường. Đây chính là một biểu hiện cho thấy sự hài hòa giữa chính sách cạnh tranh với các quy định, nguyên tắc hoạt động của WTO. Khi đạt được sự hài hòa cần thiết, một mặt các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp; mặt khác thể hiện được đường lối hội nhập chung của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, việc hài hòa hóa chính sách cạnh tranh nói riêng và chính sách kinh tế nói chung của Việt Nam với các quy định của WTO là một quá trình liên tục. Mặc dù đã là thành viên WTO, việc tiếp tục hài hòa hóa chính sách cạnh tranh vẫn cần phải tiếp tục duy trì, rà soát, tăng thêm tính tương thích giữa các quy định của chính sách của Việt Nam với các quy định của WTO. 3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật cạnh tranh của Việt Nam 84 3.3.1. Hoàn thiện quy định kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh 3.3.1.1. Về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, Điều 8 mục 1 chương 2 của Luật Cạnh tranh đã đưa ra 8 hình thức thỏa thuận. Tuy nhiên, theo lý thuyết cạnh tranh, hai hình thức thỏa thuận cạnh tranh chủ yếu là thỏa thuận ngang và thỏa thuận dọc. Trên thực tế, thoả thuận ngang thường được thực hiện dưới các hình thức sau: - Thoả thuận ấn định giá giữa các doanh nghiệp cùng 1 cấp độ kinh doanh đang là các đối thủ cạnh tranh với nhau; - Thoả thuận thống nhất về các khoản tiền thưởng, khuyến mại...cho khách hàng mua nhiều sản phẩm hoặc mua một sản phẩm nào đó; - Trao đổi thông tin giữa các bên tham dự thầu trong cùng một vụ đấu thầu; - Thoả thuận phân chia thị trường; - Thoả thuận nhằm loại bỏ hoặc hạn chế sự tham gia vào thị trường của một hoặc một số doanh nghiệp khác... Còn thoả thuận dọc thường được thực hiện dưới hình thức áp đặt cho các doanh nghiệp khác điều kiện ký hợp đồng tham gia mạng lưới phân phối tiêu thụ sản phẩm hoặc buộc các doanh nghiệp này chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng. Trên cơ sở phân tích dưới giác độ kinh tế, các nhà kinh tế đã đi đến kết luận rằng: thông thường thì các thoả thuận ngang sẽ gây nhiều tác động xấu đến sự vận hành của thị trường hơn là các thoả thuận dọc. Vì các thoả thuận dọc được thực hiện trong cùng một chu trình hoặc một dây chuyền với nhau. Theo Luật Cạnh tranh, ngưỡng chung cho cả hai loại thoả thuận: thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị coi là gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường nếu các bên tham gia có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên (Điều 9). Cách hiểu này có mặt thuận lợi là tương đối dễ hiểu, dễ áp dụng trong thực tế. Trong các vụ việc cụ thể không phải lúc nào cũng dễ dàng xác định đâu là thoả thuận ngang hay thoả thuận dọc, bởi lúc đó phải phân tích kỹ lưỡng cả dưới giác độ kinh tế lẫn pháp luật. 85 Về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, cần có những giải pháp đồng bộ như: - Cần xem xét lại quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Việc Luật Cạnh tranh quy các nhóm hành vi có bản chất kinh tế khác hẳn nhau về cùng một nhóm và đưa ra cùng một loại chế tài có thể sẽ gây ra hậu quả là việc điều tiết và xử lý các hành vi đó không chính xác vì không đảm bảo sự cá thể hoá ở mức độ cần thiết. Như vậy, sẽ không phát huy được tác dụng của các quy phạm luật cạnh tranh với tính chất là các quy phạm đảm bảo trật tự kinh doanh trong nền kinh tế. - Pháp luật cạnh tranh cần được hoàn thiện theo hướng bổ sung thêm một số hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh khác, đã xuất hiện mà chưa được đưa đưa vào Luật hoặc mới xuất hiện trong thời gian gần đây. 3.3.1.2. Về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền Mặc dù chủ trương, quan điểm khi xây dựng Luật Cạnh tranh là hướng tới một môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng, theo đó, Luật có những quy định riêng nhằm hạn chế sự lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền, tuy nhiên, trên thực tế áp dụng các quy định này vẫn còn nhiều vướng mắc. Hiện nay, các tập đoàn và tổng công ty nhà nước sử dụng quá nhiều nguồn lực nhưng lại hoạt động rất kém hiệu quả. Cho đến thời điểm này, các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn chiếm 70% tổng tài sản cố định, 50% vốn đầu tư của nhà nước, hơn 50% tín dụng ngân hàng, và 70% nguồn vốn ODA..., trong đó hơn 80% do các tổng công ty lớn đã hoặc sắp thành tập đoàn nắm giữ[6, trang 12, 13]. Chỉ riêng 4 tổng công ty: bưu chính viễn thông, dầu khí, điện lực, xi măng đã chiếm hơn 70% tổng tài sản của toàn bộ 18 tổng công ty 91, tuy nhiên, hiệu quả kinh doanh của các tập đoàn và tổng công ty nhà nước lại không tương xứng với những quyền lợi mà họ có được. Báo cáo của Kiểm toán Nhà nước công bố năm 2006 cho biết ở ngay cả những tổng công ty được coi là hiệu quả nhất như Vinashin và Vinatex thì tỷ suất lợi nhuận cũng chỉ đạt lần lượt là 0,42% và 0,8%. Hơn lúc nào hết, trong thời đại cạnh tranh toàn cầu gay gắt hiện nay, hiệu quả trong việc phân bổ nguồn lực của một quốc gia sẽ quyết định mức độ phát triển của quốc gia ấy, và tất nhiên Việt Nam không phải là một ngoại lệ. Việc tiếp tục đổ vốn vào và ưu đãi cho các tập đoàn và 86 tổng công ty kém hiệu quả trong khi khu vực dân doanh đang trưởng thành nhưng lại thiếu vốn là một chính sách phải được xem xét lại. Không những thế, việc hình thành những tập đoàn kinh tế nhà nước lớn sẽ không chỉ tạo nên hiệu ứng “chèn lấn” trong việc sử dụng nguồn lực (đặc biệt là nguồn vốn, tín dụng, lao động) mà còn tạo nên một vị thế cạnh tranh không công bằng, chính sách thiên lệch đối với khu vực dân doanh đang ngày càng lớn mạnh. Ngoài ra, bên cạnh những hoạt động truyền thống của mình, hiện nay các tập đoàn và tổng công ty 91 đã và đang đầu tư mạnh mẽ sang các lĩnh vực “nóng” như tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bất động sản, cơ sở hạ tầng, trung tâm thương mại... Dường như hành động này đang đem lại cho khu vực kinh tế nhà nước một diện mạo bề thế, tương xứng với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Thế nhưng, họ chưa hề có kinh nghiệm và chuyên môn trong những lĩnh vực mới này, hơn nữa, quá trình mở rộng quá nhanh chóng như hiện nay vừa làm cho nguồn lực của các tập đoàn bị phân tán, vừa làm yếu sức cạnh tranh của họ. Việc mở rộng hoạt động của các tập đoàn còn đi ngược lại chủ trương nhà nước là doanh nghiệp nhà nước sẽ chỉ tập trung vào những lĩnh vực thiết yếu đối với nền kinh tế và an sinh xã hội. Mục đích quan trọng nhất trong việc xây dựng Luật Cạnh tranh không phải để tìm doanh nghiệp có vị trí chiếm lĩnh thị trường để trừng phạt, cũng không phải là để bảo vệ đối thủ cạnh tranh (cho dù hoạt động không có hiệu quả) mà là để đảm bảo lợi ích cho nền kinh tế và người tiêu dùng về lâu dài. Liên quan đến việc lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền, Luật Cạnh tranh cần hoàn thiện theo các hướng sau: - Nếu nhà nước vẫn cho phép, duy trì những đặc quyền của các tập đoàn kinh tế thì các biện pháp, chế tài xử lý hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh trên thị trường sẽ không thể khả thi. Tách bạch công đoạn mang tính độc quyền tự nhiên và công đoạn mang tính cạnh tranh[5]. Đối với công đoạn độc quyền tự nhiên, Chính phủ tập trung xây dựng các nguyên tắc và quy định nhằm đảm bảo cạnh tranh giữa doanh nghiệp độc quyền và các doanh nghiệp khác. Có ít lĩnh vực độc quyền tự nhiên hơn nhiều so với người ta từng nghĩ. Ví dụ ngành đường sắt vẫn được nhiều người coi là 87 lĩnh vực độc quyền tự nhiên, một ngành mà ở nhiều nước cần phải có sự kiểm soát chặt của chính phủ, nhưng quyền lợi của những người gửi hàng lại được bảo vệ tốt hơn nhờ sự cạnh tranh của các hãng vận tải đường bộ và đường thuỷ hơn là nhờ sự kiểm soát của chính phủ. Đối với công đoạn cạnh tranh, đẩy mạnh việc áp dụng nguyên tắc cạnh tranh một cách bình đẳng và lành mạnh. Để có thể hoàn thiện pháp luật cạnh tranh về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền cần có sự phối kết hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước. Cơ quan quản lý Nhà nước cần rà soát lại một cách nghiêm túc về việc nên duy trì độc quyền ở những lĩnh vực nào. Cần nhanh chóng hạn chế các quyền lợi của các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước nhằm đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp khi tham gia thị trường. Cần hướng các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước hoạt động trong các lĩnh vực thiết yếu đối với nền kinh tế và an sinh xã hội như mục tiêu ban đầu về thành lập các tập đoàn, tổng công ty này đã đề ra. - Điều 14, Luật Cạnh tranh quy định về các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm, trong đó có hành vi “áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng”. Các tập đoàn kinh tế hiện nay vẫn khá thường xuyên có những hành vi mang tính áp đặt cho người tiêu dùng, trước tình trạng chưa thể chấm dứt ngay hoạt động của các tập đoàn này, Luật Cạnh tranh cần có những biện pháp mang tính tình thế xử lý những áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng của các tập đoàn này nhằm đảm bảo lợi ích cho người tiêu dùng. 3.3.1.3. Về tập trung kinh tế Sau khi Việt Nam trở thành thành viên WTO, hoạt động mua bán, sáp nhập, hợp nhất, liên doanh giữa các doanh nghiệp ngày càng phát triển. Các hành vi tập trung kinh tế không chỉ giới hạn giữa các doanh nghiệp trong nước, mà còn đặc biệt phát triển khi có sự tham gia mạnh mẽ của các nhà đầu tư nước ngoài. Xu hướng này được đánh giá là dấu hiệu lành mạnh cho một thị trường đang phát triển như Việt Nam. Khi thị trường lớn dần lên, các thành viên có nhu cầu chung sức để tạo 88 nên sức mạnh tổng hợp vì thế việc giải thể hay sáp nhập là chuyện rất bình thường trong giai đoạn hiện nay. Theo Cục Quản lý cạnh tranh[25], chỉ trong vòng nửa đầu năm 2007 đã có 30 vụ mua bán, sáp nhập doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài (chiếm 65% trong tổng số 46 vụ giao dịch mua bán, sáp nhập doanh nghiệp với tổng giá trị 626 triệu USD, cao gấp đôi so với tổng giá trị của cả năm 2006 và gấp 15 lần so với cùng kỳ năm 2006). Những vụ mua bán, sáp nhập đáng chú ý như: tập đoàn Daiichi (Nhật Bản) mua toàn bộ Liên doanh Bảo Minh-CMG (vốn nhà nước 63%), và đã chiếm được ngay 3% thị phần bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam mà liên doanh này phải mất 7 năm xây dựng; Qantas Airlines (Australia) mua 30% cổ phần của Pacific Airline; tập đoàn Sojitz (Nhật Bản) mua 20% cổ phần của Interflour Việt Nam - công ty bột mì lớn thứ hai tại Việt Nam (100% vốn nước ngoài) với giá 80 triệu USD. Công ty cổ phần thủy hải sản Minh Phú bán 10% vốn cho tập đoàn Temasek (Singapore), với mục tiêu thông qua Temasek để phát triển mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của mình trên toàn thế giới. Mekong Enterprise Fund II đầu tư 4,5 triệu USD vào Thegioididong.com (hệ thống siêu thị điện thoại di động có số lượng bán lẻ chiếm 20% thị phần điện thoại di động chính hãng tại Tp. Hồ Chí Minh)… Sôi động hơn cả là lĩnh vực ngân hàng. Deutsche Bank AG (Đức) trở thành đối tác chiến lược của Habubank khi mua 10% cổ phần của ngân hàng này. HSBC bỏ ra 17,3 triệu USD để sở hữu 10% cổ phần của Techcombank và sau đó tiếp tục mua thêm 5%; ANZ mua 10% cổ phần của Sacombank... Quy định của Luật Cạnh tranh về tập trung kinh tế được đánh giá là khá rõ ràng, cụ thể. Tuy nhiên, một vấn đề còn nhiều vướng mắc, đó là trường hợp tập trung kinh tế bị cấm liên quan đến thị phần kết hợp của doanh nghiệp. Thị phần của doanh nghiệp, bao gồm cả thị phần của một loại hàng hóa, dịch vụ và thị phần kết hợp sẽ được xác định như thế nào, thẩm định sự chính xác của chỉ tiêu này trên cơ sở khoa học nào? 89 Thị phần của doanh nghiệp hoặc của một nhóm doanh nghiệp trong tổng thị phần về một hàng hóa, dịch vụ nhất định trên thị trường là chỉ tiêu được sử dụng trong rất nhiều trường hợp như: xác định các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm (Điều 18); và là một trong những căn cứ quan trọng để được hương miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (Điều 28), được hưởng miễn trừ đối với tập trung kinh tế (Điều 29),… Vì vậy, khi chỉ tiêu thị phần của doanh nghiệp không được tính toán từ những thông số ban đầu hợp pháp và theo phương pháp khoa học, chắc chắn sẽ có những cuộc tranh luận không phân thắng, bại và sẽ gây những hậu quả lớn cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Cũng liên quan đến thị phần của doanh nghiệp, Luật chưa có sự lưu ý đến một số trường hợp cụ thể trong thực tiễn. Làn sóng mua lại, sáp nhập của các công ty nước ngoài một mặt làm cho năng lực tài chính của các công ty trong nước tăng lên, mặt khác, không thể phủ nhận một thực tế là đa số các doanh nghiệp của Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ nên rất dễ bị các tập đoàn nước ngoài thôn tính thông qua con đường mua bán, sáp nhập. Một thực tế khác đã xảy ra nhiều năm trở lại đây là hiện tượng các doanh nghiệp liên doanh trở thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài vẫn đang diễn ra, nhiều nhà đầu tư trong nước bị mất vốn nhưng chính sách, pháp luật vẫn chưa có đối sách nào ứng phó cho tình trạng này. Với tính chất là một sinh hoạt kinh tế, tự do cạnh tranh tự nó có thể dẫn tới nguy cơ cản trở hoặc tiêu huỷ cạnh tranh, đây cũng chính là lý do trong Luật Cạnh tranh liên quan đến tập trung kinh tế luôn phải đưa ra các hành vi tập trung kinh tế bị cấm. Nhà nước có thể lựa chọn nhiều phương cách để ứng xử với hiện tượng này: i) hoặc tin vào sự tự điều chỉnh của thị trường, tin vào sự hợp lý của quá trình tập trung kinh tế hướng tới độc quyền mà chủ trương không can dự; ii) hoặc can thiệp để tạo điều kiện cho cạnh tranh diễn ra bằng cách ngăn chặn độc quyền, chia nhỏ doanh nghiệp độc quyền, cấm thoả thuận để tạo vị thế thống lĩnh thị trường; iii) hoặc chấp nhận vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền của một số doanh nghiệp song giám sát, ngăn ngừa sự lạm dụng vị trí đó; iv) hoặc công hữu hoá doanh nghiệp có 90 vị trí độc quyền, đặt chúng dưới sự quản lý của các cơ quan công quản và định hướng hoạt động của chúng vì lợi ích chung. Trên thực tế, các nhà nước đều tìm cách phối hợp các phương cách kể trên. Trong đó, giải pháp chính vẫn là phối hợp giữa biện pháp can thiệp để duy trì cạnh tranh, và khi độc quyền đã diễn ra, tìm cách điều tiết, hạn chế việc lạm dụng vị thế độc quyền. Ngoài ra, khi Luật Cạnh tranh không thể bao quát hết các trường hợp cụ thể của hoạt động mua bán, sáp nhập, liên doanh doanh nghiệp thì các cơ quan quản lý cạnh tranh cần đưa ra những biện pháp hữu hiệu để đối phó với tình trạng này. - Cần đưa cách tính cụ thể, cũng như các căn cứ khoa học cho việc tính toán thị phần của doanh nghiệp nhằm xác định các trường hợp tập trung kinh tế được phép, bị cấm, các trường hợp miễn trừ. Khi chỉ đưa ra một tỷ lệ chung chung là 30% và 50% thì sẽ rất dễ gây mâu thuẫn, khó khăn trong xác định nếu Luật không đưa ra những yếu tố cụ thể nằm trong tỷ lệ đó. - Tập trung kinh tế là xu thế tích cực cho quá trình phát triển của doanh nghiệp, tuy nhiên, với thực lực còn tồn tại nhiều yếu kém của doanh nghiệp Việt Nam thì rất dễ bị doanh nghiệp nước ngoài áp đặt, thôn tính thông qua hành động tập trung kinh tế. Một mặt, Luật cho phép các hành động tập trung kinh tế không bị cấm, mặt khác, Luật cũng phải đưa ra những biện pháp bảo vệ doanh nghiệp Việt Nam trước tình trạng doanh nghiệp nước ngoài lợi dụng sự cho phép của Luật có những hành vi bất lợi cho doanh nghiệp Việt Nam, gây mất ổn định cho quá trình phát triển của doanh nghiệp. 3.3.2. Đối với nhóm hành vi cạnh tranh không lành mạnh Các quy định cụ thể của Luật Cạnh tranh về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã đáp ứng được nhu cầu cấp thiết điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường ở Việt Nam. Trước đây, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh diễn ra một cách thường xuyên và khá phổ biến nhưng không có một quy định cụ thể nào điều chỉnh các hành vi này. 91 Tuy nhiên, các biểu hiện của cạnh tranh không lành mạnh đang xuất hiện ngày càng nhiều dưới những hình thức khác nhau, đặc biệt là các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các tập đoàn có vị trí độc quyền trên thị trường thì vẫn chưa có cơ chế giải quyết phù hợp. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh phổ biến như lợi dụng thành quả đầu tư, uy tín của người khác; công kích, nói xấu đối thủ cạnh tranh; gian dối hoặc gây nhầm lẫn về sản phẩm của mình; lôi kéo khách hàng bằng các biện pháp không chính đáng. Ví dụ, Công ty May Việt Tiến là một trong những doanh nghiệp bị lợi dụng nhãn hiệu một cách trắng trợn. Từ năm 2000 đến năm 2005, rất nhiều nơi trên toàn quốc đã xuất hiện cửa hàng Việt Tiến nhái tên thương mại đồng thời cũng là nhãn hiệu hàng hóa của Việt Tiến. Công ty May Việt Tiến đã phải áp dụng rất nhiều biện pháp và đến nay mới chỉ giảm bớt vi phạm chứ chưa thể loại bỏ hoàn toàn. Hay trường hợp của Công ty Điện tử Tiến Đạt, sản phẩm hàng điện tử của công ty này đã bị các đối tượng làm nhái, làm giả bằng cách đưa ra nước ngoài đặt hàng với hình thức giống hệt sản phẩm gốc nhưng chất lượng kém hơn hẳn. Sau đó, họ đưa về nước và điềm nhiên tiêu thụ ra thị trường rồi hưởng trọn công lao xây dựng và quảng bá thương hiệu của Tiến Đạt. Bị thiệt hại nghiêm trọng về uy tín và tiền bạc song đa số các doanh nghiệp lại chọn phương án "im lặng" và tự giải quyết chứ hiếm khi cương quyết bắt đối phương phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Hiện nay, với mức xử phạt hành chính 10-20 triệu đồng, các doanh nghiệp sẵn sàng nộp phạt để vi phạm tiếp. Bởi sau khi thu lời bất chính, trừ đi khoản nộp phạt họ vẫn lãi lớn. Để khiếu nại hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải trải qua nhiều khâu: khiếu nại, điều tra không chính thức, điều tra chính thức (khoảng 5-6 tháng) sau đó vụ việc mới đưa ra xử lý. Thêm vào đó, quy định buộc doanh nghiệp khiếu nại phải nộp phí 10 triệu đồng khi đề nghị điều tra hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng là điểm chưa hợp lý. Bởi doanh nghiệp bị vi phạm đã và đang thiệt hại nặng nề. Khoản tiền này không lớn và sẽ được trả lại song trên thực tế sẽ rất khó đòi khoản phí 10 triệu từ các chủ thể xâm phạm sau khi đã có quyết định xử phạt của Cục 92 quản lý cạnh tranh. Điều này đã dẫn đến tâm lý không muốn tố cáo sai phạm của nhiều doanh nghiệp. Sự chồng chéo trách nhiệm trong việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng là một trong những nguyên nhân khiến doanh nghiệp ngại tố cáo vi phạm. Có trường hợp hành vi cạnh tranh không lành mạnh tổng hợp từ nhiều vi phạm khác nhau: bản quyền tác giả, nhãn hiệu hàng hóa... nằm trên 1 bao bì sản phẩm. Lúc đó, doanh nghiệp rất lúng túng, không biết khiếu nại lên cơ quan nào. Bởi thanh tra Bộ Khoa học - Công nghệ chỉ xử lý vấn đề liên quan đến bảo hộ thương hiệu, Bộ Văn hóa - Du lịch - Thể thao lại xử lý vấn đề liên quan đến bản quyền tác giả, việc xử lý và phát hiện hành vi này lại thuộc trách nhiệm Cục Quản lý Cạnh tranh và Cục Quản lý thị trường - Bộ Công Thương. Luật Cạnh tranh cần phải có những chế tài xử lý mạnh hơn nữa đối với các trường hợp có hành vi cạnh tranh không lành mạnh, các biện pháp xử lý phải phù hợp với mức độ vi phạm của doanh nghiệp, không phân biệt quy mô, đặc điểm của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Luật cần có những biện pháp xử lý đánh vào lợi ích kinh tế của doanh nghiệp vi phạm hơn là chỉ xử lý bằng các biện pháp hành chính. Đối với những hành vi cạnh tranh không lành mạnh còn sự chồng chéo trong xử lý giữa các cơ quan quản lý khác nhau, Luật cần có quy định rõ ràng, cụ thể phân định trách nhiệm của từng cơ quan. Tuy nhiên, nên tiến tới xu hướng chuyên môn hóa xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh cho một cơ quan chuyên trách duy nhất, các vấn đề kỹ thuật đặc thù sẽ yêu cầu hỗ trợ đến từng cơ quan quản lý có liên quan. Tiếp theo, mặc dù Luật Cạnh tranh đã có những quy định cụ thể về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, đặc biệt là đã đưa vào Luật những hành vi cạnh tranh không lành mạnh mới (như hành vi bán hàng đa cấp). Tuy nhiên, do Luật Cạnh tranh đi sau cuộc sống nên nỗ lực bổ sung, hoàn thiện các vấn đề còn thiếu trong Luật là việc làm cần thiết. Các nhà làm luật cần có sự rà soát liên tục để hoàn thiện Luật phù hợp với thực tế và tốc độ phát triển của đời sống xã hội hơn nữa. 93 3.3.3. Hoàn thiện các quy định nhằm tăng cường tính độc lập và hiệu quả của cơ quan quản lý cạnh tranh Kinh nghiệm của các nước về hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh là thiết kế tổ chức cơ quan cạnh tranh cần đạt được sự cân bằng giữa tính độc lập để cơ quan quản lý cạnh tranh tôn trọng các nguyên tắc cạnh tranh và khả năng tiếp cận tới quy trình lập chính sách để bảo vệ cạnh tranh. Sau khi nghiên cứu mô hình của khoảng 50 nước trên thế giới về thể chế, cơ quan quản lý cạnh tranh thường tồn tại 04 mô hình: trực thuộc Quốc hội, trực thuộc Thủ tướng Chính phủ, Cơ quan ngang Bộ, và trực thuộc Bộ. Mô hình của cơ quan quản lý cạnh tranh của Việt Nam gồm có Hội đồng Cạnh tranh và Cục quản lý cạnh tranh. Trong đó Hội đồng Cạnh tranh do Chính phủ thành lập có từ 11-15 thành viên do Thủ tướng bổ nhiệm theo nhiệm kỳ 5 năm. Nhiệm vụ của Hội đồng Cạnh tranh là tổ chức xử lý các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh và giải quyết khiếu nại theo quy định của Luật cạnh tranh. Cục quản lý Cạnh tranh được thành lập theo Quyết định số 0235/2004 ngày 26/2/2004 có nhiệm vụ kiểm soát quá trình tập trung kinh tế; thụ lý hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ, điều tra các vụ việc cạnh tranh và xử lý, xử phạt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Sau 3 năm Luật Cạnh tranh có hiệu lực, sự non trẻ của Hội đồng Cạnh tranh và Cục quản lý cạnh tranh Việt Nam khiến cho vẫn tồn tại nhiều vấn đề cần khắc phục. Một thực tế hiện nay là khi có hành vi cạnh tranh vi phạm pháp luật, mặc dù bị tổn thất lớn về kinh tế và uy tín nhưng nhiều doanh nghiệp lại lựa chọn giải pháp im lặng thay vì kiện tụng. Các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này là thời gian của một vụ kiện còn dài, vẫn còn sự chồng chéo trách nhiệm trong việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Có trường hợp hành vi cạnh tranh không lành mạnh tổng hợp từ nhiều vi phạm khác nhau: bản quyền tác giả, nhãn hiệu hàng hóa... khiến doanh nghiệp lúng túng, không biết khiếu nại “cửa” nào. Bên cạnh đó, các quy định chế tài xử phạt còn nhẹ nên các đối tượng vẫn ngang nhiên vi phạm và không ngại nộp phạt để tiếp tục... vi phạm. 94 Luật cạnh tranh cần phải hoàn thiện theo hướng sau đây: - Tăng thêm tính độc lập cho Cơ quan quản lý Cạnh tranh. Cơ quan quản lý cạnh tranh phải có đầy đủ các yếu tố: phải được trao đầy đủ quyền hạn, hoạt động phải đảm bảo tính tin cậy cao; phải đảm bảo việc hoạt động và ra quyết định một cách độc lập; phải đảm bảo tính minh bạch trong thực thi nhiệm vụ. Việc thành lập Cơ quan quản lý Cạnh tranh với tư cách là cơ quan ngang bộ, đã đảm bảo được tính độc lập tương đối của cơ quan này đối với các bộ khác - đang là cơ quan chủ quản với nhiều doanh nghiệp nhà nước, không phải tăng đầu mối các cơ quan thuộc chính phủ, phù hợp với xu hướng cải cách hành chính. Song khó có thể đảm bảo tính độc lập trong hoạt động của Cục khi mà Bộ Công thương hiện còn nắm giữ trong tay hàng chục doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn. Mặc dù mô hình Việt Nam đang áp dụng cho Cơ quan quản lý Cạnh tranh cũng đã được nhiều nước áp dụng như Thái Lan (cơ quan quản lý cạnh tranh thuộc Bộ Nội thương), Đan Mạch (cơ quan quản lý cạnh tranh thuộc Bộ thương mại và công nghiệp). Tuy nhiên, ở các nước này các bộ chủ quản không có các doanh nghiệp trực thuộc. Như vậy, để nâng cao hơn nữa tính độc lập, chủ động, cần phải có biện pháp đối với các doanh nghiệp trực thuộc Bộ Công thương để các quyết định của Cơ quan quản lý Cạnh tranh mang tính khách quan, trung lập hơn. - Về nhân sự, do các vụ vi phạm Luật Cạnh tranh ngày càng phức tạp nên cần nâng cao chất lượng của những nhân viên làm trong Cơ quan quản lý Cạnh tranh và Hội đồng Cạnh tranh. Đặc biệt, nên giảm thiểu tình trạng cán bộ kiêm nhiệm trong hai cơ quan này. Sự không tập trung trong công việc cũng sẽ làm hạn chế hiệu quả hoạt động của Cơ quan quản lý Cạnh tranh và Hội đồng Cạnh tranh. - Cơ quan quản lý cạnh tranh nói chung phải nâng cao hơn nữa vai trò bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, xem người tiêu dùng như người cộng tác đắc lực trong công tác thực thi Luật Cạnh tranh. Cơ quan quản lý cạnh tranh có vai trò quan trọng với nhiệm vụ xem xét các doanh nghiệp có thật sự cạnh tranh hay không thông qua việc thu thập thông tin qua 95 nhiều kênh (thông tin đại chúng, người tiêu dùng, báo chí, tạp chí, dư luận xã hội…). Trong đó người tiêu dùng phải được coi là quan trọng nhất khi đưa ra những quyết định cạnh tranh, và trong bất kỳ tình huống nào, người tiêu dùng phải được bảo vệ bởi đó là quyền của họ. 3.3.4. Hài hòa hóa pháp luật cạnh tranh với các quy định của WTO Mặc dù trong khuôn khổ WTO không có bất cứ quy định riêng nào về cạnh tranh, nhưng những nội dung liên quan đến cạnh tranh vẫn xuất hiện đầy đủ trong tất cả các hiệp định của WTO. Theo thống kê, WTO có khoảng 60 hiệp định, phụ lục, quyết định và bản ghi nhớ, đây là luật lệ của WTO, và các thành viên phải tuân thủ mọi quy định này. Trong các văn bản luật này, một cách gián tiếp hoặc trực tiếp đã đề cập đến cạnh tranh, vì chủ trương của WTO là hướng tới cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh, các hiệp định của WTO luôn có các quy định nhằm hạn chế các hành vi bóp méo cạnh tranh. Theo WTO, hoạt động thương mại sẽ bị bóp méo khi giá cả được duy trì ở mức cao hay thấp hơn mức bình thường và khi khối lượng hàng hoá được sản xuất, mua và bán cũng nhiều hay ít hơn mức bình thường (mức bình thường có nghĩa là mức được duy trì trên các thị trường có cạnh tranh). Ví dụ trong Hiệp định SCM đề cập tới những cản trở đối với nhập khẩu và các khoản trợ cấp trong nước có thể làm tăng giá của các sản phẩm nông nghiệp trên thị trường nội địa của một nước. Giá tăng thì lại kích thích sản xuất dư thừa. Nếu muốn bán lượng hàng hoá dư thừa ra thị trường thế giới, nơi giá cả vốn thấp hơn, thì cần phải có trợ cấp xuất khẩu. Kết quả là các nước có chính sách trợ cấp lại có thể sản xuất và xuất khẩu được nhiều hơn mức thông thường. Để biện minh cho chính sách hỗ trợ và bảo hộ nông dân của mình, ngay cả khi điều đó làm tổn hại đến việc buôn bán nông sản, chính phủ các nước thường dựa vào các lí do: nhằm đảm bảo sản xuất đủ lương thực để đáp ứng nhu cầu quốc gia, nhằm bảo vệ người nông dân khỏi những tác động xấu của thời tiết cũng như những biến động giá cả trên thị trường thế giới, nhằm bảo vệ xã hội nông thôn. 96 Tuy nhiên, các chính sách được áp dụng lại thường rất tốn kém, gây ra sản xuất dư thừa, dẫn đến chiến tranh về trợ cấp xuất khẩu. Còn nước nào mà có ít khả năng trợ cấp thì phải chịu thua thiệt. Trong các cuộc đàm phán, các nước thường thảo luận về việc liệu có khả năng đạt được ba mục tiêu trên mà vẫn không bóp méo cạnh tranh hay không. Hay như trong Hiệp định TBT, một trong các nội dung hoạt động của TBT là Không đưa ra những cản trở không cần thiết đến hoạt động thương mại. Các cản trở được các quốc gia đưa ra trước hết phải phục vụ cho mục đích chính đáng. Mục đích chính đáng là mục đích hoạt động của TBT, bao gồm: i) bảo vệ sức khỏe và sự an toàn cho người tiêu dùng; ii) bảo vệ đời sống của động thực vật; iii) bảo vệ môi trường; iv) ngăn chặn các thông tin không chính xác; v) các mục đích khác liên quan đến các quy định về chất lượng, hài hòa hóa. Khi đưa ra các cản trở, quốc gia đó cũng phải xem xét đến sự khác biệt về thị hiếu, thu nhập, vị trí địa lý và các nhân tố khác giữa các quốc gia, từ đó lựa chọn và sử dụng những cản trở có tác động ít nhất đến hoạt động thương mại. Về phía chính phủ, khi đưa ra một quy định kỹ thuật liên quan đến các sản phẩm như thiết kế, tính năng, công dụng phải tránh những cản trở không cần thiết đến hoạt động thương mại quốc tế. Nội dung này cũng được thể hiện trong áp dụng đối với thủ tục đánh giá sự hợp chuẩn. Theo đó, các thủ tục đánh giá sự hợp chuẩn đưa ra không được quá khắt khe và tốn quá nhiều thời gian so với mức cần thiết để đánh giá một sản phẩm phù hợp với luật lệ trong nước và các quy định của nước nhập khẩu. Như vậy, gia nhập WTO đồng nghĩa với những cuộc ganh đua, đặc biệt là phải đối diện với những chính sách bảo hộ doanh nhân và những nhóm dân cư dễ bị tổn thương trong nước của một số nước thành viên WTO. Pháp luật cạnh tranh của Việt Nam một mặt phải tiến tới hài hòa hòa với các quy định của WTO, mặt khác, phải góp phần vào việc ngăn ngừa ảnh hưởng xấu của các liên kết từ bên ngoài. Không thể phủ nhận những ảnh hưởng tích cực của WTO trong xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng, pháp luậtcạnh tranh Việt Nam cũng cần 97 phải có những quy định phù hợp với quan điểm này của WTO. Điều này phải thể hiện không chỉ riêng ở Luật Cạnh tranh mà còn ở các văn bản luật liên quan khác. Tham gia vào WTO cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam phải mở cửa thị trường nội địa rộng rãi hơn trước đây, sự xuất hiện của các doanh nước ngoài trên thị trường Việt Nam kích thích các doanh nghiệp trong nước phải nỗ lực hoàn thiện, nâng cao khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên, khi xuất phát điểm của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp, đại đa số đều còn non kém về kinh nghiệm và trình độ nên trong nhiều trường hợp cạnh tranh với các tập đoàn nước ngoài là không cân sức. pháp luật cạnh tranh cần phối hợp với các cơ quan hữu quan khác để có các biện pháp hỗ trợ (không bị WTO cấm) như hỗ trợ kỹ thuật, tuyên truyền, giáo dục đào tạo... nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp trong nước nâng cao vị thế trong quá trình cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Ngoài những giải pháp nhằm hoàn thiện Luật Cạnh tranh ở trên thì một vấn đề khác cũng cần được quan tâm tới trong quá trình hoàn thiện Luật, đó là nâng cao kiến thức của các doanh nghiệp về Luật. Việc thực thi Luật Cạnh tranh đã gần 3 năm nhưng nhìn chung kiến thức của các doanh nghiệp về pháp luật cạnh tranh vẫn còn nhiều hạn chế. Tính hiệu lực của Luật chưa đạt được trên nhiều mặt cũng xuất phát từ một nguyên nhân chủ yếu là sự thiếu quan tâm của một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp với các quy định của pháp luật. Nguồn gốc sâu xa của tình trạng này là do quan điểm kinh doanh, nhận thức của doanh nghiệp về cạnh tranh còn thấp. Đa số các doanh nghiệp Việt Nam còn chưa có chiến lược kinh doanh dài hạn, chưa thực sự coi cạnh tranh là động lực để phát triển, thậm chí chỉ quan tâm đến sự phát triển của bản thân doanh nghiệp mà chưa có sự quan tâm đúng mức đến sự phát triển chung của xã hội, của nền kinh tế. Trong kinh doanh, nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng câu nói “thương trường là chiến trường” để tìm mọi cách “giết” hay làm suy yếu đối thủ bằng nhiều hình thức cạnh tranh không lành mạnh. Có doanh nghiệp nhờ vào thế chính trị, hay quen biết, tìm cách không cho công ty có cùng ngành nghề thành lập, hay triển khai sản phẩm mới. Có doanh nhân tìm cách làm hỏng sản phẩm của đối thủ, hoặc thu gom sản 98 phẩm rồi tung tin bất lợi về đối thủ. Có doanh nghiệp lợi dụng sự quản lý lỏng lẻo của các cơ quan chức năng, sao chép, làm nhái 100% sản phẩm của người khác và dán mác của mình lên... Những hành vi như vậy thể hiện sự yếu kém, sự thiếu tự tin của các doanh nhân. Có những hành vi sẽ bị pháp luật xử lý, có những hành vi sẽ bị cộng đồng doanh nhân phản ứng, và có những hành vi khiến họ sẽ phải xấu hổ với chính bản thân mình. Trước hết, các doanh nghiệp phải ý thức được rằng, một ngành kinh doanh mà có nhiều đối thủ cũng có cái lợi. Chẳng hạn như tạo được tiếng nói tập thể đối với cơ quan chức năng, hay tạo được sức mạnh khi cùng khai phá thị trường mới. Thậm chí, khi có nhiều công ty cùng cố gắng đẩy mạnh nhu cầu, thị phần của một số doanh nghiệp có thể bị nhỏ lại, nhưng quan trọng là doanh số của tất cả đều tăng. Một điểm lợi nữa là các doanh nghiệp có thể học hỏi lẫn nhau và cùng phát triển. Để việc thực thi pháp luật cạnh tranh có tính hiệu quả hơn nữa, việc nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp là việc làm quan trọng. Luật Cạnh tranh chỉ có thể hoàn thiện khi có sự hợp tác từ phía doanh nghiệp - một đối tượng quan trọng của Luật. Nhằm nâng cao kiến thức pháp luật cạnh tranh cho doanh nghiệp, cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động tuyên truyền, giáo dục đạo đức kinh doanh cho doanh nghiệp. Mặc dù Luật Cạnh tranh đã thực thi được gần 3 năm nhưng sự xa lạ của doanh nghiệp đối với văn bản luật này vẫn phổ biến. Khi doanh nghiệp đã có nhận thức đúng đắn về cạnh tranh thực sự thì sự tiếp cận sau này của doanh nghiệp với chính sách, pháp luật cạnh tranh của nhà nước sẽ thuận lợi và dễ dàng hơn. Ngoài ra, cũng cần tăng cường nhận thức về mục tiêu và lợi ích của cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh với các đối tượng khác nhau (các bộ, cơ quan điều tiết ngành, các nhà xây dựng luật pháp, thẩm phán, luật sư, công chúng) thông qua các hình thức: tổ chức hội thảo, công bố báo cáo cạnh tranh hàng năm, tài liệu chuyên đề về cạnh tranh, xây dựng trang web về cạnh tranh… Một cách khác để cho các doanh nghiệp nhận thức sâu sắc hơn vai trò của pháp luật cạnh tranh đó là phải có những biện pháp xử lý mạnh với các doanh nghiệp vi phạm Luật Cạnh tranh. 99 Khi có bất cứ vụ xử lý vi phạm Luật Cạnh tranh nào, cơ quan quản lý cần kết hợp với các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin một cách rộng rãi về doanh nghiệp vi phạm cũng như biện pháp xử lý. Việc đưa thông tin xuyên suốt từ đầu đến cuối một vụ xử lý hành vi vi phạm Luật sẽ có tác động mạnh đến doanh nghiệp, cũng như thay đổi cách nhìn nhận về tính thực thi của Luật Cạnh tranh. 100 KÕt luËn Vai trò của cạnh tranh đối với xã hội, nền kinh tế là không thể phủ nhận được. Khi cạnh tranh được thừa nhận và môi trường cạnh tranh ngày càng được hoàn thiện theo hướng lành mạnh hơn, bình đẳng hơn nền kinh tế Việt Nam cũng đã có những thay đổi tích cực đáng kể. Một trong những công cụ làm lành mạnh hóa môi trường chính là chính sách, pháp luật cạnh tranh hiệu quả. Do đặc điểm của một nước đang thực hiện chuyển đổi nền kinh tế nên chính sách, pháp luật cạnh tranh của Việt Nam cũng tồn tại một số khó khăn khó khắc phục. Những bất cập của mô hình kinh tế trước đây không thể nhanh chóng khắc phục được, đặc biệt là nhận thức của doanh nghiệp, người tiêu dùng, thậm chí các nhà quản lý còn chưa đánh giá đúng mức tầm quan trọng của chính sách, pháp luật cạnh tranh trong quá trình phát triển nền kinh tế. Chính vì vậy, việc hoàn thiện chính sách, pháp luật cạnh tranh sẽ đòi hỏi một sự nỗ lực từ nhiều phía, nhiều cấp, nhiều ngành. Chỉ khi có sự phối hợp, hợp tác một cách đồng bộ thì chính sách, pháp luật cạnh tranh của Việt Nam mới có thể nâng cao tính hiệu quả, và đóng vai trò tích cực hơn nữa trong duy trì, bảo đảm một môi trường cạnh tranh lành mạnh. Hoàn thiện chính sách, pháp luật cạnh tranh của Việt Nam không phải là một vấn đề đơn giản, đặc biệt khi nền kinh tế Việt Nam đã hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới thì việc hoàn thiện chính sách, pháp luật cạnh tranh còn phải được nhìn nhận, phân tích một cách đa chiều hơn. Do thời gian cũng như trình độ nghiên cứu còn hạn chế, nên những đánh giá và các giải pháp hoàn thiện chính sách, pháp luật cạnh tranh của tác giả sẽ không tránh khỏi những hạn chế nhất định, rất mong nhận được sự quan tâm, đóng góp của các độc giả. 101 tµi liÖu tham kh¶o A. Sách, tạp chí 1. Cục quản lý cạnh tranh, Bộ Công thương (2007), Luật chống độc quyền Nhật Bản và kinh nghiệm thực thi, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2. Cơ quan phát triển quốc tế Canada, Bộ Thương mại Việt Nam (2006), Luật Cạnh tranh Canada - Một số hướng dẫn thi hành, Nxb Giao thông vận tải 3. Bạch Thụ Cường (2002), Bàn về cạnh tranh toàn cầu, Nxb Thông tấn, Hà Nội 4. Nguyễn Hồng Dung và các chuyên gia của Tổ hợp giáo dục PACE (2007), Xây dựng đạo kinh doanh cho người Việt, Nxb Trẻ và PACE 5. Phạm Hoàng Hà (2005), Bối cảnh kinh tế của chính sách và pháp luật cạnh tranh, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, Hà Nội 6. Võ Văn Kiệt, Thận trọng với việc thành lập các tập đoàn kinh tế, Thời báo Kinh tế Sài Gòn 26/7/2007 7. Luật cạnh tranh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 8. Nghị định 116/2005/NĐ-CP, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 9. PGS. TS. Phạm Duy Nghĩa (2006), Giáo trình Luật Kinh tế, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội 10. PGS. TS. Phạm Duy Nghĩa (2002), Giáo trình Luật thương mại Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội 11. TS. Tăng Văn Nghĩa (2007), Những vấn đề đặt ra và giải pháp để thực thi có hiệu quả Luật Cạnh tranh trong thực tiễn, Đề tài NCKH cấp Bộ (GDĐT), Hà Nội 102 12. Đỗ Gia Phan (2005), Vai trò của người tiêu dùng trong việc thực thi Luật cạnh tranh ở Việt Nam, Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ Người tiêu dùng Việt Nam 13. Steven Pressman (2003), 50 nhà Kinh tế tiêu biểu, Nxb Lao động, Hà Nội 14. Phan Công Thành, Chính sách khoan hồng và tác động phá vỡ các-ten, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 117, tháng 2/2008 15. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Luật thương mại (tập 1), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 16. Ủy ban quốc gia về hợp tác Kinh tế quốc tế (2006), Pháp luật cạnh tranh của Cộng hòa Pháp (tập 1, 2, 3), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 17. TS. Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, ThS. Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội 18. Walter Goode (1997), Từ điển chính sách thương mại quốc tế, bản dịch tiếng Việt, Nxb Thống Kê, Hà Nội B. Các trang web: 19. 20. 21. 22. 23. doanh/2003/06/3B9C8664/ 24. 25. .aspx

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf3221_9771.pdf
Luận văn liên quan